Soạn bài Viết bài làm văn số 5: Văn thuyết minh hay, ngắn gọn

Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 5: Văn thuyết minh Ngữ văn lớp 10 hay, ngắn gọn nhất và đủ ý giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung chính bài Viết bài làm văn số 5: Văn thuyết minh để chuẩn bị bài và soạn văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 562 lượt xem
Tải về


Soạn bài Viết bài làm văn số 5: Văn thuyết minh - Ngữ văn 10

A. Soạn bài Viết bài văn số 5: Văn thuyết minh ngắn gọn:

Đề 1: Giới thiệu một danh lam thắng cảnh của đất nước, quê hương.

I. Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu về cảnh đẹp quê hương: khu du lịch Tràng An

- Đưa ra một vài nhận xét chung về cảnh đẹp đó: nơi hội tụ vẻ đẹp của sông núi, hang động; là một điểm du lịch hấp dẫn.

2. Thân bài

a, Giới thiệu về vị trí của cảnh đẹp

- Tràng An nằm cách trung tâm thành phố Ninh Bình 7km về hướng Tây.

- Cách di chuyển: gia đình em và các đoàn du lịch hay tới đây bằng xe ô tô, có nhiều cô chú, anh chị đi phượt bằng xe máy.

b, Những nét đặc sắc ở nơi đây

- Về thiên nhiên:

+ Quần thể Tràng An – Tam Cốc rất rộng: hơn 6000 héc-ta.

+ Có hệ thống núi đá vôi lâu đời, khoảng 250 triệu năm, núi bao quanh hồ.

+ Có nhiều thung lũng, hồ, hang động: 31 hồ đầm, 48 hang động, trong đó có nhiều hang dài đẹp như Địa Linh, hang Mây… Bên trong hang, những nhũ đá vôi chảy xuống tạo thành nhiều hình thù đẹp mắt: hình con rùa, hình bầu sữa mẹ… Và còn rất nhiều hang khác với những tên gọi gắn liền với truyền thuyết như hang Nấu Rượu, hang Cơm…

+ Điểm đặc biệt: hệ thống hang động thông nhau, có thể đi tham quan Tràng An theo đường thủy thành một vòng khép kín.

+ Ngoài đầm hồ, còn có nhiều rừng ngập mặn, rừng núi đá vôi: có thể đi tham quan bằng đường bộ, leo núi.

- Về con người: con người nơi đây thật thà, mến khách; những người chèo thuyền đưa khách đi tham quan chính là những hướng dẫn viên du lịch am hiểu lịch sử địa phương.

c, Giá trị văn hóa, lịch sử

- Quá khứ: khi Đinh Bộ Lĩnh lập lên nhà Đinh, đóng đô ở Hoa Lư, Tràng An chính là Thành Nam của kinh đô, với núi rừng, ao hồ trùng điệp tạo thành lá chắn che chở cho kinh đô.

- Hiện nay:

+ Được UNESCO công nhận là di sản thế giới: niềm tự hào của đất nước.

+ Là nơi bảo tồn thiên nhiên; là một trong những nơi phật giáo phát triển (chùa Bái Đính), được chọn làm nơi diễn ra nhiều lễ hội Phật pháp của quốc gia và khu vực.

+ Là một trong các địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút khách du lịch, giúp phát triển kinh tế, du lịch, văn hóa quê hương.

3. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ: rất vui, tự hào về cảnh đẹp của Tràng An; thêm yêu mến quê hương đất nước; sẽ nỗ lực gìn giữ và đưa hình ảnh Tràng An ra giới thiệu với nhiều bạn bè trong nước và quốc tế.

II. Bài minh hoạ

"Ai là con cháu Rồng Tiên

Tháng hai mở hội Trường Yên thì về

Về thăm đô cũ Đinh Lê

Non xanh nước biếc bốn bề như tranh”

Những du khách từng đặt chân tới Ninh Bình, không ai là không một dịp tò mò mà đến thăm Tràng An cổ - trái tim của kinh đô Hoa Lư. Cũng như bao người khác, tôi cùng những người bạn của mình đã được dịp đến tận mắt chiêm ngưỡng khu danh lam thắng cảnh này để rồi phải xuýt xoa trước vẻ đẹp của nó.

Xuôi một chặng đường dài vô tận, qua con đường hai bên là trận cờ lau gắn liền với những chiến tích lịch sử oai hùng, con người trở về nơi đất tổ linh thiêng – Tràng An Cổ. Đất Ninh Bình là nơi sinh ra một vị vua tài giỏi, người có công lao tạo lập một triều đại độc lập và tự chủ trong lịch sử dân tộc – Đinh Bộ Lĩnh, một anh hùng hào kiệt dẹp loạn mười hai sứ quân khai sinh ra nước Việt vào năm 968 và trở thành người đầu tiên xưng ngôi hoàng đế, lập ra một đất nước độc lập tự chủ . Mỗi thắng cảnh Tràng An Cổ lại gắn liền với một sự kiện, một mạch nối với triều đại Đinh Tiên Hoàng. Tràng An Cổ - nơi đây lắng đọng biết bao những góc khuất lịch sử. Nhờ sự sắp xếp tài tình của mẹ thiên nhiên , nhờ tấm lòng rộng lớn của tạo hóa đã ban tặng những tinh túy quý báu nhất trong mảnh đất địa linh kiệt.Nâng niu trân trọng những dấu ấn lịch sử ấy hành trình khám phá Tràng An Cổ được thiết kế theo dấu chân xưa của vua Đinh,theo hướng Nam là hướng xuất binh của Đinh Bộ Lĩnh xưa kia.Có lẽ vậy mà nhiều khi cái nhìn về Tràng An Cổ cũng khác đi. Nó không chỉ còn là những dấu tích sót lại hay là món quà tinh túy nhất của thiên nhiên ban tặng, không chỉ còn là bức tranh sơn thủy hữu tình mà nơi đây hiện ra như một cuốn sổ vàng. Lật từng trang sách, ta thấy hiện ra từng trang sử oanh liệt hào hùng.

Chúng tôi, những đứa con được trở về với cội nguồn, linh hồn đất Việt – nơi vua Đinh từng ở, được cảm nhận không khí linh thiêng thực sự là một trải nghiệm khó quên. Thắng cảnh Tràng An Cổ nằm cách Tràng An không xa nhưng quy mô nhỏ hơn và mang đậm dấu ấn lịch sử của triều đại vua Lê nơi Ninh Bình. Bước xuống xe, từ xa chúng tôi đã thấy lấp ló chiếc biển khu di tích Tràng An Cổ. Rời xa nơi thành phố náo nức chật chội, chúng tôi được trải nghiệm bầu không khí trong lành yên bình cùng sự tâm linh, cùng nhau trải nghiệm và lắng nghe những câu chuyện, những sự tích kì bí cùng nhau tìm về nơi cội nguồn linh thiêng của mỗi con người đất Việt.

Đi dần vào sâu bên trong Tràng An Cổ, mọi người được lắng nghe những thanh âm của thiên nhiên nơi cố đô Hoa Lư. Bước lên những bậc thang đá, các du khách lên đến ngôi phụ đại tôn thờ vua Đinh Tiên Hoàng cùng công thần khai quốc triều Đinh Thái tể định quốc công Nguyễn Bặc cùng những đại thần tướng sĩ triều Đinh. Ngôi phủ tựa như một viên ngọc lọt giữa hàm rồng. Ai đi về thăm cũng có cơ hội được dâng lên nén hương bày tỏ tấm lòng của con dân đất Việt. Khi bước vào không gian đền, ta được ngắm nhìn những cổ vật thiêng liêng từ thời vua Đinh Bộ Lĩnh.

Tục truyền rằng, xưa Đinh Bộ Lĩnh cùng các trọng thần, tướng lĩnh đã ngự tại đây,trước khi xuất binh hay làm lễ tế cờ, thắng trận trở về bao giờ cũng làm lễ tạ ơn. Vì vậy trên cửa phủ có treo bức đại tự : Khai môn kiến hỉ ( Cửa cầu gặp may).Thế nên đến đây, tất cả được cùng nhau bái lạy, chắp tay thành khẩn tỏ lòng mình cầu may mắn, hạnh phúc, ấm no, sung túc đủ đầy. Không chỉ vậy ta còn được bày tỏ lòng kính trọng đối với những bậc trung thần thời Đinh đã từng hy sinh thân mình để giúp dân giúp nước. Mọi người như được đắm mình trong không khí lịch sử bi tráng một thời.Sâu trong tẩm điện là cung thờ hoàng đế Đinh Tiên Hoàng. Năm xưa chính tại tổng Hoa Lư này, người đã xưng là Vạn Thắng vương thu nạp nghĩa binh dẹp loạn mười hai sứ quân, khai sinh ra nước Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình với mong muốn thiên hạ thái bình, nhân dân an lành. Ra khỏi đền, tiếp tục đi lên những bậc thang đá là đến Giếng Giải Oan – nơi thoát lên của những linh hồn oan ức được cứu rỗi siêu sinh mà giải thoát. Đây cũng là một trong những tín ngưỡng của dân gian ta.

Vì vậy cửa hang Đại tôn lập ban thờ Thập Bát Long thần là như thế.Khi gặp phải khó khăn, cử hành việc lớn thì con người tìm về với nơi đây thành tâm cầu khẩn để được phù hộ và giải cứu rất linh ứng.

Kết thúc trải nghiệm ngôi đền, mọi người sẽ có cơ hội được du ngoạn trên sông. Xuôi theo dòng Sào Khê lịch sử, ta được dịp lắng nghe tiếng giới thiệu say sưa của cô hướng dẫn viên về những trang sử vàng quê hương theo nhịp mái chèo đưa hòa cùng non nước hữu tình. Dòng Sào Khê lịch sử chảy dọc qua cố đô Hoa Lư theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đước chúng tôi qua hang Luồn. Tại đây, ta được chiêm ngưỡng những dấu ấn lịch sử chạm khắc trực tiếp lên đá. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử mà những dấu ấn đó vẫn còn nguyên vẹn và trở thành dấu ấn văn hóa chỉ có thể tìm thấy ở Tràng An Cổ lưu truyền hậu thế. Du khách tham quan còn được lách mình dưới những dãy núi đá vôi lấp lánh. Vì thế về với mảnh đất Ninh Bình, Tràng An Cổ không chỉ đưa ta về với những câu chuyện lịch sử hào hùng mà còn là hành trình khám phá cái đẹp của non nước vùng đất cố đô. Dọc theo hai bờ sông là những ngôi làng cổ trải dài 2km mang tên là làng Tràng An cổ cùng những thung lũng với những cái tên kì lạ như thung Gieo Lớn, thung Gieo Nhỏ, thung Nắc Nẻ,...Không chỉ thế, ta còn được ngắm nhìn những dãy núi đá dưới nắng như núi Trạng Nguyên, núi Hòn Sách. Khung cảnh hai bên bờ thật thơ mộng và yên bình, vì vậy về đây, lòng người cũng như được lắng lại sau những bon chen bộn bề nơi cuộc sống ngày thường. Mọi người được lướt đi dưới những con cầu, lắng nghe tiếng hát của cô hướng dẫn viên, cùng nhau hòa mình vào giai điệu của non nước lịch sử.

Hiện nay, Tràng An Cổ được bảo tồn và gìn giữ để vẫn mang trong mình nét cổ kính, thiêng liêng nhưng bên cạnh đó Tràng An Cổ cũng đang dần thay đổi. Những công trình khai quật và phục hồi đang được tiến hành để giúp du khách có thêm nhiều trải nghiệm hơn cũng như có được cái nhìn toàn cảnh hơn nữa về Tràng An Cổ thiêng liêng gắn bó với triều đại nhà Đinh lẫy lừng một thời.

Tràng An cổ từ lâu đã trở thành một điểm đến không thể thiếu trong hành trình tìm về với những giá trị văn hóa cổ truyền của đất nước. Bởi vậy, Tràng An cổ chính là niềm tự hào của mỗi người dân đất Ninh Bình nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung đối với bạn bè quốc tế, những người có dịp được đến và hòa cùng một nhịp với đời sống văn hóa phong phú nơi đây.

Đề 2: Giới thiệu một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) yêu thích.

I. Dàn ý

1. Mở bài

Giới thiệu về dân ca quan họ Bắc Ninh

2. Thân bài

* Nguồn gốc hình thành:

- Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng Sông Hồng.
- Hình thành từ thế kỉ XVII ở vùng Kinh Bắc xưa, nay là 2 tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang.

* Giới thiệu về dân ca quan họ Bắc Ninh:

- Là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ nhằm bày tỏ, giãi bày tâm sự

- Liền anh, liền chị dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt mà sâu lắng để bộc lộ cảm xúc trong tâm hồn mình

- Quan họ truyền thống thường được hát vào mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong năm

- Hát quan họ có ba hình thức phổ biến nhất là hát canh, hát phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể loại đều có nét đặc sắc và dấu ấn riêng.

- Trang phục:

+ Liền anh: Mặc áo dào 5 thân, áo dài bên ngoài thường màu đen

+ Liền chị: Áo mớ ba mớ bảy, áo dài ngoài thường màu nâu, tím thẫm

* Ý nghĩa:

- Quan họ là loại hình văn hóa đặc sắc lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa
- Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được UNESCO công nhận

3. Kết bài

Cảm nghĩ về quan họ Bắc Ninh: Tài sản vô giá của dân tộc, nó cần nuôi dưỡng bảo tồn, phát huy và lưu truyền cho thế hệ trẻ mai sau

II. Bài minh hoạ

Người Việt ta luôn tự hào là "Đất nước ngàn năm văn hiến" với sự giao thoa của nhiều nền văn hóa. Dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng ách thống trị của thực dân Pháp, nền văn hóa của ta đã tiếp thu những giá trị văn hóa mới nhưng vẫn giữ lại được nét tinh hoa của dân tộc, để từ đó sáng tạo nên những loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc, mang lại giá trị to lớn cho nền văn hóa Việt. Dân ca quan họ Bắc Ninh chính là một trong những loại hình nghệ thuật ấy, nó có sức lan tỏa mạnh mẽ lay động người nghe bằng những câu hát giao duyên dịu dàng mà đằm thắm ân tình xứ Bắc.

Dân ca quan họ là một làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Hồng thuộc miền Bắc nước ta, được hình thành từ rất lâu đời ở vùng Kinh Bắc xưa, chủ yếu là thuộc hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh với con sông Cầu chảy ngang. Theo các nhà nghiên cứu khoa học Quan họ có từ thế kỷ thứ XVII, được bắt nguồn từ tục kết chạ giữa bà con lối xóm.

Cái tên "Quan họ" có thể thể hiểu theo truyền thuyết có một ông quan trong lần qua xứ Kinh Bắc, vô tình nghe được và lấy làm say mê những câu hát ngọt ngào của các liền anh, liền chị, những người cùng có sở thích ca hát dòng nhạc này và người ta gọi là đó một "họ".Nhưng cách giải thích này cũng chỉ đúng ở một khía cạnh nào đó, ngoài ra còn rất nhiều cách lý giải khác liên quan đến nếp sinh hoạt văn hóa và chế độ thời bấy giờ.

Dân ca Quan họ là lối hát giao duyên giữa người nam và nữ, là hình thức trao đổi bày tỏ tâm tư, tình cảm giữa liền anh và liền chị.Họ dùng những câu hát ý nhị, giọng hát mượt mà sâu lắng để bộc lộ cảm xúc trong tâm hồn mình. Những làn điệu Quan họ truyền thống thường được hát vào mùa xuân hay mùa thu là những mùa tươi đẹp nhất trong năm, khi ấy câu hát Quan họ nhộn nhịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới, làm thổn thức biết bao trái tim người yêu nghệ thuật.

Thông thường quan họ phổ biến lối hát đối đáp giữa trai và gái, có thể cùng một làng hoặc khác làng, cái khó là ở chỗ cùng một giai điệu nhưng người hát phải tự tìm lời phù hợp để đối qua đối lại, tạo thêm phần hấp dẫn và không bị nhàm chán, ấy là điểm đặc sắc mà không phải ai cũng hát được.

Các đôi nam nữ cất lên những câu hát dạt dào cảm xúc, lắng đọng tâm tình, đó có thể là những câu hát được lấy từ lời thơ, lời ca dao trong sáng, ý nhị.Quan họ là thể loại nhạc trữ tình nên cách hát và luyến láy được trau chuốt rất kỹ càng, gồm nhiều kỹ thuật sao cho âm điệu vừa vang, rền lại vừa nền, nảy, nghe như rót mật vào tai, vô cùng ngọt ngào tình cảm, như dòng chảy mượt mà của con sông Cầu - "dòng sông Quan họ". Hát quan họ có ba hình thức phổ biến nhất là hát canh, hát phục vụ lễ hội và hát thi đấu giành giải, mỗi một thể loại đều có nét đặc sắc và dấu ấn riêng.

Trang phục cũng là một điểm nổi bật trong nghệ thuật Dân ca Quan họ, các liền anh liền chị khoác lên mình những bộ quần áo rực rỡ sắc màu tôn lên vẻ đẹp thanh lịch, quý phái của người con Kinh Bắc. Về phía nam, các liền anh khoác lên mình tấm áo dài mỏng thẫm màu, bên trong là áo trắng cùng quần lĩnh trắng, ống rộng, phẳng phiu, đầu đội khăn xếp, tay có thể cầm quạt hoặc cầm chiếc dù đen, càng tăng thêm vẻ đĩnh đạc, truyền thống đậm chất văn hóa vùng Kinh Bắc.

Trang phục liền chị cầu kỳ và tỉ mỉ hơn các liền anh rất nhiều, các chị sẽ mặc những bộ áo mớ ba mớ bảy nhiều màu sắc sặc sỡ như đỏ, vàng, xanh phối cùng với chiếc thắt lưng hoa đào, chít tóc bằng khăn mỏ quạ, đầu đội nón quai thao trắng, hoặc cầm ở tay, cho thêm phần duyên dáng, thướt tha. Những câu hát bay bổng, da diết, ngọt ngào kết hợp với trang phục đặc biệt như vậy đã làm tăng thêm vẻ đẹp cho những người hát giao duyên.

Quan họ là một loại hình văn hóa đặc sắc, vẫn còn được phát triển cho đến ngày nay, ở nó còn lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống xa xưa, nhưng đến hiện tại đã được những người tiếp nối phát triển và sáng tạo ra những cái mới để quan họ không bị lạc hậu so với thời đại.

Quan họ được xem là dòng nhạc dân ca trữ tình có nguồn giai điệu phong phú và đa dạng nhất ở Việt Nam, tính cho đến nay chúng ta còn lưu giữ được khoảng 300 bài quan họ có giai điệu khác nhau và được ghi chép thành các bản nhạc, ngoài ra còn có rất nhiều các giai điệu không được ký âm chính thức mà chỉ được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Các làn điệu quan họ truyền thống phải kể đến là: Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Tình tang,...

Hát Quan họ bao giờ cũng có ba chặng, chặng mở đầu thuộc giọng lề lối, khi hát xong khoảng mười bài giọng lề lối người hát chuyển sang giọng sống để tiếp vào chặng giữa, các bài ở chặng giữa là ở giọng vặt, chặng cuối là giọng giã bạn. Làn điệu quan họ là những tiếng hát thân tình, ngọt ngào mềm mại, người hát luôn trong trạng thái say mê, vui thú, chăm chút thổi hồn vào tình câu chữ khiến cho âm hưởng của toàn bài luôn vang vọng và thấm đẫm vào tâm hồn những người thưởng thức, khiến ta phải trầm trồ, thán phục trước sức hút của thứ dân ca truyền thống, và cũng khá kén người nghe này.

Đề 3: Giới thiệu một ngành thủ công mĩ nghệ (hoặc một đặc sản, một nét văn hoá ẩm thực) của địa phương mình.

I. Dàn ý

1. Mở bài

Giới thiệu về đối tượng thuyết minh (Cốm)

2. Thân bài

* Giới thiệu về cốm:

- Là sản phẩm làm từ lúa non có mày xanh nhạt đặc trưng.

- Cốm là đặc sản nổi tiếng ở Hà Nội (Cốm Làng Vòng)

* Cách làm cốm:

- Chọn những bông lúa nếp còn non, đó là khi lúa vừa qua giai đoạn chín sữa, những bông lúa trĩu nặng kéo thân cây ngả xuống cong như cần câu.

- Thóc dùng để làm cốm phải được tuốt bằng tay thì hạt thóc mới không bị dập, nát mà giữ được vẻ tròn mẩy.

- Khi rang cần rang dưới lửa nhỏ, đều tay. Khi chín mang đi giã

- Cốm thường được bày trên lá chuối, lá sen

- Khi mua cốm, người bán hàng sẽ gói cốm trong lá chuối, lá sen và buộc lại bằng sợi rơm của cây lúa

* Thưởng thức:

- Ăn ít một để cảm nhận vị thơm, ngọt bùi của cốm

- Khi ăn cốm có thể thưởng thức cùng trà sen hay thưởng thức thêm những trái chuối.

* Giá trị của cốm:

- Là thức quà nổi tiếng của đất Hà Thành

- Chứa đựng những nét đẹp văn hóa của con người mảnh đất thủ đô.

- Biểu tượng cho sự thanh tao, nhẹ nhàng.

3. Kết bài

Khái quát giá trị của cốm: Thức quà thơm ngon, đặc trưng cho ẩm thực phong phú của Hà Nội.

II. Bài minh hoạ

"Cuối thu rồi nghe hương cốm thoảng bay

Vương trong nắng chiều heo may trở gió

Cho tôi quay về ngày xưa thơ mộng đó

Nơi đồng làng tôi cắt cỏ chăn trâu"

(Hương cốm mùa thu - Nguyền Đình Huân)

Đọc những vần thơ về cốm, lòng tôi lại man mác nhớ về những ngày thơ ấu, khi đó hai chị em cứ mong mãi đến mùa cốm, mùa thu, để bà đi chợ mang về thức quà ngon, ấy là những hạt cốm thơm ngát hương sen, ngọt ngào cỏ nội. Đến nay dù đã rơi xa quê hương nhưng tôi vẫn nhớ như in cái vị ngon ngọt ấy, lúc có dịp về quê tôi cứ phải mua bằng được cốm mới thôi.

Mùa thu tới mang theo cơn gió heo may se se lạnh, tiếng rao của những bà bán cốm vang vọng khắp phố phường, từng hạt cốm thơm ngon, xanh lục nhạt như nhìn như ngọc được ấp ủ trong chiếc lá sen già, rồi cột lại bằng một cọng rơm vàng. Ta cảm giác như bà bán cốm đang gói cả đất trời vào trong ấy, mới nhìn đã biết ấy là mỹ vị nhân gian. 4, lấy bổ béo, mà ăn là phải biết nhâm nhi thưởng thức từ từ, nhón một nhúm cốm nho nhỏ bỏ vào miệng rồi nhai từ từ, cảm nhận được vị ngọt của nếp non đang lan tràn khoang miệng hòa cùng mùi thơm thoang thoảng của lá sen, tưởng như đang thưởng thức dòng sữa ngọt ngào từ đất mẹ thân yêu, bao nhiêu tinh hoa đất trời đều đổ dồn vào ấy.

Làm cốm nhìn tưởng đơn giản, nhưng lại yêu cầu tỉ mỉ, cẩn thận vô cùng, người đã làm lâu có kinh nghiệm thì mới có thể cho ra một mẻ cốm ngon đúng điệu được. Việc đầu tiên là phải biết chọn gặt những bông lúa nếp vào đúng thời điểm, đó là khi lúa vừa qua giai đoạn chín sữa, những bông lúa trĩu nặng kéo thân cây ngả xuống cong như cần câu. Việc chọn được lúa rất quan trọng bởi nếu lỡ gặt thóc già quá thì cốm rỡ rạc, khô sáp, ăn không thấy ngon nữa, còn nếu non quá thì lúc giã cốm bị bết dính, ta lại chẳng thu được mẻ cốm ngon. Gặt lúa về ta chọn những hạt chắc, mẩy, to rồi đem rang, tốt nhất là chọn nồi gang đáy dày và rộng, rang trên bếp củi, để lửa liu riu, dùng dũa đảo thật đều tay, cho hạt cốm vừa chín tới, phải thật cẩn thận không thì hạt cốm sẽ bị cháy giòn mất. Sau khi thóc chín đều, ta đem đi giã trong cối, nhịp chày đều tay, một tay giã tay kia đảo cho vỏ trấu tróc đều, giã xong thì đem đi xảy bỏ hết vỏ trấu, thế là đã có một mẻ cốm thơm ngon cho cả nhà thưởng thức.

Ăn cốm có nhiều kiểu, người thì bốc ăn nhâm nhi, như một thứ đồ ăn vặt cho vui miệng, trong lúc nhàn rỗi; người thì chấm với chuối tiêu, cho thêm phần thu hứng ngọt ngào. Nhà nào có các chị các mẹ siêng năng, lại thích nấu ăn thì ta có thêm món bánh cốm, chè cốm nóng hổi cho một mùa Trung thu ấm áp, viên mãn, tròn đầy. Cốm thuở xưa chỉ là thức quà quê dân dã mộc mạc của người dân làm lúa nước, nhưng ngày nay chính vì hương vị tinh tế, ngọt ngào tình thu, cốm đã trở thành một món ăn sang trọng, tao nhã. Du khách một lần ghé làng Vòng, nơi nổi tiếng làm cốm, hay một nơi nào đó ở Hà Nội mà có nghe hương cốm, kiểu gì cũng phải mua về làm quà cho họ hàng bè bạn, bởi thực sự cốm là một món quà quý, là tinh hoa của ẩm thực Việt Nam.

Tôi, một người con xa quê, rất lấy làm tự hào vì mảnh đất thủ đô mấy ngàn năm văn hiến, vùng ngoại ô lại có những thức quà tuyệt diệu như cốm ngọc gói trong lá sen xanh. Khiến tôi mỗi lần trở về là chỉ muốn ở mãi, chờ đợi từng mùa cốm thơm tho, ngọt lành, an yên.

Đề 4: Giới thiệu một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.

I. Dàn ý

1. Mở bài

Giới thiệu lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống hoặc thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại.

2. Thân bài:

Giới thiệu những đặc điểm của lễ hội theo kết cấu thời gian kết hợp với kết cấu logic.

- Trình bày thời gian tổ chức lễ hội, địa điểm, nguồn gốc lễ hội:

+ Thời gian cụ thể (thời gian ấy gắn với ý nghĩa lịch sử như thế nào).

+ Địa điểm tổ chức lễ hội.

+ Nguồn gốc,lí do tổ chức lễ hội (tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống hay thể hiện khí thế sôi nổi của thời đại).

- Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:

+ Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.

+ Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).

+ Chuẩn bị về địa điểm…

- Giới thiệu diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian. Thường lễ hội có hai phần: phần lễ và phần hội.

+ Nếu là lễ hội tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống thì bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương lễ vật, các hình thức diễn xướng dân gian, các đoàn khách thập phương.

+ Nếu là lễ hội thể hiện khí thế của thời đại: tuyên bố lí do; các đại biểu nêu ý nghĩa, cảm tượng vè lễ hội, các hoạt động biểu diễn (như đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, các trò vui chơi,…)

- Đánh giá về ý nghĩa lễ hội.

3. Kết bài:

Khẳng định lại ý nghĩa lễ hội.

II. Bài minh hoạ

Là người dân đất Việt, ai cũng biết đến câu ca:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi của ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá - đó là lễ hội Đen Hùng và giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày giỗ trọng đại của cả dân tộc, đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Người Việt Nam may mắn khi có chung một Tổ tiên đề hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày nay hàng năm, lễ hội giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên, giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống yêu nước "Uống nước nhớ nguồn", biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giừ nước.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung củạ toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vần đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng. Lễ giỗ Tố Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Từ thuở xưa đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Phú Thọ tham gia rước kiệu lỗ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới". "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch) hàng năm". Những năm hội chính thì phần lỗ gồm: Tế lễ của triều đình, sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lề thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo - hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong.

Ngày nay việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ hàng năm vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tố chức. Dù năm chẵn hay lẻ lề hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chỗ, bao gồm hai phần lễ và hội.

Phần lễ được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,... được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9. làng nào được Ban tô chức lề hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng sớm ngày mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dần đầu điều hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chinh tề đi sau kiệu lề, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên", đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh (năm chăn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá), thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo chí, phát thanh truyên hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiêp đê đông bào cả nước có thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu.

Phần hội diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đô lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn thể thể thao,... được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ. Các trò chơi văn hoá dân gian được bào lưu có chọn lọc như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa, nâu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)... Có năm còn diễn trò "Bách nghệ khôi hài", "Rước chúa gái", ‘"Rước lúa thần" và trò "Trám" tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch nói, hát quan họ,... Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Các nghệ nhân người Mường mang đến lỗ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời dóng trên đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân hạnh phúc. Nhừng làn điệu Xoan - Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng, tham đượm văn hoá vùng Trung du Đất Tổ.

Ngày này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đen Hùng. Tổ tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ của mình, giữ đúng kỷ cương, vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống, thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bâo muốn nhắc nhớ hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đă trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khẳp năm châu bốn biên từng đến thăm viếng Đen Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên núi Nghĩa Lĩnh đă làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam"

Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ 10-3 âm lịch vẫn là điểm của bổn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 10 hay, chi tiết khác:

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh

Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt

Tóm tắt văn bản thuyết minh

Hồi trống cổ thành

  •  
1 562 lượt xem
Tải về