Phần thứ bảy Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003: Thủ tục đặc biệt
Số hiệu: | 19/2003/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 26/11/2003 | Ngày hiệu lực: | 01/07/2004 |
Ngày công báo: | 06/01/2004 | Số công báo: | Từ số 5 đến số 6 |
Lĩnh vực: | Trách nhiệm hình sự, Thủ tục Tố tụng | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/01/2018 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.
Điều 302. Điều tra, truy tố và xét xử
1. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên.
2. Khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử cần phải xác định rõ:
a) Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên;
b) Điều kiện sinh sống và giáo dục;
c) Có hay không có người thành niên xúi giục;
d) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Điều 303. Bắt, tạm giữ, tạm giam
1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
Điều 304. Việc giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
2. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó.
1. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
2. Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Điều 306. Việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức
1. Đại diện của gia đình người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
2. Trong trường hợp người bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được Điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra.
3. Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức.
Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức tham gia phiên toà có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Toà án.
1. Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định xét xử kín.
2. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết định hình phạt đối với bị cáo thì Tòa án áp dụng một trong những biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự.
Điều 308. Chấp hành hình phạt tù
1. Người chưa thành niên phạm tội chấp hành hình phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp luật quy định.
Không được giam giữ chung người chưa thành niên với người thành niên.
2. Người chưa thành niên bị kết án phải được học nghề hoặc học văn hóa trong thời gian chấp hành hình phạt tù.
3. Nếu người chưa thành niên đang chấp hành hình phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải chuyển người đó sang chế độ giam giữ người đã thành niên.
4. Đối với người chưa thành niên đã chấp hành xong hình phạt tù, Ban giám thị trại giam phải phối hợp với chính quyền và tổ chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để giúp người đó trở về sống bình thường trong xã hội.
Điều 309. Chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt
Người chưa thành niên bị kết án có thể được chấm dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 hoặc Điều 76 của Bộ luật hình sự.
Việc xóa án tích đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 77 của Bộ luật hình sự được tiến hành theo thủ tục chung.
THỦ TỤC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
Điều 311. Điều kiện và thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 của Bộ luật hình sự thì tùy theo giai đoạn tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải trưng cầu giám định pháp y.
2. Căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
1. Đối với vụ án có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 311 của Bộ luật này, Cơ quan điều tra phải làm sáng tỏ:
a) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra;
b) Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội;
c) Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không.
2. Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra phải bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ khi xác định là người có hành vi nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần. Đại diện hợp pháp của người đó có thể tham gia tố tụng trong trường hợp cần thiết.
Điều 313. Quyết định của Viện kiểm sát sau khi kết thúc điều tra
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có thể ra một trong những quyết định sau đây:
1. Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án;
2. Đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
3. Truy tố bị can trước Tòa án.
1. Tòa án có thể ra một trong những quyết định sau đây:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
b) Đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
c) Tạm đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
d) Trả hồ sơ để điều tra lại hoặc điều tra bổ sung.
2. Ngoài quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, Tòa án có thể giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vấn đề khác liên quan đến vụ án.
Điều 315. Áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người chấp hành hình phạt tù
Trong trường hợp có căn cứ để cho rằng người đang chấp hành hình phạt tù mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt phải trưng cầu giám định pháp y.
Căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu không có lý do để miễn chấp hành hình phạt.
Điều 316. Khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo
1. Khi quyết định của Viện kiểm sát về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh bị khiếu nại thì vụ án phải được đưa ra xét xử sơ thẩm ở Tòa án cùng cấp.
2. Việc kháng nghị hoặc kháng cáo đối với quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm.
3. Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh của Tòa án vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo.
Điều 317. Thực hiện, đình chỉ thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được thực hiện ở một cơ sở chuyên khoa y tế do Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ định.
2. Khi có báo cáo của cơ sở chữa bệnh, đơn yêu cầu của người thân thích người bị bắt buộc chữa bệnh hoặc yêu cầu của Viện kiểm sát thì trên cơ sở kết luận của Hội đồng giám định y khoa, Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh có thể ra quyết định đình chỉ thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh, đồng thời có thể quyết định phục hồi tố tụng đã bị tạm đình chỉ.
Điều 318. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.
Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang;
2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
4. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Điều 320. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
1. Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
2. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
3. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
1. Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
2. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.
Điều 322. Tạm giữ, tạm giam để điều tra, truy tố
1. Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
2. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
3. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không được quá mười sáu ngày.
Điều 323. Quyết định việc truy tố
1. Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chỉ vụ án;
d) Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này, thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chỉ vụ án;
d) Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành theo thủ tục chung.
3. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
4. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được quá mười bốn ngày.
5. Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục chung.
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 325. Người có quyền khiếu nại
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Việc kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, khiếu nại đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì không giải quyết theo quy định tại Chương này mà được giải quyết theo quy định tại các chương XXIII, XXIV, XXX và XXXI của Bộ luật này.
Điều 326. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại
1. Người khiếu nại có quyền:
a) Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại;
b) Khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hình sự;
c) Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại;
d) Được nhận văn bản trả lời về việc giải quyết khiếu nại;
đ) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Người khiếu nại có nghĩa vụ:
a) Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp các thông tin, tài liệu đó;
b) Chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại.
Điều 327. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại
1. Người bị khiếu nại có quyền:
a) Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu nại;
b) Được nhận văn bản giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của mình.
2. Người bị khiếu nại có nghĩa vụ:
a) Giải trình về quyết định, hành vi tố tụng bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại;
c) Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Thời hiệu khiếu nại là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người khiếu nại cho rằng có vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Điều 329. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Điều tra viên, Phó Thủ trưởng và Thủ trưởng Cơ quan điều tra
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cùng cấp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 330. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng và Viện trưởng Viện kiểm sát
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 331. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm phán, Phó Chánh án trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh án Toà án trước khi mở phiên tòa do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 332. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại đối với người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định tố tụng đã được Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định đó giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 333. Thời hạn giải quyết khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
Khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp cần phải có thời gian để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 334. Người có quyền tố cáo
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Điều 335. Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo
1. Người tố cáo có quyền:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
b) Yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của mình;
c) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
2. Người tố cáo có nghĩa vụ:
a) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố cáo sai sự thật.
Điều 336. Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo
1. Người bị tố cáo có quyền:
a) Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người tố cáo sai sự thật.
2. Người bị tố cáo có nghĩa vụ:
a) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành kết quả xử lý tố cáo của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Điều 337. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết tố cáo
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Trong trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Toà án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố xem xét, giải quyết.
Thời hạn giải quyết tố cáo không quá sáu mươi ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín mươi ngày.
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì được giải quyết theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật này.
3. Tố cáo liên quan đến hành vi bắt, tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp phải xác minh thêm thì thời hạn không quá ba ngày.
Điều 338. Trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo và thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm kết quả giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết của mình.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 339. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
1. Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
a) Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương này;
b) Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới; thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát;
c) Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.
2. Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan điều tra, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Chapter XXXII: PROCEDURES APPLICABLE TO MINORS
Article 301.- Scope of application
The criminal procedure applicable to arrestees, persons kept in custody, accused and defendants, who are minors, shall comply with the provisions of this Chapter, and concurrently with other provisions of this Code which are not contrary to those of this Chapter.
Article 302.- Investigation, prosecution and trial
1. Investigators, procurators and judges who carry out the criminal procedure towards minor offenders must possess necessary knowledge about the psychology and education of minors as well as activities of preventing and fighting crimes committed by minors.
2. In the process of investigation, prosecution and trial, the following information must be clarified:
a/ The ages, physical and mental development levels, the level of perception of criminal acts of minors;
b/ Living and education conditions;
c/ Whether or not they are incited by adults;
d/ Causes and conditions of the commission of offenses.
Article 303.- Arrest, custody and temporary detention
1. Persons aged between full 14 years and under 16 years may be arrested, held in custody or temporary detention if there are sufficient grounds prescribed in Articles 80, 81, 82, 86, 88 and 120 of this Code, but only in cases where they commit very serious offenses intentionally or commit especially serious offenses.
2. Persons aged between full 16 years and under 18 years may be arrested, held in custody or temporary detention, if there are sufficient grounds prescribed in Articles 80, 81, 82, 86, 88 and 120 of this Code, but only in cases where they commit serious offenses intentionally or commit very serious or especially serious offenses.
3. The bodies ordering the arrest, custody or temporary detention of minors must notify their families or lawful representatives thereof immediately after the arrest, custody or temporary detention is effected.
Article 304.- Supervision of minor offenders
1. The investigating bodies, procuracies or courts may issue decisions to assign minor offenders to their parents or guardians for supervision so as to secure their appearance in response to the summonses of the procedure-conducting bodies.
2. Persons assigned to supervise minor offenders shall have to closely supervise them, oversee their behaviors, ethics and educate them.
1. Lawful representatives of persons kept in custody, the accused or defendants who are minors may select defense counsels to defend or defend by themselves the persons kept in custody, the accused or defendants.
2. Where the accused or defendants are minors or their lawful representatives refuse to select defense counsels for them, the investigating bodies, procuracies or courts must request bar associations to assign lawyers’ offices to appoint defense counsels for them or propose the Vietnam Fatherland Front Committee or the Front’s member organizations to appoint defense counsels for their organizations’ members.
Article 306.- Participation in the procedure by families, schools and organizations
1. Representatives of the families of the persons kept in custody, the accused or defendants, teachers or representatives of schools, the Ho Chi Minh Communist Youth Union or other organizations where the persons kept in custody, the accused or defendants study, work and live shall have the right as well as obligation to participate in the procedure under decisions of the investigating bodies, procuracies or courts.
2. Where the persons kept in custody or the accused are between full 14 years and under 16 years old or minors with mental or physical defects, or in other necessary cases, the taking of their statements and interrogation must be attended by their families’ representatives, except for the cases where their families’ representatives are deliberately absent without plausible reasons. The families’ representatives may inquire the persons kept in custody or the accused, if the investigators so agree; they may produce documents, objects, make requests or complaints, and read the case files upon the termination of the investigation.
3. At the court sessions to try minor defendants, the presence of their families’ representatives, except for the cases where their families’ representatives are deliberately absent without plausible reasons, of their schools’ and/or organizations’ representatives is compulsory.
Representatives of the defendants’ families and representatives of their schools and/or organizations attending the court sessions shall have the rights to produce documents, exhibits, to request or propose to change the procedure-conducting persons; to join in the arguing process, and lodge complaints about procedural acts of the persons with procedure-conducting competence, and court decisions.
1. The composition of a trial panel must include a juror being a teacher or a Ho Chi Minh Communist Youth Union cadre.
In case of necessity, the courts may decide to conduct the trial behind closed door.
2. In the course of trial, if deeming it unnecessary to impose penalties on the defendants, the courts may apply one of the judicial measures prescribed in Article 70 of the Penal Code.
Article 308.- Serving of imprisonment penalties
1. Minor offenders shall serve their imprisonment penalties according to a separate detention regime prescribed by law.
It is forbidden to keep minor offenders together with adult offenders.
2. The minor convicts must be provided with job training or general education while they are serving their imprisonment penalties.
3. If the minors reach the age of full 18 years while serving their imprisonment penalties, they shall be shifted to be subject to the imprisonment regime applicable to adults.
4. For minors who have completely served their imprisonment penalties, the superintendence boards of their prisons shall have to coordinate with the administrations and social organizations in the communes, wards or townships in helping them to lead a normal life in the society.
Article 309.- Termination of serving of judicial measures, commutation of penalties or exemption from serving of penalties
If they fully meet the conditions prescribed in Article 70 or Article 76 of the Penal Code, the minor offenders may be permitted to stop serving judicial measures, have their penalties commuted or be exempt from serving their penalties.
Article 310.- Remission of criminal records
The remission of criminal records for minor offenders who fully meet the conditions specified in Article 77 of the Penal Code shall comply with general procedures.
Chapter XXXIII: PROCEDURES FOR APPLICATION OF THE COMPULSORY MEDICAL TREATMENT MEASURE
Article 311.- Conditions for application of, and competence to apply, the compulsory medical treatment measure
1. Where there are grounds to believe that the persons having committed acts dangerous to the society have no capacity for penal liability as provided for in Article 13 of the Penal Code, depending each particular proceeding stage, the investigating bodies, procuracies or courts must solicit forensic examination.
2. Basing themselves on the conclusions of the forensic examination councils, the procuracies shall decide to apply the compulsory medical treatment measure at the investigation and prosecution stages; the courts shall decide to apply the compulsory medical treatment measure at the trial and judgment execution stages.
1. For the cases involving grounds specified in Clause 1, Article 311 of this Code, the investigating bodies must clarify:
a/ Committed acts dangerous to the society;
b/ The mental conditions and mental diseases of the persons having committed acts dangerous to the society;
c/ Whether or not the persons having committed acts dangerous to the society have lost their capacity to perceive or control their acts.
2. When conducting the procedure, the investigating bodies must ensure the participation by defense counsels in the procedure from the time it is determined that the persons having committed acts dangerous to the society suffer from mental diseases. In case of necessity, lawful representatives of such persons may participate in the proceedings.
Article 313.- Decisions of procuracies upon termination of investigation
After receiving the case files and the written investigation conclusions, the procuracies may issue one of the following decisions:
1. To suspend or cease the case;
2. To cease the case and decide to apply the compulsory medical treatment measure.
3. To prosecute the accused before court.
1. The courts may issue one of the following decisions:
a/ To exempt the penal liability or penalties and apply the compulsory medical treatment measure;
b/ To cease the case and decide to apply the compulsory medical treatment measure;
c/ To suspend the case and decide to apply the compulsory medical treatment measure;
d/ To return the file for re-investigation or additional investigation.
2. Apart from deciding to apply the compulsory medical treatment measure, the courts may settle the issue of damage compensation or other matters related to the cases.
Article 315.- Application of the compulsory medical treatment measure to persons serving imprisonment penalties
Where there are grounds to believe that the persons who are currently serving imprisonment penalties suffer from mental diseases or other ailments which have deprived them of the capacity to perceive or control their acts, at the requests of the imprisonment penalty-executing agencies, the presidents of the provincial-level people’s courts or the presidents of the military zone-level military courts in the localities where the convicts are serving their penalties must solicit forensic examination.
Basing themselves on the conclusions of the forensic examination councils, the presidents of the provincial-level people’s courts or the presidents of the military zone-level military courts in the localities where the convicts are serving their penalties may decide to send them into specialized medical establishments for compulsory medical treatment. After recovery, such persons shall have to continue serving their penalties if they have no reasons for exemption from serving their penalties.
Article 316.- Complaints, protests, appeals
1. When the procuracies’ decisions to apply the compulsory medical treatment measure are complained about, the cases must be brought for first-instance trial by the courts of the same level.
2. Protests or appeals against the courts’ decisions to apply the compulsory medical treatment measure shall be lodged in the same way as against first-instance judgments.
3. Despite complaints, protests or appeals, the courts’ decisions to apply the compulsory medical treatment measure shall still take implementation effect.
Article 317.- Implementation, suspension of implementation of the compulsory medical treatment measure
1. The compulsory medical treatment measure shall be implemented at specialized medical establishments designated by the procuracies or courts.
2. When there are reports of the medical treatment establishments and written requests of the relatives of the persons subject to compulsory medical treatment or requests of the procuracies, on the basis of the conclusions of the forensic medicine examination councils, the procuracies or courts which have issued the decisions to apply the compulsory medical treatment measure may issue decisions to cease the implementation of the compulsory medical treatment measure and may concurrently decide to resume the suspended proceedings.
Chapter XXXIV: SUMMARY PROCEDURES
Article 318.- Scope of application of summary procedures
The summary procedures for investigation, prosecution as well as first-instance trial shall be applied under the provisions of this Chapter, and concurrently under other provisions of this Code which are not contrary to those of this Chapter.
Article 319.- Conditions for application of summary procedures
Summary procedures shall be applied only when the following conditions are fully met:
1. The persons committing criminal acts are caught red-handed;
2. The offenses are simple with obvious evidences;
3. The committed offences are less serious ones;
4. The offenders have clear personal identifications and records.
Article 320.- Decisions to apply summary procedures
1 After the criminal cases are instituted, at the requests of the investigating bodies or if deeming that the cases fully meet the conditions prescribed in Article 319 of this Code, the procuracies may issue decisions to apply summary procedures.
2. Decisions to apply summary procedures must be sent to the investigating bodies and the accused or their lawful representatives within 24 hours after their issuance.
3. Decisions to apply summary procedures may be complained about. The accused or their lawful representatives shall have the right to complain about the decisions to apply summary procedures; the statute of limitations for lodging such complaints is three days after the decisions are received. Complaints shall be sent to the procuracies which have issued the decisions to apply summary procedures and must be settled within three days after they are received.
1. The time limit of investigation according to summary procedures is twelve days after the issuance of the decisions to institute the criminal cases.
2. Upon the termination of the investigation, the investigating bodies shall not have to make written investigation conclusions but issue decisions proposing the prosecution and send the case files to the procuracies.
Article 322.- Custody and temporary detention for investigation and prosecution
1. The grounds, competence and procedures for custody and temporary detention shall comply with the provisions of this Code.
2. The time limit for custody shall not exceed three days as from the date the investigating bodies receive the arrestees.
3. The time limit for temporary detention for investigation and prosecution shall not exceed sixteen days.
Article 323.- Decision on prosecution
1. Within four days after receiving the case files, the procuracies shall have to issue one of the following decisions:
a/ To prosecute the accused before court by a prosecution decision;
b/ To return the file for additional investigation;
c/ To suspend the case;
d/ To cease the case.
2. In case of returning the files for additional investigation or suspending the cases prescribed at Point b or c, Clause 1 of this Article, the procuracies must issue decisions to cancel the decisions to apply the summary procedures and the cases shall then be settled according to general procedures
1. Within seven days after receiving the case files, the judges assigned to preside over the court sessions shall have to issue one of the following decisions:
a/ To bring the case for trial;
b/ To return the file for additional investigation;
c/ To suspend the case;
d/ To cease the case.
2. In case of issuing decisions to bring the cases for trial prescribed at Point a, Clause 1 of this Article, within seven days as from the date of issuing such decisions, the courts must open court sessions to try the cases. The first-instance trial shall be conducted according to general procedures.
3. In case of returning the files for additional investigation or suspending the cases as prescribed at Point b or c, Clause 1 of this Article, the courts shall transfer the files to the procuracies and the cases shall then be settled according to general procedures.
4. In case of necessity, the courts of first instance shall decide to keep the defendants in temporary detention in order to secure the trial. The temporary detention time limit shall not exceed fourteen days.
5. The appellate trial, the review according to cassation or reopening procedures of the cases which underwent first-instance trial according to summary procedures, shall be conducted according to general procedures.
Chapter XXXV: COMPLAINTS, DENUNCIATIONS IN CRIMINAL PROCEDURE
Article 325.- Persons with the right to complain
Agencies, organizations and individuals shall have the right to complain about procedural decisions and acts of bodies and persons with procedure-conducting competence when they have grounds to believe that such decisions or acts are contrary to law, infringe upon their legitimate rights and interests.
Appeals against legally valid first-instance judgments or decisions, complaints about legally valid judgments or decisions shall not be settled under the provisions of this Chapter but under the provisions of Chapters XXIII, XXIV, XXX and XXXI of this Code.
Article 326.- Rights and obligations of complainants
1. Complainants shall have the following rights:
a/ To lodge complaints by themselves or through their lawful representatives;
b/ To lodge complaints at any stage of the process of settling criminal cases;
c/ To withdraw their complaints at any stage of the process of settling criminal cases;
d/ To receive written replies on the settlement of their complaints;
e/ To have their infringed legitimate rights and interests restored; and receive damage compensation in accordance with law.
2. Complainants shall have the following obligations:
a/ To present truthfully the facts, supply information and documents to the complaint settlers; to take responsibility before law for such presentation and supply of information and documents.
b/ To abide by the complaint settlement results.
Article 327.- Rights and obligations of complained persons
1. Complained persons shall have the following rights:
a/ To produce evidences on the lawfulness of their procedural decisions or acts which are complained about;
b/ To receive documents on the settlement of complaints about their procedural decisions or acts.
2. Complained persons shall have the following obligations:
a/ To explain the complained procedural decisions or acts, supply relevant information and documents when competent bodies, organizations or individuals so request;
b/ To abide by the complaint settlement results;
c/ To pay compensation for damage and overcome consequences caused by their illegal procedural decisions or acts according to law provisions.
Article 328.- Statute of limitations for complaining
The statute of limitations for complaining is fifteen days after the complainants receive or know about the procedural decisions or acts which they deem unlawful.
In case where due to illness, natural calamities, enemy sabotage, working or studying in distant places or other objective obstacles the complainants cannot exercise their right to complain within the prescribed statute of limitations, the period when such obstacles exist shall not be included in the statute of limitations for complaining.
Article 329.- Competence and time limit for settling complaints against investigators, deputy heads and heads of investigating bodies
Complaints about procedural decisions and acts of investigators, deputy heads of investigating bodies shall be considered and settled by the heads of the investigating bodies within seven days after receiving the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the procuracies of the same level. Within seven days after receiving the complaints, the procuracies of the same level must consider and settle them. The procuracies of the same level shall have the competence to make final settlement.
Complaints about procedural decisions or acts of the heads of investigating bodies and procedural decisions of investigating bodies, which have been approved by the procuracies of the same level, shall be settled by the procuracies of the same level within seven days after receiving the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the immediate superior procuracies. Within fifteen days after receiving the complaints, the immediate superior procuracies must consider and settle them. The immediate superior procuracies shall have the competence to make final settlement.
Article 330.- Competence and time limits for settling complaints against procurators, vice-chairmen and chairmen of procuracies
Complaints about procedural decisions and acts of vice-chairmen of procuracies or procurators shall be settled by the chairmen of the procuracies within seven days after receiving the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the immediate superior procuracies. Within fifteen days after receiving the complaints, the immediate superior procuracies must consider and settle them. The immediate superior procuracies shall have the competence to make final settlement.
Complaints about procedural decisions or acts of chairmen of procuracies shall be settled by the immediate superior procuracies within fifteen days after receiving the complaints. The immediate superior procuracies shall have the competence to make final settlement.
Article 331.- Competence and time limits for settling complaints against judges, vice-presidents and presidents of courts
Complaints about procedural decisions and acts of judges or vice-presidents of courts before the opening of court sessions shall be settled by the presidents of courts within seven days after receiving the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the immediate superior courts. Within fifteen days after receiving the complaints, the immediate superior courts must consider and settle them. The immediate superior courts shall have the competence to make final settlement.
Complaints about procedural decisions or acts of presidents of courts shall be settled by the immediate superior courts within fifteen days after receiving the complaints. The immediate superior courts shall have the competence to make final settlement.
Article 332.- Competence and time limits for settling complaints against persons with competence to conduct a number of investigating activities
Complaints about procedural decisions and acts of persons with competence to conduct a number of investigating activities shall be considered and settled by the procuracies with prosecuting competence within seven days after receiving the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the immediate superior procuracies. Within fifteen days after receiving the complaints, the immediate superior procuracies must consider and settle them. The immediate superior procuracies shall have the competence to make final settlement.
Complaints about procedural decisions or acts which have been approved by the procuracies shall be settled by such procuracies within seven days after receiving the complaints. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the immediate superior procuracies. Within fifteen days after receiving the complaints, the immediate superior procuracies must consider and settle them. The immediate superior procuracies shall have the competence to make final settlement.
Article 333.- Time limits for settling complaints related to the application of arrest, custody and temporary detention measures
Complaints related to the application of arrest, custody and temporary detention measures must be immediately considered and settled by the procuracies. If it takes time to conduct further verification, the complaints must be settled within three days after the date of receipt thereof. If disagreeing with the settlement results, the complainants shall have the right to lodge further complaints with the immediate superior procuracies. Within seven days after receiving the complaints, the immediate superior procuracies must consider and settle them. The immediate superior procuracies shall have the competence to make final settlement.
Article 334.- Persons with the right to denounce
Citizens shall have the right to denounce to competent bodies or individuals law violation acts of any persons with procedure-conducting competence, which cause damage or threaten to cause damage to the interests of the State, the legitimate rights and interests of citizens, agencies or organizations.
Article 335.- Rights and obligations of denouncers
1. Denouncers shall have the following rights:
a/ To send written denunciations or denounce in person to competent bodies or individuals;
b/ To request the confidentiality of their full names, addresses and autographs;
c/ To request to be notified of the denunciation settlement results;
d/ To request the bodies with procedure-conducting competence to protect them when they are intimidated, harassed or revenged.
2. Denouncers shall have the following obligations:
a/ To present truthfully the denunciation contents;
b/ To clearly state their full names and addresses;
c/ To take responsibility before law for untruthful denunciation.
Article 336.- Rights and obligations of denounced persons
1. Denounced persons shall have the following rights:
a/ To be informed of the denunciation contents;
b/ To produce evidences to prove that the denunciation contents are untruthful;
c/ To have their infringed legitimate rights and interests restored, their honor restored, and to receive compensation for damage caused by untruthful denunciation;
d/ To request competent bodies, organizations or individuals to handle slanderers.
2. Denounced persons shall have the following obligations:
a/ To explain their denounced acts; supply relevant information and documents when competent bodies or individuals so request;
b/ To abide by the denunciation-handling results of competent bodies or individuals;
c/ To pay compensation for damage and overcome consequences caused by their illegal acts.
Article 337.- Competence and time limit for settling denunciations
1. For denunciations of law violation acts of persons with procedure-conducting competence of an agency with procedure-conducting competence, the head of such agency shall have the responsibility to settle them.
Where the denounced persons are heads of investigating bodies, chairmen of procuracies or presidents of courts, the immediate superior investigating bodies, procuracies or courts shall have the responsibility to settle them. Denunciations of procedural acts of persons with competence to conduct a number of investigating activities shall be considered and settled by the procuracies with prosecuting competence.
The time limit for settling denunciations is sixty days counting from the date of receipt of denunciations; for complicated cases, it may be longer but must not exceed ninety days.
2. Denunciations of law violation acts with criminal signs shall be settled under the provisions of Article 103 of this Code.
3. Denunciations related to arrest, custody or temporary detention must be immediately considered and settled by the procuracies. If further verification is required, the time limit shall not exceed three days.
Article 338.- Responsibilities of persons with competence to settle complaints or denunciations
Competent bodies or individuals shall, within the ambit of their respective tasks and powers, have to receive and settle promptly according to law complaints and denunciations and send notices on the settlement results to complaints and denouncers; stringently handle violators; apply necessary measures to prevent possible damage; ensure the settlement results be strictly implemented and take responsibility before law for their settlement.
Persons who are competent to settle complaints or denunciations but fail to settle them, have settled irresponsibly or illegally such complaints or denunciations shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined or examined for penal liability; if causing damage, they must pay compensation therefor according to law.
Article 339.- Tasks and powers of procuracies in supervising the settlement of complaints and denunciations in the criminal procedure
1. The procuracies shall request the investigating bodies and courts of the same and subordinate levels, the border guard, customs, ranger and coast guard forces, and other agencies of the people’s police and people’s army, which are assigned to conduct a number of investigating activities:
a/ To issue written settlements of complaints or denunciations according to the provisions of this Chapter;
b/ To examine the settlement of complaints or denunciations by their level and subordinate levels; notify the examination results to the procuracies;
c/ To supply dossiers and documents related to the settlement of complaints and denunciations to the procuracies.
2. The procuracies shall directly supervise the settlement of complaints and denunciations at the investigating bodies, courts, border guard, customs, ranger offices, coast guard offices and other agencies of the people’s police and army’s police, which are assigned to conduct a number of investigating activities.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực