Chương II Bộ luật Tố tụng dân sự 2004: Những nguyên tắc cơ bản
Số hiệu: | 24/2004/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 15/06/2004 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2005 |
Ngày công báo: | 16/07/2004 | Số công báo: | Từ số 25 đến số 26 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng, Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2016 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
Mọi hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
2. Toà án chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác.
Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Toà án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ.
Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.
1. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
2. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường hợp người tiến hành tố tụng có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
3. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.
4. Người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thì Toà án phải bồi thường cho người bị thiệt hại và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật.
Toà án xét xử tập thể vụ án dân sự và quyết định theo đa số.
1. Việc xét xử vụ án dân sự của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
2. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, người phiên dịch, người giám định không được tiến hành hoặc tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Toà án nhân dân và các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt.
Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án.
1. Toà án có trách nhiệm chuyển giao trực tiếp hoặc qua bưu điện bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp Toà án chuyển giao trực tiếp không được hoặc qua bưu điện không có kết quả thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp xã) nơi người tham gia tố tụng dân sự cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người tham gia tố tụng dân sự làm việc có trách nhiệm chuyển giao bản án, quyết định, giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Toà án liên quan đến người tham gia tố tụng dân sự khi có yêu cầu của Toà án và phải thông báo kết quả việc chuyển giao đó cho Toà án biết.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự hoặc của bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào trong hoạt động tố tụng dân sự.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản về kết quả giải quyết cho người đã khiếu nại, tố cáo biết.
Article 3.- Assurance of the socialist legislation in civil procedures
All civil procedural activities of procedure-conducting persons, civil procedure-participants, of relevant individuals, agencies and organizations must comply with the provisions of this Code.
Article 4.- Right to request courts to protect legitimate rights and interests
Individuals, agencies and organizations defined by this Code shall have the right to institute civil cases, request the resolution of civil matters at competent courts in order to protect the legitimate rights and interests of their own or of others.
Article 5.- Involved parties' right to decision-making and self-determination
1. The involved parties shall have the right to decide whether to initiate civil lawsuits, request competent courts to settle civil cases or matters. The courts shall only accept for settlement civil cases and/or matters when they receive lawsuit petitions and/or written requests from the involved parties and shall settle the cases and/or matters only within the scope of such lawsuit petitions or written requests.
2. In the course of settling civil cases and/or matters, the involved parties shall have the right to terminate or change their requests or voluntarily reach agreement with one another, which is not contrary to law and social ethics.
Article 6.- Supply of evidences and proofs in civil procedures
1. The involved parties shall have the right and obligation to supply evidences to courts and prove that their requests are well grounded and lawful.
Individuals, agencies or organizations that initiate lawsuits or file their requests to protect the legitimate rights and interests of other persons shall have the right and obligation to supply evidences and to prove like the involved parties.
2. The courts shall only verify or gather evidences in the cases prescribed by this Code.
Article 7.- Responsibility of competent individuals, agencies and organizations to supply evidences
Individuals, agencies and organizations shall, within the scope of their tasks and powers, be obliged to provide the involved parties and courts with case evidences currently being under their possession or management at the requests of the involved parties and/or courts; in cases where they cannot do so, they must notify such to the involved parties and/or courts in writing and clearly state the reasons therefore.
Article 8.- Equality in rights and obligations in civil procedures
All citizens are equal before law and courts regardless of their nationalities, sexes, social status, beliefs, religions, educational levels and occupations. All agencies and organizations are equal regardless of their forms of organization, ownership and other matters.
The involved parties are equal in rights and obligations in civil procedures; the courts have the responsibility to create conditions for them to exercise their rights and perform their obligations.
Article 9.- Ensuring the involved parties' right to defense
The involved parties shall have the right to defend by themselves or ask lawyers or other persons who satisfy the conditions prescribed by this Code to defend their legitimate rights and interests.
The courts have the responsibility to provide assurance for the involved parties to exercise their right to defense.
Article 10.- Conciliation in civil procedures
The courts have the responsibility to conduct conciliation and create favorable conditions for the involved parties to reach agreement with one another on the resolution of civil cases or matters under the provisions of this Code.
Article 11.- Participation of people's jurors in adjudication of civil cases
The adjudication of civil cases shall be participated by people's jurors as provided for by this Code. Upon trials people's jurors are equal in powers to judges.
Article 12.- Judges and people's jurors are independent in trial and only comply with law
Upon trial of civil cases, judges and people's jurors shall be independent and only comply with law.
All acts of hindering judges and people's jurors from performing their tasks are strictly prohibited.
Article 13.- Responsibilities of civil procedure-conducting agencies, and persons
1. Civil procedure-conducting agencies and persons must respect the people and submit to the people's supervision.
2. Civil procedure-conducting agencies and persons shall be held responsible before law for the performance of their tasks and powers. Where the civil procedure-conducting persons commit law violation acts, they shall, depending on the nature and seriousness of their violations, be disciplined or examined for penal liability according to law provisions.
3. Civil procedure-conducting agencies and persons must keep State secrets, work secrets as prescribed by law; preserve the nation's fine customs and practices, keep professional secrets, business secrets, personal secrets of the involved parties at their legitimate requests.
4. If civil procedure-conducting persons commit illegal acts, causing damage to individuals, agencies and/or organizations, the courts must pay damages to the victims and the civil procedure-conducting persons shall have to reimburse the courts according to law provisions.
Article 14.- Collective trial by courts
A court shall conduct the collective trial of civil cases and make decisions by majority.
1. The court trial of civil cases shall be carried out publicly, anyone can attend the trials, except for cases prescribed by this Code.
2. In special cases where it is necessary to keep the State secrets or preserve the nation's fine customs and practices, keep the professional secrets, business secrets or personal secrets of individuals at legitimate requests of the involved parties, the courts shall conduct trials behind closed doors but must publicly pronounce the judgments.
Article 16.- Ensuring impartiality of persons that conduct or participate in civil procedures
Chief judges, judges, people's jurors, court clerks, procuracy chairmen, prosecutors, interpreters and/or expert-witnesses must not conduct or participate in civil procedures if there are good reasons to believe that they may not be impartial in performing their tasks and exercising their powers.
Article 17.- Following the two-level adjudication regime
1. The courts shall follow the regime of two-level adjudication
The courts' first-instance judgments or decisions can be appealed or protested against under the provisions of this Code.
First-instance judgments or decisions which are not appealed or protested against according to appellate procedures within the time limit provided for by this Code shall become legally effective. Where first-instance judgments or decisions are appealed or protested against, the cases must undergo appellate trials. The appellate judgments or decisions shall be legally effective.
2. The courts' first-instance judgments or decisions which have already taken legal effect but have been detected with law violations or new details shall be reviewed according to the cassation or reopening procedures under the provisions of this Code.
Article 18.- Supervision of trials
Superior courts supervise the adjudication by subordinate courts, the Supreme People's Court supervises the adjudication by courts of all levels in order to ensure a strict and uniform application of law.
Article 19.- Assurance of the effect of courts' judgments, decisions
Legally effective judgments, decisions of courts must be enforced and observed by all citizens, agencies and organizations. Individuals, agencies and organizations that have the obligation to execute the courts' judgments, decisions must strictly execute them.
Within the scope of their respective tasks and powers, the People's Courts and agencies or organizations, which are assigned the tasks to enforce courts' judgments or decisions must strictly enforce them and bear responsibility before law for the performance of such tasks.
Article 20.- Spoken and written language used in civil procedures
Spoken and written language to be used in civil procedures is the Vietnamese.
Participants in civil procedures may use the voices and scripts of their ethnic groups and in this case interpreters are required.
Article 21.- Supervising the law observance in civil procedures
1. The People's Procuracies shall supervise the law observance in civil procedures and exercise the rights to request, petition or protest according to law provisions in order to ensure lawful and timely resolution of civil cases and matters.
2. The People's Procuracies shall participate in court sessions for cases with evidences collected by courts but complained about by the involved parties, for civil matters falling under the courts' jurisdiction and for civil cases and matters with courts' judgments or decisions protested against by the People's Procuracies.
Article 22.- Courts' responsibility to transfer documents and papers
1. The courts shall have the responsibility to transfer directly or via postal service their judgments, decisions, summons, invitations and other relevant documents to the participants in the civil procedures according to the provisions of this Code.
2. Where the courts cannot do so, the People's Committees of communes, wards or district townships (hereinafter called collectively commune-level People's Committees) where such persons reside or the agencies or organizations where they work shall have the responsibility to transfer the judgments, decisions, summons, invitations and other relevant papers of courts to such persons when so requested by courts and must notify the courts of the results thereof.
Article 23.- Participation of individuals, agencies, organizations in civil procedures
Individuals, agencies and organizations shall have the right and obligation to participate in civil procedures according to the provisions of this Code, and contribute to the lawful and timely resolution of the civil cases and matters at courts.
Article 24.- Assurance of the right to complaints and denunciations in civil procedures
Individuals, agencies and organizations shall have the right to complain about, individuals shall have the right to denounce, illegal acts of persons conducting the civil procedures or of any individuals, agencies or organizations in civil proceedings.
Competent agencies, organizations or individuals must accept, consider and settle promptly and lawfully complaints and denunciations; notify in writing the settlement results to the complainants and denouncers.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực