Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 trang 149 - Ngắn nhất Ngữ văn 11 Cánh diều

Với soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 Ngữ văn lớp 11 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 11.

1 151 lượt xem


Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2

I. Đọc hiểu

Đọc đoạn trích (trang 149 sgk Ngữ văn 11 Tập 2) và trả lời ngắn các câu hỏi (từ câu 6 đến câu 10):

Câu 1. (trang 149 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Câu nào sau đây gọi đúng tên con đường được gợi lên từ đoạn trích?

A. Con đường đầy rơm rạ.

B. Con đường đầy ánh nắng.

C. Con đường đầy tre, trúc.

D. Con đường đầy hương sắc.

Trả lời:

Đáp án: A

Câu 2. (trang 149 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Dòng thơ nào sau đây có sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác?

A. Đường trong làng: Hoa dại với mùi rơm

B. Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm

C. Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ

D. Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự

Trả lời:

Đáp án: B

Câu 3. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhận xét nào sau đây đúng với sự “tương ứng các giác quan” được biểu hiện trong đoạn trích trên?

A. Cảnh vật, con người, hương hoa, cây cối,... chan hoà trong một niềm vui

B. Đất trời, đường làng, không gian, thời gian, hoa dại, mùi rơm,... lẫn lộn

C. Cảm xúc, tâm trạng, niềm vui, sự ngất ngây, trí tưởng tượng,... đan xen

D. Mùi hương, âm thanh, sắc màu xen lẫn cùng các giác quan giao hoà,...

Trả lời:

Đáp án: D

Câu 4. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhạc tính của đoạn thơ trên được tạo nên bởi những cách thức nào?

A. Sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và so sánh

B. Sử dụng nhiều thanh bằng và gieo vần chân

C. Dùng nhiều từ ngữ và hình ảnh chỉ âm thanh

D. Dùng nhiều từ ngữ và hình ảnh chỉ cảm giác

Trả lời:

Đáp án: B

Câu 5. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phương án nào dưới đây nêu đúng điểm giống nhau giữa đoạn trích trên và bài thơ Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)?

A. Đều viết về đề tài tình yêu lứa đôi

B. Đều vận dụng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác

C. Đều viết về tâm trạng con người trước mùa thu

D. Đều miêu tả cảnh đẹp của mùa thu

Trả lời:

Đáp án: B

Câu 6. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nêu tác dụng của các yếu tố vần và nhịp của đoạn trích trên.

Trả lời:

Các yếu tố vần và nhịp giúp bài thơ thêm sáng tạo, chủ thể trữ tình bộc lộ trực tiếp những tình cảm tha thiết của mình trước vẻ đẹp của cảnh vật nơi quê hương nói riêng và vẻ đẹp của đất nước mình nói chung.

Câu 7. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Chỉ ra yếu tố tượng trưng trong đoạn trích trên.

Trả lời:

Hình ảnh tượng trưng "đường thơm", “hương hoa”.

Câu 8. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Em hiểu “đường thơm” trong đoạn trích trên là gì?

Trả lời:

“đường thơm” trong đoạn trích trên là con đường quê hương, đong đầy những kỉ niệm cùng tình cảm đẹp đẽ.

Câu 9. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nhà thơ nhận biết và diễn tả cảm xúc của mình bằng các giác quan nào?

Trả lời:

Nhà thơ nhận biết và diễn tả cảm xúc của mình bằng các giác quan thị giác để quan sát cảnh vật trên đường; khứu giác để ngửi thấy mùi hương.

Câu 10. (trang 150 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Theo em, đoạn trích thể hiện được tâm trạng và tình cảm gì của chủ thể trữ tình?

Trả lời:

Đoạn trích thể hiện được tâm trạng và tình cảm yêu thiết tha, nỗi nhớ nhung da diết, sâu nặng về những kỉ niệm đã qua cùng quê hương, đất nước.

II. Viết

Bài tập (trang 150 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 2):

Chọn một trong hai đề sau để viết thành bài văn ngắn:

Đề 1. Phân tích giá trị văn hóa hoặc triết lí nhân sinh trong một tác phẩm văn xuôi đã học ở Bài 5 và bài 7 trong sách Ngữ văn 11, tập hai.

Đề 2. Điều em tâm đắc nhất khi đọc văn bản “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (trích kịch “Vũ Như Tô” - Nguyễn Huy Tưởng).

Trả lời:

* Bài viết mẫu tham khảo:

Đề 1. Phân tích giá trị văn hóa hoặc triết lí nhân sinh trong một tác phẩm văn xuôi đã học ở Bài 5 và bài 7 trong sách Ngữ văn 11, tập hai.

Mùa xuân không chỉ mang đẹp của thiên nhiên mà còn từ lòng người mỗi người. Ai ai cũng toát lên vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ và nồng nàn khi đón chào mùa xuân mới. Trong tác phẩm "Thương nhớ mùa xuân", Vũ Bằng đã viết:“Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Mùa xuân khiến trái tim con người thổn thức, háo hức, sự sống trong ta muốn cựa quậy, muốn bùng cháy. Xuân đã làm cho tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá. Rét của mùa xuân không còn giống như rét "căm căm" của mùa đông xứ Bắc, mà là một cái lạnh thật dịu dàng, nhẹ nhàng biết bao.

Với ngòi bút tài hoa, cảm nhận tinh tế và ngôn ngữ giàu chất thơ, Vũ Bằng đã khiến người đọc hồi tưởng về kí ức của những mùa xuân đã qua, cái không khí và mùi hương của xuân ở quê hương, của lòng người thoang thoảng mênh mang.

Và xuân đến mang tới một tháng giêng tươi đẹp nhất, hội tụ những vẻ đẹp ngọt ngào nhất. Như trong "Vội Vàng", Xuân Diệu đã từng nói: "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Còn trong văn của thi sĩ Vũ Bằng, tuy không được dịu ngọt và hối hả như Xuân Diệu, nhưng lại mang vẻ đằm thắm và da diết khiến người đọc phải say mê, đắm chìm trong đó. Khi tháng giêng về, đó cũng là lúc đất trời chuẩn bị có sự chuyển giao diệu kỳ và đầy tinh tế. Đất bắc mang một nét đẹp thật trong veo, đằm thắm, có sự hòa quyện nhịp nhàng giữa con người với cảnh sắc thiên nhiên của đất trời. Và có lẽ vì thế mà lòng người cũng đồng điệu, hòa cùng nhịp điệu nhộn nhịp của mùa xuân.

Không biết vì lý do gì, cứ "Tự nhiên như thế", người người, nhà nhà "ai cũng chuộng mùa xuân". Không có gì lạ khi người ta yêu chiều, thích thú khi đón chào tháng giêng bởi "tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân". Vì thế mà "người ta càng trìu mến". Xuân đến, mang bao điều tươi mới, mang tới sức sống tràn đầy, cho cây lá đâm chồi nảy lộc, cho hương sắc đất trời càng thêm rực rỡ, cho lòng người càng dịu dàng nồng say. Xuân cứ ngọt ngào như vậy thì ai mà chẳng mê! "Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng" thì khi ấy "mới hết được người mê luyến mùa xuân". Vũ Bằng cũng giống như mọi người, chàng thi sĩ ấy cũng bày tỏ tình cảm yêu quý của mình dành cho mùa xuân xinh đẹp: "Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ, nhưng yêu nhất mùa xuân không phải vì thế. Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...” Mùa xuân của Vũ Bằng là mùa xuân của miền Bắc Việt Nam, là cái không khí của xuân Hà Nội, là những cơn mưa xuân nhỏ li ti, kéo dài tới hàng mấy ngày, là những cơn gió man mát thi thoảng lại thổi một luồng qua những người đi đường, là âm thanh đặc trưng của mùa xuân,... Tất cả những điều ấy đã tạo nên một xuân dịu dàng, nồng nàn khiến cho không chỉ tác giả mà biết bao tâm hồn con người phải đắm say vào đó. Khi đất trời giao thoa, không khí dễ chịu, cảnh vật tươi tắn, những “người yêu cảnh” khi ấy chỉ muốn “khoác một cái áo lông, ngậm một ống điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó - có lẽ là sự sống”. Người ta có thể dạo chơi, rồi thưởng thức hết vẻ đẹp của cái xuân ấy, thế là đã hết ngày. Vậy đấy, "cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh". "Cùng với mùa xuân trở lại", tâm hồi, trái tim "người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những ngày đông tháng giá". Nhưng lúc ấy, đường sá ngoài kia chẳng còn sự lầy lội, ẩm ướt của cái giá lạnh mùa đông, thay vào đó là tiết trời dịu ngọt, êm ả, man mác, khiến ta sung sướng và hạnh phúc biết bao. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.

Tác giả đã không kìm được nữa mà phải thốt lên rằng "Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến". Mùa xuân xinh đẹp như thế, ai mà chẳng yêu, ai mà chẳng nhớ, với tác giả mùa xuân Hà Nội khiến lòng nhà thơ đầy rộn ràng, nhộn nhịp, say đắm vô cùng. Đặc biệt ông "yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng" bởi lúc này đây "Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức một mùi hương man mác". Nhưng đồng thời cũng là lúc phải chia tay với những bữa cơm "thịt mỡ dưa hành" nhà nhà lại "bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng".

Thương nhớ mùa xuân của Vũ Bằng là những dòng cảm xúc thật dịu dàng, nhẹ nhàng, trong tẻo và đầy tươi mới của mùa xuân "Bắc Việt". Nó gợi nhắc cho độc giả về không khí nhộn nhịp, rộn rã, những thanh âm trong trẻo và ngọt lành của một mùa xuân xinh tươi, tràn đầy sức sống.

Đề 2. Điều em tâm đắc nhất khi đọc văn bản “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (trích kịch “Vũ Như Tô” - Nguyễn Huy Tưởng).

“Vũ Như Tô” là vở kịch lịch sử có quy mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng và của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch. Trong đoạn trích được học, gây ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng người đọc là nhân vật Vũ Như Tô cùng bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài.

Trong vở kịch Vũ Như Tô hiện lên là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân của niềm khao khát say mê sáng tạo cái đẹp, “là người ngàn năm dễ có một….có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ…chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện trên mảnh lụa thần tình biến hóa như cảnh hóa công”. Qua vài lời của tác giả ta thấy Vũ Như Tô là một nghệ sĩ lớn mang trong mình nhân cách cao đẹp, một nghệ sĩ có hoài bão lớn lao, có lý tưởng nghệ thuật cao cả. Khát vọng nghệ thuật của ông lớn lao hơn bao giờ hết, ông muốn xây dựng một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao” để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện” . Đó là một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non sông đất nước: “để ta xây một Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành, cao cả huy hoàng, giữa cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai…. Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài”. Tâm Hồn của Vũ dành hết cho Cửu trùng đài.

Cửu Trùng Đài – như cái tên của nó – là một công trình kiến trúc mà tầm vóc không thể chỉ tính đếm bằng lượng gỗ cây, đá khối, cho dù đó là những con số nghe qua cũng đã đủ kinh hoàng (“hai trăm vạn cây gỗ chất đống cao như núi, toàn những gỗ quý vô ngần”,“hai mươi vạn phiến đá lớn, bốn mươi vạn phiến đá nhỏ, từ Chân Lạp tải ra”). Tầm vóc của nó, phải hình dung bằng chính tầm vóc ý tưởng, khát vọng đầy ngạo nghễ của người sẽ tạo ra nó: một công trình độc nhất vô nhị, vượt xa tất cả những kỳ quan ở Trung Quốc, Ấn Độ, Chiêm Thành,… và những công trình mà người đời từng biết đến, từng truyền tụng. Lại là một kỳ quan bền vững, bất diệt. Xây công trình, họ Vũ không thèm “tranh tinh xảo” với người, chỉ “tranh tinh xảo với Hóa công”! Đó là hiện thân của cái Đẹp, không phải cái Đẹp nói chung mà là cái Đẹp “siêu đẳng”.

Tuy nhiên, Đài Cửu Trùng lại là hiện thân cho cái Đẹp xa hoa. Xây nên kỳ quan ấy, tất nhiên cực kỳ tốn kém, một sự tốn kém không chỉ tính bằng tiền của ngân khố quốc gia, mà còn phải tính bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu nữa. Mà Đài chỉ xây cho kẻ ăn chơi sa đọa là vua dâm Lê Tương Dực. Còn nhớ đời Tây Chu bên Trung Hoa, U vương vì Bao Tự mà bắt dân xây Giao Đài để ăn chơi hưởng lạc, khiến cho lòng dân trong nước oán hận rồi cuối cùng đời Tây Chu cũng diệt vong. Cái mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô ở đây là ước mơ khát vọng to lớn như vậy nhưng bản thân thì không thực hiện được vì không có tài chính. Còn phụng sự cho hôn quân bạo chúa Lê Tương Dực thì ông không bao giờ hợp tác. Nhưng rồi, Đan Thiềm xuất hiện: Sắc đẹp, lời ngon tiếng ngọt và sự tôn kính của Đan Thiềm đã làm cho Vũ xiêu lòng và bằng lòng xây Cửu Đài. Cái oái oăm là ở đó, và mầm mống bi kịch của Vũ Như Tô cũng là ở đó.

Theo đó, ý nghĩa biểu tượng thâm trầm của Cửu Trùng Đài được xác lập trên nhiều mối quan hệ. Với Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài hiện thân cho “mộng lớn”. Với Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài hiện thân cho niềm kiêu hãnh nước nhà. Với Lê Tương Dực, Cửu Trùng Đài là quyền lực và ăn chơi. Với dân chúng, Cửu Trùng Đài là món nợ mồ hôi, xương máu,… từ đó bi kịch đã đến với Vũ Như Tô.

Vì quá đam mê thi thố tài năng Vũ Như Tô nào có hiểu được sâu xa, trên thực tế, Cửu Trùng Đài đã xây dựng bằng mồ hôi xương máu của nhân dân và nếu được hoàn thành thì nó cũng chỉ là nơi ăn chơi xa xỉ, sa đoạ của vua chúa, giống như công trình kiến trúc “Vạn Niên” của triều đình Nguyễn sau này: “Vạn niên là vạn niên nào? Thành xây xương lính, hào đào máu dân”. Như vậy, Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình. Chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ thuần tuý nên đã vô hình chung, trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân, gây đau khổ cho nhân dân. Để xây dựng Cửu đài, triều đình đã ra lệnh tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua làm cho dân cùng nước kiệt; thợ oán Vũ vì nhiều người chết vì tai nạn, vì ông cho chém những kẻ bỏ trốn. Vì thế cho nên nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa, thậm chí là oán hận kiến trúc sư đầy tài năng Vũ Như Tô và cuối cùng đã giết chết cả tên hôn quan bạo chúa Lê Tương Dực lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy cả Cửu Trùng Đài.

Mâu thuẫn đỉnh điểm được giải quyết bằng vũ lực. Trịnh Duy Sản cầm đầu bọn phản nghịch đã náo loạn kinh thành. Chúng tìm Lê Tương Dực và giết chết tên hôn quân ấy. Chúng đốt phá Cửu trùng đài, chúng tìm Vũ Như Tô để rửa hận. Nhưng Vũ đúng là một nhân vật bi kịch. Ông không thể nào trả lời câu hỏi “xây dựng Cửu Trùng Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội?. Thật đau đớn thay, bi kịch thay cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”. Thậm chíVũ Như Tô còn khẳng định “ Bà không nên lo cho tôi. Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây!”. Khi được Đan Thiềm giục giã chạy trốn bởi nguy hiểm cận kề, Vũ Như Tô còn “Ngây thơ” : “Họ tìm tôi nhưng có lý gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai”. Câu nói thể hiện sự bảo thủ và có phần mê muội. Ngay cả khi bị bắt Vũ vẫn không tin là sự thật, vẫn vĩnh biệt Đan Thiềm “đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỷ”. Khi bị quân sĩ vả vào miệng Vũ vẫn không ngừng nói về Cửu đài: “…vài năm nữa, Đài cửu trùng sẽ hoàn thành, cao cả, huy hoàng giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai”. Đến chết vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một cách phũ phàng tàn nhẫn, không như ảo tưởng của Vũ Như Tô. An Hoà Hầu đã cho quân đốt phá kinh thành, đốt phá cả Cửu trùng đài. Cửu Trùng đài tan thành tro bụi.

Tất cả chỉ là ảo vọng. Đan Thiềm và Vũ bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ thì Vũ mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng “Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Trời ơi! Phú cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường”. Trong tiếng kêu than ấy, tiếng “Đan Thiềm, mộng lớn Cửu Trùng Đài” dồn dập vang lên hoà nhập vào nhau thành khúc ca bi tráng, ai oán, đầy tiếc thương. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”. Vậy là cuối cùng Vũ Như Tô cũng đã phải trả giá cho chính hành động của mình. Cái chết của người nghệ sĩ vừa đáng thương lại vừa đáng giận.

Là một nghệ sĩ đầy tài năng và giàu sáng tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước, muốn làm đẹp cho đời, nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của ông đã đặt lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng chính sinh mệnh của bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của mình.Người đọc, người xemthương người nghệ sĩ có tài có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp nhưng xa rời thực tế, mà phải trả giá đắt bằng cả sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật đầy tâm huyết sáng tạo cuả mình.

Đoạn trích nói riêng và vở kịch nói chung đã để lại giá trị nhân văn sâu sắc rằng: “Không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn chương”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi của muôn dân”. Một vấn đề đặt ra nữa là “Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực”.

Qua tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời sống nhân dân. Vì vậy vấn đề tác giả đặt ra ngày ấy, giờ đây bước sang thiên niên kỉ mới, nó vẫn còn nguyên giá trị.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Viết bài văn nghị luận về một hiện tượng đời sống

Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận về một hiện tượng đời sống

Tự đánh giá: Thế hệ trẻ cần có quyết tâm lớn và phải biết hành động

Hướng dẫn tự học trang 146

Nội dung ôn tập học kì 2

1 151 lượt xem


Xem thêm các chương trình khác: