Chương XXIX Bộ luật Tố tụng dân sự 2004: Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài
Số hiệu: | 24/2004/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 15/06/2004 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2005 |
Ngày công báo: | 16/07/2004 | Số công báo: | Từ số 25 đến số 26 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng, Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2016 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài phải được gửi đến Bộ Tư pháp Việt Nam và phải có các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người được thi hành, người đại diện hợp pháp tại Việt Nam của người đó; nếu người được thi hành án là cơ quan, tổ chức thì phải ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó;
b) Họ, tên, địa chỉ nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phải thi hành; nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức thì ghi đầy đủ tên và địa chỉ trụ sở chính của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp người phải thi hành là cá nhân không có nơi cư trú hoặc nơi làm việc tại Việt Nam, người phải thi hành là cơ quan, tổ chức không có trụ sở chính tại Việt Nam thì trong đơn yêu cầu còn phải ghi rõ địa chỉ nơi có tài sản và các loại tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam;
c) Yêu cầu của người được thi hành.
2. Đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Gửi kèm theo đơn yêu cầu là các giấy tờ, tài liệu được quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong trường hợp điều ước quốc tế không quy định hoặc không có điều ước quốc tế liên quan thì kèm theo đơn yêu cầu phải có bản sao hợp pháp quyết định của Trọng tài nước ngoài; bản sao hợp pháp thoả thuận trọng tài của các bên về việc giải quyết tranh chấp có thể hoặc đã phát sinh giữa họ với nhau theo thể thức trọng tài mà pháp luật của nước hữu quan quy định có thể giải quyết được theo thể thức đó.
Thoả thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thoả thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp.
2. Giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài thì phải được gửi kèm theo bản dịch ra tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 34 và Điều 35 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp Bộ Tư pháp đã chuyển hồ sơ cho Toà án mà sau đó lại nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho biết đang xem xét hoặc đã huỷ bỏ, đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài thì Bộ Tư pháp thông báo ngay bằng văn bản cho Toà án biết.
1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Bộ Tư pháp chuyển đến, Toà án có thẩm quyền phải thụ lý và thông báo cho cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành và Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Toà án có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đã gửi đơn yêu cầu giải thích những điểm chưa rõ trong hồ sơ.
1. Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý, tuỳ từng trường hợp mà Toà án ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đang xem xét quyết định của Trọng tài nước ngoài;
b) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành rút đơn yêu cầu hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành đã tự nguyện thi hành; cơ quan, tổ chức phải thi hành đã bị giải thể, phá sản mà quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó đã được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc cá nhân phải thi hành đã chết mà quyền, nghĩa vụ của người đó không được thừa kế;
c) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài;
d) Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp trong trường hợp không đúng thẩm quyền hoặc cơ quan, tổ chức phải thi hành không có trụ sở chính tại Việt Nam, cá nhân phải thi hành không cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc không xác định được địa điểm nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam;
đ) Mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
Trong trường hợp Toà án yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của Bộ luật này thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài thêm hai tháng.
2. Toà án phải mở phiên họp xét đơn trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp xét đơn yêu cầu. Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn mười ngày, trước ngày mở phiên họp; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp xét đơn yêu cầu.
1. Việc xét đơn yêu cầu được tiến hành tại phiên họp do một Hội đồng xét đơn yêu cầu gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh án Toà án.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp.
3. Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên họp.
Việc xét đơn yêu cầu vẫn được tiến hành, nếu người phải thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu Toà án xét đơn vắng mặt họ hoặc đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
4. Hội đồng không xét xử lại vụ tranh chấp đã được Trọng tài nước ngoài giải quyết mà chỉ kiểm tra, đối chiếu quyết định của Trọng tài nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu kèm theo với các quy định của Bộ luật này, các quy định khác của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có liên quan để ra quyết định.
5. Sau khi xem xét đơn yêu cầu, các giấy tờ, tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của người được triệu tập, của Kiểm sát viên, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số.
Hội đồng có quyền ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài hoặc quyết định không công nhận quyết định của Trọng tài nước ngoài.
1. Quyết định của Trọng tài nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trong các trường hợp sau đây:
a) Các bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thoả thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
b) Thoả thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thoả thuận đó;
c) Cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;
d) Quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp có thể tách được phần quyết định về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài nước ngoài thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thoả thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thoả thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;
e) Quyết định của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
g) Quyết định của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
2. Quyết định của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Toà án Việt Nam xét thấy:
a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;
b) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
1. Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này, đương sự, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo quyết định đó; trường hợp đương sự không có mặt tại phiên họp xét đơn yêu cầu thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được quyết định đó. Đơn kháng cáo phải nêu rõ lý do và yêu cầu kháng cáo.
Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho đương sự, người đại diện hợp pháp của họ không thể kháng cáo trong thời hạn nêu trên thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn kháng cáo.
2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị quyết định của Toà án quy định tại Điều 368 và Điều 369 của Bộ luật này.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là ba mươi ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định.
1. Toà án nhân dân tối cao xét quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ; trường hợp cần phải yêu cầu giải thích theo quy định tại khoản 2 Điều 367 của Bộ luật này thì thời hạn này được kéo dài, nhưng không quá hai tháng.
2. Thành phần Hội đồng xét quyết định bị kháng cáo, kháng nghị gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ theo sự phân công của Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Phiên họp xét lại quyết định bị kháng cáo, kháng nghị được tiến hành như phiên họp xét đơn yêu cầu quy định tại Điều 369 của Bộ luật này.
3. Hội đồng có quyền giữ nguyên, sửa một phần hoặc toàn bộ quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc xét kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp đương sự rút kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị hoặc có căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 368 của Bộ luật này.
1. Trong trường hợp nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đang xem xét việc huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài đã có quyết định thi hành tại Việt Nam thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài và gửi quyết định đó cho Toà án đã ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thể áp dụng biện pháp bảo đảm cần thiết cho việc tiếp tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, nếu có yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được thi hành.
2. Ngay sau khi nhận được thông báo bằng văn bản của Bộ Tư pháp về việc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài, Toà án Việt Nam đã ra quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài ra quyết định huỷ bỏ quyết định đó và gửi quyết định này cho cơ quan thi hành án.
Ngay sau khi nhận được quyết định của Toà án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài.
PROCEDURES FOR CONSIDERING PETITIONS FOR RECOGNITION AND ENFORCEMENT IN VIETNAM OF FOREIGN ARBITRAL AWARDS
Article 364.- Petitions for recognition and enforcement in Vietnam of foreign arbitral awards
1. Petitions for recognition and enforcement in Vietnam of foreign arbitral awards must be sent to the Vietnamese Ministry of Justice and contain the following principal details:
a) The judgment creditors’ full names and addresses of their residence places or work places or their lawful representatives in Vietnam;
If the judgment creditors are agencies or organizations, their full names and head-office addresses must be fully inscribed;
b) The judgment debtors’ full names and addresses of their residence places or work places; if the judgment debtors are agencies or organizations, their full names and head-office addresses must be inscribed; in cases where the judgment debtors being individuals have no residence places or work places in Vietnam or the judgment debtors being agencies or organizations have no head-offices in Vietnam, the petitions must be clearly inscribed with the addresses of the places where exist properties and assorted assets related to the enforcement in Vietnam of the foreign arbitral awards.
c) Requests of the judgment creditors;
2. Petitions in foreign languages must be accompanied by their Vietnamese versions lawfully notarized or authenticated.
Article 365.- Papers, documents accompanying petitions
1. Accompanied with petitions shall be papers and documents prescribed in international treaties which Vietnam has signed or acceded to. In cases where international treaties do not prescribe them or are not available, the petitions must be accompanied by valid copies of the foreign arbitral awards and valid copies of the arbitral agreement among the parties on the resolution of their disputes which may arise or have arisen through arbitration procedures, provided that the laws of relevant countries stipulate that they can be resolved through such procedures.
The arbitral agreement may be the arbitration terms provided for in the contract, or a separate agreement on arbitration, which has been concluded by the concerned parties after the disputes arise.
2. If papers and/or documents accompanying the petitions are in foreign languages, their lawfully notarized or authenticated Vietnamese versions must also be sent.
Article 366.- Transferring dossiers to courts
1. Within seven days as from the date of receiving the petitions as well as accompanying papers and documents, the Ministry of Justice shall transfer the dossiers to competent courts as stipulated in Articles 34 and 35 of this Code.
2. In cases where the Ministry of Justice has already transferred the dossiers to competent courts but later receives notices from competent foreign agencies saying that they are considering the cancellation of, or have already cancelled or suspended the foreign arbitral awards, the Ministry of Justice shall immediately notify the courts thereof in writing.
Article 367.- Receiving case files
1. Within three working days as from the date of receiving case files from the Ministry of Justice, the competent courts must accept the files and notify the judgment debtors being individuals, agencies or organizations as well as the procuracies of the same level thereof.
2. The courts are entitled to request the individuals, agencies or organizations that have filed the petitions to clarify obscure details in the petitions.
Article 368.- Preparation for considering petitions
1. Within two months as from the date of accepting petitions, the competent courts shall, on a case-by-case basis, issue one of the following decisions:
a) To suspend the consideration of petitions in case of receiving written notices from the Ministry of Justice saying that the foreign competent agencies are reviewing foreign arbitral awards;
b) To stop the consideration of petitions if the judgment creditors being individuals, agencies or organizations withdraw their petitions or the judgment debtors being individuals, agencies or organizations have voluntarily executed the judgments; the judgment debtors being agencies or organizations have been dissolved or gone bankrupt and their rights and obligations have been handled according to the provisions of Vietnamese law or the judgment debtors being individuals have died while their rights and obligations are not inherited;
c) To stop the consideration of the petitions in case of receiving written notices from the Ministry of Justice saying that foreign competent agencies have cancelled the foreign arbitral awards or stopped the enforcement thereof;
d) To stop the consideration of petitions and return the files to the Ministry of Justice in cases where such consideration does not fall within the courts’ jurisdiction, where the judgment debtors being agencies or organizations have no head-offices in Vietnam, where the judgment debtors being individuals neither reside nor work in Vietnam, or where it is impossible to identify the places where exist the assets related to the enforcement of the awards in Vietnam;
e) To open hearing sessions to consider petitions.
In cases where the courts request explanations, as provided for in Clause 2, Article 367 of this Code, the time limit for preparation for petition consideration shall be extended for two more months.
2. The courts must open hearing sessions to consider the petitions within twenty days as from the date of issuing the decisions to open such hearing sessions. The courts must forward the case files to the procuracies of the same level for study within ten days before the opening of the hearing sessions; at the end of this time limit, the procuracies must return the case files to the courts for opening hearing sessions to consider the petitions.
Article 369.- Hearing sessions for consideration of petitions
1. The consideration of a petition shall be conducted at a hearing session by a Trial Panel which is composed of three judges, one of whom shall act as the presiding judge under the assignment of the court’s chief judge.
2. Procurators of the procuracies of the same level must participate in the hearing sessions. In cases where they are absent, the hearing sessions must be postponed.
3. The hearing sessions shall be conducted in the presence of the judgment debtors or their lawful representatives; if they are absent for the first time for plausible reasons, the hearing sessions must be postponed.
The consideration of petitions shall still proceed if the judgment debtors or their lawful representatives request the courts to consider the petitions in their absence or if they have been duly summoned for the second time, but are still absent.
4. The trial panel shall not re-try the disputes which have already been dealt with by the foreign arbitrators but only check and compare the foreign arbitral awards and their accompanying papers or documents with the provisions of this Code, other provisions of Vietnamese law and relevant international treaties which Vietnam has signed or acceded to.
5. After considering the petitions and the accompanying papers or documents and hearing the opinions of the summoned persons and of the procurators, the trial panels shall deliberate the cases and make decisions by majority.
The trial panels may issue decisions to recognize and enforce the foreign arbitral awards or issue decisions not to recognize foreign arbitral awards.
Article 370.- Cases of non-recognition
1. Foreign arbitral awards shall not be recognized and enforced in Vietnam in the following cases:
a) Parties to the arbitral agreement have no capacity to sign such agreement under the law applicable to each party.
b) The arbitral agreement is legally invalid under the law of the country, which has been selected by the parties for application, or the law of the country where the awards were declared if the parties had not chosen law applicable to such agreement;
c) The judgment debtors being individuals, agencies or organizations were not promptly and properly notified of the appointment of arbitrators and of procedures for resolution of disputes at foreign arbitration organization, or could not exercise their procedural rights for plausible reasons;
d) Foreign arbitral awards are declared on disputes not requested by the parties for resolution or going beyond the request of the parties to the arbitral agreement. In cases where the awards can be separated into distinct parts on matters requested for resolution and parts on matters not requested for resolution at foreign arbitration organizations, the parts on matters requested for resolution may be recognized and permitted for enforcement in Vietnam;
e) The foreign arbitration personnel or the procedures for dispute resolution by foreign arbitrations do not comply with the arbitral agreement or with the law of the country where the foreign arbitral award is pronounced if the arbitral agreement does not prescribe such matters.
f) The foreign arbitral awards have not yet been legally binding on the parties;
g) The foreign arbitral awards have been cancelled or suspended from enforcement by competent bodies of the countries where the awards were pronounced or the countries whose laws have been applied.
2. Foreign arbitral awards shall also not be recognized and permitted for enforcement in Vietnam, if the Vietnamese courts deem that:
a) The disputes can not be resolved by arbitration under Vietnamese law;
b) The recognition and enforcement in Vietnam of the foreign arbitral awards run counter to the basic principles of Vietnamese law.
Article 371.- Forwarding court decisions
Immediately after issuing the decisions prescribed in Articles 368 and 369 of this Code, the courts shall send the decisions to the involved parties and the procuracies of the same level; if the involved parties stay abroad, such decisions shall be sent through the Ministry of Justice.
Article 372.- Appeal and protest
1. Within fifteen days as from the date the courts issue decisions prescribed in Articles 368 and 359 of this Code, the involved parties or their lawful representatives may lodge appeals against such decisions; in cases where the involved parties are not present at the hearing sessions to consider the petitions, the appeal time limit shall be counted from the date they receive such decisions. The appeals must clearly state the appeal reasons and requests.
In case of force majeure events or objective obstacles, which have rendered the involved parties or their lawful representatives unable to lodge their appeals within the above time limit, the duration in which the force majeure events or objective obstacles exist shall not be calculated into the appeal time limit.
2. The procuracies of the same level or the Supreme People’s Procuracy may protest against court decisions prescribed in Articles 368 and 369 of this Code.
The time limit for a procuracy of the same level to lodge a protest is fifteen days and that for the Supreme People’s Procuracy is thirty days, counting from the date the court issues the decision.
Article 373.- Considering appeals or protests
1. Within one month counting from the date it receives case files, the Supreme People’s Court shall review a provincial-level people’s court’s decision which is appealed or protested against. In cases where explanations are requested as stipulated in Clause 2 of Article 367 of this Code, this time limit shall be extended but must not exceed two months.
2. A panel for review of appealed or protested decisions is composed of three judges, including one presiding judge assigned by the chief judge of the appeal court of the Supreme People’s Court. The review sessions shall be conducted like the petition-considering sessions prescribed in Article 369 of this Code.
3. The Review Panels shall be entitled to uphold or partially or entirely amend decisions of the provincial-level people’s courts, to suspend or stop the review of appeals or protests in cases where the involved parties withdraw their appeals or the procuracies withdraw their protests, or where there appear the grounds prescribed at Points a, b and c of Clause 1, Article 368 of this Code.
The decisions of the Supreme People’s Court shall be the final ones and take implementation effect.
Article 374.- Annulling recognition and enforcement decisions
1. In cases where they receive written notices from the Ministry of Justice saying that foreign competent agencies are considering the cancellation or suspension of foreign arbitral awards which have been decided for enforcement in Vietnam, the heads of the civil judgment-executing agencies shall issue decisions to suspend the enforcement of the foreign arbitral awards and send such decisions to the courts which have issued the decisions to recognize and permit the enforcement in Vietnam of, foreign arbitral awards.
The heads of the civil judgment-executing agencies may apply guarantee measures necessary for the continued enforcement of the foreign arbitral awards if so requested by the judgment creditors being individuals, agencies or organizations.
2. Immediately after receiving the written notices from the Ministry of Justice saying that foreign competent agencies have annulled or suspended the enforcement of foreign arbitral awards, the Vietnamese courts which have issued decisions to recognize the foreign arbitral awards and permit their enforcement in Vietnam shall issue decisions to cancel such decisions and send them to the judgment-executing agencies.
Right after receiving the courts’ decisions, the heads of civil judgment-executing agencies shall issue decisions to stop the enforcement of the foreign arbitral awards.