TOP 12 mẫu Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (SIÊU HAY)

Viết đoạn văn về mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa gồm 12 đoạn văn mẫu hay nhất được tuyển chọn từ các đoạn văn hay của học sinh lớp 10 trên cả nước. Mời các bạn đón xem:

1 2112 lượt xem
Tải về


Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) về một trong hai vấn đề sau:

- Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa thể hiện trong đoạn (1) của văn bản.

- Tinh thần độc lập, ý thức về chủ quyền dân tộc được thể hiện trong Bình Ngô đại cáo.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 1)

Bình Ngô đại cáo là một áng hùng văn thể hiện ý chí, tinh thần độc lập và ý thức về chủ quyền dân tộc. Trong văn bản, Nguyễn Trãi đã khẳng định chắc nịch Đại Việt là một nước độc lập, một dân tộc độc lập, là một nước có văn hiến, có đường biên giới rõ ràng với phương bắc. Không những thế, Đại Việt và các triều đại phong kiến phương bắc mỗi bên xưng đế một phương. Tuy nhiên, nhà Minh đã đi trái với ý trời, lòng người, nhân lúc nhà Hồ đang rối ren mà thừa cơ gây họa để cướp nước ta. Với ý chí quật cường, Lê Lợi đã cùng nghĩa quân khởi nghĩa, dù phải chịu trăm ngàn gian khó, phải nằm gai nếm mật, ngủ rừng, chịu đói chịu lạnh cũng không cam chịu làm nô lệ, không khuất phục trước sức mạnh quân thù. Với ý chí đó, sức mạnh đó, nghĩa quân đã giành được thắng lợi toàn diện, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi đất nước.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 2)

Trong đoạn một của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" (Nguyễn Trãi), ta dễ dàng thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa. Theo học thuyết Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Kế thừa tư tưởng nhân văn, tốt đẹp ấy, Nguyễn Trãi đã khẳng định "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.". Như vậy, tấm lòng yêu thương, coi trọng nhân dân được tác giả hết sức đề cao. Điều cốt yếu trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là phải để nhân dân có cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Vì thế, việc quân thần xót thương dân chúng mà trừ bạo là hoàn toàn đúng đắn. Những câu thơ tiếp theo không chỉ là lời tuyên bố chắc nịch về chủ quyền quốc gia mà còn tô đậm tư tưởng nhân nghĩa. Từ ngàn đời nay, các triều đại lịch sử đã giữ vững độc lập dân tộc, truyền thống văn hóa, bảo vệ cuộc sống của người dân. Có thể nói, qua đoạn một bài "Bình Ngô đại cáo", em thấy được một tư tưởng tiến bộ, phù hợp với thời đại của Nguyễn Trãi.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 3)

Trong đoạn một "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa hết sức tiến bộ, tích cực của mình. Tư tưởng ấy gắn bó chặt chẽ với luận đề chính nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.". Từ nguồn gốc học thuyết về "nhân nghĩa" trong quan niệm Nho giáo, Nguyễn Trãi đã phát triển cụ thể tư tưởng của bản thân để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Theo ông, tư tưởng nhân nghĩa chính là việc yêu thương, quý trọng dân chúng, coi họ là gốc. Khi đời sống nhân dân bị đe dọa thì vua quân phải đứng lên trừ gian diệt bạo. Để chứng minh quan điểm này, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng thuyết phục về chủ quyền, độc lập dân tộc trong suốt chặng đường dài lịch sử. Như vậy, đoạn một của "Bình Ngô đại cáo" đã giúp em hiểu hơn về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 4)

Đến với đoạn một "Bình Ngô đại cáo", ta có thể thấy được tư tưởng nhân nghĩa - tư tưởng phù hợp với thời đại của Nguyễn Trãi. Ở ngay phần đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.". Theo tác giả, yêu thương, quý trọng nhân dân chính là nhân nghĩa. Vì thế, điều cốt yếu, quan trọng là phải làm cho cuộc sống người dân luôn yên bình, tốt đẹp. Để thực hiện được điều đó thì vua quân phải biết "trước lo trừ bạo". Nhằm khẳng định vấn đề này, Nguyễn Trãi đã mạnh mẽ tuyên bố về nền độc lập dân tộc, phong tục tập quán của cha ông bao đời nay. Đứng trước vô vàn cuộc chiến, các triều đại vẫn giữ vững bờ cõi nước nhà. Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với luận đề chính nghĩa trong đoạn một của bài cáo.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 5)

"Bình Ngô đại cáo" là áng "thiên cổ hùng văn" của dân tộc ta. Trong đoạn một bài cáo, Nguyễn Trãi đã bày tỏ quan niệm của bản thân về tư tưởng nhân nghĩa. Trước hết, tư tưởng này được thể hiện chân thực qua luận đề chính nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.". Kế thừa học thuyết Nho giáo, Nguyễn Trãi tiếp tục phát triển tư tưởng nhân nghĩa lên một tầng cao hơn. Với ông, nhân nghĩa gắn liền với việc thương yêu, đề cao nhân dân, lấy dân làm gốc. Từ đó, làm cho cuộc sống của họ trở nên ấm no, yên bình "yên dân". Đồng thời, phải biết vì dân mà đứng lên diệt bạo. Tư tưởng tích cực này tiếp tục được củng cố thông qua việc tác giả khẳng định chủ quyền, độc lập quốc gia trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Có thể thấy, Nguyễn Trãi quả là người sáng suốt, thấu hiểu thế sự. Tư tưởng cùng luận đề chính nghĩa của ông sẽ mãi tỏa sáng theo dòng chảy thời gian.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 6)

Trong đoạn một của áng "thiên cổ hùng văn" "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi đã đề cập tới mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa. Trước hết, xuất phát từ học thuyết trong Nho giáo, ông tiếp tục phát triển tư tưởng nhân nghĩa. Theo ông, nhân nghĩa chính là coi trọng, thương yêu quần chúng nhân dân. Nhân nghĩa phải gắn với xây dựng, bảo vệ cuộc sống bình yên của dân chúng. Vì thế, việc quân thần thương xót dân mà đứng lên dẹp ác bạo, hung tàn là cần thiết và đúng đắn hơn bao giờ hết. Giống như cha ông ngàn đời nay, họ đã kiên cường bảo vệ độc lập, chủ quyền cùng truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Có thể thấy, luận đề chính nghĩa "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo." đã góp phần bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân nghĩa tiến bộ ở Nguyễn Trãi.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 7)

Ý thức về độc lập, chủ quyền dân tộc được Nguyễn Trãi thể hiện rất rõ trong văn bản “Bình Ngô đại cáo”. Trước hết, Nguyễn Trãi xác định tư cách độc lập của dân tộc bằng một loạt những dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục: nước ta có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc, có chiều dài lịch sử với các triều đại sánh ngang với các triều đại của phương Bắc, có anh hùng hào kiệt ở khắp nơi trên đất nước. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn phân định rất rõ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc khởi nghĩa chính nghĩa, tất sẽ thắng lợi, vì đã đứng lên để giành lại chủ quyền của dân tộc, còn kẻ thù chắc chắn sẽ thất bại vì đã xâm phạm lên chủ quyền của đất nước khác.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 8)

Đối với Nguyễn Trãi yêu nước gắn liền với đánh giặc để cứu nước cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lí tưởng xã hội tiến bộ, tích cực, nhân quyền dân tộc: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất.Dựa vào nhân nghĩa và chính tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà nó đã trở thành sức mạnh vô địch để nghĩa quân của ta chiến thắng giặc Minh. Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc – Nam khác biệt. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước ta. So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Nam quốc sơn hà” thì học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt mới chỉ ra độc lập dân tộc trên lĩnh vực cương vực lãnh thổ và căn cứ mà Lí Thường Kiệt xác định tại sách trời ở trong câu “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, nhưng đối với Nguyễn Trãi, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng, hào kiệt, ông lấy thực tiễn lịch sử là căn cứ xác định độc lập dân tộc chứ không ở “thiên thư” – sách trời. Sâu sắc ở chỗ : trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được “văn hiến”, truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách toàn diện hơn, tiến bộ hơn quan niệm về quốc gia dân tộc. Tất cả các yếu tố đó tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Kẻ nào đến xâm lược nước ta chắc chắn sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 9)

Những câu chữ oai hùng mở đầu “Bình Ngô đại cáo” tuyên bố rằng Đại Việt là một quốc gia có chủ quyền với biên giới, bờ cõi được phân định rõ ràng, có lịch sử hào hùng trải dài “bao đời xây nền độc lập”, với nền văn hiến phát triển rực rỡ, người dân có đời sống tinh thần, phong tục, tập quán phong phú và đa dạng. Nhà nước Đại Việt đã sừng sững tồn tại và phát triển sánh ngang với các triều đại Trung Hoa, “mỗi bên xưng đế một phương”, khẳng định quyền độc lập, tự do là của mọi dân tộc chứ không riêng bất cứ quốc gia nào.  “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố về chiến thắng oai hùng, Nhà nước Đại Việt đã được khôi phục lại. “Bình Ngô đại cáo” trở thành khúc tráng ca của lịch sử, là dấu mốc của kỷ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do của dân tộc.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 10)

Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta. Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thuơng dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”. Đoạn đầu của ”Bình Ngô đại cáo” đã cho chúng ta thấy được luận đề nhân nghĩa - tư tưởng mà Nguyễn Trãi theo đuổi cả đời. Nó cũng chứng minh được tài năng thơ ca chính luận của ông - một danh nhân văn hoá thế giới. Đoạn thơ cũng mang lại nguồn cảm hứng bất tận về độc lập, chủ quyền dân tộc tới các thế hệ sau.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 11)

Bình Ngô đại cáo là một áng hùng văn thể hiện ý chí, tinh thần độc lập và ý thức về chủ quyền dân tộc. Trong văn bản, Nguyễn Trãi đã khẳng định chắc nịch Đại Việt là một nước độc lập, một dân tộc độc lập, là một nước có văn hiến, có đường biên giới rõ ràng với phương bắc. Không những thế, Đại Việt và các triều đại phong kiến phương bắc mỗi bên xưng đế một phương. Tuy nhiên, nhà Minh đã đi trái với ý trời, lòng người, nhân lúc nhà Hồ đang rối ren mà thừa cơ gây họa để cướp nước ta. Với ý chí quật cường, Lê Lợi đã cùng nghĩa quân khởi nghĩa, dù phải chịu trăm ngàn gian khó, phải nằm gai nếm mật, ngủ rừng, chịu đói chịu lạnh cũng không cam chịu làm nô lệ, không khuất phục trước sức mạnh quân thù. Với ý chí đó, sức mạnh đó, nghĩa quân đã dành được thắng lợi toàn diện, quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi đât nước.

Mối quan hệ giữa tư tưởng nhân nghĩa và luận đề chính nghĩa (mẫu 12)

Ý thức về độc lập, chủ quyền dân tộc được Nguyễn Trãi thể hiện rất rõ trong văn bản “Bình Ngô đại cáo”. Trước hết, Nguyễn Trãi xác định tư cách độc lập của dân tộc bằng một loạt những dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục: nước ta có nền văn hiến lâu đời, có cương vực lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc, có chiều dài lịch sử với các triều đại sánh ngang với các triều đại của phương Bắc, có anh hùng hào kiệt ở khắp nơi trên đất nước. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn phân định rất rõ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc khởi nghĩa chính nghĩa, tất sẽ thắng lợi, vì đã đứng lên để giành lại chủ quyền của dân tộc, còn kẻ thù chắc chắn sẽ thất bại vì đã xâm phạm đến chủ quyền của đất nước khác.

1 2112 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: