TOP 10 mẫu Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (2024) SIÊU HAY

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm lớp 9 gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.

1 12269 lượt xem
Tải về


Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm - Ngữ văn 9

Dàn ý số 1

1. Mở bài: Giới thiệu về Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho tài đức vẹn toàn, là một người có nhiều đóng góp lớn trong thi đàn văn học Việt Nam.

2. Thân bài

a. Giới thiệu về tiểu sử

– Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 -1585), quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

– Ông đỗ trạng nguyên năm 1535, sau đó ra làm quan dưới triều nhà Mạc.

– Là một người tính ngay thẳng, không ưa xu nịnh luồn củi. Có lần ông dâng sớ lên triều đình muôn vạch tội bọn lộng thần nhưng nhà vua không nghe theo. Ông cáo quan về quê dạy học, lấy hiệu là Bạch Vân và sống cuộc đời ẩn dật ở quê nhà.

– Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, biết nhìn xa trông rộng, nhiều lần ông đã mách bảo kín đáo cho vua chúa nhằm hạn chế chiến tranh, chết chóc cho người vô tội.

b. Giới thiệu về sự nghiệp

– Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc, ông đế lại khoảng 700 bài thơ chữ Hán và hơn 170 bài thơ chữ Nôm.

– Tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu là những giáo huấn, những triết lí ca ngợi chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, phê phán những thói xấu trong xã hội.

3. Kết bài

– Nguyễn Bỉnh Khiêm là tấm gương sáng về tài năng và nhân cách. Tấm gương đó còn sáng soi đến mãi ngày nay và sau này.

Sau đó, từ dàn ý chung này các em học sinh sẽ thêm những chi tiết cụ thể, những thông tin, nhận định của mình về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và các em sẽ có được dàn ý chi tiết cho đề bài Thuyết mình về Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Dàn ý số 2

Mở Bài : Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm

VD : Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho tài đức vẹn toàn, là một người có nhiều đóng góp lớn trong thi đàn văn học Việt Nam.

Thân Bài :

– Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 -1585), quê ở làng Trung Am, nay thuộc xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.

– Ông đỗ trạng nguyên năm 1535, sau đó ra làm quan dưới triều nhà Mạc.

– Là một người tính ngay thẳng, không ưa xu nịnh luồn củi. Có lần ông dâng sớ lên triều đình muôn vạch tội bọn lộng thần nhưng nhà vua không nghe theo. Ông cáo quan về quê dạy học, lấy hiệu là Bạch Vân và sống cuộc đời ẩn dật ở quê nhà.

– Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, biết nhìn xa trông rộng, nhiều lần ông đã mách bảo kín đáo cho vua chúa nhằm hạn chế chiến tranh, chết chóc cho người vô tội.

– Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ lớn của dân tộc, ông đế lại khoảng 700 bài thơ chữ Hán và hơn 170 bài thơ chữ Nôm.

– Tư tưởng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu là những giáo huấn, những triết lí ca ngợi chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, phê phán những thói xấu trong xã hội.

Kết Bài :

– Khẳng định tài năng và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm

VD : Nguyễn Bỉnh Khiêm là tấm gương sáng về tài năng và nhân cách. Tấm gương đó còn sáng soi đến mãi ngày nay và sau này.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (30 mẫu) SIÊU HAY

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 1)

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.

Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.

Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).

Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng "kinh bang tế thế". Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền...

Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.

Tuy nhiên, "một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng về duy tâm. Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của Chu dịch... ông đã nhận được trong nền giáo dục Nho học đương thời, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo đức kinh. Đó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhiều nhà triết học cổ đại" (Đào Thái Tôn). Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng là "cây đại thụ", nhà học giả, nhà triết gia của thế kỷ.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (5 mẫu) (ảnh 1)

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 2)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của Đại Việt trong thế kỉ XVI. Xuất thân trong một gia đình vọng tộc ở Trung Am, Vĩnh Bảo, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Ông học giỏi, tài cao đức trọng, nhưng sống giữa thời loạn lạc, nên chỉ nuôi chí chờ thời, mãi đến năm 45 tuổi mới đi thi. Năm 1535 đỗ Trạng Nguyên, làm đại quan của triều Mạc. Ông có câu thơ chữ Hán: "Văn khôi tam thượng tiếu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường.

Sau tám năm làm quan, ông dâng sơ vạch tội 18 tên lộng thần nhưng không được vua Mạc Phúc Hải chấp nhận, ông cáo bệnh từ quan về quê. Ông mở trường dạy học, dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân, xưng là Bạch Vân cư sĩ. Ông đã đào tạo được nhiều học trò lỗi lạc như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khanh, Nguyễn Quyện,…

Ông giỏi lý học, có tài văn thơ, lo đời và thương dân. Ngoài những sấm ký truyền kỳ, ông còn để lại tập thơ Nôm "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" có khoảng 200 bài, và tập thơ chữ Hán "Bạch Vân am thi tập" trên dưới 1000 bài. Thơ của ông giàu suy tư, triết lý, thể hiện một quan niệm nhân sinh coi trọng nhân tâm, xa lánh chốn bon chen danh lợi, giàu tình ưu ái. Thơ chữ Hán thì hàm súc, điêu luyện và cao khiết; thơ chữ Nôm thì bình dị, hồn nhiên, giàu hương vị dân gian.

Những bài thơ văn như "Hữu cảm", "Trung Tân ngự hứng", "Tăng thử", "Nhàn",… của ông được nhiều người truyền tụng.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời ngưỡng mộ gọi là "Tuyết Giang phu tử", xứng đáng là "Mặt trời giữa bầu trời" (Như nhật trung thiên).

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Đã Gây Ảnh Hưởng Đến Các Triều Đại Như Thế  Nào? | BÍ ẨN SỬ VIỆT - YouTube

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 3)

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.

Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.

Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như “phù vân”. Ông thương xót cho “vận mệnh” quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của “dân đen”, “con đỏ”. Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, “vận mệnh” của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế “chân vạc”. Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho “số phận” nên đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).

Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”, ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thể” (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra “năm trăm năm sau”. Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả “thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự” (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: “Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng “kinh bang tế thế”. Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền…

Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông “không bận tâm đi vào xu hướng duy lý… đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện – hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát “luật” đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen – trắng, tốt – xấu, đầy – vơi, sinh – diệt, vuông – tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.

Tuy nhiên, “một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng về duy tâm. Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của Chu dịch… ông đã nhận được trong nền giáo dục Nho học đương thời, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo đức kinh. Đó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhiều nhà triết học cổ đại” (Đào Thái Tôn).

Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử và con người thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng là “cây đại thụ”, nhà học giả, nhà triết gia của thế kỷ.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 4)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tựlà Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam – Bắc triều (Lê – Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535)và làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn Đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của ông còn lưu lại đến ngày nay.

Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông (1491), ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định (người huyện Vĩnh Lại) là người có tướng sinh quý tử.

Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng). Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn (Tuyết Giang) nối đôi bờ.Về hành trạng của bà Nhữ Thị Thục, các tài liệu nghiên cứu đến nay vẫn chưa thống nhất về tính xác thực của những giai thoại trong dân gian kể rằng bà chê ông Nguyễn Văn Định không biết cách dạy con nên đã bỏ về nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ(bởi với biệt tài lý số của mình, bà Nhữ Thị Thục đã tiên đoán nhà Lê sơ 40 năm sau thời thịnh trịcủa Lê Thánh Tông sẽ đi vào suy tàn nên bà muốn dạy Nguyễn Văn Đạt học cách làm vua để có thể giành được ngôi vị đế vương về sau, điều này trái với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định). Nhiều nguồn sử liệu trước đây khẳng định rằng sau khi bỏ về nhà cha mẹ đẻ, bà đã vượt qua lễ giáo phong kiến mà đi bước nữa để rồi sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (người làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ). Nhưng nhiều nghiên cứu hiện nay cho rằng điều này rất khó xảy ra bởi bà Nhữ Thị Thục sinh ra Nguyễn Văn Đạt khi đã luống tuổi (ngoài 20 tuổi) trong khi Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Văn Đạt) tới 37 năm. Một điều nữa là bà Nhữ Thị Thục sau khi qua đời lại được an táng bên nhà cha mẹ đẻ ở làng An Tử Hạ mà không phải tại làng Trung Am bên nhà chồng như quan niệm truyền thống xưa nay.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn (thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm) ở thôn An Tử Hạ cònghi lại: “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, qua đó cho thấy mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ. Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều (thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cất công vào tận xứThanh đểtầm sư học đạo. Lương Đắc Bằng từng là một đại thần giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ nhưng sau khi những kế sách nhằm ổn định triều chính do ông đưa ra không được vua Lê cho thi hành, Lương Đắc Bằng đã cáo quan về quê sống đời dạy học (1509). Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu đã trở thành học trò xuất sắc nhất của người thầy họ Lương. Bởi vậy mà trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc Bằng đã trao lại cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là Thái Ất thần kinh đồng thời ủy thác người con trai Lương Hữu Khánh của mình cho Nguyễn Bỉnh Khiêm dạy dỗ.

Lớn lên trong thời đại loạn (giai đoạn triều Lê sơ rơi vào khủng hoảng, suy tàn), không muốn đi lại vết xe cũ của người thầy Lương Đắc Bằng nên từ khi trưởng thành cho đến khi ra ứng thí (1535), suốt hơn 20 năm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bỏ qua tới 9 kỳ đại khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay Trạng nguyên. Năm ấy ông đã 45 tuổi. Ngay sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư (chuyên việc soạn thảo, sửa chữa các văn thư của triều đình) rồi sau được cử giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Nhưng sự qua đời đột ngột của Mạc Thái Tông vào năm Đại Chính thứ 11 khi mới 41 tuổi (1540) đã kết thúc giai đoạn được coi là thịnh trị nhất dưới triều Mạc đồng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mất đi một chỗ dựa vững chắc cho việc thực hiện những hoài bão trị quốc của mình. Nhân lúc triều chính nhiễu nhương chia bè kết phái do Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) còn ít tuổi lên thay vua cha nhưng chưa đủ năng lực điều hành chính sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dâng sớ trị tội 18 lộng thần (trong đó có cả con rể của ông là Phạm Dao làm Trấn thủ Sơn Nam) nhưng không được vua chấp thuận. Bởi vậy, năm 1542 ông xin về quê trí sĩ sau 8 năm làm quan tại triều đình.

Sau hai năm về trí sĩ, tới năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc lại cho người vềphong tước Trình Tuyền Hầu cho ông, rồi sau lại thăng ông lên chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó, tước Trình Quốc Công. Do vậy mà dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Một số nhà nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nguồn gốc của tên gọi Trình Tuyền (gắn với tước hiệu Trình Tuyền Hầu và Trình Quốc Công của ông) là bắt nguồn từ tên địa danh của làng Trung Am từ trước chứ không phải là bắt nguồn từ họ tên người theo ý hiểu rằng “Nguyễn Bỉnh Khiêm là người hiểu rõ suối nguồn Lý học của họ Trình (tức Trình Di và Trình Hạo) đời Tống bên Trung Quốc”.

Gần hai chục năm từ năm 53 tuổi tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn kinh đô nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính,lúc bàn quốc sự, lúc theo xa giá nhà vua đi dẹp loạn, vua Mạc tôn kính ông như bậc quân sư. Những việc trọng đại nhà vua thường sai sứ giả về hỏi (trong đó có lời khuyên nổi tiếng đã đi vào sử sách: Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế), có khi lại đón ông lên kinh để bàn việc, xong rồi ông lại trở về làng Trung Am. Ngoài 73 tuổi, ông mới chính thức treo ấn từ quan, về quy ẩn nơi quê nhà. Trạng nguyên, Tô Khê hầu Giáp Hải một người bạn lâu niên với Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm thơ ca ngợi tài đức cũng như công lao của ông đối với triều Mạc, trong đó có những câu như “Lực phù nhật cốc trụ kình thiên” (năng lực phò vua như cột chống đỡ trời) hay “Tứ triều huân nghiệp nhân trung kiệt” (một tay anh kiệt huân nghiệp trải bốn triều vua).

Trong những năm trí sĩ cũng nhưthời gian quy ẩn tại quê nhà, ông đã cho dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mởtrường dạy học cạnh sông Tuyết (còn có tên là sông Hàn). Vì vậy mà về sau các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”. Học trò của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông)… Nhiều tài liệu văn học sử cho rằng Nguyễn Dữ(tác giả của Truyền kỳ mạn lục) cũng từng là học trò của ông và được ông phụ chính tác phẩm để Truyền kỳ mạn lục trở thành một áng thiên cổ kỳ bút như Vũ Khâm Lân đã ca ngợi. Tuy nhiên cũng có một số nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Dữ chưa từng là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm mà chỉ là một người sống cùng thời với ông. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất của giới nghiên cứu văn học cũng như lịch sử.

Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), ông tạ thế tại quê nhà ởtuổi 95, đây là tuổi thọ hiếm có đương thời. Trước khi qua đời, ông còn dâng sớ lên vua Mạc: “… Thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy, vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng”. Bấy giờ vua Mạc Mậu Hợp cử Phụ chính đại thần Ứng vương Mạc Đôn Nhượng cùng văn võ bá quan về lễ tang để tỏ sự trọng thị. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang đã nói lên sự trân trọng rất lớn của triều Mạc với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triều đình lại sai cấp ruộng tự điền trăm mẫu, đồng thời cấp ba nghìn quan tiền để lập đền thờ ông tại quê nhà, đích thân vua đề chữ lên biển gắn trước đền thờ là “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ”.

Theo bản Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) do Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân soạn năm 1743, Nguyễn Bỉnh Khiêm có cả thảy ba người vợ và 12 người con, trong đó có 7 người con trai. Cũng giống như cha, hầu hết các con trai của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều theo phò tá nhà Mạc. Bởi vậy sau khi nhà Mạc bị thất thủ dưới tay nhà Lê-Trịnh (1592), con cháu ông đều phải thay tên đổi họ, li tán thập phương. Một chi họ do người con trai cảcủa ông là Hàn Giang hầu Nguyễn Văn Chính đứng đầu đã di cư về vùng Trường Yên thuộc đất Hoa Lư, Ninh Bình ngày nay và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang nhằm tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Lúc sinh thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết bên quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng mẹ Nhữ Thị Thục rồi về sau tạo thành một chi họ Nguyễn hậu duệ của Trạng Trình trên đất Tiên Lãng ngày nay.

Nếu Nguyễn Trãi có nhiều lần đọc “Pháp Bảo đàn kinh” (tác giả từng viết “Môn Thiền nhất phái Tào Khê thủy”, “Vô thụ phi đài ngữ nhược tâm” –”Du Nam Hoa tự”);
Nguyễn Du sau này đã viết “Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh” (Tụng đọc “Kinh Kim Cương” hơn nghìn vạn lần) (“Lương Chiêu Minh thái tửphân kinh thạch đài”) thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài “Độc Phật kinh hữu cảm”. Ông đã chịu ảnh hưởng Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà nho có cái nhìn thời thếrất sâu sắc, độc đáo. Ông học được những kiến thức Nho học từ Lương Đắc Bằng (thuộc phái Tượng số học của Tống Nho). Học trò suy tôn ông là Tuyết Giang Phu Tử–một bậc chân nho.

Tuy nhiên ta vẫn gặp thái độnhư không mấy lạc quan trong cuộc đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi: “Nho quan tự tín đa thân ngộ” (Tự biết “cái mũ nhà nho” đã làm cho tấm thân mắc nhiều lầm lỡ – “Ngụ hứng, 3”, “Bạch Vân am thi tập”). Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan với nhà Mạc nhưng ông cũng thấy được sự đổ nát từ bên trong. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng. Về trí sĩ ông lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ như là một tín đồ nhà Phật. (Cha ông là Văn Định cũng đã từng lấy đạo hiệu là Cù Xuyên).

Về quê ông tích cực xây chùa, mở trường học. Thường ngày ông cùng với vài nhà sư, một số bạn bè dạo chơi các danh thắng trong đó có núi Yên Tử – trung tâm thiền học Việt Nam. Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh (ngôi chùa được xây dựng từthời nhà Trần), ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia: “Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại” (Pháp giới sánh ngang tầm rộng lớn của trời) “Du Phổ Minh tự”). Điều này chứng tỏông đã nhận thức được tư tưởng “Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp” ở “Kinh Kim Cang” [7, 56]. Đến tiết Trung nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm hy vọng ở lòng yêu thương rộng lớn:”Từ bi ta muốn nhờ công sức, Cứu được bao người chịu khổ oan” (“Trung nguyên tiết xá tội” –Đinh Gia Khánh dịch). Nhà thơ rất cảm hứng khi đọc kinh Phật (“Độc Phật kinh hữu cảm”). Ông tâm đắc triết lý sắc không: “Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc” (“Tân quán ngụhứng, 12”). Đây là tư tưởng “Sắc tức thịkhông, không tức thịsắc” nổi bật của “Kinh Bát nhã” Tư tưởng Thiền có lẽ đã gây chấn động trong nhận thức của tác giả: “Vị Phật na tri vô hữu tướng, Đáo thiền phương ngộ bổn lai ky (cơ)” (Chưa Phật nào hay vô hữu tướng, Đạt thiền mới biết bổn lai cơ –”Tân quán ngụ hứng, 18″). Tư tưởng này được tìm thấy ở”Kinh Kim Cang”. Khi Phật nói với Tu –bồ-đề: “Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu các ông thấy các pháp (tướng) đều hư vọng, không thật (phi tướng) tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp)” [7, 41]. Tư tưởng này cũng được tiếp nối ở”Pháp Bảo Đàn kinh”. Tác giả nói “Bổn lai cơ” trong trường hợp này không ngoài mệnh đề “Bổn lai vô nhất vật” (“Pháp Bảo Đàn kinh”). Khái niệm “cơ” ở cuối câu có thể có nguồn gốc xuất pháp từ Tượng Số học –vốn là sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính tư tưởng Thiền và kinh Phật đã làm phong phú và nâng cao bản lĩnh Nho học cùng bản sắc trí tuệ trong thơ và đời Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 5)

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri…Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sựphát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉcủa thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đềtựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết: “… Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân” (Bạch Vân am thi tập tiền tự).

Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập (còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập), chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký) của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc.

Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân trong bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký soạn năm 1743, có đôi dòng nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị… như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy”. Danh sĩ thời nhà Nguyễn là Phan Huy Chú trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí ở phần Văn tịch chí cũng gần như có chung quan điểm với Vũ Khâm Lân khi nhận xét về thơ văn Trạng Trình: “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên”.

Như PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) đã đánh giá, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.

Về số lượng mà xét thì Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà quán quân. Tuy nhiên vấn đề không chỉlà số lượng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có một phong cách thơ riêng không lẫn. Ai cũng biết một nguyên tắc thẩm mỹ quan trọng của thơ thời trung đại là “thơ ngôn chí”, nguyên tắc mà các nhà nghiên cứu hiện đại thường xem là làm hạn chế tính thẩm mỹ của thơ và ngay các nhà thơ cổcũng không phải đều nhất nhất tuân theo. Thế nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tuân theo một cách “triệt để” và với một cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ. Với ông, đề vịnh, tự sự, tự thuật cũng đều để ngôn chí, và phong cách riêng của ông cũng được xác định chính từ những vần thơ ngôn chí ấy. Thơ văn của ông thể hiện sự ưu thời mẫn thế, đậm chất triết lý, giáo huấn nhưng vẫn gần gũi và dễ tiếp nhận.

Theo đánh giá của GS. Nguyễn Huệ Chi trong bài tham luận “Bước đầu suy nghĩ vềVăn học Mạc”, thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu cho sự khởi đầu của một hình thức tư duy mới trong tiến trình hoàn thiện thơ ca trung đại Việt Nam. Đó là tư duy thế sự. Thơ vẫn mang tính trữ tình nhưng là “trữ tình lý trí”. Nó mang hình thức không phải là tư duy cảm tính mà là tư duy lý tính, nhìn thẳng vào xã hội nên gọi là tư duy thế sự. Bởi vậy thơ có tính phát hiện, hiện thực rất đáng kể. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn sâu vào các ngóc ngách của xã hội để thấy bức tranh phức tạp của xã hội mà bức tranh ấy diễn ra một cách tự nhiên bởi nó là bức tranh xã hội có thực. Vì là tư duy thế sự nên cũng nhìn sâu vào tâm lý con người. Trong khi ở thời trước đó (điển hình là thời của Lê Thánh Tông) mọi thứ trong xã hội đều được ước lệ hoá, công thức hoá, được mỹ hoá thành một xã hội chung chung đâu cũng như nhau.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là người tiếp nối cho sự phát triển và hoàn thiện của nền thơ ca dân tộc kể từ sau Nguyễn Trãi, đồng thời bổsung vào đó đậm đặc hơn, chất triết lý, suy tưởng và giáo huấn, để thơ trở thành một công cụ hữu ích, phục vụ con người, phản ánh hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn khái quát của một triết gia, trong đó có những chiêm nghiệm từng trải của cá nhân ông. Giàu chất trí tuệ, thơ ông là những khát vọng muốn khám phá những quy luật của thiên nhiên, xã hội và của cả con người, nhằm tự vượt thoát ra khỏi những bế tắc của một thời và có ảnh hưởng sâu sắc tới tận ngày hôm nay, cả về tư tưởng và nghệ thuật của thơ, cả về tầm vóc văn hóa và nhân cách của một nhà thơ, được thể hiện rõ nét nhất qua Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các học giả như GS. Nguyễn Huệ Chi (Viện Văn học) và PGS.TS. Trần Nguyên Việt (Viện Triết học) có chung quan điểm khi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người mở đầu cho tư duy biện chứng trong lịch sửtư tưởng Việt Nam dưới cái nhìn mang đậm tính triết học thể hiện qua thơ văn của ông.

Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ (cả chữ Hán và chữ Nôm) còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia (bi ký) nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh… Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình (nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa). Những văn bia đó không chỉ có giá trị về mặt lịch sử hay khảo cổ mà còn chứa đựng nhiều giá trị về mặt tư tưởng cũng như nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong số đó, có giá trị nhất là bài văn bia tại quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn với nội dung như sau: “… Tôi viết biển đề tên Quán Trung Tân. Có người hỏi tôi: Quán tên là Trung Tân có ý nghĩa như thế nào? Tôi trảlời rằng: Trung là đạo trung, giữ được toàn Thiện là Trung, trái lại thì không phải là Trung. Còn Tân là bến để đậu, biết chỗ bến đậu đúng thì là bến chính, nếu đậu sai chỗ là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ chí Thiện… Xin ghi vào đá đểlưu lại lâu dài. Tháng Mạnh xuân, niên hiệu Quảng Hoà thứ ba (1543) Tiến sĩ cập đệ khoa Ất Mùi (1535) Lại bộ Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ Tư chính Khanh Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn” (Bản dịch của nhà sửhọc Ngô Đăng Lợi). Qua bài văn bia này, ông không chủ trương trung với một cá nhân nào dù đó là một ông vua, mà làtrung với lẽ phải, với chân lý, với điều thiện và với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.

Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm kí Nôm thường mang tên Trạng Trình (Sấm Trạng Trình) và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm kí, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 6)

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho nổi tiếng có tài đức vẹn toàn. Ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà vô số những tác phẩm giá trị. Ông được coi là một trong nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất đến lịch sử và văn hoá nước ta ở thế kỉ XVI.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 mất năm 1585, tên huý là Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân am cư sĩ. Ông được sinh ra tại làng Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành thành phố Hải Phòng. Nguyễn Bỉnh Khiêm là cháu ngoại của quan thượng thư Nhữ Văn Lan, sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc, có học vấn cao thời bấy giờ. Cả cha và mẹ của ông đều là những người có học vấn, văn tài học hạnh nên ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được tiếp thu sự giáo dục gia giáo và kỉ cương. Đặc biệt mẹ của ông, bà Nhữ Thị Thục - con gái của thượng thư Nhữ Văn Lan, tương truyền bà là người giỏi về thuật tướng số, tinh thông về địa lý, nên ngày từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chào đời, bà đã dốc lòng đào tạo, dạy dỗ ông trở thành một người tài giỏi để giúp nước, cũng như cứu đời. Chính vì vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sớm được người thầy đức cao vọng trọng là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng - người từng giữ chức Thượng thư dưới triều Lê sơ dạy bảo. Có một người phụ mẫu hết lòng vì con cùng một người thầy giỏi, Nguyễn Bỉnh Khiêm từ nhỏ sớm tinh thông mọi học vấn và trở thành một tài năng vô cùng kiệt xuất.

Là một người có tài có đức nhưng đáng tiếc, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy những biến động. Nhà Lê suy thoái, họ Mạc lộng hành, chiến tranh phe phái nổi lên khắp nơi. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc. Có lẽ chính vì sống trong hoàn cảnh xã hội như thế mà suốt những năm tháng còn trẻ, dù học rộng, hiểu nhiều nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa một lần đi thi thố, chỉ sống ẩn dật tại quê nhà. Mãi tận năm 1535, dưới triều Mạc, khi đã 45 tuổi, ông mới đi thi lần đầu. Ba lần thi Hương, Hội, Đình, ông đều đứng đầu tiên, năm đó ông đỗ Trạng Nguyên và ra làm quan dưới triều nhà Mạc, được phong chức Tả thị lang (một chức quan đứng thứ ba trong bộ Hình). Với một người có tư tưởng lớn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, làm quan dưới thời Mạc, ông mong muốn xã hội được cải cách, đất nước được đổi mới. Đúng khi ấy, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh - một người rất đảm lược, có chí khí. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhìn ra được điều đó ở nhà vua mới, vậy nên ông càng hi vọng Mạc Đăng Doanh sẽ giúp đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đây đã gây ra.

Thế nhưng, niềm hi vọng của ông lại lần nữa bất thành khi Mạc Thái Tông qua đời đột ngột, Mạc Hiến Tông lên ngôi, chưa đủ khả năng điều hành chính sự, triều đính kết bè phái. Không muốn đất nước lại lần nữa rơi vào cảnh chiến tranh, chết chóc, ông dâng sớ chém đầu 18 lộng thần. Vua không nghe, ông thất vọng bèn cáo quan về ở ẩn tại quê hương, lập nên quán Trung Tân, dựng lên am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy làm quan ngắn ngủi nhưng tài năng và kiến thức của ông đã khiến cho vua quan nhà Mạc cũng như chúa Trịnh, Nguyễn đều hết sức nể trọng. Mỗi khi có việc gì hệ trọng, họ đều sai người hỏi ý kiến của ông. Là một học giả có tấm lòng thương xót cho "vận mệnh" của quốc gia, cũng như cảm thông sâu sắc với những nỗi thống khổ của người dân, ông luôn mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình, tránh khỏi lửa, chiến tranh tương tàn. Mà khi ấy, những thế lực trong nước chưa thể đảm đương được việc thống nhất một mối. Vậy nên khi những tập đoàn phong kiến hỏi kế sách, ông thường bày cho họ những phương sách để tạo nên thế cục cân bằng, giữ yên bình cho quốc gia. Tương truyền, năm 1568, khi Trịnh Kiểm sát hại Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng kinh sợ, bèn cho người hỏi ý Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông chỉ nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (dựa vào một dải Hoành sơn, có thể lập nghiệp lâu dài), vậy nên Nguyễn Hoàng đã xin chúa Trịnh được vào trấn thủ ở đất Thuận Hóa. Cũng vào thời đó, tại kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh ra sức muốn phế bỏ vua Lê, sai người hỏi ý Trạng Trình. Ông không hề trả lời mà chỉ dẫn sứ giả ra thăm chùa đồng thời nói với nhà sư trong chùa rằng: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", tức là ý muốn chúa Trịnh hãy cứ tôn phò vua Lê để giữ được quyền hành đất nước.

Không chỉ là một người có kiến thức sâu rộng, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được biết đến như một người có tài tiên tri. Sau khi nhà Mạc lên ngôi vài năm, chiến tranh, loạn lạc xảy ra liên miên khiến cho nhà Mạc phải bỏ chạy. Nhà Mạc có ý muốn lên vùng đất Cao Bằng để thế thủ mới sai người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đáp lại rằng: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thể" tức là Cao Bằng tuy là nơi đất hẹp nhưng có thể giữ được vài đời. Quả đúng như lời Trạng Trình, nhà Mạc ở đất Cao Bằng, giữ được ba đời mới bị diệt. Có thể nói rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một học giả "trên thông thiên văn, dưới tường địa lí" mà còn là một người thấu hiểu nhân sinh, sự đời. Ông được nhà Mạc phong tước Trình tuyền hầu, Trình quốc công nên được dân gian gọi là Trạng Trình.

Tới ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, ông qua đời ở tuổi 95 tại quê nhà. Trước khi mất, ông vẫn dâng sớ lên nhà Mạc với hi vọng nhà vua có thể "lấy con dân làm gốc, lấy nước làm trọng" để giữ gìn "cơ nghiệp tổ tiên" cũng như mang tới sự thái bình, thịnh trị cho dân. Có thể thấy, tới cuối cuộc đời mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa lúc nào thôi nghĩ cho nước, cho dân, một lòng vì đất nước.

Về sự nghiệp văn chương, ông để lại cho hậu thế tập thơ chữ Hán với khoảng 700 bài mang tên Bạch Vân am thi tập và tập thơ chữ Nôm mang tên Bạch Vân quốc ngữ thi với khoảng 170 bài. Thơ của ông không chỉ đậm chất triết lí, giáo huấn mà còn ca ngợi chí khí của bậc quân tử, thú vui thanh nhàn hay phê phán những điều xấu xa ở trong xã hội. Đặc biệt, ông gay gắt phê phán những tên quan lại tham ô, nhũng nhiễu nhân dân. Đọc thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy một tấm lòng nghĩ cho nước, cho dân, những đạo lí vua tôi, cha con, bè bạn sâu sắc. Có lẽ, cả cuộc đời mình ông luôn trăn trở với một đạo lí duy nhất: "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" tức "lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ". Vậy nên khi ông mở lớp dạy học đã có vô số học trò đến theo và trở thành những người nổi tiếng, cống hiến cho sự nghiệp của nước nhà như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Khuyến,...

Cả cuộc đời mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trở thành một nhà chính khách uy tín, một nhà hiền triết, tiên tri, một nhà thơ với những đóng góp rất quan trọng cho văn học nước nhà. Ông là một tấm gương sáng về tài năng và nhân cách của một con người đức độ, toàn tài. Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ mãi được các thế hệ sau ghi nhớ như một con người hết lòng vì dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 7)

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của Đại Việt trong thế kỉ XVI. Xuất thân trong một gia đình vọng tộc ở Trung Am, Vĩnh Bảo, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Ông học giỏi, tài cao đức trọng, nhưng sống giữa thời loạn lạc, nên chỉ nuôi chí chờ thời, mãi đến năm 45 tuổi mới đi thi. Năm 1535 đỗ Trạng Nguyên, làm đại quan của triều Mạc. Ông có câu thơ chữ Hán: "Văn khôi tam thượng tiếu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường.
Sau tám năm làm quan, ông dâng sơ vạch tội 18 tên lộng thần nhưng không được vua Mạc Phúc Hải chấp nhận, ông cáo bệnh từ quan về quê. Ông mở trường dạy học, dựng quán Trung Tân, lập am Bạch Vân, xưng là Bạch Vân cư sĩ. Ông đã đào tạo được nhiều học trò lỗi lạc như Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khanh, Nguyễn Quyện,…

Ông giỏi lý học, có tài văn thơ, lo đời và thương dân. Ngoài những sấm ký truyền kỳ, ông còn để lại tập thơ Nôm "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" có khoảng 200 bài, và tập thơ chữ Hán "Bạch Vân am thi tập" trên dưới 1000 bài. Thơ của ông giàu suy tư, triết lý, thể hiện một quan niệm nhân sinh coi trọng nhân tâm, xa lánh chốn bon chen danh lợi, giàu tình ưu ái. Thơ chữ Hán thì hàm súc, điêu luyện và cao khiết; thơ chữ Nôm thì bình dị, hồn nhiên, giàu hương vị dân gian.

Những bài thơ văn như "Hữu cảm", "Trung Tân ngự hứng", "Tăng thử", "Nhàn",… của ông được nhiều người truyền tụng.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được người đời ngưỡng mộ gọi là "Tuyết Giang phu tử", xứng đáng là "Mặt trời giữa bầu trời" (Như nhật trung thiên).

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 8)

Nguyễn Bỉnh Khiêm, sinh năm 1491 và mất năm 1585, thọ 95 tuổi. Ông học rộng, đức trọng, tài cao. Mãi đến năm 45 tuổi mới đi thi và đã đậu Trạng nguyên dưới triều nhà Mạc. Sau một thời gian làm quan, ông về sống ở quê nhà (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) mở trường dạy học, đào tạo được nhiều nhân tài, dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân,... Lúc ống mất, vua nhà Mạc trung phong là Trình Ọuốc Công.
Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với các danh hiệu: Tuyết Giang Phu Tử. Bạch Vân cư sĩ, Trạng Trình...
Ông còn là nhà thơ lớn của Đại Việt, để lại 2 tác phẩm thơ: Bạch Vân am thi tập bằng chữ Hán trên nghìn bài, Bạch Vân quốc ngữ thi lập bằng chữ Nôm có vài trăm bài.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hàm súc, điêu luyện, vừa cổ điển, vừa đậm đà phong vị dân gian, giàu suy tư, triết lí, đề cao tình nghĩa, đề cao chữ “nhàn”, xa lánh bon chen danh lợi, yêu hòa bình, lên án chiến tranh.
Hãy ngâm một vài vần thơ của ông Trạng:
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử,
Hết xôi, hết rượu, hết ông tôi!
hay:
Thớt có tanh tao ruồi đổ đến,
Gang không mật mỡ kiến bò chi!
hay:
Xưa nay nhân giả là vô địch,
Lọ phải khư khư thích chiến tranh.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 9)

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà Nho nổi tiếng trung thành. Ông đã đóng góp nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học nước nhà. Ông được coi là một trong những người có ảnh hưởng lớn đến lịch sử và văn hóa của Hàn Quốc vào thế kỷ 16.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 mất năm 1585, hiệu là Vạn Đạt cư sĩ, tên thật là Hạnh Phú, hiệu Bạch Vân am. Ông quê ở làng Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Nguyễn Bỉnh Khiêm là cháu ngoại của Thượng thư Nhữ Văn Lan, sinh ra trong một gia đình khoa bảng, đương thời mất. Vì cha và mẹ đều là những người có học, có văn, có đức nên ngay từ nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được dạy dỗ có nề nếp, trật tự. Đặc biệt, mẹ của ông là con gái của Bộ trưởng Nhữ Văn Lan, bà. Đây là Nhữ Thị Thục. Thông thạo các con số và thông thạo địa lý, Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay từ khi sinh ra đã chuyên tâm vào sự nghiệp của mình. Tôi sẵn sàng đào tạo và dạy dỗ để trở thành những hiền tài có công giúp nước, cứu dân. Vì vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm được quân sư Lương Đắc Bằng, người giữ chức Thượng thư thời Lê sơ, coi trọng. Có một người mẹ tận tụy và một người thầy tốt với con cái, Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay từ nhỏ đã tinh thông mọi phép tắc và bộc lộ tài năng xuất chúng.

Là một người tài năng và đức độ, tiếc thay Nguyễn Bỉnh Khiêm lại lớn lên trong thời kỳ lịch sử đầy biến động. Nhà Lê suy vong, họ Mạc lâm vào cảnh loạn lạc, chiến tranh bè phái nổ ra khắp nơi. Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc. Điều này có lẽ là do từ nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống trong hoàn cảnh xã hội như vậy nên dù học hành, hiểu biết nhiều nhưng bà sống ẩn dật ở quê nhà, không thi cử. Mãi đến năm 1535, thời nhà Mạc, ông mới đi thi đầu năm 45 tuổi. Ông ba lần đỗ đầu trong các kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình, năm đó đỗ Trạng Nguyên, làm quan nhà Mạc, được tước Tả thị lang (Đệ tam giáp đồng). loạt ảnh). Cùng với những nhà tư tưởng lớn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, quan Đại thần Makhơ, ông muốn đổi mới xã hội, thay đổi đất nước. Đúng lúc đó, Mạc Đăng Dung đã truyền ngôi cho người con rất mưu lược, dũng cảm là Mạc Đăng Doanh. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhìn thấy điều đó ở vị vua mới, vì vậy hy vọng Mạc Đăng Doanh sẽ giúp xóa tan sự rối ren do triều Lê và các tập đoàn phong kiến ​​trước đây gây ra.

Tuy nhiên, hy vọng của ông đã không thành hiện thực khi Mạc Thái Tông đột ngột qua đời và Mạc Hiển Tông lên ngôi. Ông đề nghị chém đầu 18 công thần, không muốn đất nước lâm vào cảnh chiến tranh, chết chóc một lần nữa. Vua thất vọng không nghe, sai các quan ở lại quê hương, lập quán Trung Tân, dựng Bạch Vân am và lấy tên là Bạch Vân cư sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy làm quan ngắn ngủi nhưng tài năng và kiến ​​thức của ông đã khiến ông được vua, quan nhà Mạc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn hết sức kính trọng. Mỗi khi có việc quan trọng, tôi đều cử người đến hỏi ý kiến ​​anh ấy. Là một nhà Nho có tấm lòng nhân ái đối với vận mệnh của dân tộc, đồng cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của nhân dân, ông luôn cầu nguyện cho quốc thái dân an, không còn khói lửa, chiến tranh. Hình ảnh tương phản. Khi đó, quân đội trong nước chưa có đủ khả năng để tiến hành công cuộc thống nhất đất nước. Vì vậy, khi các tập đoàn phong kiến ​​yêu cầu kế hoạch, ông thường chỉ cho họ cách để quốc gia cân bằng, giữ hòa bình. Tương truyền, khi Trịnh Kiểm sát hại Nguyễn Uông vào năm 1568, Nguyễn Hoàng sợ quá nên đến hỏi ý kiến ​​Nguyễn Bỉnh Khiêm, chỉ nói “Hoàng Sơn Nhất Địa, 10.000 Đại Dũng Thần”. dãy núi). , có thể xây dựng cơ nghiệp lâu dài) Nguyễn Hoàng xin chúa Trịnh trấn thủ đất Thuận Hóa. Đồng thời, từ kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh phế truất vua Lê, sai người đến hỏi ý kiến ​​Trạng Trình. Không trả lời, ông hướng dẫn sĩ tử vào thăm chùa, đồng thời nói với sư thầy ở chùa: “Cứ cất chùa thờ Phật thì kiếm tiền.” Tức là muốn làm gì thì làm. . Anh tiếp tục hỗ trợ Sir Trin trong việc duy trì quyền lực của nhà vua. Quốc gia.

Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ được biết đến là người có kiến ​​thức sâu rộng mà còn là người có tài tiên tri. Sau khi nhà Mạc lên ngôi được vài năm, chiến tranh và loạn lạc liên tục xảy ra, và nhà Mạc bỏ chạy. Mạc muốn lên trấn thủ Cao Bằng, sai Nguyễn Bỉnh Khiêm đến hỏi ý kiến. “Chao bang nhỏ, nhưng nó có thể thay đổi,” anh trả lời. Nói cách khác, phòng khách tuy hẹp nhưng có thể chứa được vài thế hệ. Như Trạng Trình đã nói, nhà Mạc trấn giữ Cao Bằng được ba đời thì sụp đổ. Có thể nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một học giả “dưới thông thiên văn”, mà còn là người hiểu đời, hiểu đời. Ông là Trịnh Quân Mạc, tức Trịnh Quốc Công, nên dân chúng gọi là Trạng Trình.

Ngày 28 tháng 11 năm Đinh Dậu, ông mất tại quê nhà, hưởng thọ 95 tuổi. Trước khi mất, ông vẫn dâng lễ vật lên nhà Mạc, mong nhà vua có thể “khai quốc, bình thiên hạ”, gìn giữ “di sản của tổ tiên ta để lại”, đem lại thái bình thịnh trị. cho các công dân. Tất cả mọi người. Có thể thấy, Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn một lòng nghĩ cho nước, cho dân cho đến cuối đời.

Về sự nghiệp văn học, ông đã để lại tập thơ Nôm là Bạch Vân am thi tập khoảng 700 bài thơ chữ Hán và Bạch Vân quốc ngữ thi tập khoảng 170 bài thơ. Thơ văn của ông không chỉ giàu tính triết lí, giáo huấn mà còn tôn vinh chí khí đại trượng phu, thích thú nhàn hạ, phê phán những tệ nạn của xã hội. Đặc biệt ông phê phán gay gắt bọn quan lại tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân. Khi đọc những vần thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy tấm lòng ưu tư đối với đất nước, dân tộc, vua và ta, cha con, bạn bè. Có lẽ cả đời ông luôn đấu tranh với một nguyên tắc duy nhất: “Sợ trời, sợ thiên hạ”: “Lo cho thiên hạ, vui thì mình lo cho thiên hạ”. . thế giới “. Vì vậy, khi mở lớp học của ông, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trở thành một chính khách, một nhà hiền triết, một nhà tiên tri và một nhà thơ nổi tiếng, có những đóng góp rất quan trọng cho nền văn học dân tộc trong suốt cuộc đời của mình. Anh là một tấm gương sáng về tài năng và đức tính của một người đàn ông chân thành. Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ được muôn đời sau ghi nhớ như một người đàn ông chân chính vì dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về Nguyễn Bỉnh Khiêm (mẫu 10)

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình vọng tộc (cháu ngoại quan thượng thư Nhữ Văn Lan) có học vấn, cả hai thân mẫu đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay từ khi Nguyễn Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tướng mạo khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm tìm được thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất nổi tiếng. Và sau này, tài học vấn uyên thâm của ông đã vượt xa thầy. Tương truyền Lương Đắc Bằng là người giỏi lý học, đã đem sách Thái ất thần kinh ra dạy cho học trò, nhưng có những điều trong sách ấy Lương Đắc Bằng cũng không hiểu được mà chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này mới tinh thông.

Lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà Lê suy thoái, các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Năm 1572, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm 1535. Lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên. Từ đấy, ông làm quan với tân triều, nhà Mạc phong chức Tả thị lang (chức đứng hàng thứ ba trong bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông hy vọng triều đại nhà Mạc có thể xây dựng lại đất nước. Lúc này, Mạc Đăng Dung đã nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh và rút về làm Thái thượng hoàng. Doanh là người tỏ ra có chí khí đảm lược. Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhà học giả uyên thâm, một trí thức dân tộc đã nhìn thấy điều đó. Và ông hy vọng: với nhân vật này, triều đại mới có thể đưa đất nước thoát khỏi tình trạng rối ren mà vua tôi nhà Lê và các tập đoàn phong kiến trước đó gây ra.

Nhưng niềm tin đó bị thất vọng. Là một học giả, học rộng biết nhiều, trong thơ ông hay nhắc tới sự thăng trầm "thương hải biến vi tang điền" (biển xanh biến thành nương dâu) của trời đất, tạo vật và cuộc đời trôi nổi như "phù vân". Ông thương xót cho "vận mệnh" quốc gia và cảm thông sâu sắc tình cảnh của "dân đen", "con đỏ". Ông thật sự mong muốn đất nước thịnh vượng, thái bình. Tương truyền, hình như để tránh những cuộc binh đao khói lửa, tương tàn cho chúng dân và nhìn thấy trước thời cuộc, "vận mệnh" của đất nước trong hoàn cảnh ấy chưa thể có những lực lượng đảm đương được việc thống nhất, nên khi các tập đoàn phong kiến đến hỏi kế sách, ông đều bày cho họ những phương sách khác nhau để giữ thế "chân vạc". Năm 1568, Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm sát hại, lo cho "số phận" nên đã ngầm cho người hỏi kế an thân, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (ngụ ý nói: Dựa vào một dải Hoành sơn có thể lập nghiệp được lâu dài). Thế là Nguyễn Hoàng tức tốc xin anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa (từ Đèo Ngang trở vào).

Tại Thăng Long, thời ấy chúa Trịnh cũng ra sức ức hiếp vua Lê và muốn phế bỏ, liền cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không trả lời và lẳng lặng dẫn sứ giả ra thăm chùa và nói với nhà sư: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản", ngụ ý muốn khuyên chúa Trịnh cứ tôn phò nhà Lê thì quyền hành tất giữ được. Nếu tự ý phế lập sẽ dẫn đến binh đao. Còn đối với nhà Mạc, sau những cuộc chiến tranh liên miên, phải bỏ chạy lên Cao Bằng thế thủ, vua Mạc cho người về hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã trả lời: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thể" (Cao Bằng tuy đất hẹp, nhưng có thể giữ được vài đời). Quả nhiên, mãi đến năm 1688, sau ba đời giữ đất Cao Bằng, nhà Mạc mới bị diệt. Các truyền thuyết trên đây muốn chứng tỏ rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có tài tiên đoán, đo nắm được bí truyền của sách Thái ất thần kinh. Vả lại còn truyền thuyết nữa về Trạng Trình với tập Trình quốc công sấm ký. Tương truyền trong tập sách đó, ông đã tiên tri và biết trước các sự việc nhân tình thế thái, thời cuộc xảy ra "năm trăm năm sau". Thực, hư thế nào, còn là vấn đề cần phải nghiên cứu khẳng định hay phủ định của các nhà học giả Việt Nam sau này để trả lại giá trị xứng đáng cho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đương nhiên, một điều cần khẳng định: Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự là nhà học giả "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự" (trên trời hiểu thiên văn, dưới đất tường địa lý, ở giữa hiểu con người).

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như: Tập thơ Bạch Vân (gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán còn lưu lại) và hai tập: Trình quốc công Bạch vân thi tập và Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm). Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giàu chất liệu hiện thực, mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc. Ông phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại hút máu, hút mủ của dân. Thơ ông còn truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Vì thế khi về ở ẩn, ông vẫn mở trường dạy học, mong đào tạo cho đời những tài năng "kinh bang tế thế". Học trò của ông cũng có người trở thành danh tướng, Trạng nguyên như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Quyền...

Có thể nói ở thế kỷ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học lớn của Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông "không bận tâm đi vào xu hướng duy lý... đi tìm khái niệm bản thể luận như Lão Tử, như triết học Phật giáo hay cái phóng nhiệm nhiều lúc đến ngụy biện của Trang Tử. Ông hiểu sâu sắc triết học Tống Nho nhưng không đi vào sự câu nệ vụn vặt, không lý giải quá sâu cái lý, có khi rắc rối, hoặc chẻ sợi tóc làm tư để tìm hiểu, biện giải nhiều thứ mơ hồ rối rắm trong những khái niệm hỗn tạp đó. Với sự uyên thâm vốn có, ông được triều đình nhà Mạc và sĩ phu đương thời phong là Trình tuyền hầu, tức là một vị Hầu tước khơi nguồn dòng suối triết học của họ Trình (tức Trình Di, Trình Hiện - hai nhà triết học khai phá ra phái Lạc Dương của Tống Nho), hoặc đời còn gọi ông là cụ Trạng Trình. Tuy vậy, triết học của ông là triết học đã được sống dậy, biểu hiện trong thơ như sự gợi ý mách bảo của cuộc sống thực tiễn. Ông chắt lọc từ trong nhận thức triết học mà mình thu lượm được, phép biện chứng nhìn bên ngoài có vẻ như thô sơ để giải đáp nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội nảy sinh ở quanh mình. Trong thơ ông, ngoài mặt triết lý nhân sinh, nổi bật lên những suy ngẫm chiêm nghiệm, đúc kết như muốn vươn lên khái quát "luật" đời bằng những phạm trù triết học. Vì lẽ đó, ông rất hay dùng đến những cặp phạm trù đối lập như: đen - trắng, tốt - xấu, đầy - vơi, sinh - diệt, vuông - tròn, để giãi bày quan niệm triết lý nhân sinh của mình.

Tuy nhiên, "một hạn chế dễ nhận thấy trong tư tưởng triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tuy nắm được phép biện chứng, nhưng vẫn nặng về duy tâm. Quan niệm về sự phát triển của ông còn nằm trong khung tròn khép kín chứ chưa phải là vòng tròn xoáy ốc. Đó là sự phát triển tuần hoàn, là cái phép biện chứng của Chu dịch... ông đã nhận được trong nền giáo dục Nho học đương thời, cộng với phép biện chứng thô sơ của Lão Tử trong Đạo đức kinh. Đó cũng là những hạn chế đương nhiên của rất nhiều nhà triết học cổ đại" (Đào Thái Tôn).

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Nghị luận xã hội về ý thức chào hỏi của học sinh hiện nay

Bình luận câu tục ngữ “tốt gỗ hơn tốt nước sơn"

Nghị luận xã hội về kỹ năng sống

Kể lại một câu chuyện đáng nhớ của bản thân

Trò chơi điện tử là món tiêu khiển hấp dẫn nhiều bạn vì mải chơi mà sao nhãng học tập

1 12269 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: