Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị luận xã hội | Ngắn nhất Soạn văn 11
Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị luận xã hội lớp 11 ngắn nhất mà vẫn đủ ý giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 2 từ đó soạn văn lớp 11 một cách dễ dàng.
Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị luận xã hội (ngắn nhất)
Soạn bài Viết bài làm văn số 6: Nghị luận xã hội ngắn gọn:
Đề 1 (trang 35 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)
Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội hiện nay?
Dàn bài
I. Mở bài: giới thiệu về bệnh vô cảm
Trong cuộc sống xã hội ngày nay, con người luôn chạy theo những vật chất xa hoa mà bỏ quên nhân cách của mình. Có những người chỉ biết sống cho bản than mà không quan tâm đến cảm xúc, hành động của người khác. Cuộc sống xã hội hiện nay là vậy, chả ai quan tâm đến ai. Những điều đó được gọi chung và bệnh “ vô cảm”. chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu bệnh “vô cảm” của con người để hiểu rõ hơn về nó.
II. Thân bài: phân tích bên vô cảm trong xã hội hiện nay
1. Giải thích thế nào là vô cảm
- Vô cảm là gì?
Vô cảm là sự không có cảm xúc, hay nói đúng hơn là một trạng thái tinh thần, mà khi ở trong đó, con người ko có một tý cảm xúc hay tình cảm mang tính nhân bản nào đối với những sự vật, sự việc diễn ra xung quanh họ, trước mắt họ, miễn là ko đụng chạm trực tiếp đến lợi ích cá nhân của họ là được.
- Bệnh vô cảm là gì?
Bệnh vô cảm là căn bệnh lien quan đến tâm hồn của con người. những con người này có trái tim lạnh giá, không xúc động, sống ích kỷ, lạnh lùng, cho sự an toàn của bản thân mình là trên hết. ngoài ra họ còn thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.
2. Thực trạng của bệnh vô cảm
- Căn bệnh này xuất hiện nhiều ở rất nhiều học sinh, thanh niên: những con người này sống ích kỉ, ham chơi, chỉ biết đòi hỏi, hưởng thụ không có trách nhiệm với gia đình, xã hội.
- Thậm chí có học sinh tìm đến cái chết chỉ vì cha mẹ không đáp ứng các yêu cầu cá nhân của mình...
- Biểu hiện:
+ không sẵn sang giúp người nghèo khổ, đói khát hơn mình
+ không giúp đỡ người tàn tật khi đi trên đường
3. Nguyên nhân của bệnh vô cảm
- Do xã hội phát triển nhiều loại hình vui chơi giải trí
- Thị trường phát triển, thực dụng
- Do phụ huynh nuông chiều con cái...
- Do ảnh hưởng của khoa học công nghệ đến con người
- Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến đạo đức truyền thống
- Lối sống thực dụng của nền công nghiệp hiện đại.
- Sự ích kỉ trong long người, sợ vạ lây, mất thời gian.
- Thiếu tình yêu thương trái tim.
4. Hậu quả của bệnh vô cảm
- Ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách, phát triển của xã hội
- Vô cảm nguy hiểm với cả chính người bệnh lẫn vả người xung quanh
- Bệnh vô cảm nếu không được giáo dục, không được ngăn chặn sẽ là tác nhân làm “lệch chuẩn” hay “loạn chuẩn” đạo đức
5. Biện pháp giải quyết bệnh vô cảm
- Cải cách giáo dục một cách đúng đắn và hiệu quả
- Sống yêu thương, quan tâm và vị tha cho nhau
- Mở lòng với những người xung quanh.
III. Kết bài
Nêu cảm nghĩ của e về bệnh vô cảm
Bài làm tham khảo
Nếu sống không có tình cảm thì khác nào tự huỷ hoại hai tiếng "con người". Truyền thống người Việt từ xưa "thương người như thể thương thân". Đó là truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời mà dân ta giữ gìn. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, lại xuất hiện những con người có lối sống gặm nhấm dần mòn những truyền thống tốt đẹp ấy. Đó là những con người mang trong mình căn bệnh vô cảm - một căn bệnh cực kì nguy hiểm.
Bệnh vô cảm không hề có trong danh sách bệnh của y học. Vậy nhưng điều đáng nói là những điều đó gây ra lại khiến con người ta phải xót xa, đau đớn thay. Có thể những căn bệnh hiểm nghèo, bệnh thế kỉ AIDS là sự quan tâm hàng đầu của y học hiện nay bởi sự nguy hiểm chết người của chúng. Tuy nhiên nó vẫn chỉ là căn bệnh và với sự tiến bộ y học vẫn hy vọng có thể được chữa khỏi. Còn bệnh vô cảm? không đơn giản là sự sống còn của một ai đó mà nó là cả một vấn đề của xã hội - vấn đề nhân đạo.
Những "biểu hiện lâm sàng" của căn bệnh này rất dễ nhận biết. Ngày qua ngày biết bao nhiêu những ứng xử vô cảm diễn ra mà đôi khi người ta coi chúng như những việc bình thường. Người ta thấy việc làm càn không ngăn, thấy người yếu bị ức hiếp cũng không bênh vực. Những líu do "đó là việc của kẻ khác, hơi đâu quan tâm.." càng tiếp tay cho những kẻ xấu, việc xấu lấn tới. Cụ thể, thấy người bị nạn lại bỏ đi, đưa những ánh nhìn lạnh lùng, vô cảm, thậm chí có kẻ lợi dụng cơ hội để ăn cắp, lấy tài sản của họ. Đó là những kẻ không biết động lòng trước nỗi đau của người khác, không biết phẫn nộ, bất bình trước cái xấu. Những cách sống khô khan nghèo nàn và khan hiếm tình cảm như vậy thất đáng buồn. Càng đáng buồn hơn nữa khi nó tồn tại ở mọi tầng lớp, lứa tuổi từ trẻ nhỏ đến người lớn. Một đứa trẻ có thể bắt con chuồn chuồn và vặt cánh, ngắt đuôi nó, lấy đó xem nhu một thú vui. Chúng không hề biết nghĩ hay thất sợ sệt mà ngần ngại. Nhiều bậc cha mẹ cũng nghĩ chuyện bình thương, nó chỉ biết chơi với con vật vậy thôi. Nhưng chác chắn một điều rằng , vô tình đã gieo vào mình ít nhiều mầm mống bệnh vô cảm. Chẳng hạn những cử động, thoát khỏi bàn tay đứa trẻ của con chuồn chuồn một cách bất lực không làm cho đứa trẻ động lòng thương. Liệu có chắc rằng sau này nó không hành động với con người như vậy. Nói một cách khác có thể bạn cho hơi quá nhưng không hề vô lí, nó có thể đối xử với người ta như đã từng đối xử với con chuồn chuồn khi nó lớn lên ai biết được?
Nhiều khi người ta nghĩ rằng giới trẻ là những người văn minh nhất vì họ có tri thức. Nhưng điều đó là chưa hẳn. Người ta chỉ dạy cho họ những tri thức khoa học, mấy khi họ được học những điều về cách sống tình cảm, cách đối nhân xử thế. Có chăng cũng những câu lí thuyết nhàm chán, dần ra cũng chẳng còn tác dụng. Họ chỉ biết sống tốt hơn nếu họ được sống trong môi trương ứng xử tình cảm giữa mọi người. Vậy nên những cảnh xua đuổi người hành khuất, bố thí với ánh mắt dè bĩu, khinh thường của các bạn trẻ cũng không hiếm khi ta bắt gặp. Họ sẵn sàng bỏ ra hàng trăm thậm chí hàng triệu để tiêu xài vào những thứ vô bổ mà không dám bỏ ra vài nghìn để mua một tờ báo hay một tờ vé số mà các em nhỏ đang nài nỉ khàn cả cổ...Ai dám bảo văn minh là thế?
Những người dân thường đã thế, nếu những người nằm trong đội ngũ lãnh đạo cũng có những người vô cảm, những người thờ ơ trước nỗi khổ dân nghèo, những con người làm các ngành nghề lương tâm như bác sĩ, giáo viên... mà vô cảm thì thế nào? Cuộc sống ngày càng xô bồ, hối hả. Mọi người cứ chạy theo cái vòng quay của cuộc sống. NGười ta mưu sinh chạy theo đồng tiền mà nhiều khi lại bị chính nó điều khiển. Những bản chất truyền thống tốt đẹp của con người bị đồng tiền che lấp. Người ta chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân mà quên đi người khác. Dần ra, họ sống cuộc sống vô cảm, thậm chí vô nhân đạo , không biết quan tâm, chia sẻ với mọi người. Một người sống trong môi trường không có sự quan tâm chia sẻ giữa mọi người lẫn nhau thì càng có nguy cơ mắc bệnh vô cảm. Không có gì nguy hiểm hơn là một xã hội toàn những người vô cảm.
Ta vẫn thường nghe đâu đó có câu: "Người với người sống để yêu nhau" không có tình yêu của con người với nhau thì đâu thể gọi là xã hội loài người. Vậy nên phải tao ra môi trường sống đầy tình yêu, sự quan tâm, san sẻ với nhau, có như thế căn bệnh vô cảm mới có thể được chữa.
Đề 2 (trang 35 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)
Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích” – một “căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay.
Dàn bài:
1. Mở bài: Giới thiệu về bệnh thành tích, một căn bệnh gây nguy hại cho xã hội đang ngày càng lan rộng.
2. Thân bài:
Giải thích khái niệm:
Thành tích là gì? (là kết quả tốt đẹp đạt nhờ sự nỗ lực). Vai trò của thành tích (tác dụng tích cực).
Bệnh thành tích là gì? (Làm việc mà không quan tâm đến thực tê, không suy nghĩ về hậu quả lâu dài chỉ chăm chú đến vẻ bề ngoài, đến việc đạt được những chỉ tiêu một cách khiên cường).
Nguyên nhân của bệnh thành tích:
Tật xấu “con gà tức nhau tiếng gáy”, đốt cháy giai đoạn muôn có thành tích ngay.
Sự quan lí thiếu sát sao của các cấp lãnh đạo, hình thức trong quản lí chỉ quan tâm đến văn bản, báo cáo.
Tác hại của bệnh thành tích:
Gây ra sự đối lập giữa hình thức và thực tế, vấn đề bản chất không được quan tâm mà chủ yêu tập trung vào “bề nổi”.
Là nguồn gốc của những sai trái, gian lận trong kiểm tra, đánh giá tiêp tay cho tham nhũng, quan liêu.
Giải pháp:
Cần chú ý đến hậu quả lâu dài, tránh “ăn xổi ở thì”.
Các cấp lãnh đạo phải sát sao, thực tế hơn, điều chỉnh quản lí.
3. Kết bài: Khẳng định tầm quan trọng của việc khắc phục bệnh thành tích. Đó là công việc của toàn xã hội.
Bài làm tham khảo
Trong cuộc sống này có ai không thích thành tích tốt, mình được khen ngợi, thế nhưng bản thân mỗi người cần nhận thức được thành tích thật sự là như thế nào. Ngày nay chỉ cần có được một thành thích tốt người ta bất chấp mọi thứ, chạy theo thành tích ảo, bằng những thứ không đúng sự thật. Có lẽ vì đó mà căn bệnh thành tích ngày càng lây lan và đang gây ra những tác hại không nhỏ với sự phát triển xã hội.
“Bệnh thành tích” được hiểu là con người luôn muốn mình có một thành tích tốt đẹp, bất kể có phải là thành tích thật hay không. Vì điều đó họ sẵn sàng làm mọi điều kể cả những gian lận, những việc trái với đạo lý. Nó ăn vào tâm trí họ như một căn bệnh.
Khi xã hội ngày càng phát triển thì thành tích là điêu rất đáng để được công nhận. Thế nhưng cũng thật đáng buồn khi xã hội ngày càng phát triển, những nỗ lực, cố gắng để đạt một thành tích tốt đẹp của con người lại trở thành một căn bệnh đang là mối đe dọa trong xã hội.
Một biểu hiện dễ thấy nhất đó là Bệnh thành tích trong giáo dục. Các thầy cô muốn thành tích cao cho trường, cha mẹ muốn thành tích tốt cho con mình. Khi còn đương nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, ông Nguyễn Thiện Nhân đã từng nói: “ Các thầy cô, các trường ham muốn thành tích bằng kết quả thi cử cao và hàng chục triệu phụ huynh, gia đình học sinh chính là đồng tác giả của bệnh thành tích”.
Phụ huynh muốn con em mình điểm cao mà sẵn sàng đưa tiền bồi dưỡng các thầy cô, thầy cô vì muốn học trò được điểm cao lấy thành tích cho trường mà mua chuộc giám thị. Chúng ta biết rằng kết quả thi cử của học sinh sẽ là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên và nhà trường. Từ đó nếu có một kết quả thi tốt của học sinh, thầy cô sẽ được khen thường, nâng lương,… Và những phụ huynh học sinh cũng có được một bảng điểm đẹp cho con em mình. Ai cũng được lợi. Bên cạnh những phụ huynh thực sự muốn con em mình đi lên bằng chính sức lực của chúng không ít những phụ huynh vẫn đang tìm mọi cách giúp con có một bảng điểm đẹp, với hy vọng con có một tương lai tươi sáng sau này. Điều đó từ sâu xa đều xuất phát từ lòng thương con của cha mẹ. Ai mà không muốn con mình có một tương lại tốt đẹp hơn. Cứ tới mỗi kỳ thi, chúng ta lại bắt gặp những cuộc trò chuyện như “Đã lo chỗ nào chưa?”, “Đã đi thầy/cô này chưa?”,… Chính tình thương quá đáng của bậc cha mẹ đã vô tình trở thành công cụ cho bệnh thành tích ngày càng lây lan rộng hơn.
Chúng ta hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng đều đọc được những bản tin như học sinh ngồi nhầm lớp, học sinh lớp 6 vẫn chưa thuộc hết bảng cửu chương, chưa đọc thông viết thạo vậy mà các em vẫn được lên lớp đều đều. Chúng ta hẳn thấy thật chua xót khi sau mỗi năm thi đại học, cao đẳng lại xuất hiện những bài thi được chép kín những mặt giấy nhưng hoàn toàn không đúng nội dung đề bài. Sau mỗi ngày thi, sân trường phủ kín bằng phao trắng xóa. Hình ảnh thật xót xa.
Bệnh thành tích trong giáo dục đã trở thành một căn bệnh khó chữa. Nó không chỉ là căn bệnh của ngành giáo dục mà nó còn xuất hiện trong các lĩnh vực khác của xã hội nữa. Bệnh thành tích không còn giới hạn ở một con người cụ thể, một lĩnh vực riêng lẻ nào. Nhớ trước đây số xã nghèo ở nước ta chỉ khoảng 1700. Sauk khi có các chương trình của Chính phủ, hỗ trợ tiền để xóa nghèo thì rất nhiều địa phương đã đăng kí thoát nghèo. Để rồi khi báo chí vào cuộc phanh phui thì vẫn có hàng trăm hộ trong tình trạng cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc mà đã được thoát nghèo. Âu cũng là bệnh thành tích mà ra.
Cấp trên thích nghe thành tích tất nhiên sẽ có cấp dưới tạo ra những thành tích ảo. Từ nhỏ thành lớn, từ ít đến nhiều, căn bệnh thành tích từ đó ngày càng lây lan rộng. Những câu chuyện về những công trình, dự án trên giấy, vấn đề giải quyết việc làm, câu chuyện xóa đói giảm nghèo,… với những báo cáo xa rời thực tế là vấn đề muôn thuở.
Bệnh thành tích gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội. Bệnh thành tích sẽ làm mất đi sự trung thực, niềm tin và sự phát triển của xã hội. Chúng ta đều biết rằng một xã hội muốn phát triển thì cần có nhân tài, mà nhân thì phải tài thực sự, có năng lực thực sự. Trong cuộc sống hiện đại nếu bạn không có năng lực thực sự thì sẽ không thể có một chỗ đứng. Căn bệnh thành tích khiến cho người ta chỉ xem trọng lượng mà không có chất. Một tập thể mắc bệnh thành tích sẽ cho ra những sản phẩm không có giá trị. Bệnh thành tích khiến người ta dễ ảo tưởng, lọc lừa dối trá. Dần dần họ sẽ thoái hóa nhân cách, đánh mất đi những giá trị đạo đức tốt đẹp của bản thân.
Người xưa có câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” đã cho thấy rõ một điều rằng con người ta quan trọng chất lượng chứ không thể lấy cái bề ngoài, cái số lượng để đánh giá giá trị của một vấn đề. Căn bệnh thành tích ngày nay đã đảo lộn mọi giá trị tốt đẹp ấy, đã phá vỡ đi những truyển thống văn hóa của dân tộc. Căn bệnh ấy sẽ khiến những cá nhân tự mãn về bản thân, cho mình luôn giỏi giang nhưng thực chất là không phải. Và ảo tưởng thì thường sẽ không có thật, không thể tồn tại lâu dài.
Do đó chúng ta cần có những biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi căn bệnh này. Các bộ, ngành và cơ quan chức năng cần có những cuộc thanh tra, kịp thời phát hiện và ngăn chặn những thành tích ảo. Nếu cố ý vi phạm thì cần có biện pháp xử lý đích đáng. Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường những biện pháp tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của mỗi người cần tránh xa và đẩy lùi căn bệnh này. Thiết nghĩ rằng dù nó là căn bệnh có tính lây lan nhưng có để mình bị lây hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân mỗi người. Chúng ta cần phải là những người có lòng tự trọng, có nhân cách và đó mới là điều cần lan tỏa trong xã hội này.
Đất nước chúng ta đang trên đường hội nhập và phát triển, mỗi người cần tự khẳng định được giá trị của bản thân mình để giành lấy một chỗ đứng nhất định. Nhưng không thể vì điều đó mà bất chấp để có thành tích. Chúng ta cần đi lên bằng chính khả năng của bản thân mình. Chắc chắn đó không phải là một điều quá khó khăn nếu như chúng ta luôn có tự trọng và giữ đúng nhân cách của mình.
Đề 3 (trang 35 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)
Hãy phân tích tác hại của thái độ thiếu trung thực trong thi cử. Theo anh (chị) làm thế nào để khắc phục thái độ đó?
Dàn bài:
1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: thái độ thiếu trung thực trong thi cử
2. Thân bài:
a. Giải thích: Thiếu trung thực trong thi cử: có những hành vi không đúng đắn trong thi cử như gian lận, quay cóp...
b. Biểu hiện:
- Học sinh lén lút đem phao, tài liệu
- Ghi tài liệu ra bàn, những nơi ít ai để ý
- Sử dụng các thiết bị thông minh để tra cứu, gian lân
- Nhìn bài, làm bài hộ nhau, ném giấy cho nhau chép
- Đi thi hộ
c. Nguyên nhân:
- Từ ý thức của học sinh: ham chơi, lười học
- Áp lực từ gia đình, thầy cô
- Bệnh thành tích ở một số trường học
d. Tác hại:
- Hình thành nên một thói xấu
- Không có kiến thức thực để áp dụng vào cuộc sống
- Nền giáo dục sa sút, ảnh hưởng tới thế hệ tương lai của đất nước
e. Giải pháp:
- Học sinh cần có ý thức chăm chỉ học tập, học vì kiến thức chứ không vì điểm số
- Phụ huynh, nhà trường cần quan tâm đến học sinh nhiều hơn, tránh gây áp lực
- Tiêu diệt căn bệnh thành tích
3. Kết bài: Tổng kết lại vấn đề và liên hệ bản thân
Bài làm tham khảo
Một trong những căn bệnh xảy ra rất thường xuyên trong ngành giáo dục hiện nay đó chính là căn bệnh thiếu trung thực trong thi cử. Có thể nói việc thiếu trung thực này sẽ gây nên những vấn đề vô cùng nghiêm trọng không chỉ cho bản thân học sinh mà còn cho tương lai đất nước sau này. Vậy nó là gì mà lại khiến nhiều người lo sợ đến thế?
Trung thực là một đức tính vô cùng tốt đẹp của con người. Đó chính là việc thẳng thắn thừa nhận những việc làm sai trái của bản thân, dũng cảm nhận khuyết điểm của mình, không bao che tội lỗi của người khác. Ngay từ khi mới vào lớp một chúng ta đã được đọc những dòng chữ vàng Bác Hồ kính yêu dành cho thế hệ mầm non tương lai. Trong đó đức tính trung thực đã được đưa lên đầu tiên “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”. Bởi lẽ Người hiểu rằng chỉ có những người trung thực dám làm dám chịu mới có thể làm nên công trạng cho quốc gia. Thế nhưng trên thực tế dù đã được quán triệt tư tưởng bằng những bài giảng đạo đức bằng những lời dạy từ bố mẹ, thầy cô thì hiện tượng thiếu trung thực trong thi cử vẫn diễn ra rất nhiều trong môi trường giáo dục.
Bằng chứng cụ thể của nó chính là việc các em học sinh vẫn đang hàng ngày dùng thái độ “thiếu trung thực”, quay cóp trong những bài kiểm tra, khảo sát. Thực tế chúng ta cũng nên nhìn nhận việc này từ nhiều khía cạnh khác nhau. Đầu tiên nó xuất phát từ nguyên nhân khách quan. Có rất nhiều cha mẹ, thầy cô hầu như dùng điểm số để đánh giá nhận thức của các con. Điểm cao thì được thưởng được khen ngợi, thấp thì bị mắng mỏ thậm chí phạt và đánh. Điều này phải nói là hoàn toàn sai. Và chính nó đã vô tình đẩy con họ vào con đường gian dối, thiếu trung thực. Sâu xa hơn nó gây nên một hậu quả vô cùng nghiêm trọng đó chính là khiến chúng ta trở nên lệ thuộc vào sách vở, không bao giờ biết phấn đấu mà chỉ ỉ lại vào nó. Lâu dần chúng ta mất đi khả năng tự học để rồi trượt dài trên con dốc của sự dối trá. Chưa kể việc có quay cóp lần thứ nhất sẽ có n lần tiếp theo như thế, để qua mắt được thầy cô các em ngày càng nghĩ ra nhiều trò tinh quái hơn, ranh ma hơn trở nên bất cần hơn. Bên cạnh yếu tố khách quan thì yếu tố chủ quan cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó xuất phát từ chính ý thức của mỗi con người, nếu bạn là người trung thực biết dũng cảm đối diện với những điều sai, day dứt trước lương tâm của mình thì bạn sẽ không bao giờ làm những việc như quay cóp hay gian dối trong học tập. Bởi lẽ trong mỗi con người đều có một tòa án lương tâm cho riêng mình. Những việc bạn làm không ai biết nhưng chính lương tâm của bạn là chiếc gương phản ánh mọi tội lỗi, nó sẽ nhắc nhở bạn khiến bạn day dứt và biết sửa những lỗi lầm. Việc bị đánh giá soi xét bằng những ánh mắt thiếu thiện chí, thiếu tin tưởng cũng chính là cách tốt nhất để bạn sửa sai.
Không chỉ gây nên những hậu quả khôn lường đối với bản thân mà căn bệnh thiếu trung thực trong thi cử này còn gây một tác hại nghiêm trọng đối với xã hội. Nó là nguyên nhân gây nên những việc bất công như người giỏi thì không có việc làm ổn định mà người chẳng biết chữ gì lại giữ những chức vụ quan trọng trong cơ quan, trong một tổ chức. Thế mới có trường hợp anh kỹ sư đốt tấm bằng đại học bách khoa của mình một cách đầy cay đắng. Thử hỏi những con người chỉ biết dùng tiền để “mua quan bán chức”, để “mua bằng cấp” nhưng bên trong chẳng có kiến thức gì sẽ lãnh đạo một tập thể như thế nào? Tương lai của đất nước sẽ đi về đâu?
Đề xuất những kiến nghị để hạn chế việc thiếu trung thực trong thi cử đã được các cấp ngành ráo riết thực hiện trong suốt nhiều năm qua bằng nhiều hình thức như: thắt chặt giám sát, lắp camera theo dõi, đưa ra nhiều mức xử lí cứng rắn đối với những cá nhân thiếu trung thực… Nhưng thiết nghĩ điều quan trọng nhất để giảm thiểu tình trạng này xuất phát từ ý thức của mọi người. Bởi lẽ dù thầy cô có làm chặt cỡ nào thì học trò cũng nghĩ ra những trò tinh vi hơn để qua mắt. Mỗi con người hãy ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình với xã hội để từ đó tự chủ hơn về hành động của mình. Bởi chúng ta là con người, có suy nghĩ có nhận thức vì thế hãy tiếp nhận cái tốt mà loại bỏ cái xấu không nên để người khác phải răn đe hay dọa nạt. Vì nó chỉ khiến cho giá trị của ta bị hạ thấp đi mà thôi.
Thiếu trung thực là một việc làm vô cùng đáng lên án. Nhất là thiếu trung thực trong giáo dục lại càng nguy hiểm hơn. Ngay từ bây giờ chúng ta hãy rèn luyện cho mình một bản tính trung thực thật thà sống có trách nhiệm hơn với bản thân và xã hội. Bởi lẽ chỉ có những người trung thực mới khiến cho xã hội này trở nên đẹp và ý nghĩa hơn.
Đề 4 (trang 35 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)
Hãy viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp đảm bảo an toàn giao thông.
Dàn bài:
1. Mở bài
- Giới thiệu: đảm bảo an toàn giao thông
2. Thân bài
a. An toàn giao thông là gì?
- An toàn là gì? An toàn là bình yên trọn vẹn, không xảy ra bất kì sơ suất gì ảnh hưởng đến bản thân và người xung quanh.
- Thế nào là an toàn giao thông? Là những người tham gia giao thông tuân thủ đúng luật giao thông …
b. Thực trạng an toàn giao thông hiện nay ra sao?
- Thực trạng giao thông hiện nay ở nước ta đang diễn ra phức tạp và những biểu hiện mất an toàn giao thông ngày càng tăng …
- Trong vòng 10 năm qua, số vụ tai nạn giao thông đã tăng gấp 4 lần.
c. Vì sao bài toán an toàn giao thông ngày càng trở nên nan giải?
- Trước hết đó là ý thức kém của người tham gia giao thông.
- Hơn nữa luật giao thông chưa được phổ biến sâu rộng đến người dân.
- Biện pháp an toàn giao thông được thực hiện như thế nào?
- Không an toàn giao thông gây ra những thiệt hại gì? Không an toàn giao thông gây ra nhiều thiệt hại về người và của.
- Làm thế nào để có được giải pháp đảm bảo an toàn giao thông, nhất là đối với lứa tuổi học sinh? Tham gia học tập luật giao thông đường bộ ở trường lớp …
3. Kết bài
- Đánh giá chung: đảm bảo an toàn giao thông.
- Bài làm tham khảo 1 Hãy viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp đảm bảo an toàn giao thông.
Bài làm tham khảo
Trong vài năm trở lại đây, tình hình tai nạn giao thông luôn diễn biến phức tạp, đặc biệt là có chiều hướng gia tăng. Nó trở thành một trong những vấn đề nóng, bức thiết được xã hội quan tâm nhất hiện nay. Vậy chúng ta với cương vị người học sinh ngồi trên ghế nhà trường phải làm gì để đảm bảo an toàn giao thông?
Hàng ngày chúng ta lưu thông trên đường vẫn thường thấy biển hiệu “An toàn giao thông là hạnh phúc của mọi nhà”. Vậy an toàn giao thông ở đây là gì? Đó là việc chấp hành nghiêm chỉnh những luật lệ giao thông để mang đến sự an toàn cho bản thân và cộng đồng. Thế nhưng dường như việc bất chấp luật lệ vẫn diễn ra hàng ngày và gây nên những hậu quả vô cùng đau đớn. Theo thống kê của tổ chức an toàn giao thông quốc gia, mỗi ngày trên khắp cả nước có tới 33 người chết vì va quẹt giao thông. Đây là những con số biết nói, đáng báo động đối với tình hình giao thông của nước nhà.
Tai nạn giao thông không chỉ gây nên nỗi đau về thể xác mà nó còn là ám ảnh về tinh thần đối với nhiều người. Những gia đình có nạn nhân chết do tai nạn giao thông để lại một nỗi đau vô cùng lớn và sâu sắc. Bố mất con, vợ mất chồng, con mất cha mẹ… chưa kể những người phải mang bất hạnh suốt đời bởi khiếm khuyết cơ thể, bại liệt, tâm thần….
Tai nạn giao thông hiện nay do cả nguyên nhân do chủ quan và khách quan gây ra. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ quan xuất phát từ ý thức của con người chiếm vai trò quan trọng nhất. Không phải ngẫu nhiên mà tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nhiều mà nó bắt nguồn từ việc thiếu hiểu biết luật lệ và ý thức bất cần của người điều khiển phương tiện giao thông. Hiện tượng phóng nhanh vượt ẩu, lấn làn, vượt đèn tín hiệu, không đội mũ bảo hiểm, điều khiển phương tiện khi có rượu bia ngày càng nhiều…. Họ coi thường tính mạng của bản thân cũng như người ngồi sau vô lăng của mình. Ngoài ra, sự bất cập trong cơ sở hạ tầng giao thông như đường sá kém chất lượng cũng là một yếu tố dẫn đến tai nạn giao thông ngày càng gia tăng. Những đoạn đường chỉ toàn ổ gà, ôm cua hiểm trở làm hạn chế tầm nhìn của người điều khiển....dẫn đến nhiều câu chuyện tai nạn giao thông đau lòng.
Tai nạn giao thông gây nên không chỉ gây thiệt hại về người, sức khỏe ...mà nó còn làm cản trở bước phát triển của xã hội. Một bài toán đặt ra cho mọi người đó là những nạn nhân của tai nạn giao thông nếu không thiệt mạng sẽ để lại rất nhiều những di chứng như khuyết tật, ảnh hưởng đến não bộ, và dần dần mất khả năng lao động....và rồi họ vô tình trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Để rồi, khi không còn cách nào khác để cứu vớt họ nhà nước phải trích quỹ phụ cấp, chúng ta lại tăng thêm gánh nặng để bù đắp cho những thiếu hụt này. Nền kinh tế không những không phát triển mà thậm chí còn bị thụt lùi nghiêm trọng. Đó là chưa kể những mặt trái nó mang lại như tình trạng tắc đường, kẹt xe, móc túi, cướp giật mà nó gây ra cho xã hội.
Chính vì thế ngay bây giờ Nhà nước các cơ quan cấp ngành càng phải đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền giáo dục chấp hành luật giao thông. Học sinh sinh viên những thế hệ chủ nhân tương lại của đất nước cần phải hiểu rõ vai trò cũng như trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo an toàn giao thông. Bằng những việc làm cụ thể như: chấp hành nghiêm túc luật an toàn giao thông đường bộ, không phóng nhanh vượt ẩu, không vượt đèn đỏ, không điều khiển phương tiện giao thông khi chưa có bằng lái, không dàn hàng hai hàng ba.... Ngoài ra thì học sinh, sinh viên cũng chính là những người đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền luật an toàn giao thông đến với cộng đồng, người thân của mình. Trên thực tế những học sinh tham gia vào đội tình nguyện bảo đảm an toàn giao thông đã có đóng góp vô cùng to lớn trong việc giảm thiểu ùn tắc, xử lí vi phạm an toàn giao thông.
Đối với nhà trường cần đưa việc tuyên truyền trật tự an toàn giao thông vào nội quy của trường học, đưa nó trở thành một nội dung đánh giá đạo đức học sinh. Thực hiện nghiêm chỉnh các đợt giảng dạy về an toàn giao thông, lồng ghép nó trong những bài học. Đưa an toàn giao thông vào trong những bài giảng ngoại khóa, chính khóa. Đối với những học sinh các lớp các cấp cần phải triển khai các chương trình giáo dục “An toàn giao thông” cho các em. Để các em biết cách bảo vệ mình và người thân khi điều khiển phương tiện giao thông.
Những năm gần đây an toàn giao thông đang là điểm nóng được mọi người chú ý. Bởi lẽ nó không chỉ gây thiệt hại về người và của mà còn tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội. Việc tìm hiểu luật an toàn giao thông chính là một cách để chúng ta bảo vệ cuộc sống của chính mình và làm cho xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp và văn minh hơn.
Đề 5 (trang 35 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Theo anh (chị), làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp?
Dàn bài:
I. Mở bài: giới thiệu môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh- sạch-đẹp
II. Thân bài: Theo anh(chị) làm thế nào để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh- sạch-đẹp
1. Giải thích về môi trường:
- Môi trường sống của chúng ta là một môi trường rộng lớn, bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên cũng như yếu tố xã hội xung quanh chúng ta
- Môi trường tự nhiên: gồm các thành phần tự nhiên như cây cối, đá, đất, không khí, nước,…
- Môi trường xã hội gồm là thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, các quan hệ khác trong xã hội…
2. Thực trạng môi trường hiện nay:
- Nguồn nước bị ô nhiễm, không khí ô nhiễm, ô nhiễm môi trường nặng nề,….
- Rừng trên thế giới bị phá hủy nặng nề
- Rác thải môi trường đang ở độ báo động
3. Hậu quả của việc ô nhiễm môi trường:
- Suy giảm chất lượng sống con người
- Làm suy giảm sự phát triển kinh tế xã hội
4. Hành động của chúng ta:
- Khai thác tài nguyên thiên nhiên, rừng hợp lí
- Không xả rác bừa bãi
- Có những hành động yêu quý môi trường
- Tuyên truyền mọi người bảo vệ môi trường
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về môi trường
Bài làm tham khảo
Con người đã sống trên Trái đất hàng triệu năm, trải qua một thời gian dài, môi trường sống của chúng ta ngày càng bị đe dọa. Đã đến lúc con người cần phải hành động để bảo vệ môi trường, bởi bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu môi trường sống là gì. Tất cả sự sống trên Trái Đất này và mọi thứ xung quanh ta đều là nhân tố tạo nên môi trường sống. "Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên." (Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam). Môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Môi trường tự nhiên bao gồm: đất đai, sông ngòi, không khí, cây cối, động thực vật,……Môi trường nhân tạo là do con người tạo nên như đường xá, nhà máy, xí nghiệp,… Tất cả những vấn đề trên đều có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người.
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đang là chủ đề nóng trên các mặt báo và nhận được rất nhiều sự quan tâm của người dân. Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra. Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba loại ô nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép. Nguyên nhân ô nhiễm hầu như đều xuất phát từ lý do chủ quan của con người: Đầu tiên, đó chính là sự thiếu ý thức nghiêm trọng và thờ ơ của người dân. Nhiều người cho rằng những việc mình làm là quá nhỏ bé, không đủ để làm hại môi trường. Một số người lại cho rằng việc bảo vệ môi trường là trách nhiệm của nhà nước, của các cấp chính quyền...trong khi số khác lại nghĩ rằng việc môi trường đã bị ô nhiễm thì có làm gì cũng "chẳng ăn thua", và ô nhiễm môi trường cũng không ảnh hưởng đến mình nhiều. Và chính những suy nghĩ này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo dục cũng như tư duy bảo vệ môi trường của các thế hệ trẻ về sau. Việc phá hoại môi trường của một người chỉ ảnh hưởng nhỏ nhưng nếu gọp nhiều người lại thì rất lớn. Một tờ giấy, vỏ hộp sữa, túi ni-lông,... tuy nhỏ nhưng tích tụ lại lâu ngày sẽ gây ô nhiễm, mất mỹ quan, rác thải đọng lại trong các lô-cốt gây ra tình trạng cống thoát nước bị nghẹt mỗi khi mưa lớn hay thủy triều lên. Nguyên nhân thứ hai gây ra ô nhiễm môi trường chính là sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Do đặt nặng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, không ít doanh nghiệp đã vi phạm quy trình khai thác, góp phần gây ô nhiễm môi trường đáng kể. Mặt khác, hệ thống xử lý nước thải tại một số khu công nghiệp chưa hoạt động hiệu quả, nước thải sinh hoạt bị ô nhiễm được thải liên tục ra sông, hồ gây nhiễm độc nguồn nước tự nhiên. Hầu hết lượng nước thải bị nhiễm dầu mỡ, hóa chất tẩy rửa, hóa phẩm nhuộm,... chưa được xử lý đều đổ thẳng ra các sông, hồ tự nhiên. Một ví dụ đã từng được dư luận quan tâm là trường hợp sông Thị Vải bị ô nhiễm bởi hóa chất thải ra từ nhà máy của công ty bột ngọt Vedan suốt 14 năm liền.
Chúng ta có nhiều lý do để bảo vệ môi trường. Môi trường là không gian sống của con người và sinh vật. Trong quá trình tồn tại và phát triển con người cần có các nhu cầu tối thiểu về không khí, độ ẩm, nước, ánh sáng,... cũng như các hoạt động vui chơi giải trí khác. Tất cả các nhu cầu này đều do môi trường cung cấp. Tuy nhiên khả năng cung cấp các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và phụ thuộc vào trình độ phát triển của từng quốc gia và ở từng thời kì. Môi trường còn là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người như đất, đá, tre, nứa, tài nguyên sinh vật. Tất cả các tài nguyên này đều do môi trường cung cấp và giá trị của tài nguyên phụ thuộc vào mức độ khan hiếm của nó trong xã hội. Môi trường là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con người trong quá trình sử dụng các tài nguyên thải vào môi trường. Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học phân hủy thành các chất vô cơ, vi sinh quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ gây ra mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường.
Để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp; mỗi người cần phải hành động từ bây giờ. Chúng ta cần nhớ rằng bảo vệ môi trường không hề khó khăn. Nó không hề phức tạp, và thậm chí một vài thay đổi nhỏ cũng có thể tạo ra ảnh hưởng lớn. Việc đầu tiên góp phần bảo vệ môi trường đó là nâng cao nhận thức để mọi người cùng hiểu, biết, và hành động vì môi trường cùng chúng ta. Chỉ có nhận thức đúng, suy nghĩ đúng mới hành động đúng, và mỗi một hành động nhỏ sẽ góp một phần lớn vào việc hình thành nếp sống văn minh, có trách nhiệm hơn với môi trường. Đối với cá nhân, chúng ta có thể trồng cây xanh, sử dụng túi giấy hoặc bao nilong tự hủy thay cho những chiếc túi nilong phải mất nhiều năm mới phân hủy được. Ngoài ra, chúng ta có thể sử dụng nguồn năng lượng mặt trời, năng lượng gió thay cho xăng, dầu nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên hiện nay.
Có thể nói, bảo vệ môi trường là một công việc cấp bách, nhưng nó đòi hỏi một quá trình lâu dài để vừa bảo vệ, vừa khắc phục những tổn hại mà con người đã gây nên. Nhưng tôi tin rằng, nếu chúng ta cùng nhau sẻ chia, đóng góp những hành động dù là nhỏ nhất, thì ngày mà môi trường chúng ta trở nên xanh, sạch, đẹp sẽ không phải là một điều không thể.
Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 ngắn gọn, hay khác:
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11