Soạn bài Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) | Ngắn nhất Soạn văn 11

Soạn bài Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) lớp 11 ngắn nhất mà vẫn đủ ý giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 2 từ đó soạn văn lớp 11 một cách dễ dàng.

1 919 09/03/2022
Tải về


Soạn bài Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) (ngắn nhất)

Soạn bài Một thời đại trong thi ca ngắn gọn:

Phần đọc - hiểu văn bản

Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)

* Trong bài viết, theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới là:

-  Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở; cái kiệt xuất, cái tầm thường, lố lăng. Bởi thế mà "Giá trong thư cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy". Theo tác giả, chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn được bài để so sánh, để cho thật hiểu cái "tinh thần của thơ mới" là không phải dễ.

- Nguyên nhân thứ hai khiến cho việc tìm hiểu cái "tinh thần thơ mới" khó là không phải ranh giới thơ mới - thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra. Vì "Âu là ta đành phải nhộn rằng trời đất không phủi dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau...".

* Từ những khó khăn nêu trên, tác giả đã nêu ra những cách nhận diện sau:

- "Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy."

"... muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể"

Soạn bài Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) | Ngắn nhất Soạn văn 11 (ảnh 1)

Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)

Theo tác giả, điều "cốt lõi" làm nên cái "tinh thần thơ mới", điều mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ là "cái tôi". Nhà phê bình giải thích:

- "Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa - hay thơ cũ - và thời nay - hay thơ mới - có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi".

- Chữ "tôi" trước đây, nếu có, thì cũng phải ẩn mình sau chữ "ta" - một chữ có thể chỉ chung nhiều người: "Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong thơ văn. Và thảng hoặc họ cũng dùng đến chữ "tôi" để nói chuyện với người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay - thì cũng thế - với tất cá mọi người"... "Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn. Chẳng trách gì tác phấm họ vừa ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ".

- Chữ "tôi" bây giờ là chữ "tôi" theo cái nghĩa tuyệt đối của nó. Nó mang theo "một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân. Nó "xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!"

Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)

Tác giả đã lý giải "chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó" đến với thi đàn một cách bất ngờ, "Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!". Sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì:

"Cái tôi" bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lý Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Cống Trứ. "Cái tôi" ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng mất lòng tin: "Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ "tôi". Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta". "Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".

- Nói chung thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên: "Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàrig vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điểu cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ"

Câu 4 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)

- Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như "người thanh niên" bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông.

- Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt". Vì họ nghĩ: "Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua" và vì họ tin vào lời nói triết lý "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn". Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải "tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai".

- Giọng điệu thiết tha, hi vọng thoát khỏi bi kịch của thi sĩ lãng mạn

Câu 5 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)  

Nghệ thuật của bài tiểu luận thể hiện qua đoạn trích:

- Đặt vấn đề rõ, gọn

- Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm

- Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc

- Nghệ thuật lý luận chặt chẽ, thấu đáo khoa học

Khi phân tích đặc điểm thơ mới, tác giả luôn phân tích “cái tôi” trong nhiều quan hệ với “cái ta” để tìm ra điểm giống và khác nhau

+ Khi tìm cái mới của thơ mới tác giả nhìn vẫn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thi nhân đương thời thấu đáo, sâu sắc

+ Lý luận gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, luận điểm có tính khái quát những ví dụ cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục

+ Có cái nhìn thấu đáo về “cái tôi”, “cái ta” có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử

Phần Luyện tập

Câu 1 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)

Có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa "cái tôi" thơ mới và "cái ta" thơ cũ là ở chỗ thơ văn xưa thường nói lên những suy tư, những cảm xúc chung của cả lớp người, loại người, kiểu người. "Cái tôi" nếu có cũng nấp dưới bóng "cái ta" chung ấy. Đến "cái tôi" trong thơ mới, nó đã đứng một mình. Nó đã tự bộc bạch những gì sâu kín nhất ngay bên trong bản thể của nó.

Câu 2 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2) 

Trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu nước: có thể là tích cực tham gia phong trào cách mạng yêu nước đem máu xương ra giành độc lập. Không làm được như vậy, các nhà thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi vào tinh yêu tiếng Việt, "đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua". Vì họ tin rằng vận mệnh dân tộc gắn với vận mệnh tiếng Việt, tinh thần giống nòi cũng như các thể thơ không sao bị tiêu diệt. Và họ vin vào những gì bất diệt để đảm bảo cho ngày mai.

Giọng văn của tác giả khi nói về các nhà thơ là giọng của người trong cuộc giãi bày, đồng cảm, chia sẻ. Đọc văn mà cảm nhận được tấm lòng của người viết. Tác giả dùng chữ ta để nói về cái chung trong đó có mình. Chữ ta được lặp lại nhiều lần. Trong đoạn cuối, để nói lên lòng yêu nước của các nhà thơ mới, tác giả đã dùng những từ, những hình ảnh thấm đượm tình cảm như: "gửi cả", "yêu vô cùng", "chia sẻ buồn vui với cha ông", "dồn tình yêu quê hương", "hứng vong hồn...", "chưa bao giờ họ hiểu...", "chưa bao giờ họ cảm...", "chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần...".   

Câu 3 (trang 104 SGK Ngữ văn 11 Tập 2)

Qua tiểu luận, người đọc có thể thấy được tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hệ thanh niên đương thời. Họ là những trí thức tiểu tư sản chưa tìm thấy con đường cách mạng hoặc giả cũng chưa dũng cảm dấn thân vào con đường đấu tranh vũ trang đầy máu lửa và chông gai ấy. Vì thế, tấm lòng sâu nặng với non sông đành gửi vào trong tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hoá dân tộc, gửi vào những tâm sự nhớ thương thầm kín đối với cái hồn quê đất nước. Trong hoàn cảnh xã hội đương thời, những biểu hiện đó của các nhà thơ mới và các thanh niên trí thức tiểu tư sản đương thời cũng là đáng quý, đáng trân trọng.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 ngắn gọn, hay khác:

Soạn bài Phong cách ngôn ngữ chính luận (tiếp theo)

Soạn bài Một số thể loại văn học: kịch, văn nghị luận

Soạn bài Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận

Soạn bài Ôn tập phần văn học

Soạn bài Tóm tắt văn bản nghị luận

1 919 09/03/2022
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: