TOP 30 mẫu Cảm nhận Đoàn Thuyền Đánh Cá (2024) SIÊU HAY

Cảm nhận bài thơ Đoàn thuyền đánh cá lớp 9 gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.

1 1,848 01/01/2024
Tải về


Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - Ngữ văn 9

Bài giảng Ngữ văn 9 Đoàn thuyền đánh cá

Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.

2. Thân bài:

a. Trình bày khái quát về tác giả và tác phẩm:
– Huy Cận (1919 – 2005) là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam, có phong cách sáng tác độc đáo, đa màu sắc.
– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian Huy Cận có chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).

b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên tràn đầy khí thế:
– Không khí khẩn trương, vội vã của một buổi ra khơi khi mặt trời đã xuống biển đỏ rực, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa”.
– Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc con người bắt đầu công việc ra khơi của mình với những câu hát căng buồm tràn đầy nhựa sống.
– Niềm vui, niềm lạc quan của ngư dân trước sự giàu có của biển cả với nhiều loại cá như “cá bạc”, “cá thu”.
– Sự đối lập giữa bóng tối của biển cả và ánh sáng của luồng cá gợi sự trù phú của thiên nhiên, ẩn chứa những mơ ước về mẻ lưới đầy của ngư dân.
– Lời yêu cầu tha thiết, mong chờ đàn cá đến dệt lưới của người lao động.

c. Vẻ đẹp của con người lao động say sưa, khỏe khoắn trên biển dưới trời trăng sao:
– Hình ảnh con thuyền vốn bé nhỏ bỗng trở nên lớn lao, kì vĩ để “lái gió”, “lướt giữa mây cao với biển bằng”.
– Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”, dàn đan như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo của người dân chài với tâm hồn dũng cảm để chinh phục biển cả.
– Biển không chỉ đẹp, thơ mộng mà còn giàu có với nhiều loài cá rực rỡ, lấp lánh như “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” đem lại giá trị kinh tế cao.
– Đêm trên biển được miêu tả như một sinh vật đại dương “Đêm thở”, “sao lùa” hòa quyện với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn đã tạo nên bức tranh đầy màu sắc giữa thiên nhiên và con người.
– Biển ân tình, bao dung, che chở cho những người ngư dân như tấm lòng của người mẹ. Biển nuôi lớn họ “tự buổi nào” cho thấy tình yêu và lòng biết ơn của người ngư dân đối với biển cả quê hương.
– Hình ảnh người lao động trên nền trời đang sáng dần được hiện lên thật khỏe khoắn và cường tráng khi “kéo xoăn tay” vì chùm cá nặng.
– Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh sáng bình minh, đây cũng là sự phối hợp nhịp nhàng giữa nét đẹp lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ: “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

d. Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ:
– Câu hát theo suốt cuộc hành trình của người dân chài, nhấn mạnh niềm vui lao động, làm giàu quê hương của người lao động.
– Hình ảnh “mặt trời” được lặp lại như báo hiệu một cuộc sống mới, nó sinh sôi nảy nở những niềm vui, niềm hạnh phúc của người dân chài sau một chuyến hành trình vất vả.
– Con người được sánh ngang với vũ trụ và đã giành phần chiến thắng trong cuộc “chạy đua với mặt trời”.
– Niềm vui đủ đầy của người lao động khi được mùa cá “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

e. Đánh giá:
– Nghệ thuật: Hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo, giàu tính liên tưởng. m hưởng khỏe khoắn, lạc quan.
– Nội dung: Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tráng lệ có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Qua đó, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động.

3. Kết bài:

– Khái quát lại nội dung bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

Bài giảng Ngữ văn 9 Đoàn Thuyền Đánh Cá

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 1)

Phân tích 2 khổ cuối Đoàn thuyền đánh cá (9 mẫu) - Văn 9Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa. Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc.

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khỏe khoắn, lời hát của họ như hòa vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.

Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài :

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”

Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơ là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh : mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “ Lái gió” “ buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trời mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.

Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”

Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao: “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.

Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.

Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hăng hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lớn “chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.

Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về :

Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh.

Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 2)

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.

Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn. Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” - số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.

Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 3)

Viết đoạn văn phân tích khổ cuối Đoàn thuyền đánh cá (3 mẫu) - Văn 9Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được ông viết tại vùng biển Hòn Gai ngày 1/10/1958, in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng".

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm có 7 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu; đoạn thơ trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả tả đoàn thuyền đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lạc quan yêu đời của những người dân chài trong chế độ mới.

Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi "Mặt Trời xuống biển". Mặt Trời đỏ rực "như hòn lửa" vừa "xuống biển" thì chỉ thấy những con sóng như then cài "sập cửa" ngôi nhà vũ trụ. Chính lúc đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện khí thế ra khơi đã phấn chấn của đoàn thuyền đánh cá.

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi".

Khổ thơ thứ hai nói lên lời cầu mong của người dân chài: ra khơi sóng yên biển lặng, may mắn gặp luồng cá thu "như đoàn thoi", đánh bắt được nhiều cá. Lời cầu mong tha thiết ngọt ngào:

"Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! ".

Khổ thơ thứ ba tả cảnh đánh cá. Những ngư dân vừa gõ thuyền đuổi cá, vừa cất tiếng hát ngợi ca biển như người mẹ nhân hậu. Trăng trên trời cao chiếu xuống biển xanh như vỗ vào mạn thuyền, cùng gõ nhịp đuổi cá. Những vần thơ ngọt ngào và có hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn:

"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

Cảnh kéo lưới diễn ra lúc "sao mờ" trời sắp sáng. Câu thơ "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng" vừa tả cá biển từng chùm mắc vào lưới, vừa thể hiện vẻ cường tráng, dẻo dai của những ngư dân lúc kéo lưới. Cá tươi ngon đầy khoang thuyền hiện lên dưới ánh hồng rạng đông:

"Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông".

Màu "bạc" của vảy cá, sắc "vàng" của đuôi cá đều "lóe" dưới ánh đông trong niềm vui của bao người. Nghệ thuật dùng từ và phối sắc của Cận thật tài tình.

Khổ thơ cuối bài gợi tả đoàn thuyền đánh cá trở về. Mừng vui phấn khởi trước một chuyến ra khơi may mắn, các thủy thủ lại cất cao tiếng hát. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa đầy khí thế:

"Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhô màu mới".

Và những mắt cá lấp lánh trong khoang thuyền góp phần làm cho cảnh biển một sớm bình minh thêm phần huy hoàng, tráng lệ:

"Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi''.

Hình ảnh mắt cá ở đây tượng trưng cho cuộc sống mới ấm no, yên vui của bà con dân chài trên vùng biển quê hương. "Đoàn thuyền đánh cá" là một bài thơ hay. Hình tượng đẹp, giọng thơ ngọt ngào, nó là bài ca lao động của người dân chài khi quê hương đất nước "trời mỗi ngày lại sáng".

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 4)

Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả và biểu cảm. Bài thơ đã thể hiện sự khác lạ, đáng chú ý hơn cả đó là không gian ra khơi khác với lạ thường, không gian được mở rộng, mọi vật thể trong vũ trụ vận động theo sự tuần hoàn. Việc tác giả làm như vậy để thể hiện nội dung chính của bài thơ, nói lên cuộc sống lao động nơi đây thật sôi nổi, khẩn trương.

Tác giả viết theo trình tự ra khơi. Vùng biển Quảng Ninh hiện ra trước mắt người đọc hết sức hùng vĩ qua ngòi bút của Huy Cận;

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Cảnh tượng đoàn thuyền ra khơi thật là đẹp, màu sắc ấm áp, âm thanh rộn ràng Cảnh buổi chiều trên vùng biển được miêu tả qua cái nhìn của dân chài. Đó là hình ảnh "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" tạo ra vẻ đẹp lộng lẫy và huyền ảo. Nhưng điều làm cho bài thơ của Huy Cận đáng chú ý đó là cách nói hết sức độc đáo, mới lạ. Tả mặt biển khi màn đêm xuống "Sóng đã cài then, đêm sập cửa". Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá để người đọc cảm nhận được biển trở thành ngôi nhà khổng lồ vừa có cửa đóng, then cài thì cũng là lúc "Đoàn thuyền đánh cá ra khơi". Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vừa lạc quan, vui tươi, yêu đời như trở về ngôi nhà ấm áp, an toàn:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi"

Câu hát trở thành ngọn gió thổi căng buồm đưa con thuyền ra khơi băng băng rẽ sóng.

Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng

Với ngòi bút tinh xảo, bút pháp lãng mạn, tác giả vẽ lên bức tranh biển lãng mạn: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên, Với bút pháp miêu tả lãng mạn của tác giả, người đọc như cảm nhận thấy con thuyền như đang trôi, lạc vào xứ sở thần tiên. Trời cao, ánh trăng vàng biển như khoác bộ áo vàng, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng cảm nhận sự yên bình, thơ mộng của chốn đây, Sau khi miêu tả cảnh đẹp biển vào ban đêm, tác giả Huy Cận đã vẽ thêm cho bài thơ cảnh đẹp của bình minh:

"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi"

Tác giả Huy Cận đã dùng bút pháp miêu tả để vẽ lên bức tranh cảnh bình minh thật huy hoàng. Tác giả thành công trong việc miêu tả đó là việc sử dụng bút pháp tả vẽ lên ba bức tranh biển mang vẻ đẹp khác nhau. Bức tranh cảnh bình minh tác giả đã miêu tả cảnh mặt trời lên và biển. Khi mặt trời lên, biển đã xoá đi bộ áo vàng của trăng cao thay vào đó là một màu áo đỏ rực. Biển đẹp nhưng với ngòi bút của tác giả còn đẹp hơn. Biển trong cảnh bình minh như nàng tiên cá với vẻ đẹp rực rỡ đang nô đùa vui chơi trên biển.

Huy Cận không những nói về vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động mới.

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng"

Tác giả dùng bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc hết sức nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau ở hai câu thơ sau:

"Váy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng"

Quả thực, tác giả Huy Cận đã phải đi và quan sát rất kĩ mới có thể tả như vậy. Hai câu thư trên miêu tả cảnh lưới đã được kéo lên, khoang thuyền đầy ắp cá. Vảy bạc, đuôi vàng chen nhau như "loé sáng" cả rạng đông. Cảnh tượng thật đẹp. Đây chính là thành quả lao động mà những người ngư dân thu được sau một đêm đánh cá vất vả, nặng nhọc. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi"

Tác giả đã thấy rõ khi trở về người dân vẫn nguyên vẹn tình yêu cuộc sống. Họ vẫn tiếp tục lao động khẩn trương, chạy đua với thời gian: "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời"

Khi ra đi "Câu hát căng buồm cùng gió khơi", khi làm việc hát bài ca gọi cá vào, bây giờ khi trở về họ cũng hát. Tâm hồn họ tràn đầy niềm vui. Họ yêu mến cuộc sống mới, họ được làm chủ cuộc sống, muốn cố gắng lao động xây dựng cuộc sống mới.

Tác giả còn vẽ lên con người trong cuộc sống mới. Tâm hồn những người đánh cá bay bổng cùng với niềm vui phơi phới:

"Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao".

"Trăng cao" cùng với ta, cùng kề vai sát cánh với "ta". Để thấy được con người trong cuộc sống mới họ hoà nhập cùng với thiên nhiên trong cảnh lao động. Con người trong cuộc sống mới họ là những người khỏe mạnh khoáng đạt, hết mình vì cuộc sống.

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng"

Họ đã thực sự đầy đủ tự tin để làm chủ cuộc sống của mình. Thuyền và con người trở nên kì vĩ, to lớn. Thể hiện cách nhìn cuộc sống mới đầy tự tin, say sưa, hào hứng cùng những ước mơ bay bổng, hoà hợp chinh phục thiên nhiên của tác giả.

Tác phẩm "Đoàn thuyền đánh cá" của tác giả Huy Cận mang âm hưởng của bài thơ lao động khoẻ khoắn, bay bổng, Lời thơ dõng dạc, say mê. Cách gieo vần linh hoạt biến hoá luật bằng trắc. Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Tất cả những điều đó thể hiện được ý chí và nguyện vọng của tác giả. Đặc biệt đã thể hiện tài thơ độc đáo của Huy Cận. Độc đáo trong cách miêu tả, trong cách dùng từ đã tạo nên sự hấp dẫn của bài thơ. Tất cả những nghệ thuật đã dẫn dắt, thông suốt làm cho bố cục bài thơ mạch lạc, rõ ý.

"Đoàn thuyền đánh cá" của tác giả Huy Cận là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ tràn ngập niềm vui phơi phới. Đây là bài ca của người lao động. Nói lên họ là những người cần cù, chịu khó nhưng tâm hồn hết sức lãng mạn, làm chủ cuộc sống, biển cả bao la với phong thái ung dung, đĩnh đạc. Bài thơ dưới bút pháp miêu tả còn ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Thể hiện chất thơ của Huy Cận rất độc đáo trong miêu tả và cách dùng từ.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 5)

Bình giảng bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.ngữ văn lớp 9 | Văn mẫu  lớp 9Đến trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.

“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống:

Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi”

Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây - nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không còn là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang. Ánh trăng giống như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.

Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.

Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 6)

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá"được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt "sóng đã cài then đêm sập cửa". Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm

được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc, và con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh "lái gió", "buồm trăng", " mây cao", " biển bằng "phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng. . . lưới! Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng "em" bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy.

Với ngư dân, biển cả bao la "như lòng mẹ", bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ "lưới xếp buồm lên đón nắng hồng "chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh "đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời" rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người.

"Đoàn thuyền đánh cá" là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 7)

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.

Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên cũng như đoàn thuyền lúc ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời, gợi thời gian của hoàng hôn. Cùng với đó là hình ảnh nhân hóa biến không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài. Thiên nhiên đã bắt đầu khoảng thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.

Trong khi đó, đây mới là lúc con người bắt đầu công việc lao động. “Đoàn thuyền” - không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn - một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi lao động. Cách viết “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ. Đặc biệt là hình ảnh “câu hát căng buồm” gợi ra khung cảnh người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.

Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã khắc họa nổi bật lên hình ảnh người ngư dân:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện được tâm hồn lạc quan, không khí khẩn trường mà còn nói lên mong ước của họ. Công việc đánh cá vất vả là vậy nên người ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp được nhiều luồng cá để có thể đánh bắt được nhiều. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa được sử dụng khiến cho người đọc có một cảm nhận thú vị về con người lao động.

Tiếp đó, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.

Nhà thơ đã dành riêng một khổ thơ để nói về sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được kể ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song. Đặc biệt nhất là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật thơ mộng. Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” - màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?

Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” - biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.

Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng - lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá - thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.

Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ với niềm tự hào về khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 8)

Nếu như trước Cách mạng tháng Tám ta bắt gặp một “nỗi sầu vạn cổ” trong “Tràng Giang” của hồn thơ Huy Cận thì sau Cách mạng tháng Tám hồn thơ ảo não, sầu muộn ấy đã đem đến một làn gió vui tươi, mới mẻ cho phong trào Thơ mới của Việt Nam qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bài thơ chính là “khúc tráng ca” hào hùng của ngư dân vùng biển trong cuộc chạy đua với thiên nhiên để sánh ngang tầm với vũ trụ.

Huy Cận (1919 – 2005) là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam góp phần đưa phong trào Thơ mới phát triển lên đến đỉnh cao. Ông có phong cách sáng tác độc đáo, đa màu sắc và có sự thay đổi rõ rệt ở những sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian Huy Cận có chuyến đi thực tế ở Quảng Ninh và được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).

Đọc những dòng thơ đầu tiên, ta không khỏi bất ngờ bởi cảnh đoàn thuyền đánh cá tràn đầy khí thế ra khơi trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Huy Cận đã sử dụng những ngôn từ hết sức mộc mạc và gần gũi với cuộc sống con người để miêu tả thiên nhiên trong thời gian sắp kết thúc một ngày. Không khí khẩn trương, vội vã của một buổi ra khơi là điều mà người đọc có thể cảm nhận được ngay từ những dòng thơ đầu tiên. Có lẽ, Huy Cận đã thực sự trở thành một ngư dân đúng nghĩa thì mới có thể cảm nhận được không khí khẩn trương, vội vã đến vậy. Khi mặt trời đã xuống biển đỏ rực, “sóng đã cài then”, “đêm sập cửa” thì công việc ra khơi quen thuộc của ngư dân vùng biển lại được diễn ra. Nếu như cuộc sống ở trong đất liền dần khép lại một ngày với những bữa cơm gia đình đầy đủ thì cuộc sống của những ngư dân vùng biển mới bắt đầu. Đằng sau hình ảnh những con thuyền đầy ắp cá kia là sự chờ mong của người vợ, của những đứa con thơ đang chờ bố trở về cho nên không vội vã sao được. m nhạc vốn là món ăn tinh thần bổ dưỡng không thể thiếu trong cuộc sống, với những ngư dân vùng biển cũng vậy, họ luôn vui tươi, tràn đầy năng lượng với những “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

“Lao động là vinh quang”, công việc đánh bắt cá không chỉ là để phục vụ cuộc sống mưu sinh của người dân vùng biển mà đây còn là niềm vui to lớn của họ khi được hưởng sự ưu ái của thiên nhiên. Họ lạc quan trước sự giàu có của biển cả khi chúng ban tặng cho con người rất nhiều loại khác nhau:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Muốn tìm được kho báu ẩn sâu trong lòng đất thì nhất định chúng ta phải có một niềm tin mãnh liệt vào chúng. Dù bóng tối trên biển cả bao la có bủa vây những ngư dân của chúng ta đi chăng nữa thì ở họ luôn có ánh sáng của niềm tin giúp họ tìm được nhiều cá hơn. Biển Đông dồi dào, giàu tài nguyên và sẵn sàng cho đi với vô vàn loài cá như “cá bạc”, “cá thu”. Tác giả đã vẽ nên một bức tranh có sự đối lập giữa bóng tối của biển cả và ánh sáng của luồng cá để gợi sự trù phú của thiên nhiên và những mơ ước về mẻ lưới đầy của ngư dân. Biển cả rộng lớn còn con người thì bé nhỏ như được hòa chung vào cùng một dòng chảy để dệt thành những mẻ lưới đầy ắp cá. Họ tha thiết, mong chờ đàn cá đến “dệt lưới” với lời gợi mời vô cùng thân thiết “đoàn cá ơi!”.

Bức tranh thiên nhiên chỉ trở nên sinh động và trọn vẹn khi có sự xuất hiện của con người. Vẻ đẹp của con người lao động say sưa, khỏe khoắn trên biển dưới trời trăng sao được Huy Cận nhắc đến bằng giọng điệu vô cùng vui tươi và hào hùng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Hình ảnh con thuyền vốn bé nhỏ bỗng trở nên lớn lao, kì vĩ để “lái gió”, “lướt giữa mây cao với biển bằng”.Con thuyền vốn chỉ là công cụ để giúp người dân tìm kiếm nguồn sống nhưng dưới ngòi bút của Huy Cận thì con thuyền ấy bỗng trở nên lớn lao lạ thường để chinh phục thiên nhiên hùng vĩ. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”, khám phá vẻ đẹp ẩn chứa bên trong biển khơi mà mẹ thiên nhiên ban tặng cho con người. Những con thuyền dàn đan như một thế trận hào hùng gợi sự khéo léo của người dân chài với tâm hồn dũng cảm để chinh phục biển cả. Họ mang trong mình một khí thế của người chiến binh ra trận dũng cảm nhưng đầy khôn khéo tạo ra một thế trận đầy biến ảo để thực hiện mục tiêu chở đầy cá về của mình.

Biển không chỉ đẹp, thơ mộng mà còn giàu có với nhiều loài cá rực rỡ, lấp lánh như “cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song” đem lại giá trị kinh tế cao:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Biển Đông giàu có với biết bao loài cá quý hòa chung cùng dòng nước biển tươi mát tạo nên thứ ánh sáng “lấp lánh đuốc đen hồng” trông thật huyền ảo. Giờ đây, khung cảnh trên biển buổi đêm không còn tĩnh lặng vô tri vô giác nữa mà nó bỗng trở thành một sinh vật đại dương với những từ ngữ như “Đêm thở”, “sao lùa” hòa quyện với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn đã tạo nên bức tranh đầy màu sắc giữa thiên nhiên và con người. Chắn hẳn Huy Cận phải sở hữu một tâm hồn tràn đầy nhựa sống thì mới có thể cảm nhận được hơi thở của đêm tối tĩnh lặng.

Biển ân tình, bao dung, che chở cho những người ngư dân như tấm lòng của người mẹ sẵn sàng cho đi mà không cần nhận lại:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Biển nuôi lớn những người dân vùng biển “tự buổi nào” cho thấy tình yêu và lòng biết ơn của họ đối với biển cả quê hương. Họ từng ngày lớn lên trên vùng biển quê hương, trưởng thành nhờ cái nắng, cái gió của biển nên họ coi biển như một người mẹ bao la hết lòng vì đứa con. Phải chăng, mẹ biển cũng hiểu những điều vất vả của những đứa con vùng biển nên muốn chúng trở về đất liền sớm trước khi trời sáng.

Thời gian sao trôi thật nhanh, người đọc trước đó còn đang sống trong khung cảnh huyền ảo của biển cả thì giờ đây một ngày mới lại chuẩn bị bắt đầu:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Hình ảnh người lao động trên nền trời đang sáng dần được hiện lên thật khỏe khoắn và cường tráng khi “kéo xoăn tay” vì chùm cá nặng. Công việc kéo cá không hề khiến họ mệt moier mà ngược lại họ còn rất phấn khích khi thu được mẻ cá đầy. Thế rồi một ngày mới vô cùng ngọt ngào với “nắng hồng” được bắt đầu. Đối với họ, cá là cả một gia tài đáng quý “vảy bạc”, “đuôi vàng” vì đó là thành quả của những giọt mồ hôi, của những đêm lênh đênh trên biển không được chợp mắt. Con người muốn chia sẻ niềm vui với ánh sáng bình minh, đây cũng là sự phối hợp nhịp nhàng giữa nét đẹp lao động của con người với sự vận hành của vũ trụ: “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

Bài thơ kết thúc bằng cảnh đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ đã tạo nên một bức tranh bình minh vô cùng vui tươi và tràn đầy năng lượng.

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Câu hát theo suốt cuộc hành trình của người dân chài, nó xuất hiện từ khi nhổ neo ra khơi và trở nên rộn ràng khi khoang tàu đầy ắp cá trở về. Câu hát còn là cách để nhà thơ nhấn mạnh niềm vui lao động, làm giàu quê hương của người lao động. Có bình minh thì không thể mặt trời, mặt trời vốn là biểu tượng của sự sống sinh sôi. Hình ảnh “mặt trời” được lặp lại như báo hiệu một cuộc sống mới với những niềm vui, niềm hạnh phúc của người dân chài sau một chuyến hành trình vất vả. Đoàn thuyền nhanh chóng “căng buồm” lướt sóng để trở về đất liền vì hậu phương vững chắc của họ cũng đang mong chờ họ. Sức mạnh của lao động khiến cho con người được sánh ngang với vũ trụ và đã giành phần chiến thắng trong cuộc “chạy đua với mặt trời”. Hình ảnh “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là một hình ảnh hoán dụ vô cùng đặc sắc đã cho thấy nét lãng mạn trong ngòi bút Huy Cận. Muôn triệu mắt cá li ti lóng lánh đã kết hợp lại để tạo thành chặng dài “muôn dặm phơi” và đó cũng là niềm vui đủ đầy của người lao động khi được mùa cá.

Nhà thơ Huy Cận đã đem đến cho người đọc một bức tranh sống động bằng những hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo, giàu tính liên tưởng với âm hưởng khỏe khoắn, lạc quan. Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên tráng lệ có sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên với con người. Qua đó, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là một “khúc tráng ca” hào hùng đã tạo nên một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Huy Cận. Bài thơ kết thúc trong niềm vui hân hoan của những người dân vùng biển khiến cho những âm thanh vui tươi ấy vẫn luôn còn đọng mãi trong tâm trí người đọc.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 9)

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam-một hồn thơ dạt dào cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên đất nước, con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được nhà thơ sáng tác vào năm 1958 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. bài thơ là bức tranh thiên nhiên con người về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, cảnh đoàn thuyền đi trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh.

Đề tài “ Con người lao động” đã khơi gợi cảm hứng bất tận cho tất cả các nhà thơ nhưng đối với Huy Cận ông cũng chọn đề tài ấy để viết về ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Câu thơ mở đầu miêu tả cảnh mặt trời như hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống dưới đáy đại dương để lại trên biển và phía chân trời một màu tím của hoàng hôn. Nghệ thuật so sánh “Mặt trời như hòn lửa” gợi tả cảnh mặt trời lúc hoàng hôn trên biển với bao màu sắc rực rỡ một vẻ đẹp kì vĩ tráng lệ. Trong khoảng khắc bao sắc màu rực rỡ đã thay vào màu đen của màn đêm. Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật ẩn dụ những con sóng giống như chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa.Vũ trụ bao la rộng lớn giống như một ngôi nhà trong trạng thái nghỉ ngơi, yên tĩnh và màn đêm kia như thử thách lòng cam đảm của con người. Thế nhưng trong hoàn cảnh ấy ta lại bắt gặp hình ảnh: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi.” Phép tu từ hoán dụ “đoàn thuyền đánh cá” chỉ những người ngư dân họ đang bắt đầu một ngày lao động mới. Từ “lại” chỉ sự lặp đi lặp lại nhiều lần liên tục đã trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động hăng say quên cả mệ mỏi, quên cả thời gian của những người ngư dân, của những con người lao động mới của miền Bắc trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đêm tối mặt biển bỗng trở nên nhộn nhịp bởi tiếng hát của những người ngư dân cất lên. Câu hát hòa cùng với làn gió mát của biển khơi thổi căng cánh buồm để đưa con thuyền ra khơi nhanh hơn. Bút pháp khoa trương “Câu hát căng buồm” tác giả muốn nói tới sức mạnh của những con người lao động. Câu hát hòa cùng với gió khơi là muốn nói đến sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người. Thiên nhiên đang góp sức ủng hộ con người. Câu hát thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, niềm vui lao động, sôi nổi hào hứng trong niềm khí thế cùng với buổi đầu ra khơi trong niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công, tốt đẹp:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Trong câu hát của những người ngư dân có gọi tên các loài cá: cá bạc, cá thu… Phép tu từ so sánh “Cá thu như đoàn thoi” vừa gợi về hình ảnh sống động vừa là lời ca ngợi nguồn tài nguyên phong phú ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo kết hợp với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn để rồi đôi mắt của nhà thơ như đang được ngắm nhìn đoàn cá thu như những chiếc thoi đưa dệt nên những tấm vải lớn lấp lánh muôn màu sắc. “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi” câu thơ như lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Câu hát của những người ngư dân không chỉ thổi căng cánh buồm vừa thể hiện sức mạnh, vừa thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời. Câu hát ấy không chỉ ngợi ca về vùng biển giàu có nước ta mà nó còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá. Nó đã trở thành bài ca trong lao động.

Với trí tưởng tượng phong phú cùng với ngòi bút thơ đầy lãng mạn bay bổng nhà thơ đã đưa người đọc đến hình ảnh thật là đẹp:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Đoàn thuyền đánh cá ra khơi có gió làm bánh lái vầng trăng khuyết trên trời cao đã trở thành cánh buồm. Gió và trăng đã trở thành hai bộ phận của con thuyền giúp sức cùng ngư dân đưa đoàn thuyền ra khơi. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trước mắt nhà thơ đoàn thuyền đánh cá giống như những con thuyền thơ lướt nhẹ trên mặt biển và in đầy trăng sao. Và giờ đây đoàn thuyền ấy cùng với những người ngư dân đang“Ra đậu dặm xa dò bụng biển”. Những người ngư dân của thời đại mới thực sự làm chủ biển khơi, làm chủ cuộc đời, trang bị phương tiện tiên tiến, hiện đại, những con người ra khơi để thăm dò “bụng biển” đánh bắt tài nguyên đem về xây dựng đất nước. Bằng trí tưởng tượng kết hợp cách nói khoa trương gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đang “Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Những con thuyền to lớn, tư thế hùng dũng, hiên ngang, giống như những thuyền chiến còn con người đang thả lưới vây giăng chuẩn bị bước vào trận chiến đấu mới trên mặt trận lao động. Nhà thơ đã nâng tầm vóc con người lên sánh ngang cùng biển rộng vũ trụ.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biểnnhư thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăngvàng. Bài ca “gọi cá ”vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thứccùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như “gõ nhịp” phụ họacho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho người kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên con người thật là hòa hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chânnghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm “vẩy bạc, đuôi vàng" và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạngđông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối của khổ thơ trên chậm rãi, gợi cảm giácthanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Nếu những người ngư dân ra khơi cất cao tiếng hát thì khi hoàn thành họ cũng cất cao tiếng hát:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Với bút pháp khoa trương lại một lần nữa nhà thơ tưởng tượng câu hát của người ngư dân, câu hát cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người có sự hòa hợp. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời niềm vui trước thành quả lao động của những ngày vất vả trên biển. Câu hát xuất hiện ở khổ đầu giờ lại lặp lại ở khổ cuối tạo cho bài thơ đầu cuối tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng nhà thơ đã hình dung trước mặt mình là khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn trở thành trường đua với hai đối thủ là con người và mặt trời. Và chắc hẳn con người sẽ thắng bởi họ đã một lần chiến thắng biển khơi với những khoang thuyền đầy cá. Đặt con người trong cuộc tranh tài với thiên nhiên là nhà thơ khẳng định tầm vóc của con người có thể sánh ngang thiên nhiên. Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượngcủa mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biểu, "Mặt trời đội biển nhômàu mới” một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi, và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền, khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh, của người.

Bài thơ đã thể hiện rõ tinh thần của nhân dân lao động lúc bấy giờ và cũng thể hiện rõ cảnh đẹp quê hương đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên, yêu con người lao động đã thể hiện được không khí sôi nổi, hào hùng của đất nước ta khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 10)

Đến thơ trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.

“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống:

Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm với gió khơi”

Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây - nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không còn là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang. Ánh trăng giống như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.

Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.

Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 11)

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được ông viết tại vùng biển Hòn Gai. ngày 1.10.1958, in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng".

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm có 7 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu; đoạn thơ trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả tả đoàn thuyền đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lạc quan yêu đời của những người dân chài trong chế độ mới.

Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi "Mặt Trời xuống biển". Mặt Trời đỏ rực "như hòn lửa” vừa "xuống biển" thì chỉ thấy những con sóng như then cài "sập cửa" ngôi nhà vũ trụ. Chính lúc đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện khí thế ra khơi đã phấn chấn của đoàn thuyên đánh cá.

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi".

Khổ thơ thứ hai nói lên lời cầu mong của người dân chài: ra khơi sóng yên biển lặng, may mắn gặp luồng cá thu "như đoàn thoi", đánh bắt được nhiều cá. Lời cầu mong tha thiết ngọt ngào:

"Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! ".

Khổ thơ thứ ba tả cảnh đánh cá. Những ngư dân vừa gõ thuyền đuổi cá, vừa cất tiếng hát ngợi ca biển như người mẹ nhân hậu. Trăng trên trời cao chiếu xuống biển xanh như vỗ vào mạn thuyền, cùng gõ nhịp đuổi cá. Những vần thơ ngọt ngào và có hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn:

"Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

Cảnh kéo lưới diễn ra lúc "sao mờ" trời sắp sáng. Câu thơ "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” vừa tả cá biển từng chùm mắc vào lưới, vừa thể hiện vẻ cường tráng, dẻo dai của những ngư dân lúc kéo lưới. Cá tươi ngon đầy khoang thuyền hiện lên dưới ánh hồng rạng đông:

"Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông".

Màu "bạc" của vảy cá, sắc "vàng" của đuôi cá đều "lóe" dưới ánh đông trong niềm vui của bao người. Nghệ thuật dùng từ và phối sắc của Cận thật tài tình.

Khổ thơ cuối bài gợi tả đoàn thuyền đánh cá trở về. Mừng vui phấn khởi trước một chuyến ra khơi may mắn, các thủy thủ lại cất cao tiếng hát. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa đầy khí thế:

"Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời

Mặt Trời đội biển nhô màu mới".

Và những mắt cá lấp lánh trong khoang thuyền góp phần làm cho cảnh biển một sớm bình minh thêm phần huy hoàng, tráng lệ:

"Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi''.

Hình ảnh mắt cá ở đây tượng trưng cho cuộc sống mới ấm no, yên vui của bà con dân chài trên vùng biển quê hương.

"Đoàn thuyền đánh cá" là một bài thơ hay. Hình tượng đẹp, giọng thơ ngọt ngào, nó là bài ca lao động của người dân chài khi quê hương đất nước "trời mỗi ngày lại sáng".

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 12)

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.

Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn. Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” - số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.

Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

Biển cho ta cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 13)

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.

Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên cũng như đoàn thuyền lúc ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời, gợi thời gian của hoàng hôn. Cùng với đó là hình ảnh nhân hóa biến không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài. Thiên nhiên đã bắt đầu khoảng thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.

Trong khi đó, đây mới là lúc con người bắt đầu công việc lao động. “Đoàn thuyền” - không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn - một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi lao động. Cách viết “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ. Đặc biệt là hình ảnh “câu hát căng buồm” gợi ra khung cảnh người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.

Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã khắc họa nổi bật lên hình ảnh người ngư dân:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện được tâm hồn lạc quan, không khí khẩn trường mà còn nói lên mong ước của họ. Công việc đánh cá vất vả là vậy nên người ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp được nhiều luồng cá để có thể đánh bắt được nhiều. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa được sử dụng khiến cho người đọc có một cảm nhận thú vị về con người lao động.

Tiếp đó, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.

Nhà thơ đã dành riêng một khổ thơ để nói về sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được kể ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song. Đặc biệt nhất là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật thơ mộng. Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” - màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?

Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

Biển cho ta cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” - biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.

Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng - lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá - thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.

Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ với niềm tự hào về khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 14)

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi

Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “hòn lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan toả. Với nghệ thuật nhân hoá “sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khoẻ khoắn, lời hát của họ như hoà vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.

Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài:

Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi

Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét snags tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa may cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơi là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh: mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “Lái gió” “buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hoà vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hang hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.

Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuộc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long

Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao: “cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.

Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:

Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào

Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đinh những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.

Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng

Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hang hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lơn “chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.

Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thoả mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khoẻ mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ tài tình, nàh thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình.

Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài Đoàn thuyền đánh cá ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 15)

Tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả và biểu cảm. Bài thơ đã thể hiện sự khác lạ, đáng chú ý hơn cả đó là không gian ra khơi khác với lạ thường, không gian được mở rộng, mọi vật thể trong vũ trụ vận động theo sự tuần hoàn. Việc tác giả làm như vậy để thể hiện nội dung chính của bài thơ, nói lên cuộc sống lao động nơi đây thật sôi nổi, khẩn trương.

Tác giả viết theo trình tự ra khơi. Vùng biển Quảng Ninh hiện ra trước mắt người đọc hết sức hùng vĩ qua ngòi bút của Huy Cận;

" Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi. "

Cảnh tượng đoàn thuyền ra khơi thật là đẹp, màu sắc ấm áp, âm thanh rộn ràng Cảnh buổi chiều trên vùng biển được miêu tả qua cái nhìn của dân chài. Đó là hình ảnh "Mặt trời xuống biển như hòn lửa" tạo ra vẻ đẹp lộng lẫy và huyền ảo. Nhưng điều làm cho bài thơ của Huy Cận đáng chú ý đó là cách nói hết sức độc đáo, mới lạ. Tả mặt biển khi màn đêm xuống "Sóng đã cài then, đêm sập cửa". Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá để người đọc cảm nhận được biển trở thành ngôi nhà khổng lồ vừa có cửa đóng, then cài thì cũng là lúc "Đoàn thuyền đánh cá ra khơi". Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi vừa lạc quan, vui tươi, yêu đời như trở về ngôi nhà ấm áp, an toàn:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi"

Câu hát trở thành ngọn gió thổi căng buồm đưa con thuyền ra khơi băng băng rẽ sóng.

Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng

Với ngòi bút tinh xảo, bút pháp lãng mạn, tác giả vẽ lên bức tranh biển lãng mạn: lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng diễn tả vẻ đẹp của thiên nhiên, Với bút pháp miêu tả lãng mạn của tác giả, người đọc như cảm nhận thấy con thuyền như đang trôi, lạc vào xứ sở thần tiên. Trời cao, ánh trăng vàng biển như khoác bộ áo vàng, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng cảm nhận sự yên bình, thơ mộng của chốn đây, Sau khi miêu tả cảnh đẹp biển vào ban đêm, tác giả Huy Cận đã vẽ thêm cho bài thơ cảnh đẹp của bình minh:

"Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi"

Tác giả Huy Cận đã dùng bút pháp miêu tả để vẽ lên bức tranh cảnh bình minh thật huy hoàng. Tác giả thành công trong việc miêu tả đó là việc sử dụng bút pháp tả vẽ lên ba bức tranh biển mang vẻ đẹp khác nhau. Bức tranh cảnh bình minh tác giả đã miêu tả cảnh mặt trời lên và biển. Khi mặt trời lên, biển đã xoá đi bộ áo vàng của trăng cao thay vào đó là một màu áo đỏ rực. Biển đẹp nhưng với ngòi bút của tác giả còn đẹp hơn. Biển trong cảnh bình minh như nàng tiên cá với vẻ đẹp rực rỡ đang nô đùa vui chơi trên biển.

Huy Cận không những nói về vẻ đẹp thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động mới.

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng"

Tác giả dùng bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc hết sức nặng nhọc. Họ phải làm thâu đem. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau ở hai câu thơ sau:

"Váy bạc đuôi vàng loé rạng đông
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng"

Quả thực, tác giả Huy Cận đã phải đi và quan sát rất kĩ mới có thể tả như vậy. Hai câu thư trên miêu tả cảnh lưới đã được kéo lên, khoang thuyền đầy ắp cá. Vảy bạc, đuôi vàng chen nhau như "loé sáng" cả rạng đông. Cảnh tượng thật đẹp. Đây chính là thành quả lao động mà những người ngư dân thu được sau một đêm đánh cá vất vả, nặng nhọc. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:

"Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi"

Tác giả đã thấy rõ khi trở về người dân vẫn nguyên vẹn tình yêu cuộc sống. Họ vẫn tiếp tục lao động khẩn trương, chạy đua với thời gian: "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời"

Khi ra đi "Câu hát căng buồm cùng gió khơi", khi làm việc hát bài ca gọi cá vào, bây giờ khi trở về họ cũng hát. Tâm hồn họ tràn đầy niềm vui. Họ yêu mến cuộc sống mới, họ được làm chủ cuộc sống, muốn cố gắng lao động xây dựng cuộc sống mới.

Tác giả còn vẽ lên con người trong cuộc sống mới. Tâm hồn những người đánh cá bay bổng cùng với niềm vui phơi phới:

"Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao".

"Trăng cao" cùng với ta, cùng kề vai sát cánh với "ta". Để thấy được con người trong cuộc sống mới họ hoà nhập cùng với thiên nhiên trong cảnh lao động. Con người trong cuộc sống mới họ là những người khỏe mạnh khoáng đạt, hết mình vì cuộc sống.

"Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng"

Họ đã thực sự đầy đủ tự tin để làm chủ cuộc sống của mình. Thuyền và con người trở nên kì vĩ, to lớn. Thể hiện cách nhìn cuộc sống mới đầy tự tin, say sưa, hào hứng cùng những ước mơ bay bổng, hoà hợp chinh phục thiên nhiên của tác giả.

Tác phẩm "Đoàn thuyền đánh cá" của tác giả Huy Cận mang âm hưởng của bài thơ lao động khoẻ khoắn, bay bổng, Lời thơ dõng dạc, say mê. Cách gieo vần linh hoạt biến hoá luật bằng trắc. Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn. Tất cả những điều đó thể hiện được ý chí và nguyện vọng của tác giả. Đặc biệt đã thể hiện tài thơ độc đáo của Huy Cận. Độc đáo trong cách miêu tả, trong cách dùng từ đã tạo nên sự hấp dẫn của bài thơ. Tất cả những nghệ thuật đã dẫn dắt, thông suốt làm cho bố cục bài thơ mạch lạc, rõ ý.

"Đoàn thuyền đánh cá" của tác giả Huy Cận là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ tràn ngập niềm vui phơi phới. Đây là bài ca của người lao động. Nói lên họ là những người cần cù, chịu khó nhưng tâm hồn hết sức lãng mạn, làm chủ cuộc sống, biển cả bao la với phong thái ung dung, đĩnh đạc. Bài thơ dưới bút pháp miêu tả còn ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Thể hiện chất thơ của Huy Cận rất độc đáo trong miêu tả và cách dùng từ.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 16)

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.

Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn.

Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” – số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.

Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…..
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn – tầm vóc vũ trụ.

Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
…..
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
….
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 17)

Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca… Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

….

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá.

Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.

Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng

…..

Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

….

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp cá.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hòa hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

….

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ.

Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi,

….

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.

Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự.

Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng. Nửa thế kỉ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó. Phần nào, bài thơ giúp chúng ta hiểu được chân dung tinh thần mới của Huy Cận sau bao biến cố lịch sử trọng đại của đất nước và dân tộc – một Huy Cận trữ tình cách mạng.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 18)

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.

Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên cũng như đoàn thuyền lúc ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
…..
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời, gợi thời gian của hoàng hôn. Cùng với đó là hình ảnh nhân hóa biến không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài. Thiên nhiên đã bắt đầu khoảng thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.

Trong khi đó, đây mới là lúc con người bắt đầu công việc lao động. “Đoàn thuyền” – không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn – một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi lao động. Cách viết “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ. Đặc biệt là hình ảnh “câu hát căng buồm” gợi ra khung cảnh người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.

Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã khắc họa nổi bật lên hình ảnh người ngư dân:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
…..
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện được tâm hồn lạc quan, không khí khẩn trường mà còn nói lên mong ước của họ. Công việc đánh cá vất vả là vậy nên người ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp được nhiều luồng cá để có thể đánh bắt được nhiều. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa được sử dụng khiến cho người đọc có một cảm nhận thú vị về con người lao động.

Tiếp đó, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…..
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân.

Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn – tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.

Nhà thơ đã dành riêng một khổ thơ để nói về sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
…..
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được kể ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song. Đặc biệt nhất là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật thơ mộng.

Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” – màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?

Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
…..
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” – biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.

Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng – lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá – thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.

Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ với niềm tự hào về khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 19)

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông viết tại vùng biển Hòn Gai ngày 1/10/1958, in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm có 7 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu; đoạn thơ trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả tả đoàn thuyền đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lạc quan yêu đời của những người dân chài trong chế độ mới.

Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi “Mặt Trời xuống biển”. Mặt Trời đỏ rực “như hòn lửa” vừa “xuống biển” thì chỉ thấy những con sóng như then cài “sập cửa” ngôi nhà vũ trụ. Chính lúc đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện khí thế ra khơi đã phấn chấn của đoàn thuyền đánh cá.

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

Khổ thơ thứ hai nói lên lời cầu mong của người dân chài: ra khơi sóng yên biển lặng, may mắn gặp luồng cá thu “như đoàn thoi”, đánh bắt được nhiều cá. Lời cầu mong tha thiết ngọt ngào:

“Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! “.

Khổ thơ thứ ba tả cảnh đánh cá. Những ngư dân vừa gõ thuyền đuổi cá, vừa cất tiếng hát ngợi ca biển như người mẹ nhân hậu. Trăng trên trời cao chiếu xuống biển xanh như vỗ vào mạn thuyền, cùng gõ nhịp đuổi cá. Những vần thơ ngọt ngào và có hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
….
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.

Cảnh kéo lưới diễn ra lúc “sao mờ” trời sắp sáng. Câu thơ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” vừa tả cá biển từng chùm mắc vào lưới, vừa thể hiện vẻ cường tráng, dẻo dai của những ngư dân lúc kéo lưới. Cá tươi ngon đầy khoang thuyền hiện lên dưới ánh hồng rạng đông:

“Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”.

Màu “bạc” của vảy cá, sắc “vàng” của đuôi cá đều “lóe” dưới ánh đông trong niềm vui của bao người. Nghệ thuật dùng từ và phối sắc của Cận thật tài tình.

Khổ thơ cuối bài gợi tả đoàn thuyền đánh cá trở về. Mừng vui phấn khởi trước một chuyến ra khơi may mắn, các thủy thủ lại cất cao tiếng hát. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa đầy khí thế:

“Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhô màu mới”.

Và những mắt cá lấp lánh trong khoang thuyền góp phần làm cho cảnh biển một sớm bình minh thêm phần huy hoàng, tráng lệ:

“Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi’‘.

Hình ảnh mắt cá ở đây tượng trưng cho cuộc sống mới ấm no, yên vui của bà con dân chài trên vùng biển quê hương. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay. Hình tượng đẹp, giọng thơ ngọt ngào, nó là bài ca lao động của người dân chài khi quê hương đất nước “trời mỗi ngày lại sáng”.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 20)

Viết về đề tài lao động, bài thơ Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông và bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận,… được người đọc yêu thích nhất. Huy Cận viết Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh phản ánh không khí lao động sôi nổi của nhân dân miền Bắc trong xây dựng hòa bình. Nhà thơ ca ngợi tinh thần lao động phấn khởi và hăng say của những người dân chài trên vùng biển quê hương.

Cảm hứng trữ tình được diễn tả theo mạch thời gian: hoàng hôn-đêm trăng-và bình minh. Cảnh bình minh như một biểu tượng mang ý nghĩa: một thời đại huy hoàng đang mở ra phía trước, cuộc sống cần lao của nhân dân ta đang nở hoa.

Hai khổ thơ đầu nói về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, cảnh biển vô cùng tráng lệ lúc hoàng hôn. Mặt trời được ví von với hòn than đỏ rực “hòn lửa” từ từ lăn xuống biển.

Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc phủ bóng tối mịt mù. Những con sóng, như những chiếc “then cài” của ngôi nhà vĩ đại ấy. Cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ (hòn lửa, cài then) đã tạo nên những vần thơ đẹp, cho người đọc nhiều ấn tượng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Ngày đã chuyển sang đêm. Vừa lúc đó, đoàn thuyền ra khơi:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Không phải từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Chữ “lại” trong ý thơ “lại ra khơi” là sự khẳng định nhịp điệu lao động của dân chài đã ổn định, đi vào nền nếp trong hòa bình. Khúc hát lên đường vang động. Gió biển thổi mạnh.

Cánh buồm no gió “căng”lên. Tiếng hát, gió khơi, buồm căng” là ba chi tiết nghệ thuật mang tính chất tượng trưng diễn tả tinh thần phấn khởi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển. Bốn câu thơ tiếp theo nói rõ về câu hát để làm nổi bật một nét tâm hồn của người dân chài. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn:

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

….

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Chuyện làm ăn thường có nhiều may rủi. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm, gặp luồng cá, đánh bắt được nhiều. Niềm ước mong ấy phản ánh tấm lòng hồn hậu của ngư dân từng trải qua nhiều nắng, gió, bão tố trên biển. Giọng điệu thơ ngọt ngào, ngắn dài và vang xa: “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới” vẫn những hình ảnh so sánh ẩn dụ rất sáng tạo đem đến cho người đọc bao liên tưởng thú vị về vẻ đẹp thơ ca viết về lao động.

Bốn khổ thơ tiếp nói về cảnh đánh cá vào một đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ là một nét vẽ về biển trời, sông nước, trăng sao, trong đó con người hiện lên trong dáng vẻ khỏe mạnh, trẻ trung và yêu đời. Hạ Long là một thắng cảnh bậc nhất của đất nước ta. Hạ Long trong đêm trăng mang vẻ đẹp thần tiên. Huy Cận, với bút pháp lãng mạn tả cảnh đánh cá trên Hạ Long vào một đêm trăng bằng bao hình ảnh tuyệt vời.

Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm phóng như bay trên mặt biển về ngư trường “dò bụng biển”, ngư dân khẩn trương lao vào công việc “dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Cuộc đánh cá thực sự là một trận đánh. Mỗi thủy thủ là một “chiến sĩ”. Con thuyền, mái chèo, lưới, ngư cụ khác đều trở thành vũ khí của họ. Chữ “lưới” đặc tả đoàn thuyền ra khơi với vận tốc phi thường; thiên nhiên cùng góp sức với con người trên con đường lao động và khám phá. Nhịp thơ hối hả lôi cuốn:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

….

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những câu thơ tả đàn cá là đặc sắc nhất. Biển quê ta giàu có với nhiều loại cá quý, cá ngon nổi tiếng như:”Chim, thu, nhụ, đé”. Vận dụng sáng tạo cách nói của dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: “Cá thu biển đông như đoàn thoi”, ở đây lại miêu tả: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé”. Con cá song là một nét vẽ tài hoa: vẩy cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước chan hòa ánh trăng “vàng chóe”. Cái đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho vần thơ đẹp như một bức tranh sơn mài rực rỡ.

Nhìn bầy cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ huyền ảo lung linh: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”, như đưa người đọc đi vào cõi mộng. Phải có một tình yêu biển sâu nặng mới viết nên những vần thơ tuyệt bút như vậy. Sung sướng nhìn đàn cá “dệt lưới”, những người dân chài cất lên tiếng hát ngọt ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng biển.

Vầng trăng soi xuống mặt biển, muôn ngàn ánh vàng tan ra theo làn sóng, vỗ vào mạn thuyền. “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”. Biển hào phóng cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản… Biển “như lòng mẹ” đã. nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay. So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương. Giọng thơ ấm áp, chứa chan nghĩa tình:

Biển cho ra cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời sao đã thưa và mờ. Cảnh kéo lưới được miêu tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo lưới “xoăn tay”. “Kéo xoăn tay” là một hình ảnh đặc tả động tác kéo lưới rất căng, khỏe và đẹp. Cơ man nào khiến cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng. “Chùm cá nặng” là một hình ảnh ẩn dụ gợi tả được mùa cá.

Khoang thuyền đầy ắp cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Một lần nữa cho thấy nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất điêu luyện, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt đẹp:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông.

Khổ thơ cuối nói về cảnh đoàn thuyền trở về bến lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên đoàn thuyền lại cất cao tiếng hát – tiếng hát thắng lợi hân hoan. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống khẩn trương:

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời,

Mặt trời đội biển nhô màu mới.

Cảnh rạng đông với hình ảnh “mặt trời đội biển… “nhô lên, tỏa ánh sáng chan hòa, một “màu mới” bao trùm biển khơi. Đoàn thuyền phóng như bay về bến như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian. Biện pháp thậm xưng kết hợp với nghệ thuật hoán dụ trong việc tả “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi ” đã vẽ lên cảnh được mùa cá và cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân vùng biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca cuộc đời.

Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Nếu như trước đây, thơ Huy Cận thấm một nỗi buồn “vạn cổ sầu ” vào vũ trụ và lòng người thì những bài thơ của ông từ năm 1945 đến nay, đặc biệt là bài “Đoàn thuyền đánh cá” mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời.

Qua thơ Huy Cận, chúng ta như được sống những đêm trăng đẹp trên Hạ Long, ta tự hào đất nước ta có trên ba nghìn cây số bờ biển; biển ta giàu có, bao la tiềm năng, dồi dào hải sản.

Cảnh đánh cá trên biển được miêu tả với cảm hứng lãng mạn. Lao động thật sự là niềm vui cuộc đời. Trong xã hội ta, cái đáng quý nhất là lao động, người đáng quý nhất là người lao động. Hình ảnh người dân chài trong bài thơ là hiện thân của sức sống cần lao. Họ cần cù, dũng cảm và chịu khó.

Cuộc đời của họ đã gắn liền với sóng gió mưa nắng biển khơi, khai thác nhiều hải sản. Chính họ đã đem lại muối mặn và hương vị biển cho mọi gia đình gần xa, bữa cơm trở nên đậm đà với con tôm, con cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã cho ta bài học về đức tính cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.

Thật vậy, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay. Những nét vẽ về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, ca hát… cho thấy một hồn thơ đẹp.

Bốn câu thơ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá đã dựng lên quang cảnh kỳ vĩ về cuộc chạy đua của con người (đoàn thuyền) với mặt trời. Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.

Như vậy, câu hát đã theo suốt cuộc hành trình của người dân chài. Câu hát mở đầu lúc họ bắt đầu lên đường ra khơi, và khi trở về lại những câu hát ấy. Có lẽ câu hát lúc ra đi là câu hát lạc quan tin tưởng khi trở về con thuyền sẽ đầy ắp cá tươi, còn câu hát lúc trở về Ịà câu hát vui sướng trước thành quả lao động sau một đêm vất vả.

Không chỉ có hình ảnh câu hát được lặp lại ở khổ cuối, ta còn thấy hình ảnh mặt trời cũng xuất hiện. Nếu khổ đầu là mặt trời của hoàng hồn thì đây là mặt trời của bình minh. Bình minh báo hiệu một ngày mới, báo hiệu một sự sống sinh sổi nảy nở, là sự khởi đầu của những niềm vui, niềm hạnh phúc mà người dân chài có được sau một chuyến hành trình rất vất vả và cực nhọc. Đặc biệt ở khổ thơ cuối có một hình ảnh rất hay, rất hoành tráng và lãng mạn: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.

Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với hình ảnh mặt trời kì vĩ. Huy Cận đã lấy một sự vật bé nhỏ, bình dị để ngầm so sánh với hình ảnh vĩ đại của thiên nhiên: “mặt trời”. Hình ảnh nhân hoá, nói quá làm tăng thêm sức dồi dào, vẫn hăng say mạnh mẽ sau một đêm lao động vất vả của người dân chài.

Nói như vậy là tác giả đã làm nổi bật tư thế của những con người lao động, bởi nói đoàn thuyền nhưng thực chất là nói đến người dân chài. Đoàn thuyền ở đây là một hoán dụ để chỉ người ngư dân. Họ trở về trong một tư thế lớn lao, kì vĩ, sánh ngang tầm với vũ trụ, thậm chí trong cuộc chạy đua với thiên nhiên họ đã chiến thắng. Chính nhũng con người lao động ấy đã chiến thắng thiên nhiên và làm chủ thiên nhiên.

Khi mặt trời ló rạng, một ngày mới bắt đầu cũng là lúc đoàn thuyền về bến:

“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Ta lại bắt gặp một hình ảnh mặt trời khác, không phải của thiên nhiên mà của muôn ngàn mắt cá lấp lánh trong buổi bình minh. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đông đầy khi được mùa cá, niềm vinh quang của người lao động rất bình dị, nhỏ bé. Nó làm nổi bật tư thế làm chủ vũ trụ, làm chủ cuộc sống của những con người lao động.

Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…

Bên cạnh cái ung dung và say sưa của những người dân làng chài, ta vẫn cảm nhận được cái vất vả của họ. Công việc thật sự là một trận đánh được diễn tả bằng rất nhiều động từ mạnh, thể hiện tư thế làm chủ thiên nhiên, tư thế sẵn sàng lao động hết mình của những con người mới.

Hằng đêm, họ phải vượt qua bao nhiêu dặm biển trong cảnh trời đêm, ra đậu ngoài khơi xa mới có thể đánh bắt được nhiều cá. Không chỉ thế họ còn phải “dò bụng biển” mới có thể tìm được các bãi cá, “dàn đan thế trận” để bủa lưới bắt cá. Chính nhờ sự am hiểu sâu sắc về nghề nghiệp và có niềm cảm thông sâu sắc với những người dân chài tác giả mới có thể vẽ nên bức tranh đầy hiện thực nhưng không kém phần lãng mạn ấy.

Không chỉ tinh tế về cảm xúc thẩm mĩ mà còn phong phú về vốn sống, Huy Cận hiểu khá tường tận về công việc của những người đánh cá. Đoàn thuyền đã tìm thấy đúng bãi cá và lưới đã được buông xuống:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

Bằng nghệ thuật tưởng tượng lãng mạn, biển trời với bao nhiêu loài cá mang bao nhiêu màu sắc lung linh trở nên thật kì ảo dưới ánh trăng. Bằng biện pháp liệt kê và điệp từ “cá”, tác giả đã kể tên nhiều loài cá quý, thể hiện sự phong phú và đa dạng về chủng loại, bổ sung về chủng loại cá ở đoạn thơ tả đàn cá thu “dệt biển”.

Hình ảnh cá song là một nét vẽ tài hoa, vẩy cá đen, hồng lấp lánh trên biển nước lấp loáng ánh trăng như những ngọn đuốc giữa biển đêm thăm thẳm. Cái “quẫy đuôi” làm cho bức tranh thật sinh động cùng với nghệ thuật phối sắc tài tình làm cho đoạn thơ đẹp như một bức tranh sơn mài vô cùng rực rỡ. Thiên nhiên được nhân hóa “thở”, cùng với cách gọi cá là “em” thể hiện tình yêu quê hương đất nước và tình yêu biển sâu nặng của tác giả.

Tiếng hát của con người lao động lại cất cao phóng khoáng, bay bổng, chan chứa niềm tin yêu cuộc sống:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.”

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 21)

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới. Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm với gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá! Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc, và con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng…lưới! Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: Lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy …Với ngư dân, biển cả bao la “như lòng mẹ”, bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người.

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 22)

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu thuộc phong trào Thơ mới. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Đến với tác phẩm này, người đọc sẽ cảm nhận được hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ về đất nước.Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên cũng như đoàn thuyền lúc ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Cách so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời, gợi thời gian của hoàng hôn. Cùng với đó là hình ảnh nhân hóa biến không gian đại dương là một căn nhà rộng lớn, ở đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển chính là then cài. Thiên nhiên đã bắt đầu khoảng thời gian nghỉ ngơi, hưởng thụ trạng thái bình yên.Trong khi đó, đây mới là lúc con người bắt đầu công việc lao động. “Đoàn thuyền” - không chỉ là một con thuyền, mà là cả một đoàn - một tập thể đông đảo cùng nhau ra khơi lao động. Cách viết “lại ra khơi” cho thấy đây là công việc đã quá quen thuộc với họ. Đặc biệt là hình ảnh “câu hát căng buồm” gợi ra khung cảnh người lao động cùng nhau cất vang tiếng hát, tạo ra một nguồn sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi vạn vật bắt đầu nghỉ ngơi, những người ngư dân mới bắt đầu hành trình lao động của mình.

Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã khắc họa nổi bật lên hình ảnh người ngư dân:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện được tâm hồn lạc quan, không khí khẩn trường mà còn nói lên mong ước của họ. Công việc đánh cá vất vả là vậy nên người ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp được nhiều luồng cá để có thể đánh bắt được nhiều. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa được sử dụng khiến cho người đọc có một cảm nhận thú vị về con người lao động.Tiếp đó, khung cảnh đánh cá được nhà thơ miêu tả:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Toàn bộ khổ thơ giống như một bức tranh lộng lẫy. Các hình ảnh: gió, trăng, mây vẽ nên bức tranh ấy bằng một thứ ngôn ngữ lung linh. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Thiên nhiên cũng như đóng góp một phần vào công cuộc lao động của người ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.Nhà thơ đã dành riêng một khổ thơ để nói về sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe,

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được kể ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi ra màu sắc của loài ca song. Đặc biệt nhất là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật thơ mộng. Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” - màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

Biển cho ta cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” - biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng - lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá - thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.Có thể nói, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ với niềm tự hào về khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 23)

Đến thơ trang thơ của Huy Cận, có lẽ người đọc cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi.“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác năm 1958 trong một chuyến đi thực tế dài ngày ở Hòn Gai. Huy Cận đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. bằng một đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, cũng như một trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ giống như một bức tranh đầy màu sắc, sự sống:Trong khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm với gió khơi”

Đoàn thuyền rời bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. Cách so sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” khiến cho bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực đang. Mặt trời đang dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy màn đêm dần buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên mà ở đó “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Chính lúc đó, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát đã ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Vẻ đẹp của biển cả đã làm công việc lao động vơi đi phần nào. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp lao động cùng những người ngư dân:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ đang hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng thấy hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la. Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây - nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

Màn đêm yên yên tĩnh, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không còn là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang. Ánh trăng giống như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Tiếng hát xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh “đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” vừa tả thực mà cũng vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Đó là thói quen lâu đời của người ngư dân, khi phải đem cá về bến trước khi trời sáng. Cũng là tâm thế sẵn sàng của họ trước một chuyến lao động mới.Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được công việc lao động hăng say của những người ngư dân, cũng như thêm tự hào về thiên nhiên, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 24)

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới. Sau cách mạng ông nhanh chóng hoà nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại và trường kì của dân tộc. Hoà bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống đang lên. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá"được sáng tác ở Hòn Gai năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế dài ngày. Bài thơ thực sư là một bài ca ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới.Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ lên trước mắt chúng ta khung cảnh lao động hăng say trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy những sắc màu huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then đêm sập cửa

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm với gió khơi.”

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông, màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Biển kín đáo như một gian phòng lớn của thiên nhiên bởi cách nói thật riêng biệt "sóng đã cài then đêm sập cửa". Chính vào thời điểm ấy, ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: Ra khơi đánh cá !Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang, náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của người lao động được giải phóng, tiếng hát hoà cùng gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng

Cá thu biển đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”

Sự say mê vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt bao nỗi nhọc nhằn vất vả trong việc đánh cá, đem lại niềm vui và sức mạnh cho ngư dân. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ miêu tả bằng cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, công việc, và con người:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ hoà nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Con thuyền đó đang bay giữa không gian trong một đêm thuỷ tinh tuyệt đẹp. Những hình ảnh "lái gió", "buồm trăng", " mây cao", " biển bằng "phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh thật sự hào hùng. Cũng thăm dò, cũng dàn đan thế trận và bủa vây bằng. . . lưới! Đã bao đời nay, ngư dân có quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.”

Trên mặt biển đêm, ánh trăng lung linh dát bạc, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng "em" bật lên tự nhiên, trìu mến. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang: lúc náo nức, lúc lại thật tha thiết. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy.Với ngư dân, biển cả bao la "như lòng mẹ", bởi vậy thiên nhiên và con người thật hoà hợp, nhịp nhàng. Nhịp điệu công việc càng khẩn trương, sôi nổi khi bóng đêm dần tàn, ngày đang đến:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng loé rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Bao công lao vất vả đã được đền bù, dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người dồn tất cả sức mạnh vào đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao!Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ "lưới xếp buồm lên đón nắng hồng "chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng hài lòng của ngư dân trước những kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của ngư dân dạn dày sông nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng buồm đưa đoàn người ra khơi đêm trước nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh "đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời" rất thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền đi trên biển, giữa màu hồng rạng rỡ tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngàn những mặt trời nhỏ xíu đang toả rạng niềm vui. Đến đây bức tranh biển cả ngập tràn màu sắc tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, từng đường nét của cảnh, của người."Đoàn thuyền đánh cá" là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài ca ấy dành cho biển hào phóng, cho những con người cần cù, gan góc đang làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình và nghệ thuật điêu luyện được tác giả sử dụng trong bài thơ đã cuốn hút người đọc thật sự. Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả những người lao động mới đang kiêu hãnh ngẩng cao đầu trên con đường đi tới tương lai tươi sáng.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 25)

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn. Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” - số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,

Biển cho ta cá như lòng mẹ,

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 26)

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa. Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc.

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khỏe khoắn, lời hát của họ như hòa vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.

Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài :

“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”

Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét sáng tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Ở khổ thơ thứ ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơ là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh : mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “ Lái gió” “ buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trời mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hăng hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.

Ở khổ thơ thứ tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”

Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao: “cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi: “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.

Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đi những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.

Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hăng hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lớn “chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.

Phần cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về :

Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi: “ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nhà thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh.

Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “Đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 27)

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Huy Cận. Qua tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên cũng như công việc lao động hăng say của người ngư dân.

Trước tiên, Huy Cận đã khắc họa cho chúng ta một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và sức sống:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Hình ảnh so sánh “mặt trời xuống biển” với “hòn lửa” gợi ra màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” khiến biển giống như là một căn nhà rộng lớn. Đây là thời điểm mà vạn vật nghỉ ngơi. Nhưng lại là lúc người ngư dân bắt đầu công việc lao động. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” - số nhiều, chỉ một tập thể. Đoàn thuyền ấy “lại ra khơi”, lại tiếp tục lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, sự hy vọng về một vụ mùa bội thu.

Nếu như ở trên tác giả Huy Cận với việc sử dụng cách nói độc đáo, miêu tả con thuyền ra khơi ta còn nhìn thấy được vẻ đẹp cua biển khi màn đêm buông xuống thì ở khổ thơ tiếp theo tác giả miêu tả cảnh biển hết sức thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

Hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” với vừa có tính thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. Con thuyền ấy thật vĩ đại: “lướt giữa mây cao với biển bằng” gợi ra hình ảnh con thuyền giống như một tấm ván khổng lồ đang lướt giữa không gian bao la, rộng lớn - tầm vóc vũ trụ. Công việc lao động diễn ra ngay trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” - mặc dù trong đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá của mình. Đánh cá cũng giống như đang đánh trận, mà con người phải sử dụng mưu trí tạo ra thế trận để đánh bại thiên nhiên. Huy Cận không chỉ nói về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động trong thời kỳ mới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

Nhà thơ đã sử dụng kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn đã thể hiện không khí làm việc sôi nổi, khẩn trương. Công việc rất nặng nhọc. Họ phải làm thâu đêm. Họ kéo xoăn tay có nghĩa phải dùng hết sức, tay căng phồng cuộn cuộn với nhau :

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”

Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”

Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện một niềm tin hướng về tương lai của người ngư dân.

Qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đẹp đẽ tráng lệ cũng như thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng bộc lộ niềm vui, tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên, đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 28)

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" được ông viết tại vùng biển Hòn Gai ngày 1/10/1958, in trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng".

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn gồm có 7 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu; đoạn thơ trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả tả đoàn thuyền đánh cá một đêm trăng trên Hạ Long, qua đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lạc quan yêu đời của những người dân chài trong chế độ mới.

Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi khi "Mặt Trời xuống biển". Mặt Trời đỏ rực "như hòn lửa" vừa "xuống biển" thì chỉ thấy những con sóng như then cài "sập cửa" ngôi nhà vũ trụ. Chính lúc đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện khí thế ra khơi đã phấn chấn của đoàn thuyền đánh cá.

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi".

Khổ thơ thứ hai nói lên lời cầu mong của người dân chài: ra khơi sóng yên biển lặng, may mắn gặp luồng cá thu "như đoàn thoi", đánh bắt được nhiều cá. Lời cầu mong tha thiết ngọt ngào:

"Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! ".

Khổ thơ thứ ba tả cảnh đánh cá. Những ngư dân vừa gõ thuyền đuổi cá, vừa cất tiếng hát ngợi ca biển như người mẹ nhân hậu. Trăng trên trời cao chiếu xuống biển xanh như vỗ vào mạn thuyền, cùng gõ nhịp đuổi cá. Những vần thơ ngọt ngào và có hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn:

"Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào".

Cảnh kéo lưới diễn ra lúc "sao mờ" trời sắp sáng. Câu thơ "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng" vừa tả cá biển từng chùm mắc vào lưới, vừa thể hiện vẻ cường tráng, dẻo dai của những ngư dân lúc kéo lưới. Cá tươi ngon đầy khoang thuyền hiện lên dưới ánh hồng rạng đông:

"Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông".

Màu "bạc" của vảy cá, sắc "vàng" của đuôi cá đều "lóe" dưới ánh đông trong niềm vui của bao người. Nghệ thuật dùng từ và phối sắc của Cận thật tài tình.

Khổ thơ cuối bài gợi tả đoàn thuyền đánh cá trở về. Mừng vui phấn khởi trước một chuyến ra khơi may mắn, các thủy thủ lại cất cao tiếng hát. Con thuyền và mặt trời được nhân hóa đầy khí thế:

"Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhô màu mới".

Và những mắt cá lấp lánh trong khoang thuyền góp phần làm cho cảnh biển một sớm bình minh thêm phần huy hoàng, tráng lệ:

"Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi''.

Hình ảnh mắt cá ở đây tượng trưng cho cuộc sống mới ấm no, yên vui của bà con dân chài trên vùng biển quê hương. "Đoàn thuyền đánh cá" là một bài thơ hay. Hình tượng đẹp, giọng thơ ngọt ngào, nó là bài ca lao động của người dân chài khi quê hương đất nước "trời mỗi ngày lại sáng".

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 29)

Huy Cận là một trong những cây đại thụ của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước CMT8, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, nỗi cô đơn rợn ngợp của con người khi nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ bao la rộng lớn. Nhưng kể từ sau CMT8, đất nước hồi sinh, hồn thơ Huy Cận như sống lại và có nhiều chuyển biến. Thơ ông không còn ưu sầu, ảo não nữa mà chan chứa niềm vui, niềm tin yêu vào cuộc sống, vào những con người mới.

Năm 1958, sau một chuyến đi khảo sát thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, được sống và chứng kiến không khí lao động hăng say, khẩn trương sôi nổi của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhờ thơ vui cùng mừng vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác nên bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên đất nước con người bao la rộng lớn, nên thơ tươi đẹp.

Ngay mở đầu bài thơ ta đã nghe thấy âm hưởng bài ca lao động ngân vang, khoẻ khoắn trong cảnh đoàn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong buổi hoàng hôn thật huy hoàng, tráng lệ, đầy sức sống:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
…..
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Biện pháp so sánh độc đáo gợi lên hình ảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ đang từ từ lặn sâu vào lòng biển cả để lại trên mặt biển những tia sáng đỏ ối, báo hiệu một ngày mới đã trôi qua, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Sang đến câu 2, hình ảnh thơ càng trở nên mới lạ độc đáo, thể hiện một trí tưởng tượng vô cùng phong phú của nhà thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

Trong cách cảm nhận của Huy Cận, vũ trụ giống như một ngôi nhà lớn, còn những con sóng lăn tăn trên mặt biển chính là cái then cài khoá chặt cánh cửa của màn đêm. Câu thơ gợi cho ta cảm giác vũ trụ như đang chìm trong trạng thái nghỉ ngơi, và bóng tối bắt đầu bao trùm lên thiên nhiên cảnh vật nhưng đó lại chính là lúc:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đêm tối vạn vật chìm trong giấc ngủ. Đó cũng là lúc con người lại bắt đầu lao động, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Hình ảnh thơ nói lên sự cần cù nhiệt tình lao động, chịu thương chịu khó của những người dân vùng biển.

Công việc đánh cá nhọc nhằn vất vả, hiểm nguy nhưng đoàn thuyền lại ra khơi trong tiếng hát. Tiếng hát khoẻ khoắn vang vọng khắp cả một vùng sông nước bao la, rộng lớn và cả trong lòng người thể hiện một niềm vui tươi, phấn khởi, đầy lạc quan tin tưởng của người đánh cá lúc ra khơi. Và chính tiếng hát đó không chỉ làm cho công việc lao động đỡ nhọc nhằn vất vả mà nó còn tạo nên một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn cùng với gió biển đưa con thuyền lao nhanh về phía trước.

Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
….
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

Những câu thơ thể hiện trực tiếp khúc ca say mê của người đánh cá. Họ mong muốn trời yên biển lặng để đánh cá được nhiều, để cuộc sống được đủ đầy no ấm. Biện pháp so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” cho ta cảm nhận biển Đông bao la rộng lớn, trù phú, chất chứa trong mình biết bao nhiêu là cá.

Nhìn từng đàn cá thu bơi lội thành từng đàn, những con cá với những chiếc vẩy bạc nối tiếp nhau di chuyển trong nước tạo thành những luồng sáng lấp lánh trên mặt biển tối đen, nhà thơ cảm nhận mặt biển như biến thành khung cửi khổng lồ còn những con cá kia chẳng khác nào những chiếc thoi đưa thoăn thoát đang ngày đêm âm thầm dệt nên tấm áo choàng rực rỡ cho vũ trụ về đêm.

Cảnh đoàn thuyền đánh bắt cá trong đêm:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng,
….
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách nói vô cùng sáng tạo, mới lạ độc đáo đem đến cho câu thơ những hình ảnh vừa lãng mạn, bay bổng vừa nên thơ, kì vĩ, tráng lệ. Đọc câu thơ người ta cảm nhận người, thuyền, thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt đi giữa lớp mây cao, biển bằng thật hùng dũng hiên ngang nó ra khơi không phải chỉ với khí thế hăm hở do người cầm lái mà còn được thiên nhiên nâng đỡ chở che.

Ở đây gió trở thành bánh lái của con thuyền. Chính con thuyền có thể lái cả gió điều khiển nó theo ý muốn của mình. Cánh buồm tuy nhỏ bé nhưng có thể mang theo cả vầng trăng trên cao trong suốt cả một hành trình dài. Ánh trăng lung linh bang bạc chiếu sáng cả không gian làm cho cảnh vật trở nên nên thơ, huyền ảo.

Ở đây ta nhận ra con thuyền tuy ra khơi giữa không gian biển cả bao la rộng lớn mà không hề nhỏ bé. Nó “lướt” đi vun vút như một con tuấn mã băng băng tiến về phía trước mà không hề sợ hãi. Xung quanh nó là gió trăng làm bầu bạn. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng dũng biết bao. Con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, cảnh vật:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Hai câu thơ gợi lên những cuộc đánh bắt cá xa bờ đầy những gian khổ hiểm nguy. Nhưng không vì thế khiến lòng người nao núng. Bởi họ mang trong mình nỗi khát khao chinh phục biển cả, thám hiểm, thăm dò “bụng biển” để tìm kiếm những luồng cá lớn.

Dưới ngòi bút miêu tả tài hoa, sáng tạo, lãng mạn của Huy Cận, cuộc đánh bắt cá của ngư dân trên biển bỗng trở thành những cuộc thuỷ chiến đầy gay go, quyết liệt. Con người dùng chính trí tuệ và sức mạnh của mình để chinh phục đại dương, biển cả. Thế trận con người bày ra bằng những tấm lưới chắc chắn đan vào nhau, bủa vây sẵn sàng chờ đón cá.

Cá nhụ, cá chim, cùng cá đé
….
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Biện pháp liệt kê: “cá nhụ, cá chim cùng cá đé / Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi lên sự trù phú, giàu có của biển cả nước ta. Có biết bao loài tôm cá, hải sản quý hiếm mà đâu phải nơi mênh mông làm rực sáng cả một biển trời. Những con cá tung tăng bơi lội, đùa giỡn, tắm mình dưới ánh sáng của vầng trăng và những chiếc đuôi nhỏ bé của nó như đang quẫy đạp vào ánh trăng vàng đang lung linh trong mặt nước.

Một cảnh tượng thiên nhiên thật thơ mộng, ánh trăng bàng bạc chiếu sáng khắp cả không gian lung linh, huyền ảo. Ta ngồi đây mà nghe xung quanh mình những nhịp thở đều đặn màn đêm của đại dương bao la rộng lớn: Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Đêm thở, lại một cách dùng từ rất sáng tạo, độc đáo của nhà thơ Huy Cận. Ngòi bút nhân hoá của ông đã khiến cho màn đêm trở thành một sinh vật khổng lồ, có sự sống như con người. Nhịp thở của màn đêm chính là âm thanh của những cơn sóng tràn bờ đều đặn, liên tục, không ngừng nghỉ.

Đó không chỉ là tiếng sóng, là những âm vang từ ngoại cảnh mà đó còn là những âm vang, những rung động, cảm xúc trong lòng người, thấy mình với vũ trụ không còn ngăn cách. Mỗi bước đi sự chuyển mình của thiên nhiên, trời đất, vũ trụ con người dường như đều cảm nhận được một cách kì diệu, tinh tế. Câu thơ không chỉ gợi lên âm thanh mà tràn đầy hình ảnh, những vì sao lung linh toả sáng như từng bước từng bước xô đẩy con sóng vào bờ, mặt biển lấp lánh ánh trăng sao êm đềm, sáng trong, dịu mát.

Sang khổ thơ thứ 5, con người – chủ thể của bức tranh thiên nhiên nên thơ tươi đẹp được miêu tả trong tư thế lao động miệt mài, thoải mái khoan thai với những lời ca câu hát vút cao, trong trẻo:

Ta hát bài ca gọi cá vào
….
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào.

Tiếng hát lại một lần nữa vút cao bay bổng, sảng khoái ung dung. Ánh trăng lung linh in xuống dòng nước rồi theo những cơn sóng lăn tăn đánh nhẹ vào mạn thuyền hoà cùng nhịp gõ cá của ngư dân. Hiện thực cuộc sống chỉ thế nhưng qua cách cảm nhận, miêu tả của Huy Cận thì cảnh vật hiện ra bỗng trở nên có hồn. Ánh trăng trên cao như muốn hoà mình, gởi những tia sáng vàng óng ả để nâng đỡ giúp cho công việc đánh bắt của người dân đỡ phần nhọc nhằn vất vả.

Sau một ngày lao động nhọc nhằn vất vả, gờ đây khi sao mờ đi, bình minh ló dạng, mặt trời vươn mình khỏi mặt biển để đón chào ngày mới cũng là lúc họ khẩn trương xếp lưới, căng buồm trở về nhà:

Sao mờ kéo lười kịp trời sáng
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Từ ngữ gợi tả độc đáo “kéo xoăn tay chùm cá nặng” giúp ta hình dung những thân hình vạm vỡ đang ra sức kéo mẻ lưới cuối cùng. Cá nằm trong lưới nặng đến mức những bắp tay của học nổi lên cuồn cuộn. Cá chi chít san sát nhau như một chùm quả gợi lên trong lòng người biết bao niềm vui mừng hạnh phúc khi nhìn thấy những chùm cá tươi roi rói – kết quả khả quan của một ngày lao động nhọc nhằn vất vả. Họ ra đi trong tiếng hát và trở về với một khoan thuyền đầy cá nặng.

Nhưng có lẽ đẹp nhất là hình ảnh “vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông”. Dưới ánh sáng bình minh loé lên, những con cá mắc vào lưới càng trở nên rực rỡ. Dường như ngoài bản chất nhà thơ, Huy Cận còn mang trong mình tố chất của người hoạ sĩ. Cách phối màu “bạc, vàng” được vận dùng tài tình khéo léo, tô đậm thêm thành quả lao động của người dân vùng biển.

Câu thơ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” với các động từ “xếp, lên, đón” và cách ngắt nhịp 2/2/3 diễn tả mọi công việc diễn ra theo trình tự một cách thành thạo, nhanh chóng để kịp thời trở về đất liền. Hình ảnh lưới xếp và cánh buồm được căng phồng lên trong gió như khép lại một màn đêm mệt mỏi mở ra một buổi sáng đẹp trời với những phiên chợ tấp nập đông vui:

Câu hát căng buồm với gió khơi
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Đây là lần thứ 3, Huy Cận nhắc lại câu hát này. Lần đầu là tiếng hát hứng khởi lúc ra khơi: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Tiếng hát lần thứ hai là tiếng hát say mê lao động: “Ta hát bài ca gọi cá vào”. Và lần cuối cùng chính là tiếng hát của niềm vui thắng lợi: “Câu hát căng buồm với gió khơi”. Câu hát thay ngọn gió làm căng cánh buồm đẩy thuyền về đất liền trong một tư thế mới: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”.

Tác giả đã nhân hoá và nói quá hai sự vật “đoàn thuyền và mặt trời” đang chạy đua cùng nhau. Trong cuộc đua không cân sức ấy, con người đã thắng. Đất liền chào đó những đứa con thắng trận trở về với khung cảnh thật đẹp đẽ kì vĩ. Vầng dương bao la toả những tia nắng ấm áp, đẹp lung linh xuống mặt biển. Và mặt trời như từ từ dưới lòng sâu biển cả đang từ từ đội nước nhô lên. Một cảnh tượng thật nên thơ, hùng vĩ, tràn đầy sức sống.

Mắt cá huy hoàng là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một cuộc đời mới vui tươi xán lạn đang chờ đợi con người phía trước. Dưới ánh sáng mặt trời hàng trăm đôi mắt cá li ti đầy ắp dưới khoang thuyền phản chiếu những giọt vàng chan chứa, bống chốc tất cả đều lấp lánh rạng rỡ, nhìn về đâu người ta cũng thấy những mắt cá chiếu sáng lấp lánh như hứa hẹn một cuộc sống đủ đầy no ấm.

Trước CMT8, thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn. “Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm”. Nhưng trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá màu sắc buồn bã bi quan đó không còn mà thay vào đó là một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai sức mạnh của con người, quê hương đất nước đang trên đà thay da đổi thịt, tất cả đều toát lên một cái gì đó tràn đầy sức sống, mạnh mẽ hiên ngang, con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình.

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.

Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước.

Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 30)

Với bút pháp lãng mạn khoa trương hình ảnh con người lớn lao kì vĩ hiện lên trong cảnh đánh bắt cá trên biển.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Sau khi giới thiệu đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong khung cảnh tráng lệ, kì vĩ, nhà thơ đã đặc tả cảnh đánh cá ngoài khơi. Khổ thơ là một nét vẽ tài hoa về biển trời, sông nước, một khung cảnh biển đêm đẹp sống động, khoáng đạt, rực rỡ sắc màu. Trong đó, con người hiện lên trong tư thế chủ động dạt dào niềm tin, niềm lạc quan yêu đời. Đến khổ thơ này, bút pháp lãng mạn của Huy Cận đã phát huy hết sinh lực để vẽ lên một khung cảnh kì vĩ, phóng khoáng mà con người là tâm điểm của bức tranh ấy.

Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật đẹp.

Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng

Hai tiếng “thuyền ta” vang lên một cách đầy kiêu hãnh, tự hào. Xa rồi những ngày áp bức, bóc lột làm thân nô lệ, làm kiếp ngựa trâu, bị coi như thứ tài sản, bị bóc lột đến kiệt quệ sức.

Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền lướt đi trong đêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi, như bay lên. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kỳ vĩ, khổng lồ, sánh ngang tầm với vũ trụ. Và trên con thuyền ấy, người như dần hiện lên trong tư thế làm chủ:

Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng

Đã qua rồi thời con người còn nhỏ bé, đơn độc trước sức mạnh bí ẩn của biển cả. Mang trong mình khí thế của người làm chủ, biển thu hẹp lại để con người “ra đậu dặm xa”, “dàn đan thế trận” và “dò bụng biển” để con người tìm tòi, khám phá. Họ đàng hoàng ra những nơi xa để bắt thiên nhiên phục vụ. Họ – những dân chài mang theo cả sức trẻ, sức khoẻ, mang theo cả sự tìm tòi, khám phá để tung phá thế giới bí hiểm của thiên nhiên. Việc đánh bắt ấy như một trận chiến mà mỗi người lao động như một chiến sĩ.

1 1,848 01/01/2024
Tải về