TOP 10 mẫu Cảm nhận Bố của xi-mông (2024) SIÊU HAY

Cảm nhận Bố của xi-mông gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 9 hay hơn.

1 4509 lượt xem
Tải về


Cảm nhận Bố của xi-mông – Ngữ văn 9

Bài giảng Ngữ văn 9 Bố của Xi-mông

Dàn ý Cảm nhận Bố của xi-mông

1. Mở bài

- Vài nét về tác giả G. Mô- pa- xăng: Một nhà văn Pháp tài năng với gia tài văn chương đồ sộ

- Khái quát về đoạn trích Bố của Xi-mông: Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi- mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng- sốt và Phi- líp

2. Thân bài

a. Nhân vật Xi-mông

- Là một đứa trẻ đáng thương: "Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát gần như vụng dại", là đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc

- Ý nghĩa và hành động: Bỏ nhà ra bờ sông định tự tử.

- Tâm trạng: cảm giác uể oải, buồn bã vô cùng, chẳng nhìn thấy gì và chẳng nghĩ gì?

- Cử chỉ, hành động: Khóc, nức nở, khóc hoài

- Về nhà, nhìn thấy mẹ: - Nhảy lên ôm cổ mẹ, oà khóc

- Nói năng: ấp úng, ngắt quãng, không nên lời.

- Khi được bác Phi-líp nhận làm con: Kiêu hãnh, tự tin

+ Hết cả buồn.

+ Đưa con mắt thách thức lũ bạn.

Nghệ thuật miêu tả, so sánh Đây là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu và đáng thương nhưng đồng thời Xi – mông cũng là đứa rất có nghị lực.

b. Nhân vật Blăng- sốt

- Được giới thiệu: là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị.

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị…như muốn cám đàn ông bước qua ngướng cửa.

- Nỗi lòng với con

+ Tái tê đến tận xương tuỷ, nước mắt lã chã tuôn rơi.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

Nghệ thuật miêu tả, tác giả đã cho thấy Blăng- sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

c. Nhân vật Phi - lip

- Được giới thiệu là một người :

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông: Đặt tay lên vai em ôn tồn hỏi, nhìn em nhân hậu.

- Trên đường đưa Xi-mông về nhà nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị - “tự nhủ thầm”

- Hành động: Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

Nghệ thuật kể chuyện sinh động, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ đối thoại Bác Phi-líp là người nhân hậu, giàu tình thương đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em.

3. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Nghệ thuật: miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật sắc nét.

- Nội dung: Nhắc nhở lòng thương yêu con người, bè bạn.

- Liên hệ bản thân.

Bài giảng Ngữ văn 9 Bố của Xi-mông

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 1)

Truyện ngắn: Bố của Xi mông (G. đơ Mô-pa-xăng) - SGK Ngữ văn 9, tập 2 -  Theki.vnTruyện ngắn Bố của Xi-mông của nhà văn Pháp Mô-pa-xăng đã khắc họa thành công tâm trạng của ba nhân vật chính trong truyện là Xi-mông, bác Phi-lip và chị Blăng-sốt, qua đó tác giả nhắc nhở chúng ta lòng yêu thương con người.
Nhà văn viết truyện ngắn theo trình tự sự việc, qua từng sự việc đó, các nhân vật thể hiện tâm trạng và tính cách của mình. Trong truyện ngắn, mỗi nhân vật có một hoàn cảnh khác nhau nhưng giữa họ có một điểm chung là tình cảm của họ dành cho nhau rất chân thành.

Xi-mông là em bé có hoàn cảnh éo le. Em không có bố, em lớn lên trong sự dạy dỗ của mẹ mà thiếu tình thương của bố. Đến khi đi học, ngày đầu tiên em đến trường đã bị sự chế giễu của bạn bè. Hoàn cảnh đó đã làm em tuyệt vọng và em quyết tìm đến cái chết. Tuy nhiên, cũng như bao đứa trẻ khác, em là người ham chơi đến nỗi quên mất ý định ban đầu của mình. Ra bờ sông để tự tử, thấy cảnh đẹp, thấy chú nhái xanh, em quên mất ý định tự tử của mình và vui với những trò hấp dẫn. Nhưng chợt nhớ lại ý nghĩa ban đầu, em buồn bã khóc, khóc hoài. Trong đầu em lúc đó không thể nghĩ ra điều gì, không thể nào nghĩ ra cách để em có bố. Gặp bác Phi­lip và bác hứa cho em một người bố, em như quên tất cả và vui vẻ theo bác về nhà như không có chuyện gì xảy ra trước đó. Tính cách trẻ con của Xi- mông được tác giả khắc họa rất thành công, nó vừa thể hiện được sự ngây thơ nhưng đồng thời cũng là cho thấy niềm khát khao có bố của em.

Nếu như trong truyện Những đứa trẻ, nhà văn Go-rơ-ki thể hiện lòng thương cảm đối với những em bé sống thiếu tình thương của mẹ thì trong truyện Bố của Xi-mông,Mô-pa-xăng lại thông cảm với số phận của những em bé sống thiếu tình thương và sự dạy dỗ của cha. Tình thương và lòng nhân ái luôn hiện hữu trong mỗi chi tiết truyện. Với tình thương của mình, không những bác Phi-lip làm cho Xi-mông từ bỏ cái ý định tự tử của mình mà còn mang lại cho em sự lạc quan, tin tưởng, tạo ra một chỗ dựa tinh thần vững chắc cho em. Không những thế, sự hi sinh của bác còn tạo cho người mẹ vững tâm hơn trong cuộc sống. Tình thương đã làm thay đổi tất cả. Đó là giá trị cao cả của tác phẩm và cũng là thông điệp tác giả muốn gửi gắm cho người đọc.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 2)

Bài viết theo trình tự sự việc, qua từng sự việc thể hiện tính cách, tâm trạng của từng nhân vật. Trong truyện ngắn, mỗi nhân vật có một hoàn cảnh khác nhau nhưng có một điểm chung là tình cảm họ dành cho nhau rất chân thành.

Xi-mông là một em bé có hoàn cảnh éo le. Em không có bố, em sinh ra và lớn lên trong sự nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ. Đến khi đi học, ngày đầu tiên đến trường em đã bị bạn bè chế giễu, rằng em không có bố. Em buồn bã, tuyệt vọng, tuy nhiên em là một đứa trẻ không biết cách tìm một người nào đó tâm sự mà lại có ý định ra sông để tìm đến cái chết. Ra bờ sông, em nhìn thấy cảnh đẹp, thấy chú nhái xanh, em liền lăn vào cảnh đẹp và vui chơi, các ý nghĩ ban đầu của em biến mất, như bao đứa trẻ, em không thể từ chối những trò chơi hấp dẫn. Nhưng chợt nhớ ra ý nghĩ ban đầu, em lại buồn bã và khóc, khóc hoài. Trong đầu em bây giờ không thể nghĩ ra cái gì, không thể nào nghĩ ra cách để em có bố. Em chỉ là một cậu bé bảy tuổi, tính cách rất trẻ con, chưa biết suy nghĩ nhiều. Gặp bác Phi- líp, được bác nói rằng: “Người ta sẽ cho cháu một ông bố”, Xi-mông liền vui và theo bác về nhà, vì em nghĩ rằng người ta có thể dễ dàng cho nhau một ông bố, chuyện đó rất đơn giản, về nhà, em khóc lóc với mẹ, rồi quay ra hỏi bác Phi-líp: “Bác có muốn làm bố của cháu không?”. Không thấy bác trả lời, em liền đưa cái chết ra dọa dẫm. Dường như, em vẫn chưa tin bác Phi-líp; muốn khẳng định lại việc bác vừa nói, thể hiện Xi-mông rất trẻ con, chưa hiểu được mọi việc, em rất muốn có bố để có thể hãnh diện cùng bạn bè. Dù vậy, ta vẫn nhận thấy lòng khát khao có bố của Xi- mông, em đã được mẹ chăm sóc, nhưng em vẫn cần sự dũng mành, tự tin, sự che chở của người bố.

Một người đàn ông giàu lòng nhân ái, đã nhận làm bố của Xi-mông, chính là bác Phi-líp. Bác đã gặp Xi-mông trong lúc em đang khóc, bác ân cần hỏi thăm, an ủi em, giúp cho em không buồn bã. Một người đàn ông biết quan tâm đến người khác, rất ân cần điềm đạm, đặc biệt là một người yêu trẻ. Biết hoàn cảnh của mẹ con chị Blăng-sốt, bác không những không từ chối, mà còn nhận làm bố Xi-mông.

Tình cảm của bác dành cho mẹ con chị Blăng-sốt là sự cảm thông trước nỗi hổ thẹn của chị. Bác cảm thấy thương cho Xi-mông, em còn quá nhỏ để đón nhận sự thật rằng em không có bố. Ta cảm nhận trong con người của bác Phi-líp là tấm lòng hào hiệp, hết sức nhân từ. Cảm động trước tình cảm của hai mẹ con bác muốn chia sẻ một phần nỗi đau, nỗi buồn mà hai mẹ con chị Blăng-sốt đã phải nhận. Với tấm lòng nhân ái, thương yêu con người của bác Phi-líp, bác thực sự là một người đàn ông có thể gửi gắm niềm tin.

Người phụ nữ đã sinh ra, nuôi dưỡng, dạy dỗ Xi-mông bao lâu nay là mẹ của em, chị Blăng-sốt. Chỉ vì một lầm lỡ, sinh ra Xi-mông không có bố, chị đã vất vả một mình nuôi nấng Xi-mông. Dành cho con tình yêu thương của cả cha lẫn mẹ, chị không bao giờ muốn con trai mình phải buồn bã vì bất cứ chuyện gì. Và thực sự, Xi-mông chưa bao giờ buồn và thấy thiếu vắng trong gia đình bóng dáng của người bố. Có thể nói em đã nhận được tình yêu thương vô bờ bến của mẹ, mà không thấy vắng cha. Cho đến khi, con bị bạn bè chế giễu, buồn khóc với mẹ, chị ôm lấy con mà trong lòng đau xót tê tái, chị thấy hổ thẹn, đau đớn tột cùng, mà không thể nói thành tiếng. Nỗi đau chị đã phải chịu đựng hàng bao năm nay, tưởng chừng như có thể quên đi vĩnh viễn.

Nỗi đau khổ càng tăng lên càng cho ta thấy nhân cách của chị là một người phụ nữ đức hạnh, người mẹ rất đỗi yêu con đồng thời là một con người giàu lòng tự trọng. Một mình nuôi dưỡng con mà không có sự giúp đỡ của chồng, chị vẫn làm tốt trong vai trò của cả cha và mẹ. Ngôi nhà mà hai mẹ con chị đang sống là một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Chỉ cần nhìn vẻ ngoài của ngôi nhà, ta vẫn nhận thấy trong gia đình có bàn tay của một người phụ nữ đảm đang, chị đã sắp xếp cho hai mẹ con một cuộc sống ngăn nắp. Tuy gia đình còn khó khăn, còn nghèo, nhưng luôn ấm áp, bởi nó được sưởi ấm bằng chính tình yêu thương của mẹ. Khi con dẫn một người lạ về nhà, lại nhận làm bố, chị cảm thấy hổ thẹn và lòng tự trọng của mình bị tổn thương. Điều này càng chứng tỏ nhân cách trong sáng của một người phụ nữ đức hạnh.

Thông qua truyện ngắn “Bố của Xi-mông”, tác giả muốn gửi đến người đọc một thông điệp: “Con người hãy sống với nhau bằng tình yêu thương, cảm thông chia sẻ, đừng bao giờ sống tàn nhẫn, cười cợt trên nỗi đau của người khác”. Người đọc cũng cảm nhận được tình mẫu tử thiêng liêng, bền chặt không bao giờ thay đổi. Đó chính là bài học cho chúng ta hãy sống nhân ái, thương yêu, luôn giúp đỡ mọi người – một bài học triết lí sâu sắc đối với mỗi chúng ta.

Để có thể viết tốt được bài văn nêu cảm nghĩ về nhân vật Xi-mông thì bạn hoàn toàn không thể bỏ qua bài phân tích nhân vật Xi-mông vì qua bài phân tích nhân vật bạn mới nắm được diễn biến câu chuyện và tâm lý của nhận vật để viết bài.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 3)

Bố của Xi-mông - Mô-pa-xăng - Ngữ văn 9Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm lớn gồm một số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883). Ông bạn đẹp (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối, sinh ra bé Xi-mông. Khi Xi- mông đi học, em bị đám học trò chế giễu là đứa con hoang không có bố. Xi- mông buồn tủi, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác Phi-líp. Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp là bố và bác đã nhận lời. Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông thì làm sao là bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng vì thương Xi-mông mà bác Phi-líp đã cầu hôn với cô Blăng-sốt. Từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời. Nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng ta về tình yêu thương bạn bè, mở rộng ra là lòng thương yêu con người, biết thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác.

Bài văn chia làm 4 phần: Phân một: Từ đầu đến ...mà chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông. Phần hai : Từ Bỗng một bàn tay... đến ...một ông bố : Xi-mông gặp bác Phi-líp. Phần ba: Từ Hai bác cháu... đến ...đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà. Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường.

Trong đoạn trích này có ba nhân vật chính là cậu bé Xi-mông, mẹ em là chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn của Xi-mông và thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội đung bài văn theo từng nhân vật chính.Khi cất tiếng khóc chào đời, bé Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không có bố mới thực sự dằn vặt cậu bé. Trong bài này không có chi tiết nào nói hình dáng của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác của truyện, tác giả cho biết : Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc. Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho trái tim nhỏ bé của em rớm máu. Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không thiết sống nữa. May mà cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ . Nhưng em không đọc hết được vì những cơn nức nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choán ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.

Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố. Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố. Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bị phụ tình, khiến cho con trai mình không có bố. Thực ra, chị là người thật thà và từng là một trong những cô gái đẹp nhất vùng. Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp. Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. Nghe con kể là bị các bạn đánh vì không có bố, đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi Phi-lip: Bác có muốn làm bố cháu không ? thì chị Blăng-sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường hai tay ôm ngực.

Bác Phi-lip là một người thợ rèn cao lớn, rậm râu, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đă rất thương em. Bác đã đem đến cho cậu bé niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-lip đã đem lại cho em niềm hi vọng bằng một câu khẳng định là muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông rất nhiều. Bác Phi-lip tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.

Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên ổn học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục làm cho em đau khổ vì "bố Phi-lip của em không phải là bố hẳn hoi, tức là không phải chồng của mẹ em. Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn với chị Blăng-sốt. Bác Phi-lip đến nhà chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi hể đem lại niềm vui sựớng và tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một việc làm nhân đạo cao cả. Không chỉ đem lại niềm vui cho bé Xi-mông, bác Phi-lip còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện thái độ trân trọng đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-lip đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu quả là cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà không đáng trách, vì bản tính chị không phải là người phóng túng, lẳng lơ. Bác thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.

Để có thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu bé Xi-mông, bác Phi¬lip đã phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến cổ lỗ của người đời. Bác Phi-lip nhận thêm sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng để có thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-lip đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người đàn ông tử tế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt. Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết thúc có hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc và đem lại cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn G.Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 4)

Truyện ngắn Bố của Xi-mông kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo. Bé Xi-mông và mẹ em chị Blăng-sốt thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trong lòng độc giả nhiều thương cảm. Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu. Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt “cao lớn, xanh xao” phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.

Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ hạ lưu dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đẩy dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn cả thể xác lẫn tâm hồn.

Bị bọn trẻ “xua đuổi”, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em phải chết. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi đau khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố”.

Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu tả đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dill nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “giương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống và em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chỉ khóc mà thôi”. Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lý bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố”.

Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “‘cao lớn, râu tóc đen quăn, nhãn hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã “lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi cm với tình thương của một con người “có phép lạ”: “Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu buồn cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em-chị Blăng-sốt.

Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động. Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố”. Đoạn đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay đưa về với mẹ.

Tính cách bé Xi-mông được khắc họa đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn” thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái tên Phi-líp vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú lù bố cháu đấy nhé!”. Có bố, đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc” (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”:

“Bố tao ấy, bố tao là Phi-líp”.

Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!

Đọc truyện Bố của Xi-mông, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi-mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt.

“Không có bố thì đau khổ!”, “Có bố thì hạnh phúc!”. Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu!

Phân tích Bố của Xi-mông (7 mẫu) - Văn 9

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 5)

“Khó tìm thấy một nhà văn nào tinh tế, sâu sắc, đôn hậu với nhiêu nỗi day dứt vê con người như Guy đơ Mô-pa-xãng”. Nhà văn ấy, dù chỉ sống cuộc đời ngắn ngủi hơn bốn mươi năm nhưng đã để lại một khối lượng tác phẩm đổ sộ với nhiều thể loại, đặc biệt hơn cả là đóng góp về lĩnh vực truyện ngắn cho nền văn học Pháp và thế giới. Bố của Xi-mông với vẻ đẹp và sự ấm áp tình người.

Chính tình người, một tình cảm nhân đạo, tình yêu thương và lòng nhân ái giữa người với người đã tạo nên thành công cho tác phẩm. Được trích từ truyện ngắn cùng tên, Bố của Xi-mông có cốt truyện đơn giản, tất cả chỉ xoay quanh nỗi buổn và niềm vui của cậu bé Xi-mông, nhưng qua đó, biết bao nhân vật, bao tấm lòng đôn hậu đã vút lên sáng ngời, chị Blăng-sốt trong truyện này bị một người đàn ông lừa dối, sinh ra Xi-mông. Vì vậy, Xi- mông trở thành đứa trẻ không có bố trong mắt mọi người. Truyện bắt đấu khi Xi-mông khoảng bảy, tám tuổi, lẩn đẩu tiên đến trường bị đám học trò chế giễu là không có bố. Em buồn bực, lang thang đến bên bờ sông.Đoạn trích kể về những sự việc tiếp theo. Qua đó thể hiện vẻ đẹp của tâm hồn con người. Đó là vẻ đẹp của lòng nhân hậu, sự hổn nhiên, lối sống nhân văn cao đẹp. Là tình người ấm áp trong khát khao tình cảm và sự che chở của bố ở Xi-mông; ấm áp trong lòng nghĩa hiệp và nhân hậu, thương người cùa bác Phi-líp.
Vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trước hết được thể hiện trong khao khát tình cảm và sự che chở của cậu bé Xi-mông. Cậu đã rất buồn khi bị bạn bè trêu chọc, đánh cậu chỉ vì cậu không có bố. Trong tâm trạng ấy, dù cảnh vật bên bờ sông rất đẹp: “Trời ấm áp vô cùng. Ánh mặt trời êm đểm sưởi ấm bãi cỏ. Nước lấp lánh như gương” nhưng cũng chỉ giúp Xi-mông quên đi nỗi buồn một lát. Khi em nghĩ đến nhà, rổi em nghĩ đến mẹ, em “thấy buôn vô cùng” và em lại khóc. “Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ. Nhưng em không đọc hếtđược, vì những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang, choán lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài”. Một đứa trẻ như Xi-mông, sau khi bị bạn bè trêu chọc đã rất buồn tủi và tuyệt vọng. Hành động quỳ xuống và đọc kinh là sự cầu nguyện có được cảm giác bình an từ chúa.

Nhưng em chẳng thể đọc hết được bởi nỗi cô đơn xâm chiếm. Trong khi các bạn khác may mắn có được sự yêu thương, săc sóc của cả bỗ lẫn mẹ thì em lại quá thiệt thòi, em chỉ có mẹ mà thôi. Chính trong hoàn cảnh đáng thương, tội nghiệp, thiếu đi tình thương của cha, lại bị bạn bè trêu chọc Xi-mông chạy đến bờ sông với suy nghĩ “muốn nhảy xuống sông cho chết đuối”. Chính lúc này, Xi-mông gặp được bác Phi-líp. Câu trả lời của em với bác như một sự khẳng định nỗi tuyệt vọng và bất lực của em. Câu trả lời ấy ngắt quãng với giọng nghẹn ngào trong tiếng nấc: “Chúng nó đánh cháu vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố.” Câu nói “cháu không có bố” mãi mới thốt ra được nhưng Xi-mông lại nhắc hai lần như tiếng nấc. Khi bác Phi-líp đưa Xi-mông trở về nhà, em không mừng rỡ mà đau đớn, buồn tủi hơn. Nỗi đau ấy bùng lên và vỡ ra cùng cử chỉ ôm lấy cổ mẹ, nhắc lại ý định tự tử của mình. Em khao khát có được tình yêu của bố, em ao ước được giống như những đứa trẻ khác, chúng đều có bố. Lòng khát khao có một người bố yêu thương và che chở đã thúc đẩy Xi-mông đưa ra lời đê' nghị với bác Phi-líp. Em hỏi bác: “Bác có muốn làm bố cháu không?”. Chưa để bác trả lời, em đã nhắc lại ý định tự tử lúc ở bờ sông. Rất nhiều người cho rằng nó giống như muốn ép buôn bác Phi-líp nhưng với tâm hổn non nớt, trong sáng, Xi-mông đâu có nghĩ vậy, những gì em nói ra là cảm xúc rất chân thành. Dường như lúc đó, em đã đưa ra quyết định vô cùng nghiêm túc, nếu không có bố, em sẽ nhảy ngay xuống sông để thoát khỏi nỗi buồn bã, cô đơn, tuyệt vọng. Xuất phát từ khao khát ấy, khi được bác Phi-líp nhận lời, em rất vui vẻ: “Thế nhé, bác Phi-líp bác là bố cháu”. Lời khẳng định chắc nịch trong tâm trạng sung sướng, hạnh phúc ấy cho thấy lối tư duy rất trẻ con nhưng cũng vô cùng nghiêm túc và trịnh trọng.

Đối với Xi-mông có lẽ không gì tuyệt vời hơn là có một người bố. Và giây phút này chính là giây phút trọng đại nhất trong đời em, khi em cũng có bố như bao đứa trẻ khác, có một điểm tựa cho em niềm tin sắt đá để “đưa con mắt thách thức chúng”, và em “sẵn sàng chịu hành hạ, còn hơn bỏ chạy”. So với ngày thường hay chỉ mới hôm qua thôi, khi bị bạn bè trêu chọc, đùa cợt em chỉ biết khóc, cam chịu, chạy ra bờ sông với ý định tự tử thì hôm nay, thái độ và hành động của em đã khác hẳn. Em đã chủ động trả lời, “quát vào mặt nó những lời này, như ném một hòn đá: “Bố tao ấy à, bố tao tèn là Phi-líp”. Trong câu trả lời niềm tự hào và hãnh diện không giấu giếm. Niềm tự hào và hãnh diện ấy xuất phát từ niềm tin về việc có một người bố. Chính điều đó cho em sức mạnh để sẵn sàng thách thức và chịu hành hạ chứ nhất định không chịu bỏ chạy, không chịu đầu hàng lũ bạn. Cũng chính điểu đó cho cậu bé Xi-mông sự kiên cường và lòng dũng cảm trước những lời trêu chọc. Là người đáng thương, đáng yêu, sinh ra trong hoàn cảnh gia đình bất hạnh nhưng sự tình cờ của cuộc sống đã đem lại cho Xi-mông hạnh phúc, tiếp thêm sức mạnh cho em.. Qua nỗi buồn và niềm vui của Xi-mông, tấm lòng đôn hậu, nghĩa hiệp và thương người của bác thợ rèn Phi-líp cũng ngời sáng. Bác là người có “bàn tay chắc nịch” và “giọng nói Ồm Ồm”. Bác là “một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn”, chính bác đã hỏi thăm em lúc em đứng ở bờ sông và “nhìn em với vẻ nhân hậu”. Chỉ những chi tiết đầu tiên ấy thôi đã cho thấy bác Phi-líp là một người lao động chân chính, biết chia sẻ và cảm thông với những người bất hạnh. Không chỉ với Xi-mông, bác còn cảm thông với cả chị Blăng-sốt. Khi dắt tay đứa bé về nhà, bác đã mỉm cười, vì “bác chẳng khó chịu được đến gặp chị”. Đến khi đứng trước chị, “bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình”. Bác “e dè, ấp úng” và nể trọng chị. Chính vì thế, lời lẽ của bác khi nói chuyện với chị trở nên trang trọng hơn.

Tấm lòng đôn hậu của bác đã vượt lên những định kiến vô lí, tàn nhẫn, thô bạo. Xuất phát từ tấm lòng ấy, bác đã nhận lời làm bố của Xi-mông. Ban đầu đó cũng chỉ là sự đồng ý làm yên lòng một đứa trẻ: “Bác công nhân cười đáp coi như chuyện đùa” nhưng sau đó, bằng tình yêu thương với Xi-mông và vẻ đẹp ấm áp tình người luôn cháy sáng trong trái tim mình, bác thực sự trở thành bố của em, bù đắp cho em những mất mát, từ hành động “nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má” cho đến niềm tin sắt đá của Xi-mông trong ngày hôm sau ở trường. Hơn thế nữa, về sau bác đã cẩu hôn chị Blăng-sốt vì bác muốn trở thành người bố thực sự của Xi-mông, bao bọc và che chở em. Cũng chính từ đó, em được yên ổn học hành và không còn bị ai trêu chọc, bắt nạt nữa. Lời cầu hôn của bác Phi-líp là một sự khẳng định nhân cách của chị Blăng-sốt. Vượt lên rào cản của những định kiến hẹp hòi, bác là hiện thân của công lí và lòng nhân ái, của người lao động thiện lương, chân chính, biết chia sẻ, cảm thông với người bất hạnh và dành tình yêu thương ấm áp cho cậu bé. Cùng với những vẻ đẹp ấm áp về tình người ấy, trái tim người đọc còn cảm nhận được vẻ đẹp từ chị Blăng-sốt, người trót lấm lỡ nhưng là một người mẹ rất mực thương con, một người phụ nữ nền nếp, trung hậu. “Chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng” nhưng bị lừa dối nên sinh ra bé Xi-mông và khiến cho Xi-mông trở thành đứa trẻ không có bố. Chị là người phụ nữ có hoàn cảnh thật đáng thương, vì “tuổi xuân đã lầm lỡ” mà giờ đầy chị phải sống trong áp lực của định kiến xã hội và những lời đồn đại.

Thế nhưng, vượt lên hoàn cảnh ấy, chị Blăng-sốt có một nghị lực sống phi thường. Chị có một “ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Ngôi nhà ngăn nắp, gọn gàng như chính con người chị đã khiến cho không ai có thể bỡn cợt được. Chị là một người mẹ yêu thương con bằng cả trái tim. Khi ôm bé Xi-mông vào lòng, đôi má chị “đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, chị ôm con, hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi”. Đó là tình thương con của một người mẹ lầm lỡ, chị hổ thẹn, lặng ngắt, quằn quại trước nỗi tuyệt vọng của con trong khi chính chị, cũng là nạn nhân. Trước câu hỏi ngây thơ của con, chị dường như không thể đứng vững được nữa, chị “dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Chính đức hạnh, tình mẫu tử thiêng liêng trong con người chị đã khiến bác thợ rèn Phi-líp hiểu bản tính chị không phải là người lẳng lơ, phóng túng. Trong lần lẩm lỡ của tuổi trẻ, chị đáng thương hơn là đáng trách. Với vẻ nền nếp, trung hậu và tấm lòng yêu thương con hết mực chị là hiện thân của một người phụ nữ mẫu mực và là một người mẹ hiền lương.
Những vẻ đẹp ấm áp tình người ấy được nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng thể hiện bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc. Nhà văn đã tinh tế nhận ra và thể hiện sắc nét tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp, qua đó đê' cập đến vấn đề tâm lí gia đình của con người, vai trò của bố trong cuộc đời con người. Thứ tình cảm thiêng liêng ấy cũng được khắc họa trong Số phận con người, một truyện ngắn viết vê’ chiến tranh của nhà văn Nga M. Gorki. Truyện không kết thúc ở nỗi trầm buồn khi An-drầy đêm nào cũng “chiêm bao thấy người thân quá cố’ mà tái hiện cảnh mùa xuân, dòng sông, con đường,... khi An-drây nhận nuôi em bé mồ côi, khi hai con người xa lạ trở nên thân thiết. Dường như mỗi đứa trẻ khi “sống bên cạnh bố” để có được sức mạnh diệu kì để “khi đã lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường”. Hơn tất cả, tình cảm thể hiện ở cả hai tác phẩm không chỉ là tình phụ tử, mà còn là sự kết nối giữa những con người với con người trong tình yêu thương. Đổng thời, qua đó nhắc nhở chúng ta yêu thương bạn bè, mở rộng là tình yêu thương con người, sự đồng cảm và sẻ chia với những người bất hạnh, với những khổ đau và lỗi lầm của người khác.

Truyện ngắn Bố của Xi-mông đã khép lại trong câu hỏi đầy day dứt: “Ai có lỗi trong những đau khổ của Xi-mông?” Đó là câu hỏi mà có lẽ, nhiều năm sau nữa chúng ta cũng không thể trả lời cho đẩy đủ, toàn vẹn. Nhưng vẻ đẹp và sự ấm áp tình người trong tác phẩm sẽ luôn nhắc nhở mỗi chúng ta về tấm lòng nhân ái, yêu thương, cảm thông và chia sẻ để có thể giúp đỡ những người bất hạnh xung quanh và không vô tình gây ra khổ đau cho người khác.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 6)

Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn Pháp nổi tiếng thế giới. Tuy chỉ sống đến hơn bốn mươi tuổi nhưng ông đã sáng tác một khối lượng tác phẩm lớn gồm một số tiểu thuyết như Một cuộc đời (1883). Ông bạn đẹp (1885) và hơn ba trăm truyện ngắn. Các tác phẩm của ông phản ánh chân thực tình hình xã hội Pháp nửa cuối thế kỉ XIX.

Bài văn Bố của Xi-mông trích từ truyện ngắn cùng tên. Nội dung kể về chị Blăng-sốt bị một gã đàn ông lừa dối, sinh ra bé Xi-mông. Khi Xi- mông đi học, em bị đám học trò chế giễu là đứa con hoang không có bố. Xi- mông buồn tủi, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong. Rất may, em gặp bác Phi-líp. Bác dẫn em về nhà với mẹ. Em muốn bác Phi-líp là bố và bác đã nhận lời. Nhưng bọn trẻ vẫn trêu chọc vì bác Phi-líp không phải là chồng của mẹ Xi-mông thì làm sao là bố của Xi-mông được?! Sau đoạn trích này, tác giả kể rằng vì thương Xi-mông mà bác Phi-líp đã cầu hôn với cô Blăng-sốt. Từ đó, Xi-mông có một người bố thật sự, chỗ dựa vững chắc của em trong cuộc đời. Nhà văn Guy đơ Mô-pa-xăng đã thể hiện rất sinh động diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt, Phi-líp. Qua đó, ông kín đáo nhắc nhở chúng ta về tình yêu thương bạn bè, mở rộng ra là lòng thương yêu con người, biết thông cảm và chia sẻ trước những nỗi bất hạnh hoặc lầm lỡ của người khác.

Bài văn chia làm 4 phần: Phân một: Từ đầu đến ...mà chỉ khóc hoài: Nỗi buồn tủi và tuyệt vọng của cậu bé Xi-mông. Phần hai : Từ Bỗng một bàn tay... đến ...một ông bố : Xi-mông gặp bác Phi-líp. Phần ba: Từ Hai bác cháu... đến ...đi rất nhanh: Bác Phi-líp đưa Xi-mông về nhà. Phần bốn: Còn lại: Ngày hôm sau ở trường.

Trong đoạn trích này có ba nhân vật chính là cậu bé Xi-mông, mẹ em là chị Blăng-sốt và bác thợ rèn Phi-líp. Ngoài ra còn có những nhân vật phụ là các bạn của Xi-mông và thầy giáo. Chúng ta sẽ phân tích nội đung bài văn theo từng nhân vật chính.Khi cất tiếng khóc chào đời, bé Xi-mông đã phải sống trong cảnh khổ sở, thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần nhưng lớn lên, nỗi đau không có bố mới thực sự dằn vặt cậu bé. Trong bài này không có chi tiết nào nói hình dáng của Xi-mông, nhưng ở một đoạn khác của truyện, tác giả cho biết : Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát, gần như vụng dại. Vẻ ngoài ấy phần nào thể hiện hoàn cảnh sống và tính cách của một đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc. Xi-mông là đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau không có bố lúc nào cũng day dứt làm cho trái tim nhỏ bé của em rớm máu. Nỗi đau đớn, tủi nhục thể hiện qua ý nghĩ và hành động của Xi-mông. Em bỏ nhà ra bờ sông, định nhảy xuống sông cho chết đuối vì nỗi bất hạnh không có bố khiến em không thiết sống nữa. May mà cảnh vật thiên nhiên đẹp đẽ xung quanh khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ nên không dám làm điều dại dột. Xi-mông khóc cho vơi bớt nỗi tủi hờn: Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ . Nhưng em không đọc hết được vì những cơn nức nở lại kéo đèn, dồn dập, xốn xang choán ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ ngợi gì nữa, chẳng nhìn thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài.

Xi-mông đang trong tâm trạng chới với thì gặp bác Phi-líp. Nghe bác hỏi, em thổn thức không nói nên lời: Em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào: Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có bố... không có bố. Bác Phi-líp dẫn em về nhà. Gặp mẹ, em vừa mừng, vừa tủi: Xi-mông nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại òa khóc và bảo: Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông cho chết đuối, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bố. Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông vốn là một cô gái nhẹ dạ, cả tin nên đã bị phụ tình, khiến cho con trai mình không có bố. Thực ra, chị là người thật thà và từng là một trong những cô gái đẹp nhất vùng. Bản chất của chị thể hiện phần nào qua hình ảnh ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ. Điều đó nói lên rằng chị tuy nghèo nhưng sống khá nề nếp. Nhìn thấy chị, bác công nhân bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối. Nghe con kể là bị các bạn đánh vì không có bố, đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tuỷ, chị ôm con hôn lấy hôn để trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Khi nghe con hỏi Phi-lip: Bác có muốn làm bố cháu không ? thì chị Blăng-sốt hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường hai tay ôm ngực.

Bác Phi-lip là một người thợ rèn cao lớn, rậm râu, tóc đen và quăn, vẻ mặt nhân hậu. Ngay từ lúc mới gặp Xi-mông, bác đă rất thương em. Bác đã đem đến cho cậu bé niềm hạnh phúc to lớn và bất ngờ. Bác gặp Xi-mông đúng lúc em đang tuyệt vọng, định nhảy xuống sông. Bác Phi-lip đã đem lại cho em niềm hi vọng bằng một câu khẳng định là muốn trở thành bố của em. Điều đó an ủi Xi-mông rất nhiều. Bác Phi-lip tốt bụng đã cứu Xi-mông ra khỏi tay thần chết.

Nhưng Xi-mông vẫn chưa được yên ổn học hành. Bọn trẻ vẫn tiếp tục làm cho em đau khổ vì "bố Phi-lip của em không phải là bố hẳn hoi, tức là không phải chồng của mẹ em. Ở đoạn tiếp theo, tác giả kể là bác Phi-líp vì thương cậu bé Xi-mông nên đã ngỏ lời cầu hôn với chị Blăng-sốt. Bác Phi-lip đến nhà chị Blăng-sốt, mong chị chấp thuận để bác trở thành ông bố hẳn hoi của Xi-mông. Từ đó, bé Xi-mông không bị đứa trẻ nào bắt nạt nữa. Bác thợ rèn nhân hậu đã giải thoát Xi-mông khỏi sự tủi hể đem lại niềm vui sựớng và tự hào cho cậu bé. Hành động của bác Phi-lip là một việc làm nhân đạo cao cả. Không chỉ đem lại niềm vui cho bé Xi-mông, bác Phi-lip còn mang lại hạnh phúc cho chị Blăng-sốt, mẹ của Xi-mông. Trong lời yêu cầu được làm một người bố hẳn hoi của Xi-mông, bác Phi-lip đã thể hiện thái độ trân trọng đối với chị Blăng-sốt. Chỉ qua những cuộc chuyện trò ngắn ngủi, bác Phi-lip đã nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của chị. Tuy rằng chị đã một lần lầm lỡ, dẫn đến hậu quả là cả hai mẹ con đều phải chịu đau buồn, nhưng chị chỉ đáng thương mà không đáng trách, vì bản tính chị không phải là người phóng túng, lẳng lơ. Bác thừa nhận chị là một phụ nữ tốt bụng, can đảm và nề nếp.

Để có thể đem lại hạnh phúc cho hai mẹ con cậu bé Xi-mông, bác Phi¬lip đã phải cố gắng rất nhiều để vượt qua những thành kiến cổ lỗ của người đời. Bác Phi-lip nhận thêm sự ủng hộ, cổ vũ nhiệt tình từ những người thợ rèn tốt bụng để có thêm sức mạnh chống lại những quan niệm hẹp hòi về giá trị của người phụ nữ. Bác đã trở thành đại diện của sự công bằng và lòng nhân ái. Bác Phi-lip đã đem lại cho chị Blăng-sốt cơ hội làm một người vợ xứng đáng của một người đàn ông tử tế. Hơn thế, bác đã khẳng định giá trị nhân cách của chị. Đó là một hạnh phúc bất ngờ và to lớn đối với Blăng-sốt. Hành động đầy tình nhân ái của bác thợ rèn Phi-líp khiến cho câu chuyện kết thúc có hậu. Bác đã làm cho những người đau khổ được hạnh phúc và đem lại cho người đọc lòng tin vào con người và cuộc sống. Đó cũng chính là mục đích cao cả mà nhà văn G.Mô-pa-xăng đặt ra trong tác phẩm này.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 7)

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những đứa bé ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện rõ được hoàn cảnh của cậu bé Xi – mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm của và bị bạn bè chế giễu.

Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người đàn ông nhận bé làm con Phi líp và mẹ của bé là Blăng sốt. Trước hết là nhân vật bé Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình là ai, em thường xuyên bị lũ bạn xấu trêu chọc vì không có bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti vì mình không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của lũ bạn. Em tìm đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi đi. Em đuổi bắt nhái và mìm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở. Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, ngẹn ngào không nên lời. Khi trở về nhà kể lại ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi có bố em vui sướng hạnh phúc. Và ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.

Nhân vật thứ hai là mẹ Blăng sốt. Cô là một cô gái đẹp trong vùng sống ngăn nắp đức hạnh nhưng vì một lần lầm lỡ mà khiến cho bé Xi mông sinh ra không có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tê tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi Philip về việc nhận làm cha, cô đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay ôm ngực. Có thể nói cô là một người đáng thương cần được chia sẻ và cảm thông.Về nhân vật philip, anh là một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch và râu tóc đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu và quyết định đưa em về nhà. Trên đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ một lần thì cũng có thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.

Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực xã hội, đó là định kiến xã hội về những người con gái không chồng mà có con, những đứa con không có bố bị xã hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những người sẵn lòng chia sẻ và cảm thông cho số phận của những con người đáng thương ấy.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 8)

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những đứa bé ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện rõ được hoàn cảnh của cậu bé Xi – mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm của và bị bạn bè chế giễu.

Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người đàn ông nhận bé làm con Phi líp và mẹ của bé là Blăng sốt. Trước hết là nhân vật bé Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình là ai, em thường xuyên bị lũ bạn xấu trêu chọc vì không có bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti vì mình không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của lũ bạn. Em tìm đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi đi. Em đuổi bắt nhái và mìm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở. Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, ngẹn ngào không nên lời. Khi trở về nhà kể lại ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi có bố em vui sướng hạnh phúc. Và ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.

Nhân vật thứ hai là mẹ Blăng sốt. Cô là một cô gái đẹp trong vùng sống ngăn nắp đức hạnh nhưng vì một lần lầm lỡ mà khiến cho bé Xi mông sinh ra không có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tê tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi Philip về việc nhận làm cha, cô đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay ôm ngực. Có thể nói cô là một người đáng thương cần được chia sẻ và cảm thông.Về nhân vật philip, anh là một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch và râu tóc đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu và quyết định đưa em về nhà. Trên đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ một lần thì cũng có thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.

Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực xã hội, đó là định kiến xã hội về những người con gái không chồng mà có con, những đứa con không có bố bị xã hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những người sẵn lòng chia sẻ và cảm thông cho số phận của những con người đáng thương ấy.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 9)

Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng thì tình phụ tử cũng rất đỗi đáng quý, thế nhưng có những đứa bé không sống trong tình cảm của cha ngay từ nhỏ. Những đứa bé ấy thật không may mắn. Đoạn trích bố của Xi Mông thể hiện rõ được hoàn cảnh của cậu bé Xi – mông đại diện cho những cậu bé thiếu vắng tình cảm của và bị bạn bè chế giễu.

Truyện có hai nhân vật cần phải phân tích đó là nhân vật bé Xi – mông và người đàn ông nhận bé làm con Phi líp và mẹ của bé là Blăng sốt. Trước hết là nhân vật bé Xi-mông. Khi em sinh ra em đã không biết cha mình là ai, em thường xuyên bị lũ bạn xấu trêu chọc vì không có bố. Em thậm chí còn phải đánh nhau với chúng, em căm tức chúng nhưng em vẫn tự ti vì mình không có bố. Em còn nghĩ đến cái chết khi hàng ngày cứ phải nghe những lời châm chọc của lũ bạn. Em tìm đến bên bờ sông để tự tử, cảnh vật nơi đây khiến cho nỗi lòng em vơi đi. Em đuổi bắt nhái và mìm cười nhưng đến khi nghĩ đến mẹ em lại khóc nức nở. Cơn nức nở kéo đến choáng lấy em. Xi –mông tuyệt vọng, đau khổ. Khi gặp bác Phi- líp thì nói trong tiếng nấc, ngẹn ngào không nên lời. Khi trở về nhà kể lại ý định tự tử của mình với mẹ, sau đó ngỏ ý muốn Phi líp làm bố của mình. Khi có bố em vui sướng hạnh phúc. Và ngày hôm sau đến trường, Xi-mông tự tin thách thức lại lũ bạn vì em đã có bố.

Nhân vật thứ hai là mẹ Blăng sốt. Cô là một cô gái đẹp trong vùng sống ngăn nắp đức hạnh nhưng vì một lần lầm lỡ mà khiến cho bé Xi mông sinh ra không có bố. Khi con nói về chuyện không có bố, cô cảm thấy đau đớn nhục nhã và hổ thẹn. Má ửng hồng, cảm giác tê tái và cô thương con mình. Khi bé Xi mông hỏi Philip về việc nhận làm cha, cô đau đớn nhục nhã tựa vào tường, im lặng, tay ôm ngực. Có thể nói cô là một người đáng thương cần được chia sẻ và cảm thông.Về nhân vật philip, anh là một người đàn ông cao lớn, bàn tay chắc nịch và râu tóc đen quăn. Anh nhìn Xi mông nhân hậu và quyết định đưa em về nhà. Trên đường về nhà em, anh nghĩ đến cô Blăng sốt và có ý xem thường rằng cô lầm lỡ một lần thì cũng có thể lầm lỡ lần nữa. Nhưng khi gặp Blăng sốt anh im lặng, e dè, ấp úng. Anh thay đổi cách nhìn về cô. Khi Xi mông muốn anh làm bố của nó, anh chấp nhận hôn vào má nó rồi bỏ đi rất nhanh.

Tóm lại qua tác phẩm, nhà văn muốn phản ánh một hiện thực xã hội, đó là định kiến xã hội về những người con gái không chồng mà có con, những đứa con không có bố bị xã hội khinh bỉ giễu cợt. Tuy nhiên, đâu đó vẫn có những người sẵn lòng chia sẻ và cảm thông cho số phận của những con người đáng thương ấy.

Cảm nhận văn bản“Bố của xi-mông” của Guy-đơ Mô-pa-xăng (mẫu 10)

Truyện ngắn “Bố của Xi-mông” kể về nỗi tủi nhục của một em bé “không có bố” với bao tình yêu thương, chứa chan tinh thần nhân đạo.

Bé Xi-mông và mẹ em – chị Blang-sốt thật đáng thương; cuộc đời hai mẹ con để lại trọng lòng độc giả nhiều thương cảm.

Xi-mông là đứa con ngoài giá thú. Mẹ em là “một cô gái đẹp nhất vùng” đã bị lầm lỡ tình yêu… Hai mẹ con sống âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng hết sức sạch sẽ. Người đàn bà này tên là Blăng-sốt “cao lớn, xanh xao” phải lao động cực nhọc để nuôi con trước cái nhìn ghẻ lạnh của người đời. Tuổi thơ của Xi-mông là những chuỗi ngày cô đơn trong ngôi nhà nhỏ, lạnh lẽo. Em thiếu tình thương và sự chăm sóc của bố.

Trường học cũng không phải là cái nôi hạnh phúc của em. Tám tuổi, em mới được đến trường. Lớp học là nơi hội tụ của những đứa trẻ thô lỗ, cục cằn; cái ác cái xấu sớm ngự trị trong tâm hồn chúng. Xi-mông đau khổ, cay đắng bị lũ trẻ dùng những lời “ác độc” nhất, những tiếng cười khả ố nhất, giễu cợt nhất đã dồn em đến chân tường. Xi-mông phải tự vệ và đã bị lũ trẻ “‘quỷ quái” hành hạ suốt ngày này qua ngày khác. Người đọc đã hơn một thế kỷ nay không khỏi buồn phiền xót xa khi nghĩ về em Xi-mông bị bạn học cùng lớp làm cho đau đớn tả thể xác lẫn tâm hồn.

Bị bọn trẻ xua đuổi, bị đánh tơi tả, bé Xi-mông đau khổ, bế tắc hoàn toàn. Em không thể sống trong tủi nhục vì “không có bố”. Dòng sông, nơi em sẽ đến tự tử có thể xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của em? Một đứa bé 8 tuổi cảm thấy không thể sống trong nỗi đau khổ, nỗi nhục, phải nhảy xuống sông tự tử, thì bi kịch về thân phận con người đã lên đến cực điểm. Tình tiết này rất cảm động và điển hình cho nỗi gian khổ cô đơn của những em bé trên cõi đời vì một lí do nào đó mà “không có bố”.

Xi-mông với bãi cỏ xanh, với chú nhái cạnh dòng sông được miêu ta đầy chất thơ. Thiên nhiên rất đẹp. Trời ấm. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước lấp lánh như gương. Bãi cỏ xanh như chiếc nôi xoa dịu nỗi đau khổ cô đơn của em. Xi-mông ngắm dòng sông, em rất thèm được nằm ngủ trên bãi cỏ dưới nắng ấm. Con nhái màu xanh “dương tròn con mắt có vành vàng” hình như đã níu giữ chân em trước tử thần? Xi-mông được sống hồn nhiên trước cảnh sắc thiên nhiên. Nhưng nỗi đau về thân phận quá lớn. Đây là hình ảnh Xi-mông: “Người em rung lên, em quỳ xuống em đọc kinh cầu nguyện như trước khi đi ngủ”. Em khóc nức nở. Em “chi khóc mà thôi”. Em chẳng nhìn thấy gì nữa. Em đi dần đến tuyệt vọng. Mô-pa-xăng đã miêu tả tâm lí bé Xi-mông với tất cả tình thương xót. Ông chỉ cho mọi người thấy rằng, dù thiên nhiên có đẹp đến đâu, ngoại cảnh có đẹp đến đâu con người vẫn bất hạnh, khó sống nổi trong cảnh ngộ cô đơn và thiếu tình thương, nhất là những đứa bé “không có bố”.

Một tình huống bất ngờ đã xảy đến. Chú thợ rèn “cao lớn, rau tóc đen quăn… nhân hậu” đã đến với Xi-mông. Chú đã “lau khô” đôi mắt đẫm lệ của em. Chú đã an ủi em với tình thương của một con người “có phép lạ”: Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ. Người ta sẽ cho cháu… một ông bố”. Một câu nói giản dị sẽ xoa dịu nỗi cô đơn cho bé Xi-mông, và cả cho mẹ em là Blăng-sôì.

Cảnh bé Xi-mông bất ngờ gặp chú thợ rèn bên bờ sông là cảnh rất cảm động.

Em bé thơ ngây được sống, và người ta sẽ cho em “một ông bố”. Đọan đối thoại giữa chú thợ rèn và bé Xi-mông thấm đẫm tình cảm nhân đạo. Nước mắt khô dần trên má em; em đã được chú thợ rèn dắt tay trả về với mẹ.

Tính cách bé Xi-mông được khắc họạ đậm nét khi em gặp lại mẹ. Em hỏi chú thợ rèn: “Chú có muốn làm bố cháu không?”. Khi được chú thợ rèn nhấc bổng lên, hôn vào má em và nói: “Có chứ, chú có muốn” thì tâm hồn em “hoàn toàn khuây khỏa” và em đã khắc cái lên Phi-lip vào lòng, với niềm tự hào “có bố”. Câu nói của Xi-mông như một lời nguyền hẹn ước: “Chú Phi-líp, chú là bố cháu đấy nhé!”. Có bố đó là niềm hạnh phúc của mỗi em bé trên cõi đời. Có bố là có nơi nương tựa. “Con có cha như nhà có nóc” (Tục ngữ). Có bố tức là có quyền làm người. Có bố, tuổi thơ mới thực sự được sống hạnh phúc. Xi-mông đã hãnh diện tuyên bố với lũ bạn “như ném một hòn đá”:

“Bố tao ấy, bố tao là Phi-lip”.

Em đã có bố. Em cảm thấy mình đã lớn lên! Đó là niềm vui và hạnh phúc tuổi thơ!
Đọc truyện “Bố của Xi-mông”, ai mà không xúc động? Mô-pa-xăng đã từng nếm bao cay đắng về thân phận mồ côi từ độ lên mười, nên ông đã dành cho bé Xi- mông và chị Blăng-sốt bao cảm thông về tình thương san sẻ. Tình cảm nhân đạo dào dạt trang văn của ông. Cái hay của đoạn văn là ở bút pháp tinh tế lấy cảnh để tả tình, là ở nghệ thuật đối thoại, là ở tình huống chú thợ rèn gặp bé Xi-mông ở bờ sông, chú thợ rèn gặp chị Blăng-sốt.

“Không có bố thì đau khổ!”, “Có bố thì hạnh phúc”. Như một chân lý giản dị, giàu nhân bản. Bé Xi-mông thật đáng thương và đáng yêu !

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Phân tích văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi

Cảm nhận văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi

Nghị luận về vai trò của văn nghệ đối với đời sống của con người qua bài “tiếng nói của văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi

Phân tích văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới ” của Vũ Khoan

Cảm nhận văn bản“Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” của tác giả Vũ Khoan

1 4509 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: