TOP 10 mẫu Bài thu hoạch cảm tình Đảng (mới nhất 2024)

Bài thu hoạch cảm tình Đảng là một dạng bài tập mà các Đảng viên cần phải thực hiện, hoàn thành sau khi tham gia chương trình học Cảm tình Đảng. Bài thu hoạch sẽ thể hiện sự hiểu biết của mỗi cá nhân về Đảng Cộng sản Việt Nam và liên hệ thực tiễn với bản thân.

1 4626 lượt xem
Tải về


Bài thu hoạch cảm tình Đảng (mới nhất 2024)

TOP 10 mẫu Bài thu hoạch cảm tình Đảng (mới nhất 2024) (ảnh 1)

1. Thế nào là bài thu hoạch cảm tình Đảng?

Bài thu hoạch cảm tình Đảng là một dạng bài tập mà các Đảng viên cần phải thực hiện, hoàn thành sau khi tham gia chương trình học Cảm tình Đảng. Bài thu hoạch sẽ thể hiện sự hiểu biết của mỗi cá nhân về Đảng Cộng sản Việt Nam và liên hệ thực tiễn với bản thân.

Bên cạnh đó, bài thu hoạch cảm tình Đảng cũng là căn cứ để xác định được mức độ nhận thức của cá nhân về Đảng cộng sản Việt Nam.

2. Điều kiện để được học lớp cảm tình Đảng

Để tham gia khóa học cảm tình Đảng, để được kết nạp vào hàng ngũ Đảng, chủ thể cần đáp ứng một số tiêu chí nhất định. Trước hết, họ phải là đoàn viên, điều này là một điều kiện tiên quyết để trở thành Đảng viên. Chủ thể cần có những phẩm chất cần thiết của một Đảng viên, luôn nỗ lực trong việc học tập, lao động và sản xuất. Họ phải tuân thủ chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, không vi phạm pháp luật. Chủ thể cần có lối sống lành mạnh, hòa hợp với mọi người, giúp đỡ và hỗ trợ đồng bào, biết chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn. Họ cần xứng đáng được mọi người tin tưởng và là một tấm gương sáng trong cơ quan, tổ chức hoặc địa phương. Chủ thể phải lập trường trung thành với Đảng và Nhà nước, có mong muốn gia nhập hàng ngũ Đảng, và sẵn lòng phấn đấu vì lý tưởng của Đảng. Cuối cùng, chủ thể cần tự nguyện chấp nhận cương lĩnh của Đảng và Điều lệ Đảng.

Ngoài ra, cũng có các quy định về độ tuổi để tham gia khóa học cảm tình Đảng. Quy định 29-QĐ/TW về việc thi hành Điều lệ Đảng quy định rằng người xin vào Đảng phải đủ từ mười tám tuổi đến sáu mươi tuổi tại thời điểm xét kết nạp Đảng. Nếu người đủ sáu mươi tuổi trở lên muốn được kết nạp Đảng, quyết định đó phải được xem xét và quyết định bởi cấp ủy trung ương. Do đó, để tham gia khóa học cảm tình Đảng, chủ thể cần đủ độ tuổi cho phép. Khóa học cảm tình Đảng nhằm giúp chủ thể hiểu rõ hơn về tổ chức Đảng và làm căn cứ cho việc cấp Giấy chứng nhận học lớp nhận thức về Đảng, một giấy tờ bắt buộc trong quy trình kết nạp Đảng.

Ngoài tiêu chuẩn độ tuổi, để tham gia khóa học cảm tình Đảng, chủ thể cần đáp ứng yêu cầu về trình độ học vấn. Tối thiểu, người muốn tham gia khóa học phải tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc có bằng tốt nghiệp tương đương. Tuy nhiên, trong trường hợp chủ thể sống và làm việc tại các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn hoặc là đồng bào dân tộc thiểu số, và do nhu cầu phát triển Đảng mà không thể đáp ứng các yêu cầu chung, các hướng dẫn của Ban Bí thư sẽ được áp dụng.

Đối với sinh viên đang theo học chương trình đại học chính quy, yêu cầu là đã hoàn thành ít nhất bốn học kỳ (tức là hai năm học), trong đó hai kỳ phải đạt điểm trung bình chung học tập từ 0,7 trở lên, và các kỳ còn lại phải đạt điểm trung bình từ 0,6 trở lên. Nếu sinh viên đó đến từ các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn như vùng biên giới, vùng hải đảo, vùng sâu, vùng xa và có cư trú tại địa phương từ ba năm trở lên, chỉ cần đạt điểm trung bình chung học tập từ 0,7 trong một kỳ học, và các kỳ khác phải đạt điểm trung bình từ 0,6 trở lên, sẽ đủ điều kiện tham gia khóa học cảm tình Đảng. Ngoài điểm học tập, cũng sẽ xem xét điểm rèn luyện của sinh viên muốn gia nhập Đảng, yêu cầu là điểm rèn luyện trong quá trình học tập phải từ 70 điểm trở lên.

3. Điều kiện để trở thành một Đảng viên

Để có thể trở thành một Đảng viên ưu tú, công dân cần lưu ý đảm bảo được các điều kiện sau đây:

Thứ nhất bạn cần phải là công dân Việt Nam đủ từ 18 tuổi trở lên. Công dân Việt Nam dưới góc độ pháp lý là những người có quốc tịch Việt Nam. Đảng sẽ chỉ kết nạp những công dân Việt nam đủ 18 tuổi trở lên (tính theo tháng) vì với độ tuổi này, công dân mới thực sự trưởng thành về mặt nhận thức, hành vi của mình, có trách nhiệm với mọi hành động của chính bản thân. Như vậy mới có thể đảm bảo được việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của một Đảng viên. Bên cạnh đó, Điều lệ Đảng cũng không quy định về độ tuổi tối đa của người vào Đảng chỉ cần họ có thể đáp ứng được hai điều kiện trên và có mong muốn được kết nạp Đảng. Tuy nhiên với những người cao tuổi (trên 60 tuổi) thì việc kết nạp vào Đảng sẽ có sự cân nhắc nhất định

Thứ hai là bạn phải đảm bảo được tính tự nguyện và thừa nhận thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ của một đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đảng. Tức là trong trường hợp này đòi hỏi người muốn vào Đảng trước hết phải có sự giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ do Đảng giao phó. Người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyện thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, hoạt động và nhiệm vụ của một đảng viên. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã thừa nhận thực sự. Hành động thực tế chính là thước đo nhận thức, tư tưởng và ý chí phấn đấu của người vào Đảng

Thứ ba là qua thực tiễn, bạn chứng tỏ được là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm. Trở thành một người ưu tú là kết quả phấn đấu, rèn luyện qua một quá trình nhất định. Chỉ có thông qua rèn luyện, thử thách trong thực tiễn "lửa thử vàng, gian nan thử sức" mới chứng tỏ là người ưu tú, được Đảng lựa chọn. Sự đánh giá trung thực, khách quan của nhân dân giúp Đảng xem xét, kết nạp đúng những người thực sự ưu tú trong quần chúng vào Đảng. Ngoài những điều kiện được quy định trong Điều lệ Đảng thì quy định số 29 của Ban Chấp hành Trung ương về thi hành Điều lệ Đảng còn có thêm quy định về trình độ học vấn cho người vào Đảng: Người vào Đảng phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc tương đương trở lên; Học vấn của Người vào Đảng đang sinh sống ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khóa khăn và những trường hợp cụ thể khác do yêu cầu phát triển đảng mà không đảm bảo được quy định chung thì thực hiện theo Hướng dẫn của Ban bí thư.

4. Cấu trúc chuẩn của một bài thu hoạch cảm tình Đảng

Có rất nhiều bài thu hoạch cảm tình Đảng phụ thuộc vào từng lĩnh vực làm việc và học tập khác nhau như bài thu hoạch của giáo viên, công an, học sinh, người sản xuất kinh doanh,...

Nhưng cấu trúc của một bài thu hoạch cảm tình Đảng sẽ phải bao gồm những phần chính như sau:

  • Lời mở đầu

Lời mở đầu của bài thu hoạch nêu lên lý do bạn muốn vào Đảng: nói mục đích, động cơ và mục tiêu phấn đấu.

  • Nội dung các phần

Trả lời những câu hỏi, thường là những câu hỏi đã cho sẵn khi làm bài thu hoạch nhằm tổng kết kiến thức được học trong quá trình bồi dưỡng lớp cảm tình Đảng.

  • Kết luận

Cảm nghĩ sau buổi học cảm tình Đảng và liên hệ với bản thân trong quá trình thực tiễn sống và làm việc.

5. Các mẫu bài thu hoạch cảm tình Đảng mới nhất 2024

Mẫu 1

LỜI NÓI ĐẦU

Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến. Đảng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đang trong công cuộc đổi mới , xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của đân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

NỘI DUNG

Câu 1: Nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam và nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý trí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở cương lĩnh chính trị và điều lệ Đảng, giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo tôn trọng và phát huy vai trò của nhà nước, mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội. Đảng kết hợp với chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng. Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của người Đảng viên như sau:

1. Về nhiệm vụ của Đảng viên:

Nhiệm vụ Đảng viên được quy định trong điều 2, điều lệ Đảng, gồm 4 điểm sau:

“ 1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. 2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. 3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng , pháp luật của nhà nước. 4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng Đảng phí đúng quy định”.

Thực hiện các nhiệm vụ trên, mỗi Đảng viên cần nắm vững nội dung cơ bản sau:

- Một là, kiên định với những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng: - Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta. - Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. - Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. - Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. - Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.

- Hai là, mỗi Đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn để đất nước phát triển nhanh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại để vận dụng vào nhiệm vụ của mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc thách thức lớn, các nguy cơ đang đe doạ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta để tự giác góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục. Mỗi Đảng viên phải ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, trí công, vô tư; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong cơ quan của Đảng, nhà nước và các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội; cảnh giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.

- Ba là, đất nước ta đã chuyển sang thời kì phát triển mới với nhiệm vụ trung tâm là xây dựng phát triển kinh tế, đòi hỏi Đảng viên phải nâng cao trình độ kiến thức và năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, thực hiện vai trò tiên phong, gương mẫu. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi Đảng viên. Có nhiều hình thức và phương pháp học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức Đảng và mỗi Đảng viên phải có kế hoạch, chế độ học tập phù hợp.

- Bốn là, có mối quan hệ mật thiết với quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo, lãnh tụ chính trị bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân dành thắng lợi. và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng dễ quan liêu, xa rời nhân dân. Đây là một nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mọi Đảng viên phải thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, đồng thời tích cực tham gia tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước.

- Năm là, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. Tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.

2. Về quyền của Đảng viên:

Điều 3, Điều lệ Đảng quy định Đảng viên có những quyền sau: - Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. - Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của ban chấp hành trung ương. - Trình bày ý kiến khi tổ chức Đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đôi với mình. - Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các quyền của Đảng viên nêu trong điều lệ Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng viên thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về mặt chính trị tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”.

Những quy định về quyền của Đảng viên tạo điều kiện cho Đảng viên và tổ chức Đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên, vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn lại được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định vì: Đảng là một tổ chức chính trị, đây là một tổ chức luôn luôn vận động và phát triển nên rất cần những người ưu tú để cho Đảng hoạt động và phát triển bình thường để đáp ứng nhu cầu cách mạng trong từng thời kỳ. Trong quá tình vận động và phát triển luôn xuất hiện những phần tử thoái hóa biến chất, cần phải khai trừ ra khỏi Đảng. Việc khai trừ và kết nạp Đảng viên mới để bổ xung cho Đảng những con người có phẩm chất năng lực nâng cao bản lĩnh chính trị để phục vụ cho Đảng giúp Đảng ta lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới hiện nay.

Chính vì vậy mà trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam thì mỗi người chúng ta phải xác định được động cơ vào Đảng đúng đắn, tuyệt đối trung thành với điều lệ và cương lĩnh của Đảng. Có xác định được như vậy thì người Đảng viên mới tận tâm tận lực phục vụ Đảng, vào Đảng là để chấp nhận gian khổ hi sinh, chấp nhận sự phân công và điều động của Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, đất nước lên trên lợi ích cá nhân, phấn đấu vì lý tưởng cách mạng cao cả, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa giàu đẹp và văn minh. Bác Hồ kính yêu đã dạy chúng ta: “Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân.” Vào Đảng là để phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc, nếu vào Đảng mà chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân thì đừng vào. Những người mà ngay từ khi phấn đấu vào Đảng đã có động cơ không trong sáng thì khi đã đứng trong hàng ngũ của Đảng chắc chắn sẽ “quay lưng” phản bội lại Đảng khi có cơ hội. Điều đó là hết sức nguy hiểm cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

Thực tế đã có những Đảng viên đã được thử thách qua chiến đấu rất dũng cảm, rất anh hùng, nhưng trong điều kiện hòa bình, trước sự cám dỗ của tiền tài, vật chất đã gục ngã, đã bị biến chất, thoái hóa. Cũng có những Đảng viên sau khi vào Đảng một thời gian dài, nắm trong tay chức quyền thì bắt đầu mới bộc lộ bản chất cơ hội, bản chất của một con người mang danh Đảng viên để tiến thân. Những con người đó trước sau gì cũng làm tổn hại đến thanh danh, uy tín của Đảng, làm hại đến lợi ích của nhân dân, của dân tộc và nguy hiểm hơn nữa là đến một lúc nào đó, họ sẽ phản bội lại lý tưởng cách mạng của Đảng. “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, những việc khó khăn, gian khổ, Đảng viên phải gương mẫu đi đầu, lo trước nỗi lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ. Tất nhiên, đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ Đảng viên thì cũng có cả quyền lợi. Nhưng vượt lên trên tất cả cái gọi là quyền lợi ấy phải là đạo đức cách mạng, là phẩm chất của người Đảng viên tận tụy vì dân. Nếu Đảng viên mà đặt lợi ích cá nhân, gia đình mình lên trên hết thì người Đảng viên đó không được lòng tin của nhân dân. Mất lòng tin của dân và xa dời quần chúng nhân dân thì mọi việc đều thất bại. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Chính vì vậy, việc xác định động cơ vào Đảng ở mỗi người là cực kỳ quan trọng. Nếu ngay từ đầu, động cơ vào Đảng không đúng đắn, lệch lạc và vụ lợi thì không những không làm cho Đảng vững mạnh mà ngược lại mặc dù Đảng sẽ nhiều Đảng viên, nhưng không có đoàn kết, không hình thành một khối vững chắc, thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ suy yếu, chia rẽ. Động cơ và mục đích của quần chúng khi vào Đảng là điều hết sức quan trọng, nhưng đó cũng là điều khó nắm bắt nhất, bởi nó nằm sâu trong nội tâm mỗi người. Vì vậy, trong công tác xây dựng Đảng, chúng ta cần tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng một cách có hệ thống cho các quần chúng ưu tú và cho các Đảng viên mới để mỗi người Đảng viên và quần chúng tự ý thức, tự trau dồi, tự rèn luyện bản lĩnh chính trị và tự phấn đấu vươn lên. Vì sự vững mạnh của Đảng, vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc, quần chúng cũng như cán bộ, quần chúng ưu tú và người Đảng viên cần thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.

Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nạp vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sang, lệch lạc; càng không để cho các phần tử có cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau đồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng. Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Trong điều kiện hòa bình, Đảng ta cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói chung, người Đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách và những cám dỗ của quyền lực, tiền tài. Nếu người vào Đảng không có đủ nghị lực và bản lĩnh, sẽ không vượt qua được những thử thách, không thắng nổi cám dỗ vật chất thì Đảng sẽ xa dời tư tưởng cộng sản nền tảng, không vượt qua được những thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Động cơ và mục đích vào Đảng đúng đắn không phải là cái cụ thể, không phải là thứ mà chúng ta đem cân đong đo đếm được, mà nó đã tồn tại trong những người đoàn viên ưu tú, những quần chúng tiến bộ và được bồi đắp thêm ngay trong quá trình học tập, rèn luyện và phấn đấu vào Đảng của mỗi quần chúng ưu tú và người Đảng viên Sau khi đã xây dựng cho mình được động cơ đúng đắn người Đảng viên phải thường xuyên tự rèn luyện và nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng và con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ đã lựa chọn; trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng không giao động, giảm sút niềm tin và ý trí chiến đấu. Đồng thời bản lĩnh đó còn thể hiện ở tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc. Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin.

Trước khó khăn thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của chính mình. Bản lĩnh chính trị còn được rèn luyện qua các hoạt động thực tiễn, muốn trở thành Đảng viên của Đảng cộng sản cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị - xã hội, chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng và kiên định.

Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, có biết bao nhiêu đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận Đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ, như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Ngày nay đạo đức cách mạng còn là ý trí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, lợi dụng cơ chế, chính sách để tham nhũng, lãng phí làm giàu phi pháp…. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân, lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết hợp hài hòa ba lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã hội. Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” như chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Để trở thành Đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ của tổ chức Đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức Đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn; không ngừng học tập, thường xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực tiễn đề ra. Phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong gương mẫu. Để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thì người Đảng viên phải thảo mãn được hai điều kiện đó là; Nhiệt tình cách mạng, có năng lực trí tuệ và thực tiễn nó được tạo nên bởi trình độ trí tuệ của người Đảng viên. Hai điều kiện này có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình xây dựng động cơ cho mình. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hòa mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chinh sách, pháp luật của nhà nước.

Muốn trở thành Đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố; tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hòa mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ do Đảng đề ra. Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua hoạt động đoàn thể người phấn đấu vào Đảng thể hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong gương mẫu – những phẩm chất cần thiết để trở thành Đảng viên của Đảng. Ở nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi Thanh niên muốn vào Đảng nhất thiết phải là Đoàn viên ưu tú. Người muốn vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sỏ trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.

3. Nội dung tham gia xây dựng tổ chức cơ sở Đảng của người phấn đấu vào Đảng.

Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, Đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, pháp luật chính sách của nhà nước phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện đời sống cho nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:

+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do Đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.

+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng.

+ Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên.

+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những Đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức Đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức Đảng xét kết nạp.

+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.

+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng.

Câu 2: Động cơ phấn đấu của đồng chí vào Đảng Cộng sản Việt Nam (nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quá trình phấn đấu của đồng chí để trở thành Đảng viên).

Nội dung và ý nghĩa của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực, cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân Việt Nam. Đối với mỗi cán bộ, Đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình, xứng đáng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

- Một là, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với nước, hiếu với dân” mỗi cán bộ Đảng viên phải trung thành vô hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn mới; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Tư tưởng và phẩm chất đạo đức tiêu biểu của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước nồng nàn, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, toàn tâm, toàn ý cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do. Từ quyết tâm “ dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”, để rồi phấn đấu cho “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, để nước ta “ sánh vai với cường quốc năm châu”.

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần: Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to lớn của ông cha để chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.

Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới cả ba hình thức: làm chủ đại diện, làm chủ trực tiếp và tự quản cộng đồng; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp tình, hợp lý của dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước những khó khăn, bức xúc... của nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân ngày nay thể hiện ở ý chí vươn lên quyết tâm vượt qua nghèo nàn, lạc hậu, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp trình độ các nước phát triển trong khu vực và thế giới; thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu: “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trung với nước, hiếu với dân là phải luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước. Mọi biểu hiện cục bộ, bản vị là trái với tinh thần yêu nước chân chính. Trung với nước hiếu với dân là phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Phải có tinh thần ham học hỏi, phát huy truyền thống hiếu học và quý trọng nhân tài của ông cha ta; biết vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động, đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trung với nước, hiếu với dân yêu cầu mỗi chúng ta phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước là sẵn sàng phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì có lợi cho dân, cho nước, cho tập thể thì quyết chí làm, việc gì có hại thì quyết không làm. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi, vun vén cá nhân.

- Hai là, thực hiện đúng lời dạy: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư " nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" là chuẩn mực đạo đức truyền thống trong quan hệ "đối với mình", được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng và phát triển phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, trở thành chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Người là một tấm gương mẫu mực về "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".

Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong giai đoạn hiện nay là: Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả. Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng.

Đối với cán bộ lãnh đạo, Đảng viên phải loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công, thu vén cho gia đình, cá nhân..., cục bộ, địa phương chủ nghĩa. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm... Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì "hăng hái", tranh thủ kiếm lợi, việc gì không "kiếm chác" được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh đạm. Không làm dối, làm ẩu, bòn rút của công, ăn bớt vật tư, tiền của của Nhà nước và của nhân dân. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.

- Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao dân chủ và kỷ luật và chính Người là một mẫu mực về tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với nhân dân. Người luôn luôn phê phán "óc lãnh tụ", phê phán thói "quan cách mạng", phê phán những biểu hiện quan liêu, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, coi đó là những căn bệnh khác nhau của chủ nghĩa cá nhân.

Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, Đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Mọi biểu hiện dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ để "kéo bè, kéo cánh", để làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán, đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng..., làm cho nhân dân bất bình, cần phải lên án và loại bỏ. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh tất cả vì nhân dân, mỗi cán bộ, Đảng viên, dù ở bất cứ cương vị nào phải gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Phải trăn trở và thấy trách nhiệm của mình khi dân còn nghèo đói. Không chỉ sẻ chia và đồng cam, cộng khổ với nhân dân, mà còn phải biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ chức, động viên, lãnh đạo nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo. Nhân dân là người thầy nghiêm khắc và nhân ái, luôn luôn đòi hỏi cao ở cán bộ, Đảng viên, đồng thời cũng sẵn lòng giúp đỡ cán bộ, Đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, phát huy ưu điểm, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Học tập đạo đức Hồ Chí Minh phải rất coi trọng tự phê bình và phê bình.

Người dạy cán bộ, Đảng viên và mọi người chúng ta: không sợ khuyết điểm, không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, theo tư tưởng Hồ Chí Minh "phải nghiêm khắc với chính mình". Phê bình phải có mục đích là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, xây dựng đời sống tình cảm và quan hệ đồng chí, quan hệ xã hội lành mạnh, trong sáng, có lý, có tình. Phải khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen, (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau, không dám nói thẳng, nói thật để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đồng thời, cần phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà "đấu đá", nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.

- Bốn là, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế Tư tưởng Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người, với nhân loại và đoàn kết toàn nhân loại vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Nhờ đó mà nhân dân thế giới kính yêu Người, trao tặng Người danh hiệu nhà văn hóa kiệt xuất trên thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Từ chủ nghĩa quốc tế cao cả, Người đã xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của dân tộc ta với các dân tộc trên thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta và phong trào cách mạng thế giới.

Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động, tích cực hội nhập là một nguồn lực quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển. Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề của quá khứ, lịch sử, xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc.

Học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản. Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức.

Hơn lúc nào hết, hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta phải quan tâm đầy đủ đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân. Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của ông cha, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, Đảng viên và nhân dân, làm lành mạnh nền đạo đức xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo động lực cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững. Vấn đề cơ bản nhất khi thực hiện cuộc vận động là mỗi người chúng ta phải nhận thức đầy đủ vị trí của vấn đề đạo đức, thường xuyên tự giác, nỗ lực học tập, rèn luyện, tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm lòng của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người. Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Đã bao nhiêu năm nay, trong tâm khảm người Việt Nam, Bác Hồ vĩ đại và gần gũi. Mỗi người cán bộ, Đảng viên, Đoàn viên thanh niên chúng ta đã lấy tấm gương của Bác để soi, để rèn mình, để cống hiến cho đất nước và xây dựng cơ quan, đơn vị mình ngày càng tốt hơn.

KẾT LUẬN

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu hơn, rộng hơn, chúng ta tiếp thu nền văn minh tiên tiến, nền khoa học công nghệ hiện đại của nhân loại thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh càng trở nên hết sức quan trọng. Thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và bản thân tôi nói riêng, thấy rất tự hào khi phấn đấu để được đứng vào hàng ngũ của Đảng và thấy rõ đó là một trọng trách, một nhiệm vụ cao cả và cũng đầy vinh quang xong cũng đầy thử thách, Với lòng quyết tâm và bầu nhiệt huyết của mình và mong muốn được đứng vào hàng ngũ của Đảng để đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chính vì vậy trong quá trình phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi đã đề ra cho mình phương hướng rèn luyện, luôn luôn phấn đấu vươn lên về mọi mặt. Tôi tin rằng trong tương lai không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.

Mẫu 2

Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của Đảng viên như thế nào?

Đảng viên Đảng Cộng sản iệt Nam là những chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn dấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Điều lệ Đảng đã ghi nhận cụ thể để có thể trở thành một đảng viên trước hết phải là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chín trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng. Và thứ hai là thông qua thực tiễn có thể chứng tỏ được bản thân là người ưu tú và được nhân dân tín nhiệm thì đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng

Về nhiệm vụ, Điều lệ Đảng có quy định rõ đảng viên phải chấp hành bốn nhiệm vụ trọng yếu sau đây:

+ Thứ nhất, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng

+ Thứ hai là không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm

+ Thứ ba là có sự liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo cho đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở, tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

+ Cuối cùng là một đảng viên cần tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đrang; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển Đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Bên cạnh đó, là một đảng viên, công dân sẽ có quyền được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng. Ứng cứ và đề cử, bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Bna Chấp hành Trung ương. Bên cạnh đó được quyền phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời. Mặt khác có thể trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Câu 2: Anh chị sẽ làm gì để phấn đấu trở thành một Đảng viên ưu tú?

Mơ ước và mong muốn được kết nạp Đảng là giấc mơ từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường của biết bao thế hệ học trò Việt Nam, và bản thân tôi cũng là một trong số họ. Nay nhờ sự phấn đấu, chăm chỉ rèn luyện, tôi may mắn được tham dự lớp học Cảm tình Đảng tại địa phương nơi tôi sinh sống và học tập. Trước đây những hiểu biết của tôi về Đảng chưa được rõ ràng nhưng thông qua lớp học bồi dưỡng Cảm tình Đảng đã củng cố thêm cho tôi những hiểu biết nhất định về Đảng, về chính trị. Bằng chính những kinh nghiệm của người giảng dạy, của các cán bộ Đảng viên mà buổi học bồi dưỡng về Đảng giúp tôi tiếp thêm sức mạnh để phấn đấu trở thành một Đảng viên ưu tú. Bản thân tôi hiểu được rằng, đảng viên chính là yếu tố không thể thiếu trong đội ngũ Đảng lớn mạnh và muốn tổ chức Đảng lớn mạnh thì lại cần những Đảng viên ưu tú, mỗi đảng viên chính là một hạt nhân làm nên tổ chức Đảng bền vững cho đất nước. Do vậy, để bản thân có thể trở thành một đảng viên, tôi đã xác định mục tiêu và xây dựng những kế hoạch tương lai mà bản thân phải hướng đến sau đây:

Thứ nhất, xác định động cơ vào Đảng đúng đắn. Xác định động cơ vào Đảng chính là trả lời cho câu hỏi Tại sao chúng ta lại vào Đảng? Vào Đảng vì lý do gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sưc phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên". Thật vậy, phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Vào Đảng là dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ cũng như dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ Cách mạng, phục vụ nhân dân, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến.

Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, để có được động cơ vào Đảng đúng đắn, cần phải hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, ca lạ với bản chất của người chiến sỹ cách mạng. Bên cạnh đó việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn cũng mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong bối cảnh hòa bình, Đảng cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói chung và đảng viên nói riêng luôn phải đối mặt với biết bao thử thách, khó khăn và những cám dỗ của quyền lực, tiền tài... xuất phát từ động cơ trong sáng, bản thân tôi đã xác định vào đảng là để cống hiến, chứ không phải lợi dụng vào Đảng để làm "bình phong", làm "chỗ dựa" để tiến thân. Vào đảng là thực hiện vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của một người đảng viên, để rèn luyện và trưởng thành, để được đóng góp cống hiến nhiều hơn cho tập thể, cho nhân dân và rộng hơn là cho quốc gia, dân tộc. Khi nhận thức được đúng đắn chúng ta sẽ có động cơ đngs, có sức mạnh bên trong là động lực hướng dẫn hành động, thôi thúc ta sống, hoạt động có lý tưởng cao đẹp cho Đảng và cho chính mình. Nếu người vào Đảng không có động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không thể vượt qua được những thử thách, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa và những thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.

Thứ hai là cố gắng rèn luyện bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng. Đối với mỗi con người thi bản lĩnh chính là tố chất cần thiết quyết định sự vững vàng, sự kiên định, sự độc lập, chủ động trong hành động trước mọi hoàn cảnh, nhất là trước những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu đã lựa chọn; trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng sẽ không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Bản lĩnh chính trị của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay được thể hiện ở sự kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ... Ngoài ra bản lĩnh chính trị của Đảng còn được thể hiện trong hành động của mỗi Đảng viên. Đó chính là sự vững vàng, kiên định, không giao động trước mọi tình huống, sự quyết tâm phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành tốt nhiệm vụ vì lợi ích của Đảng và của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu và hoạt động diễn biến hòa bình nhằm chống phá chế độ ta của các thế lực thù địch; đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Và để có bản lĩnh chính trị vững vàng, bản thân tôi biết mình cần phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn, thử thách phải không được nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có một thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định. Chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm dày dạn qua trường học đấu tranh thực tiễn thì bản thân mới có thể trở nên vững vàng và kiên định.

Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, bản thân tôi sẽ thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng bởi tôi biết rằng, có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú. Trong Đảng ta đã có biết bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng, được nhân dân tôn thờ. Ngày nay, đại bộ phận đảng viên vẫn luôn giữ vững phẩm chất đọa đức cách mạng, được người dân quý mến và tin cậy. Đạo đức cách mạng hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân gây ra nhiều tác hại, có khi nghiêm trọng vì vậy xây dựng đạo đức cách mạng luôn đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời không ngừng nghỉ. Trong xã hội ngày nay thì đạo đức cách mạng còn là ý chí, là sự quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi cái nghèo , trở thành một quốc gia văn minh, giàu mạnh, nhân dân làm chủ xã hội và có được một cuôc sống ấm no, hạnh phúc và tự do. Không thẻ có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính toán thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi sự hưởng thụ, muốn lựa chọn công việc theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội, sống thực dụng, coi đồng tiền là tất cả, làm giàu phi pháp....

Thứ ba, để có thể trở thành đảng viên, việc nâng cao năng lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao bởi tổ chức đảng, đoàn thể chính là yếu tố tiếp theo mà bản thân tôi luôn hướng tới. Trong điều kiện hiện nay, luôn phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiêp vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong và gương mẫu. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bản thân trước hết cần phải xác định nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực chuyên môn là đòi hỏi của thời đại. Chính vì thế bản thân tôi luôn tự xây cho mình những kế hoạch học tập thường xuyên, nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Việc thường xuyên học tập và bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý luận chính trị là vấn đề hết sức cần thiết nhằm nâng cao trí tuệ trong Đảng.

Thứ tư, bản thân cần cố gắng phát huy kỹ năng gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội. Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Để giữ vững truyền thống đó, để trở thành đảng viên thì bản thân tôi biết mình cần phải có thái độ gần gũi, cởi mở nhiệt tình với quần chúng nhân dân; có tinh thần phục vụ, sẵn sàng giúp đỡ khi nhân dân gặp khó khăn và yêu cầu ở mọi lúc, mọi nơi. Phải hòa mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm phục vụ, chỉ dẫn nhân dân. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó cũng cần nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân tôi là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua hoạt động đoàn thể, bản thân cần thể hiện ro vai trò cũng như khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong, gương mẫu - những phẩm chất cần thiết để trở thành Đảng viên của Đảng. Mặt khác, bản thân cũng phải chú trọng mở rộng các mối quan hệ xã hội và tích cực tham gia vào công tác xã hội, gương mẫu và vận động gia đinh, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, chống tệ nạn xã hội, quan lieu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố; tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau; hòa mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.

Và cuối cùng chính là tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở. Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, bản thân cần phải kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn, trong bất kỳ tình huống nào cũng không được giao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu; phải tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi sự suy thoái vè tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", tự chuyển hóa trong nội bộ. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của những người phấn đấu vào Đảng nói chung. Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân và động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Để có thể thực hiện tốt việc tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở thì bản thân tôi nhận thấy cần phải đi từ việc tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực. Bên cạnh đó cần chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức đảng. Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy, giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức đảng xét kết nạp đảng. Và cuối cùng chính là tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tac chủ trương, chính sách của Đảng; vu cáo, bôi nhọ những cán bộ, đảng viên tích cực, trung thực; kích động, chia rẽ đoàn kết, gây rối nội bộ...

Thông qua những kế hoạch rèn luyện bản thân đã được trình bày ở trên, tôi mong muốn tổ chức Đảng có thể phê chuẩn và tạo điều kiện cho tôi trở thành một đảng viên chính thức, được đóng góp công sức của mình cho xã hội và tăng cường phong trào, hoạt động của tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mẫu 3

Câu 1: Định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay

a) Tính nhất nguyên chính trị

Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thế chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.

Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam.

Tính chất nguyên chính của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

b) Tính thống nhất

Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất.

Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:

  • Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
  • Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
  • Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
  • Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành.

c) Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân

Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:

  • Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
  • Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
  • Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
  • Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

d) Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị

Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.

Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.

Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.

Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các mối quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.

Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trò cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.

Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Câu 2. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào? Anh/chị cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam?

Đảng viên có nhiệm vụ

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Đảng viên có quyền:

1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.”

Điều 5:

1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.

2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.

3. Nghị quyết của chi bộ về đề nghị công nhận đảng viên chính thức phải được cấp uỷ có thẩm quyền quyết định.

4. Đảng viên đã được công nhận chính thức thì tuổi đảng của đảng viên tính từ ngày ghi trong quyết định kết nạp.

Phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng viên:

* Xác định động cơ vào Đảng đúng đắn

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng? Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải!... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.

Phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vào Đảng là dấn thân theo lý tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cái được lớn nhất khi vào Đảng là được phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến.

- Trong quá trình phấn đấu vào Đảng, việc xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định. Đảng chỉ kết nạp những người thực sự giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu nhận vào hàng ngũ mình những người mang động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc; càng không để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.

- Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Trong điều kiện hoà bình, Đảng cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói chung, người đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách là những cám dỗ của quyền lực, tiền tài... Nếu người vào Đảng không có động cơ vào Đảng trong sáng sẽ không thể vượt qua được những thử thách, không thắng nổi sự cám dỗ vật chất và những thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.

* Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng

Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn; trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đồng thời, bản lĩnh đó còn thể hiện ở tinh thần độc lập, sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Trong điều kiện hiện nay, khi cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cần đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiên định lập trường, quan điểm chính trị, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc.

- Để có bản lĩnh chính trị vững vàng, người phấn đấu vào Đảng cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định.

- Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Bản lĩnh chính trị được rèn luyện qua hoạt động thực tiễn. Muốn trở thành đảng viên của Đảng cần thường xuyên tự rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị - xã hội. Chỉ có sự hiểu biết sâu rộng, trải nghiệm dày dạn qua trường học đấu tranh thực tiễn, chúng ta mới trở nên vững vàng, kiên định.

- Cùng với rèn luyện bản lĩnh chính trị, cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Đạo đức cách mạng có nội dung hết sức phong phú, nhưng như lời Bác Hồ dạy: “Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”. Trong Đảng ta, biết bao đồng chí đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh oanh liệt, đã nêu gương chói lọi về đạo đức cách mạng. Ngày nay, đại bộ phận đảng viên vẫn giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Đạo đức cách mạng hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân gây ra nhiều tác hại, có khi nghiêm trọng. Xây dựng đạo đức cách mạng phải đi đôi với chống chủ nghĩa cá nhân.

Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ, như Bác Hồ đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Không thể có đạo đức cách mạng nếu làm gì cũng tính toán thiệt hơn với Đảng, lúc nào cũng đòi hỏi hưởng thụ, muốn lựa chọn công việc theo ý thích và lợi ích cá nhân, sống cơ hội, thực dụng, coi đồng tiền là tất cả; lợi dụng cơ chế, chính sách để tham nhũng, lãng phí, làm giàu phi pháp…

- Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là phủ định vai trò, lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở thích riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Lợi ích cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Đường lối của Đảng là kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Đảng luôn luôn tôn trọng và quan tâm đến lợi ích cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, đặt lợi ích cá nhân mình lên trên, lên trước lợi ích tập thể và toàn xã hội.

* Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ

- Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu và học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “đảng viên đi trước, làng nước theo sau'' như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

- Để trở thành đảng viên, người đang phấn đấu vào Đảng cần hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Đó là điều kiện chủ yếu để quần chúng tin cậy giới thiệu và tổ chức đảng xem xét kết nạp vào Đảng. Trong điều kiện hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn; không ngừng học tập, thường xuyên tiếp nhận những hiểu biết mới để đủ kiến thức đáp ứng các yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Phải coi trọng việc học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. Đảng không thể kết nạp những người lười học tập, hoặc học lấy lệ, chỉ cốt lấy bằng cấp, không thể hiện được tính tiên phong, gương mẫu.

* Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội

Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Đảng viên phải giữ vững và phát huy truyền thống đó, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng ở nơi làm việc và nơi cư trú của mình. Phải hoà mình với quần chúng, tin tưởng, am hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

- Muốn trở thành đảng viên, người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, với nhân dân với đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, với bà con làng xóm, khối phố, tôn trọng, chia sẻ, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Hoà mình với quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ và việc làm tiêu cực, sai trái, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm; vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra.

- Người phấn đấu vào Đảng phải nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà bản thân là thành viên, góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qua hoạt động đoàn thể, người phấn đấu vào Đảng thể, hiện rõ vai trò, khả năng lãnh đạo, tập hợp quần chúng, phát huy tính tiên phong, gương mẫu - những phẩm chất cầu thiết để trở thành đảng viên của Đảng. Ở nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người trong độ tuổi thanh niên muốn vào Đảng nhất thiết phải là đoàn viên ưu tú.

- Người muốn vào Đảng càng phải chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu và vận động gia đình, người thân tham gia các phong trào, các hoạt động đoàn thể, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, phát huy truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc; chống tệ nạn xã hội quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

* Tích cực tham gia xây dựng đảng cơ sở

- Để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Nhân dân ta gắn bó với Đảng và luôn tham gia đóng góp cho Đảng. Vì vậy, tham gia xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào Đảng.

- Nội dung tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng của người phấn đấu vào Đảng là: Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống nhân dân và động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.

- Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở còn bao gồm các nội dung sau:

+ Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống, tạo ra bước phát triển mới của cơ sở, đơn vị, nhất là về phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi những biểu hiện tiêu cực.

+ Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, nắm bắt tình hình tư tưởng của quần chúng nhân dân, kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức đảng.

+ Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

+ Tham gia ý kiến khi được hỏi về việc giới thiệu những đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp uỷ; giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để tổ chức đảng xét kết nạp.

+ Tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của chính quyền và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh.

+ Tích cực và kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để xuyên tạc chủ trương chính sách của Đảng; vu cáo, bôi nhọ những cán bộ, đảng viên, tích cực, trung thực; kích động, chia rẽ đoàn kết, gây rối nội bộ.

Mẫu 4

1. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam.

1.1. Đồng chí có dự kiến mới gì đối với bản thân:

Bản thân tôi thấy rất tự hào khi được sinh ra trong một dân tộc có ý chí quật cường, một đất nước giàu truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, không chịu khuất phục trước cường địch. Tôi tự hào về thành tựu của Cách mạng, về Đảng quang vinh, tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, về những thành tựu mà nhân dân ta đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và đổi mới đất nước; cảm động và biết ơn về những hy sinh, đóng góp của Bác Hồ - vị Lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả tình cảm, trí tuệ và dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng. Tôi nhận thấy mình cũng cần phải có trách nhiệm với công cuộc xây dựng đất nước giàu đẹp, tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân tộc Việt Nam, sống và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam.

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện bản thân, xứng đáng là Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Và Đảng là tổ chức các mạng có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, tôi đã đặt ra mục tiêu trong thời gian tới được đứng trong đội ngũ của Đảng được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, góp sức mình xây dựng đất nước ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa, được Đảng và nhân dân tin cậy, yêu mến; chấp nhận hy sinh, phấn đấu, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng, tôi hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra xứng đáng là đội kế cận của Đảng, là cánh tay của Đảng; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng

1.2. Để phấn đấu để trở thành Đảng viên tôi hiểu mình phải tôi luyện trở thành người tích cực, tiên tiến, trải qua quá trình học tập, rèn luyện, phấn đấu, hội đủ các yếu tố thỏa mãn điều kiện để được xét kết nạp Đảng:

  • Phải là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên;
  • Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng:

+ Người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ do Đảng giao phó. Điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định: "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân...".

+ Người vào Đảng phải thừa nhận và thực hiện Điều lệ Đảng một cách vô điều kiện. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Điều lệ Đảng cũng là thể hiện sự giác ngộ chính trị và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiền phong, gương mẫu, ý thức cầu thị, tinh thần đoàn kết, khiêm tốn, gắn bó với tập thể, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người muốn vào Đảng phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng.

+ Người vào Đảng phải hiểu rõ và nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, từ đó phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng để trở thành đảng viên của Đảng. Tự giác thực hiện nhiệm vụ, phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, có quan hệ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm... là những điều kiện chủ yếu được quan tâm khi xem xét để kết nạp người vào Đảng.

+ Mỗi đảng viên của Đảng phải sinh hoạt tại một tổ chức cơ sở đảng. Điều đó tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng

- Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm: người muốn vào Đảng phải hoạt động trong phong trào quần chúng, tỏ rõ tính tích cực, tiên tiến so với quần chúng, cả về nhận thức, hành động và được quần chúng tín nhiệm. Phải lao động, học tập, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có đạo đức, lối sống trong sạch, có khả năng cảm hoá, giáo dục, tập hợp quần chúng, được quần chúng tin cậy và noi theo. Đảng viên là người lãnh đạo quần chúng, vì vậy, người không được nhân dân tín nhiệm thì không thể là đảng viên.

1.3. Từ những điều kiện xem xét kết nạp Đảng viên của Đảng, tôi cần xây dựng kế hoạch, phương hướng phấn đấu trong thời gian tới:

- Qua lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp Đảng tôi đã hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, từ đó tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sĩ cách mạng.

- Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng:

“Đi lên thanh niên chớ ngại ngần chi
Đi lên thanh niên làm theo lời bác
Không có việc gì khó chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển quyết chí ắt làm nên”

Giai điệu ấy đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin, ý chí để tôi hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra hình thành bản lĩnh vững vàng, từ từ tôi rèn được bản lĩnh chính trị vững vàng hơn. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, làm giàu vốn hiểu biết của mình. Song song với rèn luyện bản lĩnh chính trị, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng là kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời, không ngừng nghỉ. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

- Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao: trong giai đoạn ........ đang tái cơ cấu, tinh giản biên chế, tôi là một cán bộ trẻ, vừa được chuyển công tác sang một nghiệp vụ mới, nhận thấy trách nhiệm của tôi là tự giác trau dồi nghiệp vụ, chủ động trao đổi, học hỏi từ các đồng nghiệp, để nắm vững nghiệp vụ mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội: Một trong những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Từ khi được công tác tại ........, tôi luôn nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể. Từ những hoạt động, những công trình, tôi đã tổ chức và tham gia thực hiện tôi đã có thêm được những đồng nghiệp cùng chung lý tưởng, mục đích chia sẻ những hoạt động tập thể: các công trình tặng quà, xây sân chơi cho các em học sinh vùng dân tộc thiểu số, thăm và tặng quà cho các gia đình khó khăn, tổ chức các hoạt động chăm lo đời sống cho con em cán bộ tại trụ sở chính ........…. Từ những chương trình tôi tham gia đã góp phần phát huy vai trò của đoàn thể trong nhiệm vụ chính trị mà Đảng Bộ ........ giao cho Đoàn thanh niên ......... Phần nào đó tôi đã tập hợp hợp được lực lượng Đoàn viên thanh niên ở một số chi đoàn thực hiện các công trình,phần việc thanh niên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ Đoàn.

- Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở:Bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình quan tâm đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ trong việc lãnh đạo cơ quan, đơn vị chấp hành tốt đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước: Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, tình hình tư tưởng của thanh niên trong kết quả thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng; Tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai thực hiện chủ trương, nhiệm vụ do Chi bộ đề ra; Tích cực và mạnh dạn tham gia góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ Đảng viên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên; Tham gia ý kiến, đề xuất đoàn viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu những quần chúng ưu tú có đủ điều kiện để Chi bộ xét kết nạp Đảng; tham gia góp ý kiến đối với hoạt động của đơn vị và đoàn thể, góp phần xây dựng cơ sở chính trong sạch, vững mạnh.

Tôi tin rằng trong tương lai không xa tôi sẽ vinh dự trở thành một Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, trở thành người chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.

2. Đề xuất mới đối với Đảng để có bản lĩnh chính trị vững vàng và nhận thức đúng đắn về Đảng cộng sản Việt Nam cho đối tượng kết nạp Đảng và các quần chúng nói chung:

2.1. Thực trạng về bản lĩnh chính trị và nhận thức lý tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam của cán bộ, Đoàn viên thanh niên hiện nay:

  • Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, 90 năm qua, Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, kiên định các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh…
  • Sự nghiệp đổi mới đến nay đã gần 35 năm, Đảng ta lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị; phát triển KT-XH, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
  • Thực tiễn cách mạng của Đảng, của dân tộc đã cho thấy, khi đã giác ngộ lý tưởng cách mạng, người cộng sản có niềm tin và sức mạnh mãnh liệt. Niềm tin ấy tạo nên sức mạnh vô địch, giúp Đảng ta, quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu và chiến thắng bao thù trong, giặc ngoài.
  • Tuy nhiên, quá trình tìm tòi con đường đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh những thành tựu to lớn mang tầm lịch sử, thì Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gặp không ít khó khăn: Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi không còn sự cứng nhắc, đơn điệu, hình thức và đã đạt được không ít hiệu quả. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số CBĐV thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao. Số ít đoàn viên, thanh niên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
  • Mặt khác, không ít vấn đề phức tạp, khó lường nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cộng với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo và thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình, cổ vũ cho lối sống cơ hội, thực dụng, cá nhân chủ nghĩa,…
  • Qua đó, có thể thấy nguy cơ “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” có thể xảy ra trong một bộ phận ĐVTN. Từ phai nhạt lý tưởng cách mạng dẫn đến “xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng, không kiên định con đường đi lên CNXH, phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái”. Đó là những biểu hiện lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cũng do phai nhạt lý tưởng cách mạng mà a dua, phụ họa theo những quan điểm lệch lạc, “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh”, “không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”, sa vào “tham vọng chức quyền”, không chấp hành sự phân công của tổ chức, kén chọn chức danh công tác, chọn nơi có nhiều lợi ích, vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”,… Từ phai nhạt về lý tưởng cách mạng - một biểu hiện cốt lõi của suy thoái về tư tưởng chính trị có thể dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nguy hiểm khôn lường. Từ suy thoái đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là rất ngắn, thậm chí là một bước rất ngắn.
  • Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể trong công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, ĐVTN, đảng viên trẻ thì vấn đề tự bồi dưỡng vẫn giữ vai trò then chốt.

2.2. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên thanh niên và quần chúng tại ........

  • Trong nhiệm kỳ ........, Đảng bộ ........ đã tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ vững các nguyên tắc lãnh đạo, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; Ban chấp hành Đảng bộ ........ đã bám sát yêu cầu đối với công tác nắm bắt và giải quyết diễn biến tư tưởng và dư luận xã hội trong cơ quan, quán triệt, tuyên truyền để cán bộ, đảng viên, người lao động nhận thức sâu sắc, toàn diện, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng; tạo dựng được tình cảm và niềm tin của cán bộ nhân viên đối với Đảng.
  • Hiện nay, VDB đang triển khai giai đoạn hai tái cơ cấu hoạt động theo chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;ảnh hưởng tới tâm lý của các cán bộ cũng như tư tưởng chính trị, Ban chấp hành Đảng bộ ........ đã bám sát, nắm bắt và giải quyết diễn biến tư tưởng và dư luận trong cơ quan, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức sâu sắc, toàn diện và chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật, nếp sống văn hóa của cán bộ, đảng viên, người lao động trong đơn vị. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đã góp phần ổn định tư tưởng, cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên, người lao động từng bước vượt qua những khó khăn, tích cực thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị.
  • Với mục tiêu tạo sự thống nhất, đồng thuận trong cấp ủy, Ban Thường vụ, tập thể lãnh đạo, giữa cấp trên và cấp dưới; ổn định tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người lao động yên tâm công tác, đoàn kết, chung sức triệt để khắc phục những tồn tại yếu kém trong thời gian qua; đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tạo lập môi trường làm việc tốt, lành mạnh.

Để công tác tư tưởng góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng VDB lần II, Đại hội Đảng bộ Khối DNTW lần II, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Hội nghị TW 4 (khóa XII); trọng tâm là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đảng ủy ........ đã ban hành Nghị quyết 06/NQ-ĐU ngày 28/3/2017 về nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng chỉ rõ nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau: Kịp thời triển khai học tập, quán triệt đầy đủ nghị quyết, chỉ thị của Đảng tới toàn thể cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng, chỉ đạo xây dựng chương trình hành động để thực hiện nghị quyết;Tổ chức thực hiện chương trình hành động để thực hiện nghị quyết, nâng cao tính chiến đấu của tổ chức đảng và mỗi đảng viên; Công tác tổ chức và quản lý đảng viên; Tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XII);Lãnh đạo công tác truyền thông; Lãnh đạo phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội.

  • Đảng bộ ........ nói chung và các Chi bộ nói riêng đã phát động các phong trào thi đua, xây dựng các mô hình, tấm gương của tập thể, cá nhân tiêu biểu trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng; tạo sự chuyển biến thực sự về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ cũng như trong toàn Đảng bộ.
  • Chi bộ cũng đã rất nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình; luôn chú trọng tăng cường kiểm tra, giám sát đối với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, về tự học, tự rèn nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong Chi bộ. Và thực tế, tôi nhận thấy rằng việc kiểm tra, giám sát quá trình rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu, về tự học, tự rèn của cán bộ, đảng viên đã tạo điều kiện, động lực cho cán bộ, đảng viên trong Chi bộ thường xuyên làm tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước.

3. Đề xuất mới gì đối với Đảng

  • Thời gian qua, Đảng bộ ........ đã thực hiện tốt công tác chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của các Chi bộ, Đảng bộ. Từ những kết quả đã đạt được, thời gian tới, với những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cũng như chiến lược tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, công tác chính trị tư tưởng càng cần được tiếp tục chú trọng và thực hiện một cách thường xuyên. Ngoài những nhiệm vụ và giải pháp đã thực hiện tốt trong thời gian qua, tôi có đề xuất như sau:
  • Đổi mới hình thức, cách thức tiến hành công tác tư tưởng: Về nội dung công tác tư tưởng phải bám sát mục tiêu, nhiệm vụ chính trị.
  • Tiến hành đồng thời công tác chính trị tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và công tác thi đua, khen thưởng. Thực hiện tốt phương châm “Lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Qua đó, tạo hiệu ứng tác động lan tỏa trong các cơ quan báo chí và toàn xã hội.
  • Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính trị; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm nhằm nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ
  • Đẩy mạnh công tác dân vận, phát huy có hiệu quả vai trò của các tổ chức đoàn thể, người lao động, xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong hệ thống .........
  • Đổi mới, sáng tạo trong xây dựng và thực hiện có hiệu quả văn hóa ........ nhằm khơi dậy mạnh mẽ ý chí, khát vọng, tự hào được làm việc, cống hiến vì sự nghiệp phát triển .........
  • Xây dựng kế hoạch, tổ chức các lớp đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cấp ủy, cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, trí tuệ; đào tạo, phát triển cán bộ lãnh đạo, quản lý các mặt nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của ........ và phù hợp với tình hình hiện nay.
  • Chú trọng phân công, giao nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên trẻ để có điều kiện cọ sát, rèn luyện, thử thách.
  • Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên truyền, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công tác tư tưởng đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới: Sử dụng quản lý văn bản hiện tại có hiệu, tránh gây lãng phí, giảm tải thời gian xử lý công việc. Đặc biệt với điều kiện các phòng ban làm việc ở trụ sở chính không cùng một địa điểm làm việc, việc phối hợp, xử lý công việc ở 2 địa điểm có thể gây mất thời gian, khó khăn nên việc tăng cường giải quyết qua phần mềm là cần thiết. Xây dựng hệ thống quản lý văn bản điện tử khoa học, hiện đại, hiệu quả nhằm giảm tải công tác quản lý, tìm kiếm văn bản, phân tách các văn bản của từng nghiệp vụ, kèm theo hiệu lực của văn bản.
  • Bên cạnh vai trò, trách nhiệm của Đảng bộ ........, của các đơn vị, các đoàn thể trong công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, ĐVTN. Tôi sẽ chủ động tự bồi dưỡng,tự rèn luyện nhằm bổ sung, hoàn thiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực, kinh nghiệm công tác, đáp ứng sự nghiệp phát triển .........

Mẫu 5

Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào?

Câu 2: Những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?

Câu 3: Trình bày hiểu biết của Anh, Chị trong việc phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam? Liên hệ bản thân trong việc phấn đấu trở thành Đảng viên?

Câu 4: Vấn đề mà Anh, Chị tâm đắc nhất khi tham gia lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng; Anh, Chị có những kiến nghị, đề xuất gì cho công tác tổ chức, truyền đạt nội dung, v.v... với Ban tổ chức lớp học nhằm rút kinh nghiệm tổ chức tốt hơn các lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng cho sinh viên sau này?

Bài làm

Câu 1: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên như thế nào?

Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.

Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đáp ứng cơ bản yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng Đảng hiện nay, là cơ sở quan trọng tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là kết tinh của trí tuệ Việt Nam, là văn bản quy định nguyên tắc của Đảng do những những đảng viên ưu tú đại diện cho nhân dân Việt Nam soạn thảo và lấy ý kiến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân.

Điều 1 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về tiêu chuẩn của đảng viên như sau:

1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.

2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.

Điều 2 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về nhiệm vụ của đảng viên như sau:

1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.

2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biện pháp tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.

Điều 3 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về quyền hạn của đảng viên như sau:

1. Được thông tin và thảo luận vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Như vậy, các Điều 1, Điều 2, Điều 3 trong Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định một cách đầy đủ về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên. Mỗi người khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đều phải nghiêm túc thực hiện những quy định này về đảng viên để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch và vững mạnh như lời của Bác Hồ nhận định khi Đảng ta tròn 30 tuổi:

"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”.

Câu 2: Những nội dung cơ bản về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay?

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ thiên tài của nhân dân ta, là anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Suốt cuộc đời, Người hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Ham muốn tột bậc của người thật là giản dị: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Câu ấy được Bác nói khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào đầu năm 1946. Câu nói ấy có ý nghĩa lớn lao trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước. Câu nói ấy thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và giá trị đạo đức lớn lao.

.......................................

.......................................

.......................................

6. Những lưu ý khi viết bài thu hoạch cảm tình Đảng

- Điền đầy đủ thông tin cá nhân trong bài thu hoạch: họ tên, ngày sinh, quê quán, nơi ở.

- Trả lời câu hỏi đúng trọng tâm, viết ngắn gọn, súc tích, tránh viết nội dung dài dòng.

- Trình bày văn bản rõ ràng, sạch đẹp, không tẩy gạch, xóa.

- Viết duy nhất một loại mực, không trang trí trong nội dung bài viết.

1 4626 lượt xem
Tải về