Chương VII Bộ luật Tố tụng dân sự 2004: Chứng minh và chứng cứ
Số hiệu: | 24/2004/QH11 | Loại văn bản: | Luật |
Nơi ban hành: | Quốc hội | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: | 15/06/2004 | Ngày hiệu lực: | 01/01/2005 |
Ngày công báo: | 16/07/2004 | Số công báo: | Từ số 25 đến số 26 |
Lĩnh vực: | Thủ tục Tố tụng, Quyền dân sự | Tình trạng: |
Hết hiệu lực
01/07/2016 |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Văn bản tiếng việt
Văn bản tiếng anh
1. Đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.
1. Những tình tiết, sự kiện sau đây không phải chứng minh:
a) Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Toà án thừa nhận;
b) Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật;
c) Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp.
2. Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
3. Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự.
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Toà án hoặc do Toà án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Tập quán;
8. Kết quả định giá tài sản;
9. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của các thành viên tham gia thẩm định.
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận.
8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.
1. Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Việc đương sự giao nộp chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.
3. Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp.
1. Trong trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
2. Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Trưng cầu giám định;
c) Quyết định định giá tài sản;
d) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
đ) Uỷ thác thu thập chứng cứ;
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự.
3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Toà án.
Đương sự có quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án. Khiếu nại của đương sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự và xem xét việc tham gia phiên toà.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
1. Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án, trong trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án.
2. Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của Toà án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự được lập ngoài trụ sở Toà án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.
3. Việc lấy lời khai của đương sự thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 57 của Bộ luật này phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó.
1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở Toà án hoặc ngoài trụ sở Toà án.
2. Thủ tục lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự quy định tại khoản 2 Điều 86 của Bộ luật này.
3. Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.
1. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau.
2. Việc đối chất phải được ghi thành biên bản, có chữ ký của những người tham gia đối chất.
1. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có mặt của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
2. Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có mặt, của đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định và những người khác được mời tham gia việc xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong biên bản, người xem xét, thẩm định phải yêu cầu đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định ký tên và đóng dấu xác nhận.
1. Theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
2. Người giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định phải tiến hành giám định theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại. Việc giám định lại có thể do người đã tiến hành giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực hiện theo quy định của pháp luật.
1. Trong trường hợp chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì người đưa ra chứng cứ đó có quyền rút lại; nếu không rút lại, người tố cáo có quyền yêu cầu Toà án trưng cầu giám định theo quy định tại Điều 90 của Bộ luật này.
2. Trường hợp việc giả mạo chứng cứ có dấu hiệu tội phạm thì Toà án chuyển cho Cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền.
3. Người đưa ra chứng cứ giả mạo phải bồi thường thiệt hại nếu việc giả mạo chứng cứ đó gây thiệt hại cho người khác.
1. Toà án ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự;
b) Các bên thoả thuận theo mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí.
2. Hội đồng định giá do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ tịch Hội đồng và các thành viên là đại diện cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt đầy đủ các thành viên của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá. Các đương sự được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội đồng định giá.
3. Cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm vụ. Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia đầy đủ vào việc định giá.
4. Việc định giá phải được ghi thành biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của từng thành viên, của đương sự nếu họ tham dự. Quyết định của Hội đồng định giá phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Các thành viên Hội đồng định giá, đương sự, người chứng kiến ký tên vào biên bản.
1. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có thể ra quyết định uỷ thác để Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4 Điều này lấy lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các tình tiết của vụ việc dân sự.
2. Trong quyết định uỷ thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, quan hệ tranh chấp và những công việc cụ thể uỷ thác để thu thập chứng cứ.
3. Toà án nhận được quyết định uỷ thác có trách nhiệm thực hiện công việc cụ thể được uỷ thác trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Toà án đã ra quyết định uỷ thác; trường hợp không thực hiện được việc uỷ thác thì phải thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do của việc không thực hiện được việc uỷ thác cho Toà án đã ra quyết định uỷ thác.
4. Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì Toà án làm thủ tục uỷ thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài mà nước đó và Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam gia nhập điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này.
1. Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập đó.
2. Toà án có thể trực tiếp hoặc bằng văn bản yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1. Chứng cứ đã được giao nộp tại Toà án thì việc bảo quản chứng cứ đó do Toà án chịu trách nhiệm.
2. Chứng cứ không thể giao nộp được tại Toà án thì người đang lưu giữ chứng cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
3. Trong trường hợp cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản chứng cứ đó.
1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Toà án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý của từng chứng cứ.
1. Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai như nhau, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Toà án không công bố công khai chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự.
3. Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật những chứng cứ thuộc trường hợp không công bố công khai quy định tại khoản 2 Điều này.
1. Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Toà án quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Toà án có thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các biện pháp khác.
2. Trong trường hợp người làm chứng bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Toà án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự.
Article 79.- Obligations to prove
1. The involved parties requesting courts to protect their legitimate rights and interests must introduce evidences to prove that such requests are well-grounded and lawful.
2. The involved parties that protest against other persons' claims against them must prove that such protests are well-grounded and must provide evidence to prove.
3. Individuals, agencies or organizations that initiate lawsuit to protect public interests, the State’s interests, or request courts to protect others' legitimate rights and interests must introduce evidences to prove that their lawsuits or requests are well-grounded and lawful.
4. The involved parties that are obliged to introduce evidences to prove but fail to introduce evidences or fail to introduce adequate evidences shall have to bear the consequences of such failure to prove or inadequate evidences.
Article 80.- Details and facts that are not required to be proved
1. The following details and facts are not required to be proved:
a) Details and facts that are clear and come to everyone's knowledge and are accepted by courts;
b) Details and facts that have been identified in the court judgments or decisions which are legally effective or in decisions of competent State bodies which have come into force;
c) Details and facts that have been recorded in documents and have been duly notarized or authenticated.
2. If either involved party acknowledges or does not protest against the details or facts given by the other involved party, the latter must not prove them.
3. If an involved party has a representative to participate in the procedures, that representative's acknowledgement is regarded as the acknowledgement of such involved party.
Evidences in civil cases or matters are factual things which are handed to courts by involved parties, individuals, agencies or organizations or gathered by courts according to the order and procedures prescribed by this Code and are used by Courts as bases to determine whether the involved parties' claims or protests are well grounded and lawful or not as well as to determine other details necessary for the proper resolution of civil cases or matters.
Article 82.- Sources of evidence
Evidences are gathered from the following sources:
1. Readable, audible or visible materials;
2. Exhibits;
3. Involved parties' testimonies;
4. Witnesses' testimonies;
5. Expertising conclusions;
6. On-site appraisal minutes;
7. Practices;
8. Property evaluation results;
9. Other sources prescribed by law.
Article 83.- Identifying evidences
1. Contents-readable materials shall be regarded as evidences if they are originals or copies lawfully notarized or authenticated or supplied and certified by competent agencies or organizations.
2. Audible, visible materials shall be regarded as evidences if they are presented together with documents certifying the origins of those materials or documents related to such audio and/or video recording.
3. Exhibits to be regarded as evidences must be the original and related to the cases or matters.
4. Involved parties' testimonies, witnesses' testimonies shall be regarded as evidences if they are recorded in writing or in audio-tapes, audio-discs, or video-tapes or discs as provided for in Clause 2 of this Article, or are given orally at court sessions.
5. Expertising conclusions shall be regarded as evidences if the expertise is conducted in accordance with the procedures prescribed by law.
6. On-site appraisal minutes shall be regarded as evidences if the appraisal is conducted in accordance with the procedures prescribed by law and they are signed by the members who participate in the appraisal.
7. Practices shall be regarded as evidences if they are recognized by the local community where such practices exist.
8. Property valuation results shall be regarded as evidences if the valuation is carried out in accordance with the procedures prescribed by law or the documents provided by pricing experts comply with the provisions in Clause 1 of this Article.
Article 84.- Hand-over of evidences
1. During the process of resolving civil cases or matters by courts, the involved parties shall have the rights and obligations to hand over evidences to the courts; if they fail to hand over the evidences or do not hand over all evidences, they must bear the consequences thereof, except otherwise provided for by law.
2. The hand-over of evidences to courts by involved parties must be recorded in the minutes of evidence hand-over and receipt. The minutes must clearly state the appellations, forms, contents, characteristics of the evidences; the number of copies, the number of pages and time of reception; the signatures or finger prints of the deliverers, the signatures of the recipients and seals of the courts. The minutes must be made in two copies, one shall be incorporated in the case files and the other shall be handed to the involved parties handing over the evidences.
3. The evidences submitted in ethnic minority languages or foreign languages to courts by the involved parties must be enclosed with their Vietnamese translations lawfully notarized or authenticated.
Article 85.- Collecting evidences
1. If it is deemed that the evidences included in the files of civil cases or matters have not constituted sufficient grounds for the resolution thereof, the judges shall request the involved parties to deliver additional evidences.
2. Where the involved parties can not collect the evidences by themselves and make requests therefor, the judges may apply one or several of the following measures to collect the evidences:
a) Taking testimonies of the involved parties, witnesses;
b) Calling expertises;
c) Deciding to valuate the properties;
d) Making on-site inspection, appraisal;
e) Authorizing the collection of evidences;
f) Requesting individuals, agencies or organizations to supply readable, audible and/or visible materials, or other exhibits related to the resolution of civil cases or matters.
3. When applying the measures specified at Points b, c, d, e, and f, Clause 2 of this Article, the judges must issue decisions clearly stating the reasons for the application and the request of the courts.
The involved parties are entitled to complain about courts' decisions to apply evidence-gathering measures of courts. Their complaints must be addressed immediately to the procuracies. The procuracies are entitled to request the courts to verify, gather evidences on the basis of the involved parties' complaints, and consider the participation in court sessions.
In case of necessity, the procuracies may request the involved parties, individuals, agencies and/or organizations to supply dossiers, documents and/or exhibits in order to ensure the exercise of right to appeal, cassation or reopening procedures.
Article 86.- Taking testimonies of involved parties
1. Judges shall take the testimonies of involved parties only when the latter have not yet made the written testimonies or the contents of their written testimonies are insufficient and/or unclear. The involved parties must write the testimonies themselves and sign their names thereon. Where the involved parties cannot write the testimonies by themselves, the judges shall take their testimonies. The taking of involved parties' testimonies shall only focus on details declared inadequately and/or unclearly by the involved parties. The judges themselves or the court clerks shall record the involved parties' testimonies in the minutes. Judges shall take testimonies of the involved parties at the court offices or outside the court offices in case of necessity.
2. The minutes recording involved parties' testimonies must be read or heard and signed or fingerprinted by such involved parties. The involved parties may request amendments and/or supplements to be inscribed in the testimony-recording minutes and sign or fingerprint for certification. The minutes must be signed by the persons who take the testimonies, the minutes recorders and affixed with court's seals. If the minutes are made in loose pages, each page must be signed and affixed with seal in both margins. In cases where the minutes of taking the involved parties' testimonies are made outside the court offices, the testimony taking must be certified by witnesses or by the People's Committees or police offices of communes, wards or district, township or by agencies or organizations where the minutes are made.
3. The taking of involved parties' testimonies in one of the cases prescribed in Clauses 4 and 5, Article 57 of this Code must be carried out in the presence of the lawful representatives of such involved parties.
Article 87.- Taking testimonies of witnesses
1. At the involved parties' requests or when it is deemed necessary, judges may take testimonies of witnesses at court offices or outside court offices.
2. The procedures for taking witnesses' testimonies shall be the same as those for taking the involved parties' testimonies provided for in Clause 2, Article 86 of this Code.
3. The taking of testimonies of witnesses aged not full 18 years, or of persons with restricted civil act capacity must be carried out in the presence of their representatives at law or guardians.
1. At the involved parties' requests or when contradictions are deemed to have existed in the testimonies of the involved parties or witnesses, judges may conduct confrontations among the involved parties, between the involved parties and the witnesses or among the witnesses.
2. Confrontations must be recorded in minutes which must be signed by the participants in such confrontations.
Article 89.- On-site inspection, appraisal
1. On-site inspections, appraisals must be carried out by judges in the presence of representatives of the commune-level People's Committees, or agencies, organizations where exist objects which need to be inspected, appraised, and the on-site inspections, appraisals must be notified in advance so that the relevant involved parties know and witness such inspections, appraisals.
2. On-site inspections, appraisals must be recorded in minutes. The on-site inspection, (or) appraisal minutes must clearly state the inspection, appraisal results, clearly describe the sites, contain the signatures of the persons that conduct the inspections, appraisals and the signatures or fingerprints of the involved parties if they are present, the representatives of the commune-level People's Committees or agencies, organizations where exist the to be-inspected-appraised objects and others that are invited to participate in the inspections, appraisals. After completing the on-site inspections, appraisals minutes, the persons that conduct the inspections, appraisals must request the representatives of the commune-level People's Committees, agencies or organizations where exist the objects which need to be inspected, appraised to sign and seal for certification.
Article 90.- Requesting expertises
1. Upon the option agreement of the involved parties, or at the request of one or more of the involved parties, judges may issue decisions calling for expertises. The decisions requesting expertises must clearly state the names and addresses of the expert-witnesses, the objects of expertise, matters that need to be expertised and specific requirements requiring the expert-witnesses' conclusions.
2. The expert-witnesses that receive decisions requesting the expertises must carry out the expertises according to law provisions.
3. Where they deem that the expertising conclusions are inadequate, unclear or violate law, at the request of one or more involved parties, the judges may issue decisions calling additional expertises or re-expertises. The re-expertises may be conducted by the persons that have conducted the preceding expertises or by other professional agencies as provided for by law.
Article 91.- Requesting expertise of evidences denounced to be forgery
1. Where evidences are denounced to be forgery, the suppliers of such evidences may withdraw them. If not, the denouncers may request the courts to solicit expertises as provided for in Article 90 of this Code.
2. Where the evidence forgery shows criminal signs, the courts shall transfer them to the competent criminal investigation bodies.
3. The suppliers of forged evidences must compensate for damage if the forgery of evidences causes damage to others.
Article 92.- Property valuation
1. The courts shall issue decisions to valuate disputed properties in the following cases:
a) It is so requested by one or all of the involved parties;
b) The parties agree on low prices for the purposes of evading taxes or reducing payable court fees.
2. The Pricing Council set up under a court decision is composed of its chairman and members being representatives of the finance bodies and other relevant professional agencies. The Pricing Council shall carry out the valuation only when all-their members are present. When necessary, representatives of the commune-level People's Committees of the localities where the properties subject to valuation is located shall be invited to witness the valuation. The involved parties shall be notified in advance of the time and venue of the evaluation and have the right to attend and contribute comments on the evaluation. The right to decide on the prices of the valuated properties shall rest on the Pricing Councils.
3. The finance agencies and other relevant professional agencies shall be responsible for sending their officials to join the Pricing Councils and create conditions for them to perform their tasks. Persons appointed to be members of the Pricing Council must take part fully in the valuation.
4. The valuation must be recorded in minutes, stating clearly the opinions of each member, of the involved parties if they attend. A decision of the Pricing Council must be voted for by more than half of its members. The Pricing Council members, the involved parties, the witnesses must sign the minutes.
Article 93.- Entrusting the collection of evidences
1. In the course of resolving civil cases or matters, a court may issue a decision to entrust another court or competent agencies defined in Clause 4 of this Article to take the testimonies of involved parties, and/or witnesses, to conduct on-site appraisals or property valuations or other measures to gather evidences and to verify details of the civil cases or matters.
2. The entrustment decisions must clearly state the names and addresses of the plaintiffs and the defendants, the disputed relationship and specific entrusted jobs to collect of evidences.
3. The court that receives the entrustment decision shall have the responsibility to perform the specific assignments within thirty days after receiving the entrustment decision and notify in writing the results to the court that has issued the entrustment decision. In cases where it cannot realize the specific assignments, it must send a written notification of such failure stating clearly the reasons therefor to the court that has issued the entrustment decision.
4. Where the gathering of evidences must be conducted outside the Vietnamese territory, the courts shall carry out the entrustment procedures through competent Vietnamese agencies or civil procedure-conducting agencies of the foreign country(ies) that has (have) signed judicial assistance agreement(s) with Vietnam or together with Vietnam has (have) acceded to an international treaty on this matter.
Article 94.- Requesting individuals, agencies and/or organizations to supply evidences
1. Where the involved parties that have applied necessary measures to gather evidences still fail to gather by themselves, they may request the courts to collect evidences in order to ensure the proper resolution of civil cases and/or matters.
The involved parties that request the courts to gather evidences shall make their written applications clearly stating the point(s) to be proved, the evidence to be gathered, the reasons why they can not gather the evidences by themselves; full names and addresses of the individuals, agencies or organizations that are managing or keeping the evidences which need to be collected.
2. The court may request directly or in writing individuals, agencies or organizations that are managing a keeping the evidences to supply them. The individuals, agencies or organizations that are managing or keeping such evidences shall have the responsibility to supply the evidences fully and in time as requested by the courts within fifteen days as from the date of receiving the requests.
Article 95.- Preserving evidences
1. If evidences have been handed over at courts, the preservation of such evidences shall rest with the courts;
2. If evidences cannot be handed over at courts, the preservation of such evidences shall rest with the evidence keepers;
3. Where it is necessary to hand over evidences to the third persons for preservation, judges shall issue decisions and make minutes of the hand-over to those persons for preservation. The persons undertaking the preservation must sign the minutes, be entitled to remuneration and bear the responsibility for preserving such evidences.
Article 96.- Assessing evidences
1. The assessment of evidences must be objective, comprehensive, adequate and accurate.
2. Courts must assess evidences one by one, the link between evidences and determine the legality of every evidence.
Article 97.- Disclosing and using evidences
1. Every evidence shall be publicly and equally disclosed and used, except for cases specified in Clause 2 of this Article.
2. Courts shall not publicize evidences related to State secrets, fine customs and practices of the nation, professional secrets, business secrets or secrets of individuals' private lives at the legitimate requests of the involved parties.
3. Procedure-conducting persons and procedure participants must keep secret, as provided for by law, evidences classified for non-disclosure as prescribed in Clause 2 of this Article.
Article 98.- Protecting evidences
1. Where evidences are being destroyed or are in danger of being destroyed or is hard to be gathered in the future, the involved parties may file their applications requesting the courts to decide on the application of necessary measures to preserve evidence. The courts may decide to apply one or several of the measures including sealing, keeping, photographing, audio-recording, video-recording, restoration, examination, minutes making and other measures.
2. Where witnesses are threatened, controlled or bought off for the purpose of not supplying evidences or supplying untruthful evidences, the courts shall have the right to issue decisions to force the persons who have committed acts of threatening, controlling or buying off the witnesses to terminate their acts. Where the threatening controlling or buying-off acts show criminal signs, the courts shall request procuracies to examine the penal liability.
Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực