Soạn bài Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận | Ngắn nhất Soạn văn 11

Soạn bài Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận lớp 11 ngắn nhất mà vẫn đủ ý giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 1 từ đó soạn văn lớp 11 một cách dễ dàng.

1 1195 lượt xem
Tải về


Soạn bài Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận (ngắn nhất)

Soạn bài Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận ngắn gọn:

I. Phân tích đề

Câu 1 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):

Đề số 1 có tính định hướng cụ thể, còn đề 2 và 3 là để mở, yêu cầu người viết phải tự xác định hướng triến khai.

Câu 2 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):

Vấn đề cần nghị luận của mỗi đề:

- Đề 1: Việc chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới

- Đề 2: Làm rõ tâm sự của Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình II.

- Đề 3: Vẻ đẹp của bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến

Câu 3 (trang 23 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):

Phạm vi dẫn chứng bài viết của các bài:

- Đề 1: dẫn chứng thực tế xã hội là chủ yếu

- Đề 2: thơ Hồ Xuân Hương là chủ yếu => dẫn chứng văn học

- Đề 3: thơ Nguyễn Khuyến là chủ yếu=> dẫn chứng văn học

II. Lập dàn ý

Lập dàn ý là sắp xếp các ý theo trình tự logic. Lập dàn ý giúp người viết không bỏ những ý quan trọng, đồng thời loại bỏ những ý không cần thiết.

Có thể thực hiện theo các bước:

- Xác định luận điểm, luận cứ.

- Sắp xếp các luận điểm, luận cứ theo một trình tự logic, chặt chẽ.

III. Luyện tập

Câu hỏi (trang 24 sgk Ngữ văn lớp 11 Tập 1):

Đề 1: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng Kinh kí sự của Lê Hữu Trác)

* Phân tích đề:

Vấn đề cần nghị luận: Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”

Yêu cầu nội dung:

- Bức tranh cụ thể, sinh động về cuộc sống xa hoa, phù phiếm nhưng thiếu sinh khí của những người trong phú Chúa, tiêu biểu là thế tử Trịnh Cán

- Thái độ phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía cũng như dự cảm về sự suy tàn đang tới gần của triều Lê -Trịnh thế kỉ XVIII.

Thao tác: lập luận phân tích

Phạm vi dẫn chứng: Đoạn trích “Vào phú chúa Trịnh”

* Dàn ý:

 I. Mở bài 

- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài

- Giải thích khái niệm "giá trị hiện thực": Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện thực đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau.

- Cuộc sống giàu sang, xa hoa của chúa Trịnh

- Chân dung Trịnh Cán

- Thái độ của tác giả: Phê phán cuộc sống ích kỉ, giàu sang, phè phỡn của nhà chúa. Cuộc sống vật chất giàu sang quá mức, trái lại tinh thần thì rỗng tuếch, đạo đức xói mòn.

III. Kết bài

- Kết thúc vấn đề cần nghị luận

* Bài văn mẫu :

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ với danh tiếng của một danh y lỗi lạc, nhân từ và một ẩn sĩ thanh cao, cứng cỏi mà còn là tác giả của cuốn "Thượng kinh kí sự" nổi tiếng. Đầu năm 1782, do danh tiếng y thuật vang xa, ông được lệnh triệu ra kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Nhờ những tư liệu, ghi chép trong chuyến đi, ông đã hoàn thành tác phẩm "Thượng kinh kí sự" với giá trị hiện thực sâu sắc. "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ điều này bằng việc lên án, tố cáo cuộc sống xa hoa, quang cảnh lộng lẫy cùng những tầng lớp vua quan trong bộ máy xã hội phong kiến.

Trước hết, dưới con mắt tỉnh táo, tinh tế của một ẩn sĩ, tác giả Lê Hữu Trác đã ghi lại và phản ánh trong tác phẩm của mình đời sống xa hoa, giả dối và đầy thị phi của tầng lớp vua quan thông qua những chi tiết về quang cảnh xa hoa, lộng lẫy trong các dinh thự và phủ các. Đó là vườn hoa với "cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương", đó là những nhà "Đại đường", "Quyển bồng", "Gác tía" với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và "những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy" cùng "mâm vàng, chén bạc" được dùng lúc tiếp khách ăn uống. Tất cả khung cảnh vàng son lộng lẫy xa hoa của phủ chúa đã được phóng chiếu qua đôi mắt và sự quan sát, tinh tế và tỉ mỉ của tác giả.

Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của tác phẩm còn được tạo nên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Ngay từ lúc tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh chúa thì điều này đã được làm nổi bật: "có tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường" và "cáng chạy như ngựa lồng". Khi đặt chân vào phủ chúa, tác giả quan sát thấy cảnh tượng "người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi". Quang cảnh đó đã khiến cho tác giả không khỏi ngạc nhiên:

"Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt

Cả trời Nam sang nhất là đây"

Câu thơ của tác giả đã minh chứng rõ thêm về quyền uy nơi phủ chúa. Chính ông cũng đã bộc bạch trước cảnh xa hoa đó rằng: "Mình vốn cũng là con em nhà quan, sinh trưởng nơi phồn hoa, khắp chốn trong cấm thành, chỗ nào cũng từng quen thuộc, duy có quang cảnh phủ chúa thì chỉ được nghe nói tới mà thôi. Nay được đến đây, mới biết hết là sự giàu sang của vua chúa, quả là không ai sánh kịp". Những câu thơ hay lời bình luận của tác giả cũng đã làm nổi bật giá trị về mặt thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Đó là sự xuất hiện của thời gian tâm lí. Bên cạnh thời gian vật lí là những con số về ngày giờ, năm tháng và niên hiệu, tác giả còn dành ra những khoảng không để chiêm nghiệm về các sự kiện đã diễn ra, khiến cho mỗi một sự miêu tả trong tác phẩm đều chứa đựng những suy nghĩ và cảm xúc của tác phẩm.

Bằng ngòi bút chân thực và sắc nét, trong đoạn trích này, tác giả còn gián tiếp lên án và tố cáo đời sống xa hoa, bệnh hoạn của giới quý tộc, quan lại đương thời. "Bệnh" của Trịnh Cán đã được ông nhận xét như sau: "là do sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm nó quá sức, tạng phủ kém yếu, lại thêm bị ốm lâu nên tinh huyết hao kiệt,...". Chúa Cán vốn là trẻ con hồn nhiên nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của sự sung túc, thừa thãi và dưỡng dục sai lầm. Trước những căn bệnh như thế này, việc cứu chữa sẽ được các ngự y tiến hành như thế nào? Tác giả lại tiếp tục khéo léo lên án đám thầy thuốc Bắc Hà với căn bệnh ngu dốt, nhưng ảo tưởng, tham lam và nhỏ nhen. Đó là đám "y lại" chuyên đố kị, dèm pha lẫn nhau, không vì đạo làm thuốc mà vì danh lợi. Bằng những nét bút miêu tả khá tự nhiên, chân thực, Hải Thượng Lãn Ông đã bắt mạch, lên đơn những căn bệnh của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bên ngoài lớp vỏ bọc hoàn hảo của quang cảnh xa hoa lộng lẫy và cung cách sinh hoạt đầy quyền uy, hòa nhoáng và thịnh trị là những mầm bệnh đang phát tác, thể hiện sự mục rỗng và báo hiệu sự khủng hoảng tất yếu của chế độ xã hội phong kiến đương thời.

Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm "Vào phủ chúa Trịnh" đã làm nên tính chân thực của "Thượng kinh kí sự" qua bút pháp kí sự vô cùng đặc sắc của tác giả. Đó là sự kết hợp thành công của đôi mắt quan sát tỉ mỉ cùng ngòi bút ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất để tạo nên cái thần của cảnh và vật thấm đẫm trong từng con chữ và xuyên suốt trang văn.

Thông qua giá trị hiện thực của tác phẩm, độc giả còn thấy được giá trị nhân đạo ẩn chứa một cách sâu sắc. Bằng sự quan sát và ghi chép về quang cảnh xa hoa lộng lẫy, tác giả đã gián tiếp thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân dân. Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân. Thông qua tác phẩm này, chúng ta càng thấm thía hơn nữa câu ca quen thuộc của người xưa về sự tàn bạo và trắng trợn trong lối sống của đại đa số tầng lớp quan lại:

"Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".

Đề 2: Tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc của Hồ Xuân Hương qua một bài thơ Nôm (Bánh trôi nước hoặc Tự tình – bài II)

* Phân tích đề:

- Vấn đề cần nghị luận: Phân tích tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc của Hồ Xuân Hương qua một số bài thơ.

- Phương pháp: Sử dụng thao tác lập luận phân tích kết hợp với bình luận

 - Phạm vi dẫn chứng là những từ ngữ giản dị, thuần Việt, những câu thơ sáng tạo, thành ngữ, ca dao.

* Dàn ý:

I. Mở bài: 

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nêu vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài:

Ngôn ngữ dân tộc trong hai bài thơ Bánh trôi nước và Tự tình được thể hiện một cách tự nhiên, linh loạt, hài hòa trong:

- Việc nâng cao một bước khả năng biểu đạt của chữ Nôm trong sáng tạo văn học.

- Sử dụng nhiều thuần ngữ Việt.

- Vận dụng nhiều ý thơ trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ, ca dao...

Sự sáng tạo táo bạo góp phần khẳng định vị thế rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương trong làng thơ Nôm nói riêng và trong văn học trung đại nói chung. Phải chăng chính bởi vậy mà Xuân Diệu đã mệnh danh cho Hồ Xuân Hương là Bà chúa thơ Nôm.

III. Kết bài

- Khẳng định lại vấn đề 

* Bài văn mẫu

Nhà thơ Xuân Diệu vô cùng yêu mến và kính phục nữ sĩ Hồ Xuân Hương nên đã đặt cho bà danh hiệu cao quý là “Bà chúa thơ Nôm”. Quả thật, với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc đạt tới trình độ tinh tế và điêu luyện, nữ sĩ rất xứng đáng với danh hiệu đó. Chúng ta có thể lấy hai bài thơ nổi tiếng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Hồ Xuân Hương để chứng minh.

Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật khá phổ biến trong thơ ca trung đại, thường được dùng để gửi gắm một cách kín đáo suy nghĩ hay thái độ, quan điểm của tác giả trước một vấn đề nào đó có tính chất xã hội được nhiều người quan tâm. Hồ Xuân Hương nhìn chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian mà liên tưởng tới thân phận long đong, ba chìm bảy nổi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ đầy áp bức bất công. Tuy hình thức bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với quy định khá chặt chẽ về nghệ thuật và nội dung nhưng ngôn ngữ thơ thì thuần là lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động.

Bánh trôi là thứ bánh được làm bằng bột nếp và đường thẻ. Gạo nếp ngâm một đêm cho mềm rồi đem xay thành bột, lọc cho mịn, để thật ráo nước. Bẻ từng mẩu nhỏ cỡ đầu ngón tay cái, nặn cho tròn, giữa đặt một miếng đường thẻ xắt vuông hạt lựu làm nhân. Thả bánh vào nồi nước đang sôi để luộc. Chìm nổi vài lần là bánh chín, vớt ra nhúng sơ vào nước nguội rồi xếp vào đĩa, mỗi đĩa khoảng trên dưới một chục cái. Vỏ bánh trắng trong, hiện rõ nhân màu nâu đỏ, ăn dẻo, thơm và có vị ngọt đậm đà. Người xưa cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, thanh đạm, có thể dùng để cúng lễ. (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch, dân gian cúng trời đất bằng bánh trôi, bánh chay và hoa quả).

Hồ Xuân Hương mở đầu bài thơ bằng cách nói quen thuộc trong ca dao:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Những câu ca dao với chủ đề than thân trách phận thường được mở đầu bằng cụm từ mang đậm mặc cảm tự ti của người phụ nữ: Thân em như hạt mưa sa… Thân em như trái bần trôi… Thân em như miếng cau khô… Trong bài thơ này, Hồ Xuân Hương để nhân vật trữ tình tự giới thiệu bằng lời lẽ khiêm nhường mà ẩn chứa niềm tự hào chính đáng: Thân em vừa trắng lại vừa tròn. Tả chiếc bánh trôi tròn trịa, xinh xẻo nhưng đằng sau những chi tiết rất thực ấy, tác giả muốn nói tới thân phận phụ thuộc và vẻ đẹp cùng phẩm giá cao quý của người phụ nữ. Xưa nay, phụ nữ được coi là phái đẹp, là tinh hoa của Tạo hoá. Bởi vậy, nhìn những chiếc bánh trôi nước, ta sẽ nghĩ tới vẻ đẹp trong trắng của những cô gái đương xuân.

Giữa những chiếc bánh trôi nước với thân phận của đa số phụ nữ dưới chế độ phong kiến có những nét tương đổng. Người phụ nữ không chỉ bị ràng buộc bởi những quan niệm luân lí khắt khe, bị tước đoạt quyền sống tự do mà còn bị khinh rẻ và chà đạp lên nhân phẩm. Thái độ trọng nam khinh nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, hay luật Tam tòng khiến cho họ bất bình, phẫn uất nhưng buộc phải cắn răng cam chịu.

Bảy nổi ba chìm là thành ngữ phổ biến mang nghĩa hàm ngôn, dùng để chỉ những số phận long đong, lận đận, vất vả trăm bề. Thành ngữ này đã được Hổ Xuân Hương vận dụng vào bài thơ thật tự nhiên và phù hợp, diễn tả chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước tình cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy. Đúng như lời đúc kết của đại thi hào Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

Thấu hiểu điều đó nên Hồ Xuân Hương đã dùng những từ ngữ bình dân, nôm na nhưng rất giàu khả năng gợi tả để thể hiện thân phận phụ thuộc ấy:

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Không được sống tự do, tự chủ, người phụ nữ nào có khác chi những chiếc bánh trôi nước kia ngon hay dở là do tay kẻ nặn. May mắn hay rủi ro, hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể tự mình quyết định. Nhưng Hồ Xuân Hương không chỉ đơn thuần nói đến chuyện đó mà bà muốn nhấn mạnh tới tấm lòng son, tức là phẩm giá cao quý của người phụ nữ, dù họ phải sống trong hoàn cảnh éo le, trớ trêu tới mức nào. Điều lớn lao ấy đặc biệt ở chỗ là nó được nữ sĩ dẫn dắt, khơi gợi từ hình ảnh chiếc bánh trôi nước nhỏ bé và xinh xẻo. Bánh trôi lúc chín trắng trong, lộ rõ màu nhân nâu đỏ. Từ thực tế ấy mà Hồ Xuân Hương liên tưởng đến tấm lòng son. Như thế là ý nghĩa ngụ ngôn mà nữ sĩ gửi gắm trong hình tượng thơ đã bộc lộ rõ. Bà muốn khẳng định rằng dù xã hội có nhẫn tâm vùi dập, dù cuộc đời có bảy nổi ba chìm đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá cao quý của mình. Cách xưng hô, cách nói trong bài thơ trước sau vẫn giữ được vẻ khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên định biết chừng nào!

Ở bài thơ Tự tình II, về cơ bản Hồ Xuân Hương vẫn giữ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, tự nhiên giống như bài thơ Bánh trôi nước để thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã, tủi hờn nhưng vẫn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của mình.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Câu thứ nhất chỉ thời điểm diễn ra tâm trạng. Đó là lúc đêm khuya thanh vắng, lâu lâu lại văng vẳng tiếng trống canh. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh ở đây đã tỏ ra đắc dụng. Tiếng trống canh vang lên bức bối trong màn đêm thăm thẳm, mịt mùng khiến cho sự vắng lặng càng tăng lên gấp bội. Thời gian trôi qua mới chậm chạp làm sao! Chậm chạp, nặng nề nhưng nó vẫn đi. Còn tâm trạng con người trong khung cảnh ấy thì như lắng đọng lại và thỉnh thoảng lại như dồn; như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng đau đớn, dằn vặt khôn nguôi.

Câu thứ hai: Trơ cái hồng nhan với nước non có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn chương bác học. Hồng nhan có nghĩa là gương mặt đẹp của người con gái, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung. Nhưng Hồ Xuân Hương đã cố tình sự vật hóa nó bằng cách gọi là cái hồng nhan, lại đặt tính từ Trơ lên đầu câu khiến cho vẻ đẹp mà Tạo hóa ưu ái ban cho riêng phái nữ giống như một sự vật vô tri vô giác nào đó. Vẻ đẹp là tinh hoa của trời đất, rất đáng nâng niu, trân trọng. Ấy vậy mà nó bẽ bàng Trơ ra trước con mắt lạnh lùng vô cảm của người đời, chứ không phải chỉ là trơ trọi trước cảnh thiên nhiên, non nước luôn dào dạt sức sống, sức yêu. Hồ Xuân Hương đã đặc tả một cách thần tình nỗi đau âm ỉ, nung nấu và thiêu đốt tâm can mình bấy lâu bằng câu thơ giản dị mà có sức lay động, ám ảnh lạ lùng, Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ trong thời điểm đặc biệt này. Tưởng chừng như nỗi cô đơn, sầu tủi đến mức đắng cay, chua chát đã biến con người thành gỗ đá.

Nhưng không phải vậy. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành mượn rượu giải sầu, muốn say cho quên hết. Khổ nỗi:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Hết say lại tỉnh, có nghĩa là đã nhiều lần say và những cơn say nối tiếp nhau. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh rượu thì thấy bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn sờ sờ ra đó và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng cứ còn nguyên. Nỗi cô đơn lại càng tăng lên gấp bội. Ước mong một mảy may bù đắp, một chút tròn đầy mà không sao có được. Giống như hình ảnh vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, cuộc đời mình cũng đã ngả chiều và chờ đợi cũng đã mỏi mòn mà không biết bao giờ ước nguyện mới thành hiện thực?! Sự lựa chọn từ ngữ của Hồ Xuân Hương quả là đã đạt tới mức tài tình, chuẩn xác nhưng vẫn tự nhiên, dung dị mà chứa chất tầng tầng lớp lớp ý nghĩa, khai thác mãi không vơi cạn..

Mạch suy tư của nữ sĩ bất chợt rẽ sang một hướng khác. Với tính cách vốn mạnh mẽ, bà không thể đắm chìm mãi trong cảm xúc thương thân tủi phận. Cố say để quên nhưng không sao quên được. Tỉnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình. Trăng khuyết chưa tròn thì không đến nỗi tuyệt vọng. Ngọn lửa niềm tin trong lòng vẫn cháy, nữ sĩ tin vào tình yêu chân thành, tha thiết của mình đối với con người và cuộc đời, tin vào nghị lực của bản thân. Nhìn rộng ra xung quanh, thấy lời dạy của đất trời sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở trong từng ngọn rêu, tảng đá. Hình ảnh trong bài thơ không có gì là cao xa, khó hiểu mà vô cùng gần gũi nhưng vẫn chứa đựng ý nghĩa hàm súc và thâm thúy. Rêu nhỏ bé, yếu ớt là thế mà vẫn cố hết sức Xiên ngang mặt đất, vươn lên đầy sức sống. Đá lầm lì là vậy mà Đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất táo bạo và sáng tạo trong việc đảo ngược cấu trúc thông thường của câu thơ, nhằm thể hiện tới mức cao nhất ý mình muốn nói. Tính ẩn dụ của hình ảnh vì thế mà có khả năng gợi liên tưởng rất mạnh và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nó như nhắc nhở, thúc giục nữ sĩ nói riêng và phụ nữ nói chung hãy xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì phi lí ràng buộc, vây bủa con người để hướng tới một cuộc sống thật sự tự do, thật sự hạnh phúc.

Tự tình là mình nói với mình, mình tâm sự, bày tỏ nỗi lòng với chính mình, nhưng không phải vì thế mà tính khái quát của bài thơ bị hạn chế. Hồ Xuân Hương đã giãi bày rất chân thực tâm trạng cô đơn, tiếc nuối, xót xa, cay đắng, chán chường nhưng không tuyệt vọng, vẫn âm ỉ, le lói ước mong được chia sẻ, yêu thương:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

Điệp khúc xuân đi xuân lại lại khẳng định quy luật cua Tạo hóa là không thể đổi thay. Biết thế nhưng với tâm trạng trên thì nữ sĩ lại thấy nó như trêu ngươi khiến mình càng thêm buồn, thêm tủi. Sự trái ngược giữa mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đời người làm tăng nỗi ngao ngán sẵn có trong lòng bấy lâu nay. Tuổi xuân qua đi không bao giờ trở lại. Ngẫm nghĩ về mình thì tấm tình xưa dành cho người, dành cho đời rộng rãi, mênh mông là thế, nay sau bao năm không nhận được mảy may bù đắp nên chỉ còn một mảnh. Mảnh tình ấy tiếp tục đem san sẻ thì cũng chỉ được một tí con con. Cách nói dân gian tự nhiên cộng thêm phần sáng tạo của nữ sĩ tài hoa đã cụ thể hóa tình yêu vốn dĩ là một khái niệm trừu tượng, biến nó thành dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.

Hai bài thơ trên in đậm dấu ấn tính cách và phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương – một kì nữ trong nền thơ ca tiếng Việt. Với sự nghiệp sáng tác độc đáo để lại cho đời, Hồ Xuân Hương đã góp phần khẳng định tiếng Việt của dân tộc ta giàu và đẹp.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 ngắn gọn, hay khác:

Soạn bài Thao tác lập luận phân tích 

Soạn bài Thương vợ 

Soạn bài Khóc Dương Khuê 

Soạn bài Vịnh khoa thi hương 

Soạn bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo) 

1 1195 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: