Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ trang 44 - Ngắn nhất Ngữ văn 11 Cánh diều

Với soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ trang 44 Ngữ văn lớp 11 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 11.

1 130 lượt xem


Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ

1. Định hướng

1.1. Nghị luận về một tác phẩm thơ

Ở lớp 10, các em đã được làm quen với kiểu bài phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ (chủ yếu là bài thơ). Ở lớp 11, bên cạnh các thao tác và kĩ năng đã được giới thiệu, các em cần lưu ý.

- Bài thơ là một cấu trúc mang tính chỉnh thể (các yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm có sự gắn kết, tương tác làm nên một thể thống nhất để đem lại những thông điệp độc đáo, hàm súc)Nghị luận về một tác phẩm thơ đòi hỏi phải biết phân tích một cách tổng thể những yếu tố hình thức để qua đó nhận biết một cách toàn diện những thông điệp, những tầng ý nghĩa của tác phẩm.

Ngoài ra, bài thơ hay luôn gắn với một cái nhìn, một cách cảm thụ độc đáo về thế giới của tác giả. Vì thế, khi nghị luận về một tác phẩm thơ nên đặt bài thơ trong sự so sánh với những bài thơ khác để làm rõ hơn nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm cần nghị luận.

- Nghị luận về một tác phẩm thơ có thể là phân tích, đánh giá toàn bộ tác phẩm nhưng cũng có thể chỉ tập trung phân tích một số yếu tố nội dung hoặc hình thức của tác phẩm. Ví dụ:

+ Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.

+ Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

+ Vẻ đẹp của những yếu tố tượng trưng trong bài thơ Tình ca ban mai của Chế Lan Viên.

1.2. Để viết bài nghị luận về một tác phẩm thơ, các em cần lưu ý

- Đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ, chú ý xác định các yếu tố hình thức (tên bài thơ, thể thơ, vẫn, nhịp, nhân vật trữ tình, phép điệp, đối, hình ảnh, các biện pháp tu từ, cấu tử,...) từ đó, phân tích để chỉ ra giá trị của chúng trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của bài thơ, đoạn thơ.

- Xác định các luận điểm trong bài viết, lựa chọn các dẫn chứng từ bài thơ cho mỗi luận điểm.

- Liên hệ, so sánh với các tác giả, tác phẩm có cùng đề tài, chủ đề để nhận xét điểm gặp gỡ và sáng tạo riêng của tác gia bài thơ, đoạn thơ được nêu trong đề văn.

- Biết cách sử dụng các từ ngữ để diễn tả chính xác, truyền cảm những cảm nhận và rung động của em với các chi tiết, hình ảnh.... đặc sắc trong bài thơ.

- Suy nghĩ về giá trị, sự tác động của bài thơ, đoạn thơ đối với người đọc và với chính bản thân.

2. Thực hành

2.1. Thực hành viết theo các bước

Bài tập (trang 46 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 2): Phân tích sự độc đáo về nội dung và hình thức của bài thơ “Đây mùa thu tới” (Xuân Diệu).

a. Chuẩn bị

- Xem lại nội dung đọc hiểu bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.

+ Trọng tâm cần làm rõ sự độc đáo về nội dung và hình thức của bài thơ Đây mùa thu tới.

+ Kiểu văn bản chính: nghị luận về một tác phẩm thơ.

+ Phạm vi dẫn chứng: văn bản Đây mùa thu tới và các bài thơ có cùng đề tài (đặc biệt là những bài thơ về mùa thu trong văn học trung đại của Nguyễn Khuyến, Đỗ Phủ).

b) Tìm ý và lập dàn ý

- Tìm ý cho bài viết bằng cách suy luận từ khái quát đến cụ thể theo sơ đồ sau:

Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ trang 44 - Ngắn nhất Ngữ văn 11 Cánh diều (ảnh 1)

- Lập dàn ý cho bài viết:

Mở bài

Nêu vấn đề bằng một trong các cách: phản đề, so sánh, đặt câu hỏi,...

Thân bài

Giải quyết vấn đề, ví dụ:

- Phân tích khổ 1: Mùa thu về

+ Vẻ đẹp tang tóc: Tiễn đưa mùa hạ

+ Vẻ đẹp kiêu sa của một giai nhân: Mùa thu với sắc vàng mơ kiều diễm (so sánh với sắc xanh của mùa thu truyền thống trong thơ Nguyễn Khuyến).

+...

- Phân tích khổ 2: Mùa thu ngấm sâu vào thế giới cảnh vật.

+ Phân tích khổ 3:...

+ Phân tích khổ 4:...

Kết bài

Tổng hợp vấn đề bằng một trong các cách: tóm lược, phát triển, phối hợp giữa tóm lược và phát triển,...

c) Viết

Dựa vào dàn ý đã chuẩn bị để thực hành viết với những yêu cầu khác nhau:

- Viết đoạn mở bài, kết bài hoặc một số đoạn trong phần thân bài (chọn viết về một hoặc một số ý mà em thấy hứng thú và tâm đắc).

+ Có thể viết mở bài theo nhiều cách (trực tiếp hay gián tiếp, phản đề hay so sánh. dẫn dắt,...). Tuy nhiên, dù mở bài theo cách nào cũng cần nêu được sự độc đáo trong nội dung và hình thức của bài thơ (gắn với phong cách của Xuân Diệu)

+ Đối với phần thân bài: Xác định rõ nội dung đoạn cần viết là gì, các dẫn chứng nào cần đưa ra và những lí lẽ, lập luận nào cần triển khai. Vì viết về ý mà em tâm đắc, hứng thú nên cần tập trung làm nổi bật được nét riêng trong cảm thụ và phân tích của mình. Ở đây, thao tác so sánh, liên tưởng là rất cần thiết. Dù chỉ viết về một ý nhưng các em cũng nên lưu ý về mối quan hệ của ý đó với các ý trước và sau nó.

- Viết bài văn hoàn chỉnh (làm ở nhà hoặc trên lớp nếu có thời gian)

Trả lời:

- Đoạn văn mẫu mở bài:

Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân, làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm," tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, hòa mình vào không khí yên bình của thôn quê. Lưu Trọng Lư, qua "Tiếng thu," mang lại cảm nhận tinh tế về một trời thu sống động, đầy ắp âm thanh của mùa lá rụng. Còn Xuân Diệu, với "Đây mùa thu tới," đưa người đọc đến với một mùa thu mới bắt đầu, nét đẹp đặc sắc và diệu kỳ mà ông nhìn nhận. Ngay từ tiêu đề "Đây mùa thu tới," độc giả đã cảm nhận được sự chấp nhận của tác giả đối với bức tranh mùa thu mới bắt đầu. Xuân Diệu không tập trung vào giữa mùa hay cuối mùa thu, mà là khoảnh khắc đất trời vừa chia tay mùa hè và bắt đầu hòa mình trong mùa thu mới. Từ đó, ông khám phá ra những diễn biến độc đáo của thiên nhiên và đưa chúng vào tác phẩm của mình.

- Phân tích khổ 1

Điều đặc biệt là cách Xuân Diệu nắm bắt sự chuyển đổi của đất trời. Ông không chỉ đơn thuần mô tả mùa thu qua hình ảnh lá rụng, mà còn lồng ghép sự kỳ diệu và phức tạp của sự sống. Từ những thay đổi nhỏ nhưng đầy ý nghĩa này, tác giả làm cho mùa thu trở nên huyền bí và phong cách hơn, khơi gợi sự tò mò và sự ngạc nhiên của độc giả.

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Đây mùa thu tới - mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng”.

Bài thơ của Xuân Diệu mở đầu bằng hình ảnh buồn bã của rặng liễu rũ. Thông qua từ ngữ tình cảm và tưởng tượng phong phú, nhà thơ tạo ra một bức tranh mùa thu đậm chất u sầu. Rặng liễu không còn hình ảnh êm đềm, mà thay vào đó, chúng được nhìn nhận như những giọt lệ buồn rơi xuống, tưởng chừng như đang kể lể về một cảm xúc bi thương, mất mát, hay một sự chia lìa đau đớn. Từ việc biểu hiện tâm trạng của rặng liễu, Xuân Diệu giữ nguyên tinh thần của mùa thu và chuyển đổi nó thành một thế giới của những cảm xúc đắng cay và uất ức. Ông làm cho mùa thu trở nên linh động, như một hình ảnh phản ánh của con người, với khả năng cảm nhận, buồn bã, và khóc lóc. Tiếp theo, nhà thơ thông báo sự đến của mùa thu một cách mờ nhạt, với lá vàng mờ nhạt và không khí chung quanh trở nên ảm đạm. Các từ ngữ và hình ảnh này không chỉ mô tả cảnh sắc mùa thu mà còn làm nổi bật tâm trạng bi lụy và đau buồn mà nhà thơ đang trải qua. Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng những từ ngữ nhân hóa để tạo hình mùa thu như một người có tâm trạng, có khả năng khóc, và có khả năng dệt lá. Điều này tạo nên một hiện thực khác biệt, khiến mùa thu không chỉ là một phần của tự nhiên mà còn là một người bạn, một người đồng cảm với những tâm trạng của con người.

- Đoạn văn mẫu kết bài:

Với “Đây mùa thu tới”, nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô đơn.

* Bài viết tham khảo

Mùa thu, với vẻ đẹp và sự trữ tình đặc trưng, luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho những thi nhân, làm cho tâm hồn họ hòa mình vào không gian thơ mộng. Nguyễn Khuyến, trong bài thơ "Thu ẩm," tạo nên một bức tranh thu tĩnh lặng, hòa mình vào không khí yên bình của thôn quê. Lưu Trọng Lư, qua "Tiếng thu," mang lại cảm nhận tinh tế về một trời thu sống động, đầy ắp âm thanh của mùa lá rụng. Còn Xuân Diệu, với "Đây mùa thu tới," đưa người đọc đến với một mùa thu mới bắt đầu, nét đẹp đặc sắc và diệu kỳ mà ông nhìn nhận. Ngay từ tiêu đề "Đây mùa thu tới," độc giả đã cảm nhận được sự chấp nhận của tác giả đối với bức tranh mùa thu mới bắt đầu. Xuân Diệu không tập trung vào giữa mùa hay cuối mùa thu, mà là khoảnh khắc đất trời vừa chia tay mùa hè và bắt đầu hòa mình trong mùa thu mới. Từ đó, ông khám phá ra những diễn biến độc đáo của thiên nhiên và đưa chúng vào tác phẩm của mình.

Điều đặc biệt là cách Xuân Diệu nắm bắt sự chuyển đổi của đất trời. Ông không chỉ đơn thuần mô tả mùa thu qua hình ảnh lá rụng, mà còn lồng ghép sự kỳ diệu và phức tạp của sự sống. Từ những thay đổi nhỏ nhưng đầy ý nghĩa này, tác giả làm cho mùa thu trở nên huyền bí và phong cách hơn, khơi gợi sự tò mò và sự ngạc nhiên của độc giả.

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;

Đây mùa thu tới - mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Bài thơ của Xuân Diệu mở đầu bằng hình ảnh buồn bã của rặng liễu rũ. Thông qua từ ngữ tình cảm và tưởng tượng phong phú, nhà thơ tạo ra một bức tranh mùa thu đậm chất u sầu. Rặng liễu không còn hình ảnh êm đềm, mà thay vào đó, chúng được nhìn nhận như những giọt lệ buồn rơi xuống, tưởng chừng như đang kể lể về một cảm xúc bi thương, mất mát, hay một sự chia lìa đau đớn. Từ việc biểu hiện tâm trạng của rặng liễu, Xuân Diệu giữ nguyên tinh thần của mùa thu và chuyển đổi nó thành một thế giới của những cảm xúc đắng cay và uất ức. Ông làm cho mùa thu trở nên linh động, như một hình ảnh phản ánh của con người, với khả năng cảm nhận, buồn bã, và khóc lóc. Tiếp theo, nhà thơ thông báo sự đến của mùa thu một cách mờ nhạt, với lá vàng mờ nhạt và không khí chung quanh trở nên ảm đạm. Các từ ngữ và hình ảnh này không chỉ mô tả cảnh sắc mùa thu mà còn làm nổi bật tâm trạng bi lụy và đau buồn mà nhà thơ đang trải qua. Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tiếp tục sử dụng những từ ngữ nhân hóa để tạo hình mùa thu như một người có tâm trạng, có khả năng khóc, và có khả năng dệt lá. Điều này tạo nên một hiện thực khác biệt, khiến mùa thu không chỉ là một phần của tự nhiên mà còn là một người bạn, một người đồng cảm với những tâm trạng của con người.

“Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Khổ thơ mở đầu của tác phẩm đầy màu sắc và nét chấm phá, như là những nét vẽ tinh tế trên bức tranh thu, đậm chất biểu cảm về sự khô héo và u sầu. Tác giả sử dụng màu sắc để nền tảng cho tâm trạng thất vọng và chán chường của con người, đồng thời làm tôn lên vẻ buồn bã của mùa thu. Nét chấm phá, như những điểm xé bỏ trên bức tranh, thể hiện sự nát bại, xơ xác của mùa thu và tâm trạng u tối của nhân vật chính. Những dòng thơ dưới bàn tay tài năng của nhà thơ, tạo nên hình ảnh thu đầy buồn thương, với những đảo ngữ tinh tế, làm nổi bật sự biến đổi của mùa thu và tôn lên nét u ám, đau thương của tâm hồn con người.

Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả sử dụng hình ảnh "nàng trăng" để tạo ra một vẻ đẹp huyền bí và đồng thời thể hiện sự tiếc nuối, ngẩn ngơ trước sự thay đổi của thời gian và vũ trụ. Từ "nàng trăng" không chỉ là một biểu tượng của trăng mà còn là hình ảnh của một cô gái ngây thơ, mơ mộng, đứng đối diện với sự biến đổi đau thương của thế giới xung quanh. Như vậy, cả hai khổ thơ đã cùng nhau tạo nên một bức tranh mùa thu đẹp mắt và đầy tư duy, nơi tâm trạng con người hòa mình vào sự biến đổi của thiên nhiên và vũ trụ, thể hiện sự nhạy bén và tài năng sáng tác của nhà thơ.

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luồn trong gió…

Đã vắng người sang những chuyến đò…

Không chỉ trăng ngẩn ngơ, mà núi non cũng trở nên mờ nhạt, như một bức tranh mùa thu với sắc màu u tối và ảm đạm. Sự hiu quạnh, mờ ảo lan tỏa khắp vạn vật, tạo nên một không khí buồn bã và lạnh lẽo khi mùa thu bắt đầu. Cơn gió lạnh đầu mùa, gió thu, như những bàn tay lạnh giá, len lỏi vào từng khoảng trống của đất trời và tâm hồn con người, làm cho cảnh vật và tâm trạng trở nên buốt giá và cô đơn. Nhà thơ sử dụng từ ngữ sống động để miêu tả cảnh vật và tâm trạng trong mùa thu. Chuyến đò hàng ngày, một hình ảnh quen thuộc, giờ trở nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều này không chỉ là một hiện thực về cuộc sống hàng ngày mà còn là biểu tượng cho sự khô cằn và lạnh lẽo trong tâm hồn con người khi mùa thu đến. Từ "đã" như một phủ định, đánh dấu sự chắc chắn và thực tế của mùa thu, không còn là sự chờ đợi mà đã trở nên hiện hữu và đậm chất u uất. Tác giả thông qua bài thơ "Đây mùa thu tới" của mình đã tạo nên một bức tranh mùa thu đặc sắc, với một tâm trạng đầy nỗi buồn và đau khổ. Mùa thu không chỉ là thời điểm của sự khép kín và u ám mà còn là thời điểm của niềm đau và hoài niệm về những thời kỳ khó khăn trong lịch sử đất nước.

“Mây vẩn từng không, chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia ly.

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.

Nhà thơ Xuân Diệu trong "Đây mùa thu tới" đã thành công trong việc kết hợp tâm trạng cá nhân với hình ảnh của mùa thu, tạo nên một bức tranh cảm xúc độc đáo và sâu sắc. Dưới bàn tay tài năng của ông, mùa thu không chỉ là một khung cảnh tự nhiên mà còn là bản năng cảm xúc, tương tác với tâm hồn thi sĩ. Tâm trạng buồn rầu của tác giả được chuyển tải mạnh mẽ qua mô tả mùa thu. Những hình ảnh về rặng liễu rũ như giọt lệ, lá vàng mờ nhạt đều làm nổi bật sự u buồn, chất chứa nỗi đau lòng trong tâm trạng của nhà thơ. Sự nhạt nhòa và ảm đạm của mùa thu trở nên phản ánh cho tâm hồn uất hận và bi thương của người sáng tác.

Trong khổ thơ cuối, một loạt hình ảnh về sự chia lìa và tử biệt xuất hiện, nhấn mạnh sự đau thương và tuyệt vọng trong cuộc sống. Hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói, nhìn xa xăm tạo ra một không gian cảm xúc u tối, nơi nỗi đau vô hình trở nên rõ ràng. "Tự cửa" như một biểu tượng của sự mất mát và sự không biết bấu víu vào điều gì, đồng thời thể hiện tâm tư mơ hồ và mơ mộng của nhà thơ. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ phong phú, những từ ngữ nhân hóa, và cấu trúc câu thơ đặc sắc, tất cả kết hợp để tạo nên một bức tranh mùa thu không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn sâu sắc về tâm trạng và cảm xúc. Sự linh hoạt trong thể thơ tự do càng làm cho bức tranh thu trở nên tự nhiên và chân thực, chạm đến trái tim của người đọc.

Với “Đây mùa thu tới”, nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô đơn.

d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 5, phần Viết, mục d (trang 26), đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.

2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: Phân tích tác dụng của hình thức t

a) Cách thức

- Bài văn phân tích tác dụng của hình thức thơ là bài nghị luận về tác dụng của một hoặc toàn bộ yếu tố hình thức của tác phẩm thơ nhưnhan đề, thể loại, cầu tử, nhân vật trữ tình: giọng điệu, bối cảnh, hình tượng. bút pháp....

- Mỗi yếu tố hình thức trong một bài thơ có tác dụng nghệ thuật riêng. Ví dụ: nhan đề có tác dụng gợi dẫn về chủ đề của bài thơ, tạo cảm xúc hay đánh thức trường liên tưởng cho người đọc, cũng có khi chỉ là để gây tò mò, thu hút người đọc đến với bài thơ, cấu tử giúp người đọc nhận thấy được sự vận động và biến đổi trong mạch cảm xúc của bài thơ, nhân vật trữ tỉnh và giọng điệu có tác dụng đem đến một cách nhìn, một cách cảm thụ về thế giới, qua đó bộc lộ chủ đề và ý nghĩa của bài thơ....

Cần lưu ý là các yếu tố hình thức thơ không tồn tại biệt lập mà luôn tương tác, gắn bó với nhau để làm thành một chỉnh thể. Vì thế, khi phân tích, cần chú ý sự hỗ ứng, thống nhất của các yếu tố hình thức trong việc biểu đạt ý nghĩa, chủ đề của tác phẩm.

- Để viết được bài văn (hoặc đoạn văn) phân tích tác dụng của hình thức thơ, các em cần xác định rõ: Yếu tố hình thức đó là gì? Biểu hiện như thế nào? Yếu tố đó có mói hệ gì với các yếu tố hình thức khác? Yếu tố có vai trò như thế nào trong quan việc thể hiện chủ đề, ý nghĩa của bài thơ? Yếu tố đó đem lại ấn tượng gì, gợi ra những liên tưởng và so sánh gỉ cho người đọc?. Một điều đặc biệt quan trọng là phải chọn đủng được yếu tố hình thức độc đáo, có giá trị thẩm mĩ.

b) Bài tập (trang 48 sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 2): Trong các đoạn văn sau, người viết đã tập trung phân tích yếu tố hình thức nào trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu (Trích theo Chu Văn Sơn, “Thơ, điệu hẩu và cấu trúc". NXB Giáo dục, 2007),

- Đoạn 1: Cái động thái bộc lộ đầy dủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là với vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa để lợi vàng, hắn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.".

- Đoạn 2:

Ta thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng

Có thể nói, câu thơ Và non nước, và cây, và cỏ rạng là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ và đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ và hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cải tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!”

- Đoạn 3: Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép tương giao (correspondence) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới (...). Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác. Mùi tháng năm — thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại thương bay di là thời gian trôi mất, là phải nhạt phôi pha. Một chữ nhu cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ chữ vị liền đó lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất vị chia phải. Thì ra chữ rớm và chữ vị đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó.".

Trả lời:

Yếu tố hình thức trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu được người viết đã tập trung phân tích:

- Đoạn 1: Nhan đề trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu.

- Đoạn 2: Bút pháp trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu.

- Đoạn 3: Bút pháp trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Thực hành tiếng Việt trang 44

Giới thiệu một tác phẩm thơ

Tự đánh giá: Tràng giang

Hướng dẫn tự học trang 53

Kiến thức Ngữ văn trang 54

1 130 lượt xem


Xem thêm các chương trình khác: