Soạn bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học hay, ngắn gọn

Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học Ngữ văn lớp 12 hay, ngắn gọn nhất và đủ ý giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung chính bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học để chuẩn bị bài và soạn văn 12. Mời các bạn đón xem:

1 538 lượt xem
Tải về


Soạn bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học - Ngữ văn 12

Đề 1 (trang 132 SGK Ngữ văn 12 Tập 1)

a. Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) được biểu hiện cụ thể ở những phương diện nào? Trình bày vắn tắt và nêu dẫn chứng minh họa.

Dàn ý:

Mở bài:

- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và những sáng tác của ông.

- Nêu nhận định trong thơ Tố Hữu đậm chất dân tộc.

Thân bài:

- Nói qua về phong cách nghệ thuật cũng như đôi nét vè thơ ca của Tố Hữu.

- Giải thích như thế nào được gọi là tính dân tộc.

- Những biểu hiện của tính dân tộc trong thơ ca Tố Hữu.

* Tính dân tộc biểu hiện trong nội dung

- Vẻ đẹp đặc trưng cho tâm hồn, cốt cách của dân tộc Việt Nam:

+ Tình cảm tha thiết gắn bó với cội nguồn, với quá khứ, không bao giờ quên một thời gian khổ: “Mình về mình có nhớ ta... nhìn sông nhớ nguồn”...

+ Tình cảm gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ: “Trám bùi để rụng...”, Ta đi ta nhớ những ngày... chăn sui đắp cùng”.

+ Tinh thần lạc quan cách mạng, niềm vui sống, yêu đời: “Gian nan đời vẫn... núi đèo”.

+ Tinh thần đoàn kết đồng lòng chung sức kháng chiến: “Nhớ khi giặc đến... cả chiến khu một lòng”.

+ Niềm tự hào dân tộc trước sự trưởng thành của Cách mạng: “Những đường Việt Bắc... mũ nan”.

+ Tính dân tộc còn được thể hiện qua việc Tố Hữu đề cập tới những phương diện đặc trưng nhất trong đời sống của con người Việt Nam như đời sống sinh hoạt “bát cơm sẻ nửa”, đời sống học tập “lớp học i tờ”, đời sống công tác “ngày tháng cơ quan”, đời sống lao động “chày đêm nện cối”...

+ Việt Bắc còn thể hiện thành công những bức tranh đặc trưng cho thiên nhiên dân tộc: “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, kỉ niệm về thiên nhiên hoa với người bên nhau qua bốn mùa độc đáo: “Rừng xanh hoa chuối...tiếng hát ân tình, thủy chung”, hình ảnh thiên nhiên gắn liền với những địa danh: “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê...”

* Tính dân tộc biểu hiện ở phương diện nghệ thuật

- Tính dân tộc thể hiện ở thể thơ lục bát (thể thơ truyền thống của dân tộc), giọng thơ mềm mại, uyển chuyển, giàu tính nhạc, dễ đi vào lòng người.

- Tính dân tộc thể hiện qua hình thức đối đáp trong ca dao trữ tình truyền thống.

- Tính dân tộc thể hiện ở cách xưng hô: ta – mình mộc mạc, dân dã, thấm đượm nghĩa tình quân dân.

- Tính dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ thuần Việt, giản dị, dễ thuộc, dễ nhớ. Hình ảnh thơ gần gũi, đời thường nhiều sức gợi.

- Tính dân tộc thể hiện qua tình yêu thiên nhiên, con ngườiViệt Bắc sâu nặng nghĩa tình.

Kết luận

Bài mẫu tham khảo:

Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra ở Thừa Thiên Huế. Ông là đại biểu xuất sắc của thơ ca cách mạng và kháng chiến.

Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội sau chín năm kháng chiến gian khổ, trường kì. Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để ghi lại tình cảm và mối quan hệ gắn bó khăng khít, nghĩa tình sâu nặng giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ và chiến sĩ cách mạng. Cũng như và hơn hẳn nhiều bài thơ khác, bài thơ Việt Bắc mang tính dân tộc rất sâu đậm. Qua đoạn trích học trong SGK Ngữ văn 12, ta sẽ thấy được điều đó.

Tính dân tộc chính là tất cả những đặc điểm thuần Việt, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Ở bài thơ này, tính dân tộc biểu hiện trên nhiều phương diện như: kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu.

Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên.

Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:

- Mình nói với ai mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò

- Mình nói với ta mình chửa có chồng

Ta đi qua ngõ mình bồng con ra

Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới. Đây cũng là kiểu kết cấu tạo ra những khả năng vô hạn cho nhân vật trữ tình một “diện mạo” như ý muốn.

Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục đích của nó không phải để nói tới tình yêu của chàng - nàng, anh - em mà là một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng khít gắn bó giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Ở đây 2 chữ “mình - ta” biến hóa chỉ là sự phân đôi của một chủ thể. Cái “tôi” trữ tình của nhà thơ tự tách mình ra, một phần tâm hồn đã “thấm đất Việt Bắc” đang tâm tình với người cán bộ về xuôi. Nhân vật trữ tình đã bộc lộ tâm trạng nhớ thương, tình cảm ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ cách mạng và mảnh đất Việt Bắc. Mình - ta cùng nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, nhớ những ngày tháng reo ca lớp học i tờ; nhớ những ngày liên hoan ngân núi rừng; nhớ những tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối, nhớ người mẹ nắng cháy lưng, cô em gái hái măng một mình, nhớ người đan nón, nhớ những đuốc sáng từng đoàn quân điệp điệp trùng trùng tiến bước nhau ra trận địa. Các tiếng mình - ta, các tiếng gọi, hỏi, đáp cứ liên tiếp, xoắn xuýt lấy nhau, gối lên nhau, liên tiếp như những đợt sóng cảm xúc không ngừng nghỉ.

Mình về mình có nhớ không

Mình đi có nhớ những ngày

Mình về có nhớ chiến khu

Mình về, rừng núi nhớ ai

Mình đi, có nhớ những nhà

“Mình - ta” điệp khúc đan xen tạo ra âm hưởng từ những đợt sóng hoài niệm, những vùng kí ức tươi đẹp về sống động như vừa mới diễn ra. Tất cả tỉ mỉ, cụ thể tới mức người đọc có thể hình dung và tái hiện từng đường nét, dáng vẻ của mảnh đất Việt Bắc và con người nơi đây.

Kiểu kết cấu đối đáp mình - ta được Tố Hữu vận dụng một cách độc đáo, sáng tạo. Nó tạo nên giọng điệu tâm tình ru vỗ lúc như thủ thỉ, tâm tình, lúc lắng sâu vào nỗi nhớ, niềm thương, lúc trào dâng như những đợt sóng cảm xúc ào ạt, dạt dào. Sử dụng kiểu đối đáp trong ca dao, người đọc cứ tự nhiên bước vào tác phẩm mà không bị vướng cản bởi câu chữ, ngôi từ. Giọng điệu ru vỗ tha thiết của bài thơ cứ tự nhiên khiến hồn người đọc hòa chung vào dòng cảm xúc của “mình-ta” lúc nào không hay.

Có thể nói, đối đáp đã trở thành một kiểu kết cấu mở, có khả năng bộc lộ, mời gọi cảm xúc hết lớp này đến lớp khác tưởng chừng như không có điểm dừng. Đây là kiểu kết cấu giúp cho nhân vật trữ tình có khoảng rộng để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của mình. Và với mỗi người Việt Nam luôn tìm thấy cho mối liên hệ rất gần gũi khi bắt gặp kiểu kết cấu đối đáp này khi thưởng thức bài thơ Việt Bắc như họ đã từng được nghe trong những bài ca dao, từ thuở xa xưa.

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn biểu hiện ở thể thơ lục bát và tiết tấu mềm mại, nhịp nhàng của câu thơ.

Thể thơ lục bát là thể thơ gắn bó với dân tộc Việt Nam, được người Việt Nam sử dụng phổ biến nhất. Thể thơ này thường có tác dụng đặc biệt khi diễn tả tình cảm tha thiết, những nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, và khi bộc lộ nghĩa tình sâu nặng giữa các đối tượng và chủ thể trữ tình. Bởi vậy, ta không hề ngạc nhiên khi ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm đều rất thành công khi sử dụng thể thơ này.

Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát như một cách đắc địa, và đặc biệt thành công khi diễn tả nghĩa tình sâu sắc của cán bộ cách mạng với quê hương kháng chiến. Giả sử Tố Hữu dùng thể thơ ngũ ngôn, lục ngôn, hay thơ tám chữ trong bài thơ này thì chắc chắn cái vị ngọt ngào tình nghĩa của con người Việt Bắc, cái đằm thắm nhớ thương của những cán bộ cách mạng sẽ thật khó thể hiện.

Người đọc cảm nhận được nỗi xúc động, nghẹn ngào thực sự của “người đi - kẻ ở”:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta xưa trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.​

Những câu thơ lục bát khoa thai, nhịp nhàng đã có tác dụng đặc biệt trong việc khơi gợi cảm xúc của người đọc. Người đọc tự nhiên hòa nhịp cùng dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình, sống với nó, cùng thổn thức với nó. Từ rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngòi Thia, sông Đáy đến Phủ Thông, đèo Giàng, tất cả đã làm cho con người nhớ thương da diết. Những hình ảnh ấy đã ăn sâu vào tâm khảm, trở thành “cõi nhớ” trong lòng mỗi người, đã từng gắn bó với Việt Bắc.

Chính thể thơ lục bát đã quyết định giọng điệu, tiết tấu của bài thơ. Tiết tấu của mỗi câu thơ trong Việt Bắc viết nhịp nhàng, thường có nhịp 2/2/2; 3/3; 2/2/2/2; 4/4. Chẳng hạn:

- Ở đâu u ám quân thù (2/2/2)

Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi (4/4)

- Mình đi mình lại nhớ mình (2/2/2)

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu (4/4)

Nhịp thơ cũng chính là nhịp điệu cảm xúc, giúp cho những kỉ niệm được gợi dậy, vang ngân trong lòng người đi - kẻ ở và trong cả người thưởng thức. Những cặp lục bát bắt vần, thả nhịp đều đặn thiết tha. Cứ mỗi cặp lục bát lại điểm một nốt nhạc cảm xúc “có nhớ”. Những tiếng ấy lại liên hồi xô đuổi, dồn dập như những đợt sóng thương nhớ cồn cào:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”​

Việt Bắc hiện ra trong bức tranh toàn cảnh: con người nhiều dáng vẻ, không gian rộng lớn, thời gian bốn mùa được chắt lọc, dồn nén nổi bật sắc thái núi rừng Việt Bắc. Một cặp lục bát vẽ một bức tranh “hoa cùng người”. Bốn cặp lục bát kết thành bộ tự bình cân xứng cổ điển.

Bức tranh thiên nhiên được dệt bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ thấm đượm trên từng dáng người, từng màu hoa. Bức tranh được dệt bằng màu sắc của núi rừng tươi đẹp. Cảnh làm nền cho con người xuất hiện, bóng dáng con người lặng lẽ là điểm sáng sinh động trên các phòng thiên nhiên tươi thắm, hữu tình. Hoa và người hòa quyện vào nhau làm cho cảnh thêm tươi sáng. Bức tranh mùa đông đặc trưng bởi hoa chuối đỏ tươi, giữa thảm rừng trên đèo cao tỏa nắng, bóng dáng con người xuất hiện với nét riêng của vùng cao. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” tô đậm một nét rất đặc trưng của người Việt Bắc. Bức tranh mùa xuân được dệt bằng thảm hoa mơ và dáng người đan nón mềm mại đang “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hạ thêm long lanh bởi tiếng ve cùng hình ảnh lặng lẽ của “cô em gái hái măng một mình”. Và bức tranh mùa thu ấn tượng bởi ánh trăng thu hòa bình yên ả cùng tiếng hát ân tình thủy chung ngọt ngào. Chính thể thơ lục bát đã làm nên linh hồn bộ tranh tứ bình Việt Bắc. Nói sao cho hết những cảm xúc, nỗi nhớ niềm thương của con người được gửi gắm vào đó.

Bên cạnh đó, cấu trúc tiểu đối đồng loạt ở các câu hát đã tạo ra một bè trầm của âm hưởng thương nhớ trong lòng người đi, kẻ ở. Cấu tạo đối vừa tô đậm ý cho từng vế vừa mở ra ý ở ngoài lời. Những câu thơ cùng với tiết tấu của nó đã tạo ra ý nghĩa ở ngay khoảng trống giữa các từ, các câu hay giữa các đoạn thơ.

Có thể nói rằng, tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng vẻ vang của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc. Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.

b. Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội qua đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

...

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Dàn ý:

Mở bài

- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ cần phân tích.

- Dẫn dắt vấn đề.

Thân bài

* Khái quát chung: Đoạn thơ nói về tâm trạng của tác giả khi nhớ về thiên nhiên và con người miền Tây.

- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ mãnh liệt bật lên thành lời.

- Mười câu thơ tiếp: chặng đường hành quân gian khổ mà người lính vượt qua.

+ Thiên nhiên miền tây hùng vĩ, hiểm trở

+ Sự khốc liệt trên chặng đường hành quân.

+ Thiên nhiên miền tây hoang vu, dữ dội.

- Hai câu thơ kết: Nhớ về cảnh yên bình về một bản làng nơi đoàn binh Tây Tiến nghỉ chân.

* Nhận xét chung:

- Nội dung:

+ Tác giả ca ngợi nét đẹp độc đáo của thiên nhiên miền Tây: hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt nhưng thơ mộng, mĩ lệ, tuyệt vời.

+ Tác giả ca ngợi lính Tây Tiến can trường, dũng cảm nhưng tâm hồn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời.

- Nghệ thuật:

+ Cảm hứng hiện thực kết hợp cảm hứng lãng mạn nhưng chủ yếu là cảm hứng lãng mạn.

+ Khai thác tối đa thủ pháp đối lập.

+ Cách phối thanh bằng trắc tài tình.

+ Cách tạo từ độc đáo.

Kết bài: Cảm nghĩ chung về đoạn thơ.

Bài mẫu tham khảo:

Ai đã từng là người lính, ai đã từng đi qua một thời trận mạc trong lòng thường lưu giữ những kỉ niệm khó quên. Kỉ niệm ấy thao thức và sống dậy mỗi khi nhắc nhớ. Quang Dũng cũng vậy. Những năm tháng gắn bó với binh đoàn Tây Tiến anh hùng của người lính - nhà thơ này đã thôi thúc ông viết Tây Tiến - một bài thơ với những vần thơ đậm chất anh hùng ca bay lên từ hiện thực khốc liệt. Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!...

..,Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, để thành nỗi nhớ và tiếc nữa. Những tiếng "xa rồi Tây Tiến ơi" thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc.Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.". Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi  nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật chơi vơi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài cái tình ấy trong câu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!".

Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như một chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh đoàn quân mỏi giữa Sài Khao sương lấp – rất ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, đêm hơi... khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận.

Còn với Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chinh gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thắm". Ta cũng thấy hiển hiện một lộ trình đầy gian lao, đầy bất ngờ, khi Quang Dũng viết: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh "Heo hút cồn mây, súng ngửi trời“ thì câu thơ không phải chỉ diễn tả bước gian lao trên đường hành quân đánh giặc mà ta còn thấy cả chất của lính, tính của lính qua sự liên tường bất ngờ mà thú vị: súng ngửi trời.

Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", thế mà hình ảnh của sự sống vẫn chợt hiện ra như tạo nên thế cân bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'. Bên cái hiểm trở dữ dội của thiên nhiên là sự sống thanh bình của con người khiến cho giọng điệu và tâm tình trong thơ Quang Dũng chợt như mềm lại, tạo nên sự linh hoạt đã thành rất đỗi tài hoa trong bút pháp thể hiện:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

 Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phân tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng ngựời lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến gian lao mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.

Đề 2 (trang 133 SGK Ngữ văn 12 Tập 1)

a. Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Dàn ý:

- Người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái bi đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng.

- Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che dấu cái bi, nhưng cái bi lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng:

+ Hình ảnh những nấm mồ rái rác nơi biên cương, viễn xứ gợi một cảm xúc bi thương.

+ Hình ảnh “đời xanh” là biểu tượng cho tuổi trẻ đặt sau chữ “chẳng tiếc” thể hiện tinh thần tự nguyện, sẵn sàng vượt lên cái chết hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc.

- Bằng bút pháp lãng mạn nhà thơ đã khắc họa thành công bức chân dung tượng đài bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến.

Bài mẫu tham khảo:

Sự nghiệp của Quang Dũng không phong phú, đồ sộ như nhiều nhà thơ khác, nhưng mỗi tác phẩm ông để lại đều khắc dấu ấn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nổi bật nhất là tác phẩm Tây Tiến. Qua những vần thơ đầy tinh tế mà cũng vô cùng chân thực, ông đã tái hiện thành công chân dung người lính, binh đoàn Tây Tiến.

Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng rời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Mặc dù đã rời binh đoàn, những nỗi nhớ, tình yêu với binh đoàn vẫn luôn tha thiết, nó đã giúp ông kết tinh nên tác phẩm nghệ thuật này. Bởi vậy, trong tác phẩm cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ tha thiết, sâu đậm.

Trong phần đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã tái hiện một thiên nhiên vừa hoang dã, bí ẩn vừa nên thơ trữ tình và thấp thoáng trong đó ta cũng thấy dáng hình binh đoàn Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Câu thơ tái hiện chân thực cái chết của người lính trên đường hành quân, nhưng cách nói về cái chết của Quang Dũng rất đặc biệt. Ông diễn tả cái chết bằng hình ảnh “không bước nữa”, “bỏ quên đời” đó vừa là cách nói giảm nói tránh làm dịu bớt cảm giác đau thương mất mát, nhưng quan trọng hơn cách nói như vậy tạo nên giọng thơ gân guốc, rắn rỏi, ngang tàng. Không phải người lính không nhìn thấy những khó khăn nhưng họ dám chấp nhận đối diện với hiện thực. Bởi vậy, khắc họa những khó khăn gian khổ cũng là cách Quang Dũng tạo thử thách để nhận ra những phẩm chất đẹp đẽ của người lính.

Nếu như ở hai phần thơ đầu tiên mới chỉ là những nét vẽ hết sức ít ỏi về người lính, thì sang phần thứ ba, chân dung của họ mới thực sự được tái hiện chân thực, rõ nét.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hai câu thơ đầu tiên đã chạm khắc nổi bật ngoại hình của người lính Tây Tiến. Câu thơ là sự phản ánh hết sức chân thực, những người lính không mọc tóc, người gầy yếu xanh xao do bệnh sốt rét rừng gây ra, cùng với sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, cực khổ, chính những yếu tố đó đã khiến người lính có vẻ bề ngoài thật khác thường. Quang Dũng không tô vẽ hiện thực, mà ông phản ánh như đúng những gì nó diễn ra. Nhưng cái mà ông muốn nhấn mạnh không phải những gian khổ, khó khăn mà đó chỉ là những thử thách để thấy được bản lĩnh, sự phi thường của những người lính Tây Tiến. Bởi vậy, tác giả đã xây dựng hình ảnh đối lập với những khó khăn ấy chính là hình ảnh “dữ oai hùm” – thần thái oai phong, dữ dội và vô cùng anh dũng. Kết hợp với kiểu câu chủ động “không mọc tóc” tạo nên hơi thơ gân guốc, rắn rỏi, bản lĩnh hiên ngang, sẵn sàng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ.

Đằng sau ngoại hình gai góc là một tâm hồn đầy mộng mơ, lãng mạn: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thớ thứ nhất đã nói lên khát vọng muôn đời của biết bao thế hệ, chính là giết giặc lập công. Ánh mắt ấy vừa chất chứa hờn căm với lũ giặc cướp nước, vừa hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng vùng lên chống lại kẻ thù. Nhưng bằng sự nhạy cảm, tinh tế của mình, Quang Dũng còn phát hiện được vẻ đẹp bề sâu, bề sau của người lính Tây Tiến, câu thơ thứ hai nhiều vần bằng, nhịp thơ trở nên trầm xuống, nhẹ nhàng hơn. Chữ “mơ” gói trong mình biết bao ý nghĩa, có thể là nỗi nhớ nhà da diết khắc khoải, cũng có thể là những ước mơ, khát vọng của người lính Tây Tiến. Bên cạnh nhiệm vụ lớn lao, chiến đấu vì Tổ quốc, người lính vẫn dành một góc nhỏ trong tâm hồn mình cho quê hương, gia đình. Giấc mơ của người lính đã hé lộ thế giới tâm hồn đầy lãng mạn, mộng mơ. Họ khác với những người lính nông dân, nhớ về những điều dung dị như: “Ruộng nương anh để bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Đồng chí – Chính Hữu). Thì người lính xuất thân từ trí thức tiểu tư sản lại mơ về những “dáng kiều thơm” – dáng vẻ tha thướt của thiếu nữ Hà thành. Chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu trong họ.

Nhưng nổi bật và đẹp đẽ nhất là vẻ đẹp trong lý tưởng chiến đấu của họ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây tiếp tục là những khắc họa hết sức chân thực về cái chết của người lính. Hình ảnh “rải rác biên cương” vẽ ra không gian xa xôi, biên viễn nơi biên ải, ở đó biết bao chiến sĩ hi sinh, phải để lại thân xác nơi đất khách quê người. Có lẽ đây là câu thơ hiện thực trần trụi, đau đớn và xót xa nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không vì thế mà câu thơ trở nên bi lụy, ngay sau đó, ông đã khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời người chỉ có một lần “xanh” một lần tuổi trẻ đẹp đẽ, nhưng họ không hề tiếc nuối, họ sẵn sàng hi sinh vì mục đích cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc” (Thanh Thảo).

Hai câu thơ đã khắc họa đầy bi tráng về cái chết của người lính Tây Tiến:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cuộc sống chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn, khi các anh hi sinh, ngay cả những nghi thức tang lễ đơn giản nhất cũng không được cử hành, thay vào đó chỉ là manh áo bọc lấy thân rồi trở về với đất mẹ. Bằng tất cả sự yêu thương, cảm thông, trân trọng Quang Dũng đã nâng nó lên thành chiếc áo bào, khiến cái chết trở nên trang trọng hơn. Cùng với đó là sự sử dụng mật độ dày đặc các từ Hán Việt tạo nên sắc thái trang trọng, cổ kính và biến cái chết của người lính Tây Tiến vốn là sự hữu hạn trở thành sự sống vô hạn, bất tử. Hai chữ về đất đã giảm bớt sự đau buồn, cái chết trở nên nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Và cuối cùng là khúc tráng ca của sông Mã đưa các anh trở về với đất mẹ. Động từ “gầm” vừa diễn tả nỗi đau đớn tột cùng chứa đựng trong đó cả sự uất hận, nghẹn ngào. Nhưng có bi mà không hề lụy, bởi nó không thê lương mà là một khúc tráng ca độc hành tiễn người lính về với đất mẹ thiên nhiên.

Với lớp ngôn từ tinh tế, chan chứa tình cảm cảm xúc, Quang Dũng đã tái hiện chân thực vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Họ hiện lên với những nét vẽ vừa chân thực, vừa lãng mạn, tài hoa. Nhưng nổi bật hơn cả là lòng yêu nước, sự anh dũng sẵn sàng hi sinh cho độc lập của đất nước. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến cũng chính là vẻ đẹp chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Mĩ oanh liệt, hào hùng.

b. Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau:

Ta về, mình có nhớ ta

...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Dàn ý:

* Nội dung: Cảnh và người ở mỗi cặp câu thơ lại có sắc thái riêng theo từng mùa tạo nên bức tranh tứ bình về hoa và người Việt Bắc.

- Mùa đông:

+ Cảnh hoa chuối đỏ tươi nổi bật lên nền xanh bát ngát.

+ Con người: đèo cao nắng ánh → con người lao động làm chủ núi rừng nơi đèo cao, ánh nắng mùa đông chiếu vào lưỡi dao cài thắt lưng của họ là lưỡi dao sáng đẹp nhất, lung linh nhất.

- Mùa xuân:

+ Cảnh: đảo ngữ “trắng rừng” nhấn mạnh vào sắc trắng dịu nhẹ, thanh khiết của hoa nở. Sắc trắng ấy không hề gợi cảm giác lạnh lẽo mà làm bừng sáng cả không gian. Sắc trắng ấy toát lên sức sống tràn trề của mùa xuân.

+ Con người: “Người đan nón chuốt từng sợi giang” → gợi đức tính chăm chỉ, bàn tay khéo léo, cẩn thận của con người Việt Bắc.

- Mùa hè:

+ Cảnh: âm thanh tiếng đặc trưng “tiếng ve kêu”, có màu sắc “vàng” của rừng phách, cách dùng từ “đổ” độc đáo:

=> Tác giả tái hiện bức tranh mùa hạ rộn ràng âm thanh, rực rỡ đầy sắc màu.

+ Con người: Cụm từ “cô em gái” gợi tình cảm yêu thương trìu mến của tác giả. Đặc biệt cụm từ “một mình” không gợi cảm giác cô đơn, héo hắt mà là phẩm chất chịu thương, chịu khó của con người Việt Bắc.

- Mùa thu

+ Cảnh: cảnh thu tràn ngập ánh trăng huyền diệu, không gian đêm rừng Việt Bắc không hề lạnh lẽo, rợn ngợp, mà kỳ ảo, thiêng liêng rất đỗi thi vị.

+ Con người: “Tiếng hát ân tình thủy chung” → Nội dung của lời hát cũng chính là tấm lòng của người hát. Qua lời hát thấy được phẩm chất chung thủy, giàu nghĩa tình của con người Việt Bắc. Cảnh và người có sự hài hòa, đồng điệu.

* Nghệ thuật:

- Hình thức: đối đáp

- Cách dùng từ của tác giả: “Hoa cùng người”.

=> Tác giả khắc sâu sự hòa điệu, soi chiếu, bổ sung lẫn nhau của cả hai: hoa tô điểm cho con người và con người làm cho hoa thêm sinh động. Bên cạnh đó, cụm từ “hoa cùng người” gợi ra cấu trúc câu đặc biệt cho đoạn thơ:

+ Dòng lục tác giả dùng cho nhớ hoa.

+ Dòng bát dành cho nhớ người.

Bài mẫu tham khảo:

Ân tình và chung thủy - đó là một nét đẹp trong rất nhiều nét đẹp của con người cách mạng. Nét đẹp ấy thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ta cũng bắt gặp nét đẹp ấy trong Việt Bắc của Tố Hữu. Tập trung, tiêu biểu nhất là ở đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ ta ...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

Việt Bắc tràn đầy nỗi nhớ của người kháng chiến về xuôi với quê hương cách mạng trong mười lăm năm "thiết tha mặn nồng tình nghĩa. Biết bao chữ ''nhớ" vang lên trong bài thơ cùng với bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ "mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào'', nhớ những đêm "quân đi điệp điệp trùng trùng", nhớ "ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang" và cả "nhớ gì như nhớ người yêu"... Giữa rất nhiều nỗi nhớ ấy, hiện lên một nỗi nhớ vừa đằm thắm thiết tha lại vừa bâng khuâng man mác:

Ta về mình có nhớ ta...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc, tự nó đã có tính hoàn chỉnh. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong buổi chia tay:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Hai lần "ta về" láy lại ở đầu câu - cùng một thời điểm chia tay, nhưng câu trên là hỏi người, câu dưới là giãi bày lòng mình. Cái giọng thơ tâm tình của Tố Hữu ở đây thật ngọt ngào dễ thương. Cuộc chia tay giữa người kháng chiến và người Việt Bắc, giữa miền ngược với miền xuôi đã trở thành một cuộc giã bạn đôi lứa (ta - mình). Nỗi nhớ về những ngày gian nan gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần trong tâm trí người đi. Cảnh vật, con người Việt Bắc, cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ. Nhớ trước nhất là hoa cùng người. Hoa và người hoà quyện trong nỗi nhớ. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc không thể tách rời với cái đẹp của những con người Việt Bắc đã từng cưu mang, gắn bó với người đi, với cách mạng, vẻ đẹp bức tranh Việt Bắc, trước tiên là vẻ đẹp của sự gắn bó giữa thiên nhiên và con người.

Bức tranh đó được diễn tả bằng những câu thơ êm ả, nhẹ nhàng. Có màu sắc tươi tắn rực rỡ, có ánh sáng lung linh chan hoà, có âm thanh vui tươi, đầm ấm. Cảnh và người hoà quyện vào nhau: bốn cặp lục bát tả bốn mùa, thì câu trên nhớ cảnh, câu dưới nhớ người. Mà cảnh nào, người nào được nhắc tới cũng đều có cái riêng để nhớ. Tất cả đã hiện lên trước mắt ta một bức tranh Việt Bắc tuyệt diệu, nên thơ qua nét bút chấm phá tài tình của tác giả.

Mỗi mùa được nhà thơ nhớ lại bằng một nét tiêu biểu nhất, với cách diễn tả tinh tế gợi cảm, Nhớ mùa đông Việt Bắc là nhớ tới "rừng xanh hoa chuối đỏ tươi". Giữa cái bạt ngàn của màu xanh, hiển hiện một màu sắc ấm nóng (tươi đỏ), bức tranh mùa đông của Việt Bắc đâu còn cái lạnh lẽo, hoang vu nữa. Xuân sang sắc màu lại đổi khác, tràn ngập sinh sôi một màu trắng tinh khiết, thơ mộng: "ngày xuân mở nở trắng rừng". Cảnh này có gì đó giống như cảnh Bác về nước:

Ôi sáng xuân nay, Xuân 41

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về... Im lặng. Con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...

(Theo chân Bác, Tố Hữu)

Bốn cặp lục bát sau Tố Hữu dùng để tả cảnh hè đến và cảnh mùa thu. Nếu như sắc màu chủ đạo của cảnh động là màu xanh điểm vào đó có sắc hoa tươi đỏ, của cảnh xuân là màu trắng hoa mơ, thì của mùa hè là màu vàng tươi đẹp của rừng phách: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Đây là một câu thơ vào loại hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Câu thơ sáu chữ mà thấy được sự chuyển đổi của cảnh sắc thiên nhiên. Câu thơ ấy ran lên một tiếng ve kêu không dứt trong màu vàng chói chang của rừng phách dưới nắng hạ. Cuối cùng, cảnh thu hiện ra với màu sắc dịu hiền của ánh trăng, màu của mơ ước về cuộc sống hoà bình giữa những ngày gian khổ. Cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh nên thơ, kì thú.

Bức tranh bốn mùa ấy còn ánh lên vẻ đẹp đằm thắm của con người Việt Bắc. Cảnh làm nền cho người và người gắn với cảnh, chúng quyện hoà vào nhau và tô điểm cho nhau. Dường như những cảnh ấy phải có những con người này và nhà thơ đã đưa vào bức tranh Việt Bắc những con người thật bình dị đáng yêu: hình ảnh người lên núi với lưỡi dao lấp lánh ánh nắng cạnh sườn, bàn tay "chuốt từng sợi giang" của người đan nón và "cô em gái hái măng một mình" giữa khúc nhạc ve ran và sắc vàng rừng phách. Cả tiếng hát ân tình nữa cũng làm cho rừng thu êm dịu và ánh trăng hoà bình toả sáng lung linh.

Không hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha thiết thì không thể dựng lên bức tranh quê hương cách mạng đẹp tuyệt diệu và ấm tình người đến thế. Nhưng để có bức tranh này, còn có quan điểm đúng đắn và cách nhìn tiến bộ của nhà thơ cách mạng. Khác với những cái nhìn sai lệch trước đây về miền núi và con người miền núi là nơi "ma thiêng nước độc" với những con người dữ tợn, kém văn minh,...) Tố Hữu đã có một cách nhìn đầy thông cảm, thương yêu và ưu ái với quê hương cách mạng. Bức tranh thơ này chính là bắt nguồn từ sự gắn bó chung thủy, từ lòng nhớ thương sâu nặng của nhà thơ đối với cảnh và người Việt Bắc.

Tình cảm nhớ thương tha thiết ấy là âm hưởng bao trùm cả đoạn thơ và nhịp điệu dịu dàng trầm bổng của thể thơ lục bát làm cho âm hưởng đó bâng khuâng, tha thiết. Kết cấu của bài thơ Việt Bắc là kết cấu đối đáp, có ta và mình, có người đi kẻ ở, nhưng thực ra đó chỉ là sự phân thân của một chủ thể trữ tình.

Câu thơ trên là lời đáp, lời giãi bày của người đi nhưng không hẳn là thế. Nhớ cảnh nhớ người, nhớ đến từng chi tiết sống động như vậy là nỗi nhớ chung của con người đã cùng gắn bó với nhau, đồng cam cộng khổ trong "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng".

Khép lại đoạn thơ là tiếng hát ân tình, thuỷ chung của người chiến sĩ cách mạng miền xuôi, của đồng bào Việt Bắc. Tiếng hát ấy vang trong lòng người đi, luôn nhắc nhớ những ngày tháng nghĩa tình sắt son. Tiếng hát ấy là chiếc cầu nối giữa tấm lòng với tấm lòng, giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

Đề 3 (trang 134 SGK Ngữ văn 12 Tập 1)

a. Câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm) có nét tương đồng với những lời ca dao nào? Phân tích ngắn gọn ý nghĩa câu thơ này trong sự đối chiếu, so sánh với những bài ca dao mà anh chị đã liên tưởng.

Dàn ý:

- Câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm) có nét tương đồng với những lời ca dao.

Tay bưng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.

- Muối càng mặn, gừng càng cay

Đôi ta tình nghĩa nặng dày em ơi!

- Nói tới tình nghĩa con người, ca dao mượn hình ảnh muối - gừng:

+ Thuộc tính ấy diễn tả tình nghĩa con người có mặn mà, cay đắng.

+ Tình người có trải qua mặn mà, cay đắng mới sâu đậm, mới nặng nghĩa, nặng tình, mới thật thương nhau.

Bài mẫu tham khảo:

Qua câu thơ: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" trong bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có thể thấy: Đất nước gắn liền với tình cảm vợ chồng rất Việt Nam, càng gian nan vất vả thì càng son sắt, thủy chung. Điều này được tác giả thể hiện bằng hình ảnh "gừng cay muối mặn".

Nói tới tình cảm của con người ca dao lại dùng hình ảnh muối mặn – gừng cay là vì: Thuộc tính ấy diễn tả tình nghĩa con người có mặn mà, có đắng cay. Tình người có trải qua những dư vị ấy mới thêm sâu đậm, mới nặng nghĩa, nặng tình, mới thật thương nhau.

Hình ảnh này được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lấy từ những bài ca dao có nét tương đồng như:

"Muối ba năm muối đang còn mặn

Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

Đôi ta nghĩa nặng tình dày

Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"

hay:

"Muối mặn ba năm còn mặn

Gừng cay chín tháng còn cay

Dù ai xuyên tạc lá lay

Sắt son nguyện giữ lòng này thủy chung."

hoặc:

"Tay nâng chén muối đĩa gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau".

Đây là những câu ca dao xưa, chỉ những cay đắng gian nan đã gắn bó nên tình nghĩa vợ chồng. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát đúc kết nên cái tình cái nghĩa vợ chồng của cha ông ta từ bao đời nay, tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng xa hơn là tình cảm làng xóm, đồng loại đã là chất keo vô hình cho tình yêu nước lớn lao mà trong mỗi chúng ta ai cũng có.

Sự khác biệt giữa hình ảnh "muối – gừng" trong ca dao và câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: trong ca dao, "muối – gừng" được dùng như hình ảnh tượng trưng của tình yêu lứa đôi bền chặt qua những câu thề nguyền, hẹn ước. Trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm, "muối – gừng" còn biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn bền vững của dân tộc, của ông bà, cha mẹ, tổ tiên – nguồn mạch tạo nên giá trị tinh thần, giá trị văn hóa của đất nước. Đất nước là nơi bắt nguồn của tổ ấm. Đất nước, dù đi bất cứ đâu, ai ai đều nhớ về. Ở nơi ấy, có gia đình, bạn bè, có những lời ru của mẹ, có tiếng kể chuyện cổ tích của bà. Đất nước – nơi tôi lớn lên trong hòa bình, trong sự yêu thương của cha mẹ, người thân. Tôi yêu đất nước, yêu con người Việt Nam, yêu từng nhánh cây, ngọn cỏ trong đó. Vậy đất nước không là những khái niệm trừu tượng mà là những gì gần gũi thân thương trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chính vì thế, giọng điệu tâm tình trong những câu ca dao là giọng trao duyên đằm thắm, ngọt ngào; giọng tâm tình trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là giọng hồi tưởng, có sắc thái trang trọng.

Muối mặn gừng cay là hai thứ gia vị không dễ chịu (như vị ngọt, mát) để nói về gian nan, vất vả. Nhưng vị mặn của muối hay vị cay của gừng lại rất đậm đà, rất khó quên nên có thể đem so sánh với tình nghĩa sâu đậm, thắm thiết. Những câu ca dao trên hay câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đều ca ngợi tình nghĩa thủy chung, son sắt, vượt lên trên những nhọc nhằn, khó khăn của cuộc sống. Thủy chung, nghĩa tình cũng là phẩm hạnh bao đời của người Việt Nam, như một tính cách dân tộc. Thuần phong mĩ tục này gợi lại một cội nguồn dân tộc không bao giờ bị ngoại lai.

b. Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Dàn ý:

Mở bài:

- Giới thiệu tác phẩm Tây Tiến

- Khái quát hình tượng người lính Tây tiến

Thân bài: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

- Người lính hiện về trong hồi ức như một biểu tượng xa vời trong thời gian và không gian.

- Cuộc sống gian khổ nơi chiến trường khốc liệt

a. Chân dung hiện thực của người lính:

+ “ không mọc tóc”: cạo trọc đầu để thuận tiện cho việc giáp lá cà, có người sốt đến rụng tóc.

+ “xanh màu lá”: nước da xanh xao do ăn uống thiếu thốn, bệnh tật,…

- Bên trong: toát lên dũng khí anh hùng và dũng mạnh.

b. Tâm hồn lãng mạn của người lính:

- Trong đêm hội đuốc hoa: người lính Tây Tiến nghỉ lại ở một bản làng và bữa cơm đầu mùa tỏa hương nếp mới đã xua tan nhọc nhằn đời lính chiến và đưa họ về với cuộc sống đời thường.

c. Sự hi sinh cao cả của người lính Tây Tiến:

+ Trong cuộc hành quân gian nan vất vả, người lính Tây Tiến không thể tránh được sự mệt mỏi “đoàn quân mỏi”. Quang Dũng đã ghi lại hiện thực đó.

+ Người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái bi đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng.

+ Miêu tả những cái chết không bi lụy.

+ Cái chết trở nên bất tử.

Kết bài:

- Nêu cảm nghĩ của em về hình tượng người lính Tây Tiến.

- Thể hiện niềm tin yêu, biết ơn đối với người lính.

Bài mẫu tham khảo:

Mỗi lần nhắc tới nhà thơ Quang Dũng là mọi thế hệ độc giả yêu thơ lại nhớ tới một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là một tác phẩm đặc sắc cho phong cách thơ của nhà thơ Quang Dũng. Thông qua tác phẩm tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến một thời và mãi mãi với vẻ đẹp hùng tráng đầy ấn tượng.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Đoàn binh Tây Tiến được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sỹ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên, chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội.

Người lính Tây Tiến hiện ra với một hình dáng đặc biệt và lạ lùng khiến người đọc cảm thấy thương xót:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Quang Dũng miêu tả sự thật về đời sống chiến đấu gian khổ của người lính Tây Tiến vừa thiếu ăn vừa phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng. Điều này làm cho diện mạo của các anh trở nên khác lạ "không mọc tóc”, da “xanh màu lá”. Với nét vẽ “không mọc tóc” của tác giả Quang Dũng chúng ta có thể hiểu theo hai cách. Người lính Tây Tiến cạo trọc tóc để thuận tiện trong chiến đấu, cũng có thể hiểu đó là hậu quả của những trận sốt rét rừng đã hành hạ họ. Với nét vẽ “xanh màu lá” cũng có hai cách hiểu. Xanh là sắc xanh của lá ngụy trang hay làn da xanh xao, ốm yếu của người chiến sỹ. Dù hiểu theo cách nào thì điều tác giả muốn gửi gắm chính là những khó khăn, gian khổ mà đồng đội mình đã trải qua:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”

Với nhà thơ Quang Dũng vẫn là hình dáng không mọc tóc, xanh màu lá ấy nhưng câu thơ còn gợi lên cái khẩu khí ngang tàn, cái khí thế của người lính. Nghệ thuật đảo trật tự từ “không mọc tóc” cho thấy tư thế ngạo nghễ của những chàng trai Tây Tiến. Cách nói “dữ oai hùm” tạo cho người lính dáng vẻ oai phong như con hổ chốn rừng thiêng để chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của hoàn cảnh.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Câu thơ đầu tiên đề cập đến lí tưởng sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Lí tưởng ấy được gửi gắm qua ánh “mắt trừng” giận dữ, nảy lửa làm kẻ thù phải xóa bỏ đi tham vọng, họ muốn lập công giết chết lũ giặc xâm lược. Song hành cùng lòng căm thù chính là nỗi nhớ quê hương, gia đình, người thân đặc biệt là nỗi nhớ “dáng kiều thơm”. Dáng kiều thơm là ai vậy? Có thể là hình bóng Hà Nội trong nỗi nhớ người lính: vàng son, thanh lịch, hoa lệ. Cũng có thể hiểu đó là người con gái thanh lịch, yêu kiều. Dáng kiều thơm gợi tả cả vóc dáng, hương sắc của người thiếu nữ.

Bốn câu thơ cuối đã lột tả một cách trần trụi về sự thật tàn khốc của chiến tranh. Nhưng với cảm hứng lãng mạn và bút pháp bi tráng tác giả đã tái hiện lại cái chết ấy một cách độc đáo, khác thường mang màu sắc bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Trên con đường hành quân các chiến sỹ đã gặp rất nhiều nấm mồ của những người đồng đội nằm lại ven đường hành quân, các anh nằm lại đó cô đơn, côi cút, lạnh lẽo. Điều đặc sắc ở đây là câu thơ của Quang Dũng không gây cảm giác bi lụy mà để lại trong lòng người đọc cảm giác bi tráng, oai hùng. Tác giả dùng một loạt các từ Hán Việt: "biên cương, viễn xứ" tạo sắc thái trang trọng, thiêng liêng, nâng tầm cái chết của người lính. Sức mạnh thiêng liêng giúp người lính vững bước trên con đường hành quân chính là quan niệm lí tưởng về lẽ sống và cái chết. Họ luôn tâm niệm “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi thanh xuân của các chàng trai. Họ cống hiến cho quê hương cho đất nước cả tuổi thanh xuân của mình.

Khi xông pha chiến trường không ai nói trước được sự sống và cái chết:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Một sự thật đau xót hiện ra khiến con tim chúng ta tan nát, khi người chiến sĩ nằm xuống manh chiếu bọc thây cũng không có. Với cái nhìn thương yêu, trân trọng, Quang Dũng đã khâm liệm đồng đội mình trong tấm chiến bào sang trọng của ngôn từ. Họ đã “về đất”, đã trở về với cát bụi. Đất mẹ dang rộng vòng tay đón các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông. Đất êm đềm đón nhận người lính còn sông Mã hùng vĩ cất lên âm hưởng hùng tráng đưa các anh vào thế giới vĩnh hằng.

Những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng đã khắc họa phần nào cuộc sống thiếu thốn của đoàn quân Tây Tiến. Đối với họ cái chết không phải là cái đáng sợ, với họ được cống hiến tuổi xuân cho quê hương cho đất nước là một niềm hạnh phúc. Tác giả đã xây dựng thành công bức tượng đài bất tử về người lính một thời và mãi mãi.

Đề 4 (trang 134 SGK Ngữ văn 12 Tập 1)

a. Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích Đất nước (trong trường ca Mặt Đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.

Dàn ý:

Điểm giống nhau về hình tượng đất nước của 2 bài thơ:

* Nội dung: đều viết về đất nước với một niềm tự hào và yêu mến. Cả 2 tác giả đều viết về đất nước bằng niềm tự hào sâu sắc, bằng những nhận thức thấm thía về lịch sử về truyền thống dân tộc.

* Nghệ thuật:

- Lấy những hình ảnh mang tính đặc trưng của dân tộc.

- Giọng điệu khi tâm tình, thủ thỉ, khi hào hùng, đao thương trong kháng chiến.

- Nhịp thơ: đa dạng, phù hợp với mạch cảm xúc của tác giả.

Điểm khác nhau của hình tượng đất nước ở 2 tác phẩm:

- Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước của mình với 2 đặc điểm rất lớn, vừa trái ngược nhau lại vừa rất hài hòa với nhau. Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước với 2 đặc điểm và đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai.

- Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình tượng đất nước mình từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hàng ngày, rồi mở rộng ra với “thời gian đằng đẵng - Không gian mênh mông” trong truyền thuyết về thời dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận về đất nước lại hướng vào sự phát hiện về đất nước ở trong mỗi con người.

Đây là 2 bài thơ được ra đời ở 2 thời điểm rất khác nhau và chính điều đó đã khiến cho hình tượng đất nước ở 2 bài thơ này có nhiều chỗ khác biệt.

+ Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian: câu ca dao tục ngữ, truyền thuyết, những sinh hoạt phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc.

- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.

Bài mẫu tham khảo:

Đất nước là tiếng gọi thiêng liêng mà con người chúng ta ai cũng phải trân trọng. Lấy cảm hứng từ đất nước, hai nhà thơ lớn của dân tộc là Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi cũng đã cho ra hai tác phẩm khác nhau nhưng cùng một nhan đề “Đất Nước”. Cùng một chủ đề, cùng một tên gọi nhưng hai bài thơ lại có hai cách thể hiện tình yêu đất nước khác nhau.

Mỗi chúng ta sinh ra đều có cho mình một quê hương. Từ tình yêu với quê hương đã hình thành nên trong mỗi người tình yêu với đất nước. Đất nước có từ thời cha ông ta và nó còn tồn tại được đến ngày nay là nhờ công của những người đi trước đã giữ gìn. Đất nước là của tất cả chúng ta nhưng cũng là của riêng mỗi người. Mỗi người sẽ nhìn đất nước dưới con mắt khác nhau ở những góc độ khác nhau. Chẳng hạn như Nguyễn Đình Thi, ông nhìn đất nước theo nhiều chiều không gian. Ở nơi ấy có trời xanh, có núi rừng, có những cánh đồng chạy dài thơm mát, có những con đường đi mãi mà không hết và có cả “những dòng sông đỏ nặng phù sa”. Đó là cảnh đất nước trong sự thanh bình và trù phú.

Với Nguyễn Khoa Điềm, ông lại cụ thể hóa đất nước hơn với những địa danh mà tên tuổi của chúng mỗi khi nhắc đến ai ai cũng đều phải biết. Đó là núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,… Không đơn thuần tả cảnh thiên nhiên, đất trời như Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa hình ảnh con người vào trong thơ của mình. Chính con người với những truyền thuyết từ thời Thánh Gióng đã tạo nên một đất nước tươi đẹp như ngày hôm nay. Đằng sau những vần thơ tưởng như chỉ miêu tả thiên nhiên đất nước ấy là một nỗi xúc cảm to lớn của con người, của chính tác giả khi đứng trước đất nước tươi đẹp.

Ở những câu thơ tiếp theo của mình, Nguyễn Đình Thi đã khắc họa được một đất nước đẹp tươi trong chính sự đau thương:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Nước Việt Nam từ trong máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Trong cái cảnh đẫm máu và lầm than ấy, đất nước chúng ta vẫn hiên ngang, bền vững giữa đất trời. Sau tất cả, trên bầu trời chim vẫn hót. Dưới mặt đất hoa vẫn nở. Súng đạn kia dù có sức mạnh đến mấy cũng không thể nào bắn được vào lòng yêu nước thương nòi của nhân dân ta. Chính lòng yêu nước ấy đã tạo cho chúng ta sức mạnh để vùng lên khỏi đầm lầy máu lửa. Để đến hôm nay, đất nước ta đón nhận những tia nắng bình minh đầy tươi đẹp.

Tuy không miêu tả cụ thể về một đất nước trong đấu tranh nhưng ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm vẫn cho thấy những con người sẵn sàng đứng lên chống lại quân thù khi đất nước có giặc xâm chiếm:

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Đó là những điểm chung mà chúng ta bắt gặp ở hai bài thơ Đất Nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy được những nét riêng khi mà chúng được sáng tác ở hai hoàn cảnh khác nhau. Một bên là sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp, một bên là sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Vì vậy mà ta có thể thấy Nguyễn Đình Thi ca ngợi đất nước trong sự đấu tranh gian khổ và chiến thắng lẫy lực của dân tộc trước giặc Pháp. Nguyễn Khoa Điềm thì lại tập trung vào văn hóa dân tộc và đời sống tinh thần. Nếu Nguyễn Đình Thi chỉ tập trung ca ngợi đất nước ở hai thời điểm trong tranh đấu và sau thắng lợi thì Nguyễn Khoa Điềm lại miêu tả một đất nước kéo dài suốt 4 nghìn năm lịch sử.

Bằng những cách thể hiện khác nhau như vậy, Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo lồng ghép vào trong bài thơ tư tưởng của chính mình. Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước của lịch sử tranh đấu. Nguyễn Khoa Điềm thì hướng đến một đất nước của nhân dân. Nhưng dù thế nào, đất nước cũng hiện lên thật gần gũi và thân thương.

Sự giống nhau trong cách miêu tả đất nước của hai nhà thơ giống như một lời khẳng định về vẻ đẹp của đất nước. Dù trải qua bao nhiêu biến cố thì vẻ đẹp của đất nước vẫn sẽ trường tồn với thời gian. Chính tình yêu với đất nước đã khiến cho những tâm hồn trở nên đồng điệu với nhau. Tình yêu đất nước cũng chính là khởi nguồn cho những giá trị nhân văn cao đẹp.

Bây giờ và sau này, đất nước vẫn sẽ là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ khác nữa. Bởi vẻ đẹp của đất nước có nói bao nhiêu cũng là chưa đủ. Và bởi những góc nhìn khác nhau của những người khác nhau cũng sẽ mang đến cho chúng ta một Đất Nước khác nhau. Giống như Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm đã làm rất tốt điều đó.

b. Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

....

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

(Quang Dũng, Tây Tiến)

 Dàn ý:

* Vẻ đẹp kiêu hùng của lính Tây Tiến:

- Chân dung của người lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn gian khổ, bệnh sốt rét hoành hành làm cho mái tóc xanh hôm nào rụng hết. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng những mái đầu không mọc tóc, màu nước da xanh như màu lá lại có vẻ đẹp kiêu dũng, oai phong của con hổ nơi rừng thiêng. Dường như họ xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn.

- Nét độc đáo trong cách miêu tả của nhà thơ là không miêu tả cụ thể một gương mặt nào của người lính Tây Tiến mà tập trung khắc họa rõ nét mặt chung của cả đoàn quân Tây Tiến.

* Vẻ đẹp lãng mạn:

- Những chàng trai Tây Tiến không chỉ có vẻ đẹp oai hùng của con hổ nơi rừng thiêng mà còn có tâm hồn lãng mạn.

- Những tâm hồn, trái tim rạo rực yêu thương. Họ chiến đấu trong điều kiện gian khổ nhưng vẫn mơ về Hà Nội.

* Vẻ đẹp bi tráng:

- Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che dấu cái bi, nhưng cái bi lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng.

=> Bằng bút pháp lãng mạn nhà thơ đã khắc họa thành công bức chân dung tượng đài bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến.

Bài mẫu tham khảo:

Nằm trong mảng đề tài viết về người lính Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, 'Tây Tiến" là bài thơ thành công khi xây dựng được hình ảnh người lính không chỉ mang phẩm chất chung của tất cả những người lính Việt Nam mà còn mang những nét riêng độc đáo. Điểm nối bật trong bài thơ là hình tượng người lính với vẻ đẹp bi tráng, được khai thác thông qua bút pháp lãng mạn. Vẻ đẹp này của hình tượng người lính tập trung nhất trong khổ thơ:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Bài thơ ra đời vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng nhớ đến những người đồng đội cũ của mình trong binh đoàn Tây Tiến xưa. Đây là bài thơ viết về một binh đoàn mà phần lớn là thanh niên trí thức Hà Nội. Họ ra đi chiến đấu, mang trong mình nhiệt huyết hừng hực của tuổi hai mươi nhưng tâm hồn cũng chất chứa đầy nét hào hoa lãng mạn của một chàng trai Hà thành. Ở những khổ trước, người ta bắt gặp hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân vất vả nhưng vẫn đầy lãng mạn, mở rộng hồn mình ra để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời, sửng sốt trước sự xuất hiện của một "bông hoa về trong đêm hơi", say đắm trong bức tranh "nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Và cũng chính họ thật tinh nghịch, dí dỏm khi phát hiện ra hình ảnh đầy sức gợi "Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Người lính không được miêu tả trực tiếp (trừ hình ảnh "anh bạn dãi dầu không bước nữa") mà chủ yếu hiện lên qua bức tranh thiên nhiên, trong nét vừa tương đồng vừa đối lập với thiên nhiên đó. Đến khố thơ này nhà thơ đã giành cả một đoạn thơ dài chỉ để nói về hình ảnh người chiến sĩ và sự hi sinh đầy bi tráng của họ. Người lính được miêu tả qua những hình ảnh thực, gợi cảm:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm"

Hình ảnh miêu tả xuất phát từ hiện thực những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải. Đó là thời tiết khắc nghiệt, đói ăn, bệnh tật, sốt rét hoành hành khiến cho hình hài trở nên tiều tụy: "không mọc tóc", "xanh màu lá". Nói đến những gian khổ, vất vả nhưng giọng thơ Quang Dũng thật hào hùng. Ông gọi binh đoàn Tây Tiến là đoàn binh không mọc tóc. Cả một "đoàn binh" lại mang "oai" của hùm tạo cho người ta cảm giác ở đó dường như đang toát lên sức mạnh lớn lao không thế nào khuất phục được. Sức mạnh đó được bổ sung thêm bằng hình ảnh:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Hai hình ảnh, một thực tế, một lãng mạn được đặt cạnh nhau thậm chí còn là cầu nối cho nhau. Anh mắt trừng "gửi mộng qua biên giới" thế hiện cái uy phong lẫm liệt của họ. Ta tự hỏi tại sao lại là "mắt trừng gửi mộng" mà không phải là ánh mắt nào khác? Phải chăng khoảng cách là quá xa mà người chiến sĩ thì chỉ muốn rút ngắn nó lại trong chốc lát đế nhanh được trở về với Hà Nội thân thương? Cũng có thế, nhưng điều quan trọng là thông qua hình tượng ấy, người lính Tây Tiến hiện lên không chỉ anh dũng, hào hùng mà còn đầy chất uy nghiêm và đầy sức mạnh. Ba câu thơ đang miêu tả theo cấp độ có thể nói là tăng tiến về hình ảnh đầy ấn tượng của người lính chợt chùng lại bởi một "dáng kiều thơm" ở mảnh đất quê hương. Chi tiết này thế hiện sự tinh tế của Quang Dũng, nhà thơ miêu tả người lính trong những nét phi thường nhưng vẫn không quên đồng cảm với một giấc mơ bình thường nhất và cũng là lãng mạn nhất: giấc mơ về một dáng kiều thơm. Họ là những chàng trai mười chín, hai mươi tràn đầy nhựa sống, khát khao yêu và khát khao hạnh phúc. Họ có quyền mơ về một bóng hình giai nhân nào đó chứ! Nhiều hơn thế, hình ảnh người con gái còn gắn với mảnh đất Hà thành, nơi người lính đã sinh ra nên có lẽ giấc mơ ấy còn là giấc mơ về gia đình, về quê hương, mảnh đất nơi họ đã sinh ra và gắn bó. Sự thay đổi đột ngột của hình tượng thơ làm cho bài thơ thêm hấp dẫn đồng thời khẳng định nét lãng mạn trong tâm hồn những người lính trẻ. Người lính trẻ hiện lên trong đoạn trích anh hùng bất khuất trước gian khổ nhưng cũng ngang tàng và đầy nghịch ngợm. Thêm một nét để họ trở nên gần gũi, đáng yêu và đáng quí.

Trước đó chỉ bằng hình ảnh "gục lên súng mũ bỏ quên đời", Quang Dũng đã khiến cho người đọc ngậm ngùi về sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nhà thơ tránh không dùng đến từ hi sinh mà khắc họa người lính Tây Tiến ngã xuống nhưng vẫn trong tư thế bước tiếp khúc quân hành cùng đồng đội. Những câu thơ tiếp theo này lại một lần nữa nhắc đến hi sinh của những người lính trong binh đoàn Tây Tiến:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

Bốn câu thơ trước hết dựng lên một thực tế trong cuộc chiến đấu. Người chiến sĩ ra đi là đã xác định trước được những gì mình sẽ phải trải qua:

"Làm cách mạng từ khi tôi biết

Dấn thân vô là chịu tù đày

Là gươm kề cổ, súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa"

Chiến trường khốc liệt không thể mang lại cho người nằm xuống một nơi an nghỉ vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu. Ngã xuống, họ sẽ là một trong những "nấm mồ viễn xứ" trên biên cương, tiếp tục làm công việc ngày đêm canh giữ từng tấc đất thân thương. Không ai không xác định được điều ấy. Vậy mà họ vẫn ra đi, vẫn cống hiến:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Bởi nói như nhà thơ Thanh Thảo:

"Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không biết?

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi

Thì còn chi Tổ quốc"

Chính bởi xác định được lí tưởng sống cao đẹp ấy mà lớp thanh niên vẫn ngày đêm hát vang khúc quân hành, ra đi bảo vệ quê hương, đất nước. Rồi có những người ngã xuống "giản dị và bình tâm" nhưng cái chết của họ lại mang dáng dấp của một vị anh hùng sử thi. Hoàn cảnh chiến tranh thiếu thốn, người hi sinh không có lấy một mảnh chiếu trước khi đưa về với đất. Tấm áo ngày thường vương bụi trường chinh trở thành áo bào đưa các anh về với đất mẹ. Cuộc ra đi có sự chứng kiến và tiễn đưa của đất trời. Dòng sông Mã "gầm lên" khúc bi ca độc hành đầy đau đớn xót xa nhưng cũng thật hào hùng.

Khổ thơ sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ có ý nghĩa trong việc khắc họa hình tượng người lính. Hình ảnh thơ cụ thể, gần gũi như "không mọc tóc", "quân xanh màu lá", "mắt trừng"... kết hợp với sự đối lập, so sánh (quân xanh màu lá), sự chuyển đổi linh hoạt của cảm xúc:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Cùng biện pháp nhân hóa:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành...

Làm cho người lính hiện lên chân thực, gần gũi: dữ dội, can trường nhưng cũng rất đa tình, hào hoa.

Có thể nói, hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong đoạn thơ mang vẻ đẹp bi tráng mà không hề bi lụy. Cái bi tráng được thế hiện ở những khó khăn, gian khố cũng như mất mát, hi sinh mà người lính phải trải qua nhưng tâm hồn và ý chí của con người thì luôn bất khuất, vượt qua và chiến thắng hoàn cảnh. Giữa cái khổ con người vẫn hiện lên thật đẹp. Trong cái chết nhưng vẫn thấm đẫm chất hùng. Nhắc đến đau thương, mất mát nhưng không làm nhụt chí mà chỉ góp phần thể hiện hình tượng người lính, tăng thêm vẻ đẹp hào hùng cho hình tượng đó. Chất bi tráng được kết hợp với cảm hứng lãng mạn và ngợi ca tạo nên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến mang vẻ đẹp sử thi nhưng vẫn vô cùng gần gũi và thân thuộc.

Đoạn thơ đã thể hiện trọn vẹn hình tượng người lính trong bài thơ, góp phần vào sự thể hiện chủ đề chung của tác phẩm. Hình tượng người lính hiện lên mang vẻ đẹp bi tráng trong cảm hứng lãng mạn và ngợi ca hào sảng. Thành công của đoạn thơ và cả bài thơ đã diễn tả cảm động tình cảm của Quang Dũng dành cho những người đồng đội của mình ở binh đoàn cũ: Binh đoàn Tây Tiến.

Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Dọn về làng

Tiếng hát con tàu

Đò Lèn

Thực hành một số phép tu từ cú pháp

Sóng

1 538 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: