TOP 31 mẫu Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (2023) SIÊU HAY
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo lớp 11 gồm dàn ý và 31 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo - Ngữ văn 11
Bài giảng Ngữ Văn 11 Chí Phèo
Dàn ý Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo
I. Mở bài
· Giới thiệu hình tượng những con người khổ đau, cô độc trong văn học: Xuất hiện không ít trong lịch sử văn chương Việt Nam: Chị Dậu, lão Hạc, …
· Nhưng có thể, Chí Phèo trong một tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta ngỡ ngàng nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người
II. Thân bài
1. Chí Phèo bản chất là một người nông dân lương thiện
- Chí Phèo vốn là một người nông dân với nhiều phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính
+ Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương thiện.
+ Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.
⇒ Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống yên bình như bao người khác, quãng đời lương thiện của Chí kéo dài trong khoảng 20 năm đầu
- Sau này, khi gặp Thị Nở, sự lương thiện lại một lần nữa quay lại trong Chí:
+ Nhận biết được âm thanh cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười nói của người đi chợ
+ Mong muốn được làm hòa với xã hội, mong muốn có một mái ấm gia đình với Thị Nở ⇒ Ước muốn giản dị năm xưa quay trở lại với Chí Phèo
⇒ Bản chất con người Chí luôn là một người lương thiện
2. Chí Phèo là một người cô độc
- Cô độc ngay từ khi sinh ra: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có
- Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm vơi hành động đã khiến người ta kho chịu: “Hắn vừa đi vừa chửi…” nhưng đằng sau tiếng chửi đó, Chí Phèo hiện lên là người cô độc
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
+ Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
+ Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường
- Khi thức tỉnh sau khi bị ốm, Chí Phèo cảm nhận và hình dung ra tuổi già của mình với ốm đau và cô độc và nhấn mạnh cô độc là điều đáng sợ hơn cả ⇒ Bản thân Chí Phèo luôn là người cô độc nên mới cô độc đến thế
3. Chí Phèo là một người nông dân phải chịu số phận với nhiều bi kịch
a) Bi kịch bị tha hóa: Sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau khi ra tù:
- Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình.
- Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
- Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực
b) Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người
⇒ Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng
III. Kết bài
- Khái quát những nét tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo
- Khẳng định dù thời gian có trôi qua, hình tượng nhân vật Chí Phèo và tác phẩm cùng tên sẽ vẫn luôn sống mãi trong lòng độc giả: “Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách, vẫn ngày ngày vật lộn giữa trần ai” (Nguyễn Đức Mậu).
Bài giảng Ngữ Văn 11 Chí Phèo
Dàn ý Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo
1. Mở bài
– Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của văn học Việt Nam,
– Sáng tác của ông nói về những số phận nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người nông dân.
– Chí Phèo là tác phẩm thể hiện hình ảnh của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám bị thực dân phong kiến làm cho tha hóa nhân hình, nhân tính.
2. Thân bài
a) Chí Phèo, người nông dân lương thiện:
Sinh ra là đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, sống vất vưởng.
Lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là người khỏe mạnh, chịu khó, “hiền lành như đất”.
Có ước mơ và hạnh phúc bình dị.
Có lòng tự trọng.
b) Chí Phèo, tên lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại
Bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân.
Người nông dân lương thiện bị nhà tù làm cho tha hóa cả về nhân hình và nhân tính.
=> Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật của xã hội đương thời, là sản phẩm của tình trạng đè nén, áp bức của nông thôn trước Cách mạng tháng Tám.
c) Chí Phèo, bi kịch của người sinh ra là người nhưng không được là người
Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã đánh thức phần người trong Chí.
Chí thức tỉnh, khát khao được sống lương thiện, được trở về với cuộc sống đời thường, thực hiện những ước mơ bình dị. Biểu hiện cho sự thức tỉnh là Chí nhận ra mình đã già, nhận ra được những âm thanh của cuộc sống đời thường.
Thế nhưng bị từ chối quyền làm người và chịu một kết cục bi thảm khi Thị nghe lời bà cô từ chối sống cùng Chí. Bà cô chính là đại diện cho rào cản xã hội, là tiếng nói đại diện cho thành kiến của xã hội đương thời khiến Chí rơi vào đau đớn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Kết cục bi thảm của Chí: Trong bế tắc, Chí ý thức được kẻ đã cướp đi bộ mặt và linh hồn của con người Chí chính là Bá Kiến. Chí đã đến trả thù, tiêu diệt Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
d) Đánh giá
– Nghệ thuật: Giọng kể đa thanh, khắc họa nhân vật độc đáo, xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, hợp lý.
– Nội dung: Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ. Vạch trần tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình người, vào nhân tính và bản chất con người.
3. Kết bài
– Chí Phèo đã trở thành hình tượng của người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
– Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được thể hiện thông qua nhân vật Chí Phèo đã đưa tác phẩm trở thành kiệt tác số một của Nam Cao, khẳng định tên tuổi của ông trong nền Văn học Việt Nam.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 1)
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nói lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn để Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bởi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ẩn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hẳn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu để hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khổ đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khổ và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đến cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thể quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình. Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là để khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thể đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với cường hào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Song, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thể bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chẳng khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lợn”.
Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?”. Những âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thể làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có để nâng niu và thấy trân trọng nó hơn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 2)
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở…Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.
Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.
Mở đầu là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo: "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…". Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của người đàn ông mà trước đây hiền "như đất". Qua tiếng chửi đó, người đọc thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự dửng dưng của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc. Và cuộc đời của Chí Phèo lần lượt hiện dần lên đầy xót xa.
Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ…Muốn thế hắn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “ Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…hai mắt gườm gườm trông gớm chết”….Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng”, “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nửa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”.
Nhưng điều đặc sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỉ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bi hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ…Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc-cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau…Hắn khát khao làm hòa với mọi người…”
Từ con quĩ dữ, nhờ Thị Nở hay nói đúng hơn là tình thương của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một chất xúc tác kì lạ làm thăng hoa ở Chí bản chất người mà bấy lâu nay anh dường như quên lãng.
Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỉ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời.
Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao. Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 3)
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 4)
Nam Cao được mệnh danh là nhà văn của nền văn học hiện thực, ông sáng tác các tác phẩm chủ yếu viết về người nông dân Việt Nam, đây là tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc khi viết về một hiện thực đó là người nông dân bị bần cùng hóa trước cách mạng tháng tám.
Nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao là nhân vật phải chịu nhiều đắng cay, cực khổ do xã hội gây nên, họ bị bần cùng hóa về con người và tính cách, như Chí Phèo là một nhân vật như thế, Chí đã phải chịu đựng những bần cùng do xã hội gây nên, từ một nhân vật hiền lành, chất phác, đi làm thuê để lấy tiền sinh sống, khó khăn khi đi làm thuê nhà Bá Kiến nhưng lại bị người nhà này hành hạ, và biến chí thành một con người ác, người nông dân lương thiện, nhưng lại bị xã hội tha hóa, khi đọc tác phẩm, chắc hẳn không ai không có một thái độ xót thương và có thái độ cảm thông cho nhân vật này.
Chí đã phải chịu đựng nhiều khó khăn, và vất vả, xuất thân đã không giống như những người bình thường khác, bị bỏ rơi trong lò gạch cũ, chí phải chịu đựng từ nhỏ, không được ai chăm sóc, nuôi dạy, và rồi chí đã trở thành một người nông dân muốn sống bằng chính sức lao động của mình, nhưng lại không được, bởi Chí Phèo đang phải chịu đựng những cảnh cơ cực của sự đàn áp, bị tha hóa về con người và cả về tính cách của nhân vật.
Ở đây nhân vật Chí vừa là biểu hiện của cá nhân khi bị người khác áp bức bóc lột, mà nó còn biểu hiện cho cả một tầng lớp, luôn bị đàn áp cả về tinh thần lẫn thể xác, sự cơ cực đó đã biến chí từ lương thiện trở thành người không có nhân tính. Chí đã làm thuê với chính sức lao động của mình, nhưng rồi bao nhiêu công lao, mà Chí phèo cố gắng lại bị chính những con người có quyền lực trong tay đàn áp, đó là những con người, xấu xa, họ đại diện cho thế lực cầm quyền cho xã hội, chính những con người đấy đã làm tụt lùi đi chính xã hội của chúng ta, mỗi người chúng ta đều có thể thấy người nông dân phải chịu đựng rất nhiều những bất công.
Họ đàn áp, áp bức bóc lột sức lao động của con người, biến người nông dân thành những công cụ để họ có thể thực hiện mục đích của mình, chí đã là con người như thế, chí bị tha hóa và trở thành con người tàn ác, Chí bị nhà Bá kiến đưa vào tù, từ đây chí biến thành con người hoàn toàn khác, Chí bị tha hóa về đạo đức cũng như con người, tất cả những điều đó đã ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội, không chỉ Chí mà còn rất nhiều những người nông dân cũng rơi vào tình trạng như thế này, nhưng chí là một nhân vật đại diện và điển hình.
Chí rơi vào con đường bị tha hóa, thể xác đau khổ, tâm hồn như bị xé ra hàng trăm mảnh, với những đau đớn đó mà Chí đã rơi vào vòng pháp luật, Chí bị tha hóa khi trong tù, và chính bọn quyền lực đã đưa Chí trở thành một con người như thế này. Chí đã bị tha hóa tính cách do tính chất khắc nghiệt của xã hội, những điều đó làm cho cuộc đời của Chí lâm vào nhiều những lâm ly bi đát hơn. Chí đi tù và phải chịu những đàn áp của bọn cai trị, đặc biệt cái đói, cái khổ, nó cũng đang ám ảnh và bao vây lấy cuộc đời của Chí, Chí là một người nông dân vốn dĩ rất lương thiện, nhưng chỉ một cơn gió độc thổi vào làm cho cuộc đời của Chí chịu đựng rất nhiều những khó khăn, và tha hóa tính cách của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Chí phèo là đại diện của người nông dân để đấu tranh và tố cáo những thế lực tàn ác, luôn che khuất mắt Chí, tác giả đã thể hiện một hiện thực vô cùng nghiệt ngã, đó là bản ngã của con người trong cuộc sống, Chí đã thể hiện được tư tưởng của chính tác giả, khi sử dụng trong tác phẩm, Chí Phèo là hình tượng trung tâm của tác phẩm, đây là một hình tượng để tố cáo tội ác của thế lực cầm quyền trong xã hội phong kiến. Nhưng rồi nhờ có tấm lòng nhân đạo của tác giả, mà Chí được sống những tháng ngày hạnh phúc khi Thị Nở xuất hiện, hoàn cảnh họ gặp nhau cũng vô cùng, vào một hôm trăng thanh gió mát, hai người gặp nhau bên vườn chuối, chỉ với một hình ảnh éo le như thế này mà hai người nảy sinh tình cảm với nhau, tình cảm đó làm ấm lên tình người trong con người Chí, đây quả thực là một hoàn cảnh thể hiện tình cảm vô cùng chặt chẽ và nó mang đậm giá trị trong chính tác phẩm, với sự thể hiện đầy táo bạo, tác giả đã thổi ấm lên tình người vào Chí, làm cho Chí thức tỉnh, có thể nói, Chí đã trở nên nhân đạo và có tình người hơn, khi gặp Chí, trước thì Chí chửi đời, chửi đất, chửi người đã sinh ra hắn, nhưng nay Chí lại muốn trở thành một con người lương thiện.
Chí đã từng nói: “ Ai cho ta lương thiện”. Tất cả đang thể hiện những ước nguyện của Chí để mong muốn mình trở thành một con người bình thường. Cuộc đời của Chí cũng phải trải qua rất nhiều thăng trầm, từ một người nông dân hiền lành chất phác, nay lại trở thành một con quỷ dữ, hắn gặp ai cũng chửi, nhưng mọi người xung quanh không ai quan tâm đến hắn, họ đều nghĩ, hắn chửi nhưng trừ mình ra, và Chí còn chửi những người không chửi nhau với hắn. Đây là những chi tiết thể hiện Chí Phèo đang bị xã hội này tha hóa đi bản chất, của một con người lương thiện, hiền lành.
Chí là nhân vật được tác giả xây dựng để tố cáo xã hội phong kiến tàn ác, họ đang tha hóa và dồn con người hiền lành trở thành những con ác quỷ, tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi để Chí gặp Thị Nở và qua nhân vật này tác giả cũng thể hiện một sự tố cáo sâu sắc đối với chính những nhân vật được xây dựng trong tác phẩm.
Tác phẩm đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có hai giá trị nổi bật đó là giá trị nhân đạo, và sự tố cáo sâu sắc đối với xã hội phong kiến.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 5)
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
– Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất.nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu.
Chí Phèo ngạc nhiên,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiến, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 6)
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở...Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khối xã hội loài người. Mở đầu là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo : "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi...". Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của người đàn ông mà trước đây hiền “như đất". Qua tiếng chửi đó, người đọc thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự dửng dưng của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc.
Và cuộc đời của Chí Phèo lần lượt hiện dần lên đầy xót xa. Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ...Muốn thế hẳn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “ Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn...hai mắt gườm gườm trông gớm chết”....Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng”, “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người...” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nửa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”. Nhưng điều đặc sắc và đáng quý hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tỉm qua bao tháng ngày bị hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ...Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét , ốm đau và cô độc- cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau...Hắn khát khao làm hòa với mọi người...” Từ con quỷ dữ, nhờ Thị Nở hay nói đúng hơn là tình thương của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một chất xúc tác kì lạ làm thăng hoa ở Chí bẳn chất người mà bấy lâu nay anh dường như quên lãng. Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỷ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn để có ý nghĩa xã hội lớn lao. Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước CMT8- Chí Phèo.
Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 7)
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. "Chí Phèo" là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao viết về những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm vừa là tiếng nói của những người nông dân vừa là bản tố cáo xã hội lúc bấy giờ đã chà đạp lên quyền sống của con người.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã để cho nhân vật của mình xuất hiện vô cùng ấn tượng: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Tiếng chửi của Chí dường như đã trở thành một thói quen. Tiếng chửi khiến nhân vật của Nam Cao bỗng nhiên trở thành sự tò mò lớn với người đọc. Cuộc đời Chí rốt cuộc đã trải qua bao nhiêu phần cay đắng để phải trút ra những tiếng chửi không của riêng ai như vậy?
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ không cha, không mẹ. Hắn bị chính người sinh ra hắn bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng. Hắn không được cha mẹ mình thừa nhận, chào đón rồi bị vứt bỏ tại cái lò gạch cũ. Hắn được hết người này đến người khác nhặt nuôi. Ban đầu được một người đi thả ống lươn nhặt về nuôi, sau đó là một góa phụ rồi lại đến tay bác phó cối. Rồi cuối cùng Chí lại trở thành đứa trẻ không nơi nương tựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí phần nào đó thể hiện cuộc sống khó khăn của những kiếp người phải đi ở đợ, lam lũ, vất vả trước cách mạng tháng Tám. Mãi cho đến khi mười tám tuổi, Chí vào làm ở nhà Bá Kiến với mong muốn kiếm được bữa cơm sống qua ngày. Chí vốn là con người chân chất, mộc mạc nhưng cái bản chất tốt đẹp đó lại bị chính cái xã hội mà Chí đang sống hủy hoại. Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào tù vì cái tính hay ghen của lão khi thấy vợ mình hằng ngày sai Chí bóp chân cho bà. Giống như chị Dậu cầm đống giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, xấu xa, như Lão Hạc đã tìm đến cái chết vì lòng tự trọng của mình, Chí không hề bị khuất phục trước những lời ngon ngọt của bà ba. Nhưng xã hội đó đâu có chỗ cho những người lương thiện. Nhà tù thực dân vô tình đã tiếp tay cho Bá Kiến cướp đi sự lương thiện của Chí.
Bảy, tám năm sau, ra tù, Chí quay trở về làng Vũ Đại. Lúc này Chí không còn là anh nông dân thật thà, chân chất ngày xưa nữa mà đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại với cái "đầu thì trọc lốc", "răng cạo trắng hớn", "trông gớm chết", khắp người thì xăm những hình thù quái dị. Nam Cao đã phải sử dụng đến từ "ghê chết" để miêu tả dáng vẻ Chí lúc này. Thậm chí tính khí lưu manh còn được thể hiện rất rõ qua từng hành động của Chí. Từ hành động rạch mặt ăn vạ, đến đốt quán khi không mua được rượu và đỉnh điểm là khi Chí trở thành tay sai, thành công cụ của Bá Kiến. Chỉ với vài đồng bạc mà Bá Kiến đưa cho Chí càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Cái mới của "Chí Phèo" chính là ở điểm này. Thay vì phân tích, tái hiện cuộc sống khốn khổ của những người nông dân, Nam Cao đã khám phá, phát hiện và đi sâu vào con đường lưu manh hoá của những người nông dân vốn bình dị, thật thà nhưng xã hội đã biến họ thành những kẻ tàn ác. Bằng lối viết sắc sảo, chỉ thông qua quá trình tha hoá của Chí, quá trình từ một người lương thiện biến thành một kẻ lưu manh, Nam Cao đã gián tiếp vạch trần được cái bộ mặt tàn ác, xấu xa của xã hội bây giờ.
Rồi Chí gặp Nở. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với Thị Nở đã thay đổi cuộc đời Chí. Người ta ví Thị Nở giống như một ánh trăng dịu êm của cuộc đời Chí. Sự quan tâm của Thị, tình thương của Thị đã đánh thức trong Chí ham muốn được làm người lương thiện. Buổi sáng hôm ấy cũng như bao buổi sáng bình thường khác mà thôi nhưng đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh trong trẻo của cuộc sống hằng ngày, từ tiếng chim hót cho đến tiếng hỏi nhau của các bà, các cô đi chợ về. Chí nhớ về niềm mong ước có một gia đình nhỏ, nuôi thêm con gà, trồng thêm cái cây... sống hạnh phúc qua ngày. Thì ra Chí cũng có những phút giây "người" đến thế! Đỉnh điểm nhất là bát cháo hành của Thị đã khiến Chí "mắt ươn ướt" rồi "cười thật hiền". Thị khiến Chí - một kẻ chỉ biết sống qua ngày chợt nghĩ về tương lai, hy vọng về một gia đình hạnh phúc. Rồi Chí khóc. Giọt nước mắt của một con quỷ dữ khiến Thị bất ngờ, thầm nghĩ: "có lúc hắn hiền như đất". Rồi Chí ngỏ ý muốn Thị về ở với Chí. Nhờ có Thị, Chí khao khát muốn được trở về cuộc sống lương thiện trước đây, cùng Thị vun vén hạnh phúc.
Đây được coi như những trang viết làm bừng sáng cuộc đời Chí. Từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói của Chí đều khiến người đọc vô cùng cảm động. Mong ước giản dị của Chí lại đến từ chính người đàn bà bị cả xã hội xa lánh, nó khiến độc giả phải giật mình suy nghĩ, trân trọng hơn hạnh phúc mà mình đang có.
Chúng ta cũng tưởng rằng đến đây cuộc đời Chí có thể bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Chí bị Thị từ chối bởi bà cô của Thị không cho phép ả lấy một ông chồng chỉ biết "rạch mặt ăn vạ", lấy một kẻ "đòi nợ thuê". Cái nhìn của bà cô dành cho Chí cũng là cái nhìn mà xã hội phong kiến bấy giờ nhìn Chí. Không ai nhìn ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận Chí. Lần thứ hai Chí khóc, khóc vì tiếp tục quay lại những tháng ngày bi kịch. Chí quay trở lại với những chén rượu, những câu chửi rủa. Cuộc đời Chí lại là những tháng ngày không lối thoát. Rồi Chí đến tìm Bá Kiến. Chí đến nhà bá Kiến trong trạng thái nửa tỉnh, nửa say. Miệng lúc nào cũng chửi rủa đòi giết "con khọm già" nhà Thị nhưng lại ý thức được rằng đến nhà Bá Kiến để đòi "làm người lương thiện". Sau tất cả, Chí đã cảm nhận được những bế tắc, tuyệt vọng của cuộc đời mình. "Ai cho tôi làm người lương thiện?", câu hỏi mà hắn không thể tìm được lời giải đáp nhưng xót xa hơn cũng không ai có thể trả lời được câu hỏi đó. Rồi hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Câu hỏi của Chí, cái chết của hắn cùng đứa con sắp chào đời trong bụng Nở đã khép lại câu chuyện trong sự day dứt của tất cả mọi người. Cái chết của Chí chính là bản tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát lúc bấy giờ. Chí chọn cái chết như một sự giải thoát cho chính mình bởi đấy là cách giải thoát duy nhất cho Chí trong cái xã hội bấy giờ. Cái chết của Chí cũng là niềm tin mà Nam Cao dành cho nhân vật của mình, dành cho những con người khó khăn lúc bấy giờ. Như vậy, qua từng chi tiết truyện, Nam Cao đã chỉ ra được các nguyên nhân đẩy Chí vào con đường tha hoá. Chí rơi vào con đường lưu manh không lối thoát một phần là do xã hội bấy giờ đã cướp đi quyền làm người của Chí, một phần là do chính những người nông dân cùng cảnh ngộ đã chối bỏ Chí, không cho Chí con đường quay trở lại.
"Chí Phèo" khép lại nhưng hình tượng nhân vật Chí Phèo thì vẫn luôn sống mãi trong tâm trí độc giả. Nó đã làm nên một màu sắc rất riêng trong kho tàng truyện viết về người nông dân.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 8)
Trước cách mạng tháng tám, số phận của người nông dân luôn là đề tài đặc biệt được các nhà văn quan tâm khai thác. Nếu như Ngô Tất Tố phát hiện ra cái đẹp, sức sống tiềm tàng của người nông dân, Vũ Trọng Phụng chỉ nhìn thấy cái xấu xa của họ thì đến Nam Cao là một người đến sau nhưng ông đã khai thác được mặt khác của người nông dân đó là bản chất lương thiện và bi kịch bị tha hóa. Nhân vật Chí Phèo chính là bản vẽ tổng quát nhất của Nam Cao khi viết về người nông dân. Đây đồng thời cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng biết bao thế hệ bạn đọc.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bằng tiếng chửi của Chí Phèo, hắn chửi trời, chửi đời, chửi dân làng Vũ Đại, nhưng chẳng ai đáp lại, hắn lại chửi đến “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo” . Tại sao tiếng chửi lại đau đớn, uất ức đến vậy? Ngược về quá khứ, Nam Cao đã cho thấy số phận bất hạnh của Chí Phèo, đẻ ra là một đứa trẻ mồ côi, bị mẹ bỏ mặc ở lò gạch cũ, Chí may mắn được ông thả ống lươn nhìn thấy và nhặt về. Chí bị trao tay qua nhiều người, ban đầu là bà góa mù, rồi đến bác phó cối, khi bác phó cối mất, Chí lớn lên trong sự đùm bọc của xóm làng. Từ nhỏ Chí đã sống trong sự thiếu thốn tình yêu thương, nhưng bản thân Chí vẫn là con người lương thiện. Chí làm việc cho Bá Kiến để nuôi sống mình, Chí yêu lao động và có những mơ ước thuần phác, hồn hậu: lấy vợ, sinh con, chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, để được chút vốn liếng sẽ mua ruộng để làm. Không chỉ vậy, Chí còn là người có lòng tự trọng, bóp chân cho bà ba hắn chỉ thấy nhục hơn là thấy thích. Ai có thể ngờ rằng một con người lương thiện đến vậy có thể tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Sự tha hóa của Chí Phèo nguyên nhân trực tiếp là Bá Kiến, sự ghen tuông khiến Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân với sự tàn bạo, tra tấn dã man cả về thể xác và tinh thần đã biến Chí Phèo trở thành kẻ mất cả nhân hình và nhân tính. Ngày ở tù về Chí trông như thằng “săng đá” răng cạo trắng, đôi mắt gườm gườm, xăm trổ toàn thân, ... khiến cho ai cũng phải khiếp sợ. Người đọc vừa ngỡ ngàng, vừa đau đớn, anh Chí của ngày xưa đâu? Nhà tù thực dân có sức phá hủy nhân hình, nhân tính của con người ghê gớm đến vậy sao? Bi kịch chồng lẫn bi kịch, Chí trở về con bị chính kẻ thù của mình là Bá Kiến dụ dỗ, dùng những lời ngon ngọt làm lu mờ nhận thức của Chí. Trong cơn say triền miên, Chí chính thức trở thành tay sai cho Bá Kiến, đòi nợ, chém giết thuê. Bất cứ việc gì Bá Kiến sai Chí đều thực hiện. Có lẽ cuộc đời của Chí sẽ chấm dứt từ đây, từ giờ cho đến lúc chết Chí Phèo chỉ còn là tay sai của Bá Kiến, của xã hội thực dân.
Nam Cao khác so với những nhà văn trước đó là ở chỗ ông đã chỉ ra con đường người nông dân bị lưu manh hóa. Các tác phẩm trước mới chỉ miêu tả đời sống bí bách, túng quẫn bị đẩy đến bước đường cùng của người nông dân (Tắt đèn – Ngô Tất Tố; Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan). Còn Nam Cao đã tiến một bước xa hơn: ông khẳng định bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng vốn có của họ, đồng thời nêu lên nguyên nhân, con đường tha hóa chính là do nhà tù thực dân, bọn cường hào ác bá đã nhào nặn những người nông dân lương thiện trở thành những con quỷ dữ, bị cả xã hội xua đuổi.
Nhưng cái hay trong tác phẩm Nam Cao chính là liên tục tạo ra những khúc rẽ, những biến cố giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển. Cuộc đời Chí tưởng rằng sẽ chìm trong bế tắc, sẽ mãi mãi không nhận ra kẻ thù của mình cho đến ngày Chí gặp thị Nở. Thị Nở xuất hiện như một luồng gió mới đến với cuộc đời chí Phèo. Sáng hôm sau, Chí nằm một mình trong lều, trận cảm đã làm hắn yếu đi nhiều, đây cũng là cơ hội để hắn cảm nhận cuộc sống xung quanh. Hắn nghe những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ và hắn chợt thấy nhớ về ngày xưa, về những mơ ước rất đỗi dung dị của mình. Nhìn lại thực tại hắn chẳng có gì ngoài những vết sẹo chằng chịt trên mặt, nhận ra mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Trong dòng suy nghĩ miên man, Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay. Lần đầu tiên trong cuộc đời chỉ có chém giết và ăn vạ chị được người ta cho bát cháo hành, chí đường người ta yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Đây cũng là lần đầu Chí thấy cháo hành ngon đến vậy “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Câu hỏi ấy vang lên làm ta không khỏi nhức nhối, thương cảm cho số phận của Chí. Hắn cầm bát cháo Thị Nở cho bằng đôi mắt thật hiền, cảm động, đôi mắt hắn ươn ướt vì sự biết ơn. Cùng với năm ngày chung sống cùng thị Nở trong hắn lại trỗi dậy khao khát về một cuộc sống khác, hắn khao khát được làm hòa với mọi người biết bao. Mong mỏi được làm người lương thiện, nhân tính trong Chí đã trở về: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Năm ngày đó như ánh nắng rực rỡ làm bừng sáng quãng đời đen tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ người ta thấy một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ lại hiền lành đến vậy, hắn cố uống rượu cho thật ít, để tỉnh tạo tận hưởng hạnh phúc, để được say trong men tình. Lần đầu tiên sau khi ở tù về Chí Phèo mới có lại mục đích và lí tưởng sống. Đó là những mong ước giản dị mà bất cứ ai cũng nâng niu, trân trọng.
Nhưng cuộc đời Chí Phèo vẫn chưa thoát khỏi những bi kịch. Thị Nở từ người cứu vớt lại trở thành người chối tự quyền làm người và hạnh phúc của Chí Phèo, chỉ vì bà cô không cho phép lấy một kẻ chỉ có chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Bà cô chính là đại diện cho những hủ tục của xã hội đương thời, đẩy Chí đến bi kịch của sự tuyệt vọng. Chí Phèo uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng nhận ra số phận nghiệt ngã của bản thân. Chí xách dao định tìm đến nhà Thị Nở để giết cả nhà “nó”, nhưng bước chân lại hướng về nhà Bá Kiến. Chí Phèo dõng dạc đòi lương thiện, nhưng bản thân hiểu rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?” Và hắn rút dao giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cái chết của cả hai quá đỗi bất ngờ. Chí giết kẻ thù của mình, kẻ cướp đi người nông dân lương thiện, và tự giết chết thân xác của một thằng tha hóa, giữ lại cho mình phẩm chất lương thiện. Cái chết của Chí Phèo là hệ quả tất yếu nhưng cũng không khỏi làm cho ta thương xót, đồng cảm.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người nông dân chất phác, lương thiện nhưng bị đẩy đến bước đường tha hóa phải tìm đến cái chết để khôi phục danh dự. Đồng thời với nhân vật Chí Phèo tác giả cũng lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến độc ác, bất nhân đẩy con đường đến bước đường cùng. Không chỉ vậy, ông còn thể hiện cái nhìn tin yêu vào bản chất lương thiện của những người nông dân.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 9)
Nam Cao là cây bút xuất sắc viết về đề tài người nông dân trong đó “Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác. Nhân vật chính cùng tên với tác phẩm là một kẻ lưu manh tha hóa nhưng sâu thẳm trong bản chất lại là người lương thiện. Chí Phèo là hình tượng nhân vật độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam hiện lên với ngoại hình, tính cách và tâm lí để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Viết về người nông dân Nam Cao thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm họ càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp tàn nhẫn, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị đày đọa vào cảnh nghèo đói cùng đường và Chí Phèo chính là một trong những nhân vật tiêu biểu đại diện cho số phận người nông dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo được tác giả Nam Cao khắc họa với ấn tượng đầu tiên mở đầu cho tác phẩm là tiếng chửi hé mở cho người đọc thấy sự bất hạnh của nhân vật. “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi” Chí Phèo chửi ai? Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng trời có hề gì, đời chẳng là ai, cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ “Chắc nó trừ mình ra”, rồi hắn chửi cha mẹ đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi chết mẹ đứa nào đẻ ra hắn nhưng cũng không ai đáp lời ngoài mấy con chó. Đối tượng chửi của Chí Phèo cứ thế thu hẹp phạm vi dần. Tiếng chửi ấy cho thấy sự bế tắc và tuyệt vọng nơi Chí. Lúc say cũng là lúc tỉnh táo nhất, không phải hắn hửi trong men rượu mà chửi rất tỉnh. Bởi Chí có tỉnh mới chọn đối tượng chửi logic và thấm thía nỗi thống khổ của bản thân mình. Chí bị cô lập, bị mọi người khinh rẻ, né tránh nếu có ai chửi nhau cùng hắn thì đó còn được gọi là giao tiếp dù cho chẳng hay ho gì nhưng có còn hơn không. Tuy nhiên hiện thực nghiệt ngã và đi ngược lại với mong muốn của hắn cả dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi Chí là người, tuyệt nhiên không một ai thu nhận hắn vào xã hội chung mà coi hắn là con quỷ dữ.
Chí Phèo là thằng lưu manh tha hóa bị mất hết nhân hình và nhân tính. Về ngoại hình Nam Cao khắc họa hắn “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo hiện lên với vẻ bề ngoài đúng chất thằng đầu bò, lưu manh, côn đồ khiến cho mọi người đều xa lánh hắn. Chí không còn là anh canh điền hiền lành giờ đây nhân tính của hắn cũng đã bị biến dạng méo mó. Vừa về làng hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều, say xỉn rồi xách vỏ chai đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ để đòi lại danh dự và nhân phẩm đã bị cụ Bá tước đoạt.
Năm ấy nếu không phải Bá Kiến là kẻ đã đẩy Chí vào tù vì sự ghen tuông vô cớ với Chí Phèo về bà ba thì có lẽ bây giờ hắn không thành ra như vậy. Lần thứ hai hắn đến nhà cụ bá với vẻ mặt hiền lành gãi đầu gãi tai đòi đi ở tù, xin cụ cho vào tù sống nhưng thực chất là đòi miếng cơm tấc đất để mưu sinh. Đây là một nhu cầu chính đáng nhưng một lần nữa Bá Kiến lợi dụng nó để biến Chí thành tay sai, tên đòi nợ thuê cho hắn. Như vậy chế độ hà khắc của nhà tù phong kiến thực dân đã biến Chí Phèo từ một người hiền lành thành kẻ lưu manh, nay trở về để cho thế lực hắc ám như Bá Kiến hoàn thành nốt công đoạn cuối cùng biến Chí thành con quỷ dữ sống với kiếp thú vật độc ác.
Chí kể từ đó trượt dài trên cái dốc tha hóa, chìm đắm trong men say triền miên “Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo để nhớ rằng hắn có mặt ở đời”. Hắn là con quỷ dữ ở làng Vũ Đại “phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện” Chí Phèo đích thị đã không còn là người nữa hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người ta sai bảo trong lúc hắn say. Hắn mưu sinh chỉ bằng một nghề cướp của giết người, rạch mặt ăn vạ cuộc đời của một con người nhưng lại đội lốt quỷ ác.
Chí Phèo sau bảy tám năm đi biệt bỗng hắn trở về làng sống trong những ngày tháng đen tối, sống không bằng đã chết, thân hình bị biến dạng, nhân tính bị bóp méo, linh hồn bị quỷ dữ cướp mất. Chí bị đẩy đến tận đáy cùng của xã hội, rơi vào tình cảnh bi thảm. Chắc hẳn Nam Cao cũng rất đau lòng khi buộc phải để cho nhân vật của mình chịu đựng biết bao bất hạnh, đắng cay nghiệt ngã nhưng tránh sao được hiện thực khắc nghiệt. Hoàn cảnh Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Bản chất của người nông dân là hiền lành, lương thiện và cam chịu nhưng khi bị chèn ép đến đường cùng họ buộc phải vùng dậy đấu tranh đòi quyền sống. Chí Phèo cũng vậy bản chất thật sự con người hắn là lương thiện. Điều đó được thể hiện trước đây hắn là anh canh điền chất phác, vốn hiền lành và có lòng tự trọng. Khi hắn bị bà ba vợ thứ ba của Bá Kiến bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa “hắn thấy nhục hơn là thích”, “hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Chí có nhân cách của người bình thường khi phải làm một việc không chính đáng hắn cũng biết lo sợ, biết run, biết là mình bị xúc phạm đến lòng tự trọng. Ngày xưa ấy hắn cũng đã từng có một thời mơ ước cuộc sống bình dị về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Anh Chí ngày ấy hiền như cục đất, bản tính đáng được yêu thương và trân trọng nhưng hiện thực đã đẩy anh đến đường cùng.
Con người lương thiện trong Chí thực sự trỗi dậy mạnh mẽ khi gặp thị Nở cảm nhận được tình người trong bát cháo hành và tình cảm chân thành của thị hắn muốn hoàn lương, muốn sống đúng nghĩa là con người. Hắn đã ngạc nhiên và cảm động biết bao trước hành động ân cần, săn sóc của thị. Lần đầu tiên giọt nước mắt tình người chảy ra, trái tim sắt đá bao năm nay được yêu thương trở lại. “Hắn thèm lương thiện hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Hắn khao khát được hòa nhập với mọi người, hắn đặt niềm tin vào thị, hắn tin thị có thể giúp mình. Nhưng bi kịch một lần nữa lại ập đến Chí Phèo sau năm ngày sống hạnh phúc với thị tưởng chừng sóng gió đã ngừng vậy mà Chí lại bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô thị Nở cũng như của toàn xã hội. Chí Phèo không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết ám ảnh với tiếng kêu đòi làm người lương thiện thống thiết trong khổ đau “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí đã thực sự thức tỉnh và hồi sinh để nhận thức giá trị bản thân. Bản chất lương thiện trong người Chí không bị mất đi mà chỉ bị khuất lấp chỉ cần có cơ hội là trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Chi tiết ấy cho thấy nét độc đáo riêng biệt: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện ra và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay khi trong họ bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.
Chí Phèo là nhân vật đại diện cho người nông dân Việt Nam sống trong chế độ phong kiến nửa thuộc địa tàn ác. Nhân vật Chí Phèo được khắc họa rất sinh động với lối trần thuật linh hoạt giọng điệu của tác giả và các nhân vật khác được đan xen, phối hợp với nhau, nghệ thuật điển hình hóa nhân vật được sử dụng thành công làm nên một nhân vật Chí Phèo có một không hai trong lịch sử văn học, khái quát được cả một hiện tượng trở thành quy luật xã hội: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”
Như vậy bằng tài năng của nhà văn chân chính, Nam Cao đã để lại cho nền văn học dân tộc một kiệt tác nghệ thuật và một hình tượng nhân vật độc đáo. Trang văn đã khép lại nhưng tiếng kêu thống thiết của Chí vẫn khiến cho độc giả phải suy tư, trăn trở về bản chất tốt đẹp trong con người.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 10)
Với tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 cùng với những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Có thể nói cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, đặc biệt là trong thể loại truyện ngắn thì “Chí Phèo” đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Có thể nói rằng Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Nhân vật Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Hoàn cảnh éo le không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Trong khoảng thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Và cũng như biết bao nông dân nghèo khác, Chí đã từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Nếu làm ăn khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một con người rất lành rồi cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được nữa.
Có ai ngờ đâu một anh canh điền chất phác đến thật thà ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy anh Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng có thể nói nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Khi ra tù, Chí như đã biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Có thể nói chính nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Khi mà Chí Phèo trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm rõ được quy luật khắt khe của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Hắn dường như đã hiểu và biết rằng phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay cường hào, thâm độc.
Và với nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã bị sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa mà không thể nào gượng đứng lên được, càng lúc càng lún sâu xuống đáy. Cũng có lẽ rằng hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp của mọi người, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Và vô tình hắn cũng đã đập nát tất cả những gì thuộc về tư cách của một con người trong hắn. Tất cả dân làng Vũ Đại đều quay lưng lại với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta rất sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt của một con thú dữ, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Có thể nói sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Dường như đã đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo luôn luôn bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn như vẫn còn le lói đâu đó ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Có thể nói đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say triền miên, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi, và sau đó lại cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Cho đến cuối cùng thì chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại mà thôi, ai cũng đều xa lánh và sợ hãi.
Những khi hắn tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt và bất ngờ với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã làm hồi sinh lại cho Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn - một tên Chí Phèo tha hóa kia lại sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng lúc này đây thì cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng hạnh phúc, thì giờ đây Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn đã thực sự muốn làm người trở lại, muốn làm người lương thiện nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Có thể nói để giành lại sự sống cho tâm hồn, thì Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo’, Nam Cao đã thực sự đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 11)
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nói lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn để Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bởi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ẩn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hẳn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu để hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khổ đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khổ và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đến cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thể quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình. Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là để khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thể đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với cường hào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Song, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thể bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chẳng khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lợn”.
Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?”. Những âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thể làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có để nâng niu và thấy trân trọng nó hơn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 12)
Với tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 cùng với những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Có thể nói cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, đặc biệt là trong thể loại truyện ngắn thì “Chí Phèo” đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Có thể nói rằng Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Nhân vật Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Hoàn cảnh éo le không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Trong khoảng thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Và cũng như biết bao nông dân nghèo khác, Chí đã từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Nếu làm ăn khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một con người rất lành rồi cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được nữa.
Có ai ngờ đâu một anh canh điền chất phác đến thật thà ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy anh Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng có thể nói nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Khi ra tù, Chí như đã biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Có thể nói chính nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Khi mà Chí Phèo trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm rõ được quy luật khắt khe của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Hắn dường như đã hiểu và biết rằng phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay cường hào, thâm độc.
Và với nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã bị sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa mà không thể nào gượng đứng lên được, càng lúc càng lún sâu xuống đáy. Cũng có lẽ rằng hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp của mọi người, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Và vô tình hắn cũng đã đập nát tất cả những gì thuộc về tư cách của một con người trong hắn. Tất cả dân làng Vũ Đại đều quay lung lại với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta rất sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt của một con thú dữ, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Có thể nói sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Dường như đã đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo luôn luôn bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn như vẫn còn le lói đâu đó ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Có thể nói đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say triền miên, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi, và sau đó lại cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Cho đến cuối cùng thì chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại mà thôi, ai cũng đều xa lánh và sợ hãi.
Những khi hắn tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt và bất ngờ với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã làm hồi sinh lại cho Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn – một tên Chí Phèo tha hóa kia lại sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng lúc này đây thì cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng hạnh phúc, thì giờ đây Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn đã thực sự muốn làm người trở lại, muốn làm người lương thiện nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Có thể nói để giành lại sự sống cho tâm hồn, thì Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo’, Nam Cao đã thực sự đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 13)
Nhà văn Nam Cao là một nhà văn tên tuổi có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Việc xây dựng nhân vật vô cùng đặc sắc điển hình tạo nên sự thành công trong sự nghiệp của Nam Cao đó chính là nhân vật Chí Phèo.
Với tác phẩm “Chí Phèo” tác giả Nam Cao xứng đáng với tên tuổi nổi bật của mình trong nền văn học nước nhà. Bởi nói tới nỗi khổ của người nông dân thì nhiều nhà văn đã thành công với nhiều tác phẩm nổi tiếng như tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố.
Chí Phèo là một thanh niên bản tính hiền lành, lương thiện, nhưng chính xã hội phong kiến, tầng lớp bóc lột của xã hội cũ đã chà đạp, xô đẩy cuộc đời Chí Phèo tới chân tường, không lối thoát, đánh mất giá trị con người mình, mất đi tính lương thiện vốn có của người nông dân hiền lành chất phác.
Nhân vật Chí Phèo khổ từ khi mới sinh ra, bởi anh là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong chiếc lò gạch cũ. Rồi may mắn được bác phó cối nhặt về nuôi dưỡng thương yêu như con của mình. Nhưng chỉ được vài năm thì bác phó cối chết đi, Chí Phèo lang thang đi ở đợ cho hết nhà này tới nhà khác kiếm miếng ăn.
Năm mười mấy tuổi Chí Phèo đi làm canh điền cho gia đình giàu có quyền lực nhất làng Vũ Đại chính là nhà Bá Kiến. Chí Phèo được tiếng là hiền lành chăm chỉ như cục đất suốt ngày chỉ biết làm việc mà thôi. Dù không được học hành nhiều nhưng Chí Phèo hiểu thế nào là đúng sai, phải trái. Trong nhà Bá Kiến có bà Ba thường xuyên bắt Chí Phèo lên hầu hạ bóp chân, đấm lưng, bà ba còn trẻ nên có nhiều mong muốn trong vấn đề tình cảm, nhưng lão Bá Kiến thì già rồi nên không thể chiều bà thường xuyên được. Bà ba vợ lão Bá Kiến để mắt tới Chí Phèo, Chí Phèo biết và lão Bá Kiến biết.
Những lúc như vậy, Chí Phèo cảm thấy nhục chứ chẳng vui vẻ gì. Lão Bá Kiến thì sinh ghen tuông vô cớ với Chí Phèo rồi lão âm mưu vu vạ, cho Chí Phèo tội ăn cắp đẩy anh vào tù chừng bảy, tám năm gì đó tưởng đâu Chí Phèo đã chết mất mạng trong tù rồi chẳng ai còn nhớ tới anh nữa.
Chính những thời gian bị ngồi tù oan đã biến Chí Phèo từ con người hiền lành lương thiện trở một kẻ bị lưu manh hóa, đánh mất tính lương thiện trong mình. Khi mãn hạn tù trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã biến thành một người hoàn toàn khác với trước kia, một tên giang hồ thật sự, răng cạo trắng ởn, đầu trọc lốc, ai nhìn thấy hắn cũng lảng tránh. Hắn đã trở thành tay sai cho Bá Kiến trong những việc đánh đấm đòi nợ thuê. Cuộc đời Chí Phèo từ khi ra tù về hắn triền miên trong những cơn say rượu, hết rượu, hết tiền hắn cướp để có tiền tiếp tục mua rượu uống. Hắn thật sự đã biến chất trở thành nỗi khiếp sợ của những người dân hiền lành lương thiện.
Khi xây dựng nhân vật Chí Phèo có lẽ Nam Cao đã phản ánh vô cùng sống động, chân thực cuộc sống của xã hội cũ, những người nông dân bị bần cùng, hủy hoại về tâm hồn vì sự nghèo khổ áp bức, tới cùng quẫn. Nhân vật Chí Phèo bị sa lầy trong vũng bùn của sự xuống cấp đạo đức, tha hóa lòng nhân hậu sự lương thiện. Nhưng chính Bá Kiến và xã hội lúc đó là nguyên nhân xô đẩy Chí Phèo tới bước đường đó. Sự tha hóa của Chí Phèo đã tố cáo tội ác dã man của xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân cách số phận của người nông dân, khiến cho người nông dân đánh mất nhân cách, tính thiện lương trong con người mình.
Càng đi sâu vào những bi kịch của người nông dân trước khi cách mạng tháng Tám xảy ra Nam Cao càng nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong vẻ ngoài xù xì gai góc của họ. Mỗi người nông dân đều có nội tâm phong phú sâu sắc. Chí Phèo là một con người lương thiện, bản chất hiền lành nhưng chính xã hội đó đã tước đi quyền làm người lương thiện của Chí Phèo.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở là một cuộc gặp gỡ định mệnh, chính bát cháo hành của Thị Nở khi Chí Phèo ốm đã cứu vớt linh hồn con người của anh. Chí Phèo cảm thấy một cảm giác khó tả anh mong ước mơ hồ nhớ về nguyện vọng ước mơ của mình ngày xưa. Khi muốn có một mái ấm gia đình, vợ làm việc vợ, chồng làm việc chồng cùng nhau sum vầy sớm tối bên nhau.
Lần đầu tiên sau nhiều năm Chí Phèo tỉnh rượu hắn mơ hồ nhận thấy sự cô đơn của cuộc đời mình. Chí Phèo muốn có gia đình nhưng cánh cửa trở về làm người lương thiện đang mở ra bỗng đóng sầm trước mắt Chí Phèo. Khi bà cô ruột của Thị Nở không cho Thị Nở qua lại với anh, chê anh là thằng không cha không mẹ, thằng chuyên làm nghề rạch mặt ăn vạ…
Chí Phèo hận lắm, anh cảm thấy mình chẳng còn gì để mất cả anh muốn trả thù. Anh sẽ tìm tới bà cô Thị Nở cho bà ta một bài học, nhưng bàn chân của Chí Phèo lại đưa anh tới nhà lão Bá Kiến bởi trong tiềm thức Chí Phèo hiểu rằng mình trở nên mất lương thiện, mất tính người đi tới bước đường này đều do lão Bá Kiến gây ra. Câu hỏi Chí Phèo hỏi lão Bá Kiến khiến người đọc vô cùng xúc động “Ai cho tao lương thiện?” đó là câu hỏi thấm thía sâu sắc thể hiện sự đồng cảm của tác giả Nam Cao với đứa con tinh thần của mình.
Câu chuyện khép lại để lại trong lòng bạn đọc nhiều ám ảnh day dứt trong lòng người đọc về cuộc đời số phận của nhân vật Chí Phèo một con người đáng thương hơn đáng giận, một số phận bị bần cùng lưu manh hóa nhưng thực chất trong con người anh ta sự lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều nó bị xã hội phong kiến chà đạp lên mà thôi.
Truyện ngắn “Chí Phèo” với cốt truyện độc đáo, thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của Nam Cao khi đi sâu khai thác nội tâm bên trong con người lao động thể hiện một cây bút lão luyện thiên tài của nền văn học hiện thực. Chí Phèo thật sự là một tác phẩm kinh điển của nền văn học hiện thực nước ta cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ độc đáo hơn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 14)
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 15)
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở…Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.
Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.
Mở đầu là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo: "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…". Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của người đàn ông mà trước đây hiền "như đất". Qua tiếng chửi đó, người đọc thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự dửng dưng của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc. Và cuộc đời của Chí Phèo lần lượt hiện dần lên đầy xót xa.
Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ…Muốn thế hắn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “ Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…hai mắt gườm gườm trông gớm chết”….Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng”, “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nửa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”.
Nhưng điều đặc sắc và đáng quí hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỉ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bi hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ…Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc-cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau…Hắn khát khao làm hòa với mọi người…”
Từ con quĩ dữ, nhờ Thị Nở hay nói đúng hơn là tình thương của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một chất xúc tác kì lạ làm thăng hoa ở Chí bản chất người mà bấy lâu nay anh dường như quên lãng.
Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỉ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao.
Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước CMT8- Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 16)
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sang tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nôn dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong caí xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản khánh vô cùng mạnh mẻ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buối sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
– Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngân ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất.nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu.
Chí Phèo ngạc nhiên,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hổi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỹ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiến, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịck đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây khong thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 17)
Khi trên văn đàn Việt Nam xuất hiện những con người như chị Dậu, anh Pha ở những năm ba mươi của thế kỉ trước, nhiều quan điểm cho rằng nạn nhân đáng thương nhát của xã hội thực dân – phong kiến đương thời là những con người bị bóc lột đến cùng của cải, sức lực và bị chà đạp đến cùng danh dự, tinh thần, quan điểm đó tưởng đã thành chân lí đúng đắn nhưng cho đến khi Chí Phèo của Nam Cao bước vào văn đàn với tất cả những gớm ghiếc rùng rợn trong hình hài nhân vật và những biến thái tàn tạ của nhân tính, ta mới dần dần nhận thức được: hình như cái đau đớn nhất của con người không phải là bị xã hội đày đoạ mà là bị cô lập và cự tuyệt Chí Phèo, một cách tự nhiên, đã để lại trong lòng ta những ấn tượng đậm nét cùng những niềm cảm thương day dứt về số phận của một con người sống trong cảnh không được làm người.
Sự xuất hiện của nhân vật Chí Phèo, cùng với biết bao nhiêu suy nghĩ hồi tưởng, hành động của hắn trong tác phẩm để lại cho ta ấn tượng đậm nét như thế, chính nhờ một phần sự xáo trộn tài tình những chi tiết truyện của Nam Cao. Đột nhiên bước vào giữa truyện, quay lại buổi đầu và tiến dần đến kết thúc, tưởng là xáo trộn mà lại rất tự nhiên. Chí Phèo xuất hiện không cần tô vẽ, chẳng phải rào trước đón sau, người ta cứ thấy hắn lừ lừ từ đầu đến cuối truyện; vẫn là hấn nhưng mỗi chi tiết ta lại cảm nhận khác nhau về biết bao nhiêu điều trong xã hội đương thời, về những đổi thay của con người trong dòng xã hội đen mờ ấy. Và cuối cùng, hình ảnh Chí Phèo cho ta thấy được tư tưởng nhân văn vô cùng cao đẹp của nhà văn Nam Cao, một tư tưởng mới lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam: trân trọng bản chất lương thiện của con người ngay khi họ đã rơi vào con đường lưu manh hoá.
Cuộc đời Chí Phèo có thể chia làm ba chặng đường. Như biết bao người nông dân trong xã hội trước, hắn đã có thể có một cuộc sống bình yên với một tâm hồn trong sáng, một phẩm cách lương thiện. Mồ côi từ thuở nhỏ, làm phu cho nhà Bá Kiến, rồi bị cái ghen bóng ghen gió của Bá Kiến hãm hại, bị đẩy vào nhà tù thực dân, cuộc đời Chí Phèo chuyển một bước ngoặt từ lúc ấy. Bá Kiến là thủ phạm đầu tiên trong việc lưu manh hoá một tâm hồn lương thiện. Nhà tù thực dân hoàn chỉnh quá trình tệ hại ấy. Cái bắt tay của cường hào và thực dân làm tan vỡ hàng nghìn viên ngọc “thiên lương” cao quý cua những con người thuộc tầng lớp dưới cùng của xã hội. Ta biết nói gì đây cho nhân vật Chí Phèo? Ta thương hại Chí là nạn nhân của một trò đôn mạt hèn hạ. Ta căm phẫn những kẻ đã cam tâm huỷ diệt nhân tính Chí. Ta đau đớn nhận ra khi thời gian mãn hạn tù thực dân kết thúc là Chí bước vào một nhà tù khác, nhà tù do chính xã hội tạo ra, biệt lập và đoạn tuyệt với những kẻ thoái hoá nhân phẩm như Năm Thọ, Binh Chức và giờ đây là Chí Phèo… Thế là bắt đầu giai đoạn mới khốc liệt và cay nghiệt của cuộc đời Chí.
“Hắn vừa đi vừa chửi” – đó là cách mà Nam Cao để nhân vật xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm. Đó cũng là cái hình ảnh đầu tiên mà người đọc tiếp nhận về Chí, mở ra giai đoạn thứ hai trong cuộc đời hắn – từ một tên lưu manh đến một kẻ tay sai – nỗi kinh hoàng của làng Vũ Đại. Chí Phèo bị lưu manh hoá không phải là hiện tượng đầu tiên trong văn học. Trước đó, Nguyên Hồng với Bỉ vỏ đã đề cập đến những thoái hoá biến chất trong tâm hồn con người gây ra bởi xã hội, nhưng chỉ dừng lại đó chứ không đi sâu vào bản chất của con người ấy. Cái mà tiểu thuyết – với lợi thế độ dài -của Nguyên Hồng chưa làm được thì truyện ngắn của Nam Cao với điểm xuyết qua những chi tiết nghệ thuật độc đáo, đã làm được – và làm rất thành công. Tiếng chửi của Chí Phèo có ý nghĩa gì? Thực ra tiếng chửi của nhân vật chính là phản ứng của hắn với toàn bộ cuộc đời. Trong chửi rủa lại bao hàm một khát khao: giá như có ai thèm chửi với mình thì còn hạnh phúc, bởi ít ra trong cuộc đời còn có kẻ quan tâm đến mình. Đằng này, chửi vang cả làng, vang cả trời mà nào có ai đếm xỉa gì đến hắn. Vậy là, hắn đã bị loại ra khỏi cuộc đời này rồi… Phải? Dưới vòm trời này người ta đã quen đi, hoặc không thèm để ý tới tên lưu manh Chí Phèo. Thần tình của Nam Cao là ở chỗ đã để cho bản chất của Chí thoáng hiện ra, cái tỉnh lồ lộ trong cái say mơ màng, ý thức đau đớn về bản thân chợt xuất hiện trong tiếng chửi vang trời. Còn ý thức về mình, còn khát khao sự yêu thương của đồng loại, nghĩa là còn bản chất con người. Hắn là người, mà sao không ai cho hắn cái quyền ấy?
Sau chi tiết tiếng chửi là những hành động liên tiếp của Chí Phèo: đến nhà Bá Kiến nằm ăn vạ, rồi ngày ngày với những thói lưu manh lại rạch mặt, ăn chực của thiên hạ.
“Con quỷ dữ của làng Vũ Đại” hiện ra với thứ hình hài gớm ghiếc: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chét”. Rồi lại “cái ngực phanh”, “chạm trổ rồng phượng”… Nam Cao phải đặt bút hai lần viết vào “trông gớm chết”, hẳn đó là cái nhận xét ban đầu của mọi người về tên Chí sau bảy năm tù tội, dần trở thành cái nhận định âm ỉ về con người này cho đến khi hắn chết. Không chỉ với nhân hình, bằng việc nghe theo Bá Kiến làm tay sai cho hắn để trừng trị những phe cánh khác trong cái làng Vũ Đại “trật tự – kỉ cương”, Chí Phèo vô tình trở thành công cụ đắc lực huỷ hoại nhân tính của mình, thành nỗi khiếp đảm cho xã hội. Cái vòng biệt lập mà xã hội tạo ra cho Chí Phèo cứ mỗi ngày mỗi chặt dần. Đến đoạn này, ta có thể giận Chí, trách Chí vì cái lợi cơm áo trước mắt mà làm tay sai cho kẻ ác, nhưng rồi ta chợt nhận ra: nếu không bởi cái mưu đồ nham hiểm của “cụ Bá” một lần nữa huỷ hoại tâm hồn Chí, thì làm sao có được một kẻ tay sai hung dữ, sẵn sàng giở thói côn đồ vì những cái lợi trước mắt. Nghĩ lại, Chí đáng thương hơn là đáng trách.
Câu chuyện diễn biến tới đó đủ thể hiện một quy luật: bần cùng hoá rồi dẫn tới lưu manh hoá trong một tầng lớp xã hội đương thời. Chuyện dừng ở đó cũng có thể chấp nhận được. Nhưng Nam Cao không để Chí Phèo cứ thế mà chết trong xó xỉnh, bụi rậm nào đó. Với tinh thần nhân đạo, Nam Cao đã để cho tâm hồn lương thiện của Chí Phèo lần đầu tiên thức tĩnh, từ cái đêm gặp Thị Nở.
Đó là đêm đầu tiên hắn được thức tỉnh bản năng làm một người đàn ông, và buổi sáng hôm sau là buổi sáng đầu tiên kể từ khi ra tù hắn được tận hưởng những gì đẹp đẽ và tươi tắn của thiên nhiên: tiếng chim ríu rít, ánh nắng rực rỡ, tiếng người nói chuyện râm ran. Hắn nhớ, hắn hồi tưởng. Đoạn hồi tưởng của hắn làm bao nhiều độc giả giật mình: Ôi! Hoá ra Chí vẫn còn là một con người, biết yêu ghét, biết vui buồn, biết nhớ và biết hi vọng nữa. Hắn cũng lo âu cho tuổi già và sự cô độc, hắn sợ mọi thứ diễn ra trong đầu hắn, trước mắt hắn. Ta thấy có gì đó hài lòng và hi vọng: hi vọng những cảm xúc trong Chí Phèo sẽ được duy trì mãi mãi cũng như Chí Phèo còn một con dường về với loài người.
Nhưng bản năng của một con người chỉ được đánh thức một cách trọn vẹn khi có chi tiết bát cháo hành của Thị Nở. Lần đầu tiên, Chí có cảm giác được mọi người quan tâm. Một sự so sánh diễn ra với một bên là người đàn bà độc địa đã dùng hắn thoả mãn thú vui của ả, một bên là người quan tâm duy nhất đến mình và thể hiện sự quan tâm ấy qua bát cháo dân dã mà đậm tình người. Tiếng nói của Chí Phèo, của Nam Cao đột ngột cất lên: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao!”. Lần đầu tiên cái khao khát sông của Chí Phèo được thể hiện mạnh mẽ nhất: phải sông trong xã hội, phải yêu và phải được xã hội quan tâm. Tình yêu mộc mạc của Chí Phèo và Thị Nở chớm nở và duy trì trong năm ngày hạnh phúc nhất của Chí.
Thị Nở cự tuyệt Chí Phèo! Đó là đòn đánh cuối cùng và nặng nề nhất của xã hội vào Chí! Đến đây, toàn bộ những hi vọng của Chí trở thành tuyệt vọng. Hắn uống rượu cho say, nhưng càng uống càng tỉnh. Như đã khẳng định từ đầu, cải tỉnh của Chí bao giờ cũng song song với cái say, nhưng nếu trước đầy nó bị cái say lấn át, thì bây giờ nó đau đáu hiện ra và thúc giục Chí trả thù. Ai? Ai đã khiến cho cuộc đời Chí lâm vào những đắng cay tủi nhục ấy, chính là lũ cường hào mà đại diện là Bá Kiến gian xảo, quỷ quyệt. Những câu nói cuối cùng đối với Bá Kiến cũng là tuyên bố hùng hồn của hạng người thấp bé nhất trong xã hội: “Tao muốn làm người lương thiện”. Nhát dao đâm chết Bá Kiến và nhát dao tự sát tuy khẳng định: con người như Chí Phèo khó mà sinh tồn trong xã hội khắc nghiệt đương thời, nhưng cũng là tuyên ngôn về sự nảy sinh về tâm hồn lương thiện của con người khi con người ấy đã về cõi chết.
Dẫu biết, sau Chí Phèo lại còn biết bao nhiêu kẻ bị bần cùng hoá rồi đi đến lưu manh hoá, và xã hội còn cự tuyệt những con người như vậy, nhưng qua nhân vật Chí Phèo ta vẫn tin tưởng rằng chồi non lương thiện sẽ thành cây cao. Và không có cái hạt giông lương thiện quằn quại mãi mới nảy mầm trong Chí Phèo thì làm sao có cây cao nhân cách trong Lão Hạc. Niềm cảm thương day dứt và tin tưởng trong lòng người đọc xin được song song tồn tại với tác phẩm Chí Phèo.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 18)
Nam Cao được mệnh danh là nhà văn của nền văn học hiện thực, ông sáng tác các tác phẩm chủ yếu viết về người nông dân Việt Nam, đây là tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc khi viết về một hiện thực đó là người nông dân bị bần cùng hóa trước cách mạng tháng tám.
Nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao là nhân vật phải chịu nhiều đắng cay, cực khổ do xã hội gây nên, họ bị bần cùng hóa về con người và tính cách, như Chí Phèo là một nhân vật như thế, Chí đã phải chiu đựng những bần cùng do xã hội gây nên, từ một nhân vật hiền lành, chất phác, đi làm thuê để lấy tiền sinh sống, khó khăn khi đi làm thuê nhà Bá Kiến nhưng lại bị người nhà này hành hạ, và biến chí thành một con người ác, người nông dân lương thiện, nhưng lại bị xã hội tha hóa, khi đọc tác phẩm, chắc hẳn không ai không có một thái độ xót thương và có thái độ cảm thông cho nhân vật này.
Chí đã phải chịu đựng nhiều khó khăn, và vất vả, xuất thân đã không giống như những người bình thường khác, bị bỏ rơi trong lò gạch cũ, chí phải chịu đựng từ nhỏ, không được ai chăm sóc, nuôi dạy, và rồi chí đã trở thành một người nông dân muốn sống bằng chính sức lao động của mình, nhưng lại không được, bởi Chí Phèo đang phải chịu đựng những cảnh cơ cực của sự đàn áp, bị tha hóa về con người và cả về tính cách của nhân vật.
Ở đây nhân vật Chí vừa là biểu hiện của cá nhân khi bị người khác áp bức bóc lột, mà nó còn biểu hiện cho cả một tầng lớp, luôn bị đàn áp cả về tinh thần lẫn thể xác, sự cơ cực đó đã biến chí từ lương thiện trở thành người không có nhân tính. Chí đã làm thuê với chính sức lao động của mình, nhưng rồi bao nhiêu công lao, mà Chí phèo cố gắng lại bị chính những con người có quyền lực trong tay đàn áp, đó là những con người, xấu xa, họ đại diện cho thế lực cầm quyền cho xã hội, chính những con người đấy đã làm tụt lùi đi chính xã hội của chúng ta, mỗi người chúng ta đều có thể thấy người nông dân phải chịu đựng rất nhiều những bất công.
Họ đàn áp, áp bức bóc lột sức lao động của con người, biến người nông dân thành những công cụ để họ có thể thực hiện mục đích của mình, chí đã là con người như thế, chí bị tha hóa và trở thành con người tàn ác, Chí bị nhà Bá kiến đưa vào tù, từ đây chí biến thành con người hoàn toàn khác, Chí bị tha hóa về đạo đức cũng như con người, tất cả những điều đó đã ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội, không chỉ Chí mà còn rất nhiều những người nông dân cũng rơi vào tình trạng như thế này, nhưng chí là một nhân vật đại diện và điển hình.
Chí rơi vào con đường bị tha hóa, thể xác đau khổ, tâm hồn như bị xé ra hàng trăm mảnh, với những đau đớn đó mà Chí đã rơi vào vòng pháp luật, Chí bị tha hóa khi trong tù, và chính bọn quyền lực đã đưa Chí trở thành một con người như thế này. Chí đã bị tha hóa tính cách do tính chất khắc nghiệt của xã hội, những điều đó làm cho cuộc đời của Chí lâm vào nhiều những lâm ly bi đát hơn. Chí đi tù và phải chịu những đàn áp của bọn cai trị, đặc biệt cái đói, cái khổ, nó cũng đang ám ảnh và bao vây lấy cuộc đời của Chí, Chí là một người nông dân vốn dĩ rất lương thiện, nhưng chỉ một cơn gió độc thổi vào làm cho cuộc đời của Chí chịu đựng rất nhiều những khó khăn, và tha hóa tính cách của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Chí phèo là đại diện của người nông dân để đấu tranh và tố cáo những thế lực tàn ác, luôn che khuất mắt Chí, tác giả đã thể hiện một hiện thực vô cùng nghiệt ngã, đó là bản ngã của con người trong cuộc sống, Chí đã thể hiện được tư tưởng của chính tác giả, khi sử dụng trong tác phẩm, Chí Phèo là hình tượng trung tâm của tác phẩm, đây là một hình tượng để tố cáo tội ác của thế lực cầm quyền trong xã hội phong kiến. Nhưng rồi nhờ có tấm lòng nhân đạo của tác giả, mà Chí được sống những tháng ngày hạnh phúc khi Thị Nở xuất hiện, hoàn cảnh họ gặp nhau cũng vô cùng, vào một hôm trăng thanh gió mát, hai người gặp nhau bên vườn chuối, chỉ với một hình ảnh éo le như thế này mà hai người nảy sinh tình cảm với nhau, tình cảm đó làm ấm lên tình người trong con người Chí, đây quả thực là một hoàn cảnh thể hiện tình cảm vô cùng chặt chẽ và nó mang đậm giá trị trong chính tác phẩm, với sự thể hiện đầy táo bạo, tác giả đã thổi ấm lên tình người vào Chí, làm cho Chí thức tỉnh, có thể nói, Chí đã trở nên nhân đạo và có tình người hơn, khi gặp Chí, trước thì Chí chửi đời, chửi đất, chửi người đã sinh ra hắn, nhưng nay Chí lại muốn trở thành một con người lương thiện.
Chí đã từng nói: “ Ai cho ta lương thiện”. Tất cả đang thể hiện những ước nguyện của Chí để mong muốn mình trở thành một con người bình thường. Cuộc đời của Chí cũng phải trải qua rất nhiều thăng trầm, từ một người nông dân hiền lành chất phác, nay lại trở thành một con quỷ dữ, hắn gặp ai cũng chửi, nhưng mọi người xung quanh không ai quan tâm đến hắn, họ đều nghĩ, hắn chửi nhưng trừ mình ra, và Chí còn chửi những người không chửi nhau với hắn. Đây là những chi tiết thể hiện Chí Phèo đang bị xã hội này tha hóa đi bản chất, của một con người lương thiện, hiền lành.
Chí là nhân vật được tác giả xây dựng để tố cáo xã hội phong kiến tàn ác, họ đang tha hóa và dồn con người hiền lành trở thành những con ác quỷ, tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi để Chí gặp Thị Nở và qua nhân vật này tác giả cũng thể hiện một sự tố cáo sâu sắc đối với chính những nhân vật được xây dựng trong tác phẩm.
Tác phẩm đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có hai giá trị nổi bật đó là giá trị nhân đạo, và sự tố cáo sâu sắc đối với xã hội phong kiến.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 19)
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. "Chí Phèo" là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao viết về những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm vừa là tiếng nói của những người nông dân vừa là bản tố cáo xã hội lúc bấy giờ đã chà đạp lên quyền sống của con người.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã để cho nhân vật của mình xuất hiện vô cùng ấn tượng: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Tiếng chửi của Chí dường như đã trở thành một thói quen. Tiếng chửi khiến nhân vật của Nam Cao bỗng nhiên trở thành sự tò mò lớn với người đọc. Cuộc đời Chí rốt cuộc đã trải qua bao nhiêu phần cay đắng để phải trút ra những tiếng chửi không của riêng ai như vậy?
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ không cha, không mẹ. Hắn bị chính người sinh ra hắn bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng. Hắn không được cha mẹ mình thừa nhận, chào đón rồi bị vứt bỏ tại cái lò gạch cũ. Hắn được hết người này đến người khác nhặt nuôi. Ban đầu được một người đi thả ống lươn nhặt về nuôi, sau đó là một góa phụ rồi lại đến tay bác phó cối. Rồi cuối cùng Chí lại trở thành đứa trẻ không nơi nương tựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí phần nào đó thể hiện cuộc sống khó khăn của những kiếp người phải đi ở đợ, lam lũ, vất vả trước cách mạng tháng Tám. Mãi cho đến khi mười tám tuổi, Chí vào làm ở nhà Bá Kiến với mong muốn kiếm được bữa cơm sống qua ngày. Chí vốn là con người chân chất, mộc mạc nhưng cái bản chất tốt đẹp đó lại bị chính cái xã hội mà Chí đang sống hủy hoại. Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào tù vì cái tính hay ghen của lão khi thấy vợ mình hằng ngày sai Chí bóp chân cho bà. Giống như chị Dậu cầm đống giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, xấu xa, như Lão Hạc đã tìm đến cái chết vì lòng tự trọng của mình, Chí không hề bị khuất phục trước những lời ngon ngọt của bà ba. Nhưng xã hội đó đâu có chỗ cho những người lương thiện. Nhà tù thực dân vô tình đã tiếp tay cho Bá Kiến cướp đi sự lương thiện của Chí.
Bảy, tám năm sau, ra tù, Chí quay trở về làng Vũ Đại. Lúc này Chí không còn là anh nông dân thật thà, chân chất ngày xưa nữa mà đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại với cái "đầu thì trọc lốc", "răng cạo trắng hớn", "trông gớm chết", khắp người thì xăm những hình thù quái dị. Nam Cao đã phải sử dụng đến từ "ghê chết" để miêu tả dáng vẻ Chí lúc này. Thậm chí tính khí lưu manh còn được thể hiện rất rõ qua từng hành động của Chí. Từ hành động rạch mặt ăn vạ, đến đốt quán khi không mua được rượu và đỉnh điểm là khi Chí trở thành tay sai, thành công cụ của Bá Kiến. Chỉ với vài đồng bạc mà Bá Kiến đưa cho Chí càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Cái mới của "Chí Phèo" chính là ở điểm này. Thay vì phân tích, tái hiện cuộc sống khốn khổ của những người nông dân, Nam Cao đã khám phá, phát hiện và đi sâu vào con đường lưu manh hoá của những người nông dân vốn bình dị, thật thà nhưng xã hội đã biến họ thành những kẻ tàn ác. Bằng lối viết sắc sảo, chỉ thông qua quá trình tha hoá của Chí, quá trình từ một người lương thiện biến thành một kẻ lưu manh, Nam Cao đã gián tiếp vạch trần được cái bộ mặt tàn ác, xấu xa của xã hội bây giờ.
Rồi Chí gặp Nở. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với Thị Nở đã thay đổi cuộc đời Chí. Người ta ví Thị Nở giống như một ánh trăng dịu êm của cuộc đời Chí. Sự quan tâm của Thị, tình thương của Thị đã đánh thức trong Chí ham muốn được làm người lương thiện. Buổi sáng hôm ấy cũng như bao buổi sáng bình thường khác mà thôi nhưng đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh trong trẻo của cuộc sống hằng ngày, từ tiếng chim hót cho đến tiếng hỏi nhau của các bà, các cô đi chợ về. Chí nhớ về niềm mong ước có một gia đình nhỏ, nuôi thêm con gà, trồng thêm cái cây... sống hạnh phúc qua ngày. Thì ra Chí cũng có những phút giây "người" đến thế! Đỉnh điểm nhất là bát cháo hành của Thị đã khiến Chí "mắt ươn ướt" rồi "cười thật hiền". Thị khiến Chí - một kẻ chỉ biết sống qua ngày chợt nghĩ về tương lai, hy vọng về một gia đình hạnh phúc. Rồi Chí khóc. Giọt nước mắt của một con quỷ dữ khiến Thị bất ngờ, thầm nghĩ: "có lúc hắn hiền như đất". Rồi Chí ngỏ ý muốn Thị về ở với Chí. Nhờ có Thị, Chí khao khát muốn được trở về cuộc sống lương thiện trước đây, cùng Thị vun vén hạnh phúc.
Đây được coi như những trang viết làm bừng sáng cuộc đời Chí. Từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói của Chí đều khiến người đọc vô cùng cảm động. Mong ước giản dị của Chí lại đến từ chính người đàn bà bị cả xã hội xa lánh, nó khiến độc giả phải giật mình suy nghĩ, trân trọng hơn hạnh phúc mà mình đang có.
Chúng ta cũng tưởng rằng đến đây cuộc đời Chí có thể bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Chí bị Thị từ chối bởi bà cô của Thị không cho phép ả lấy một ông chồng chỉ biết "rạch mặt ăn vạ", lấy một kẻ "đòi nợ thuê". Cái nhìn của bà cô dành cho Chí cũng là cái nhìn mà xã hội phong kiến bấy giờ nhìn Chí. Không ai nhìn ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận Chí. Lần thứ hai Chí khóc, khóc vì tiếp tục quay lại những tháng ngày bi kịch. Chí quay trở lại với những chén rượu, những câu chửi rủa. Cuộc đời Chí lại là những tháng ngày không lối thoát. Rồi Chí đến tìm Bá Kiến. Chí đến nhà bá Kiến trong trạng thái nửa tỉnh, nửa say. Miệng lúc nào cũng chửi rủa đòi giết "con khọm già" nhà Thị nhưng lại ý thức được rằng đến nhà Bá Kiến để đòi "làm người lương thiện". Sau tất cả, Chí đã cảm nhận được những bế tắc, tuyệt vọng của cuộc đời mình. "Ai cho tôi làm người lương thiện?", câu hỏi mà hắn không thể tìm được lời giải đáp nhưng xót xa hơn cũng không ai có thể trả lời được câu hỏi đó. Rồi hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Câu hỏi của Chí, cái chết của hắn cùng đứa con sắp chào đời trong bụng Nở đã khép lại câu chuyện trong sự day dứt của tất cả mọi người. Cái chết của Chí chính là bản tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát lúc bấy giờ. Chí chọn cái chết như một sự giải thoát cho chính mình bởi đấy là cách giải thoát duy nhất cho Chí trong cái xã hội bấy giờ. Cái chết của Chí cũng là niềm tin mà Nam Cao dành cho nhân vật của mình, dành cho những con người khó khăn lúc bấy giờ. Như vậy, qua từng chi tiết truyện, Nam Cao đã chỉ ra được các nguyên nhân đẩy Chí vào con đường tha hoá. Chí rơi vào con đường lưu manh không lối thoát một phần là do xã hội bấy giờ đã cướp đi quyền làm người của Chí, một phần là do chính những người nông dân cùng cảnh ngộ đã chối bỏ Chí, không cho Chí con đường quay trở lại.
"Chí Phèo" khép lại nhưng hình tượng nhân vật Chí Phèo thì vẫn luôn sống mãi trong tâm trí độc giả. Nó đã làm nên một màu sắc rất riêng trong kho tàng truyện viết về người nông dân.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 20)
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp thị Nở...Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khối xã hội loài người. Mở đầu là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo : "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi...". Đấy là tiếng chửi của một tên say rượu, vô thức. Nhưng đằng sau tiếng chửi ấy là nỗi đau khôn cùng của người đàn ông mà trước đây hiền “như đất". Qua tiếng chửi đó, người đọc thấy được ba thái độ: thái độ thù hằn của Chí Phèo; sự dửng dưng của người đời và tình thương của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc.
Và cuộc đời của Chí Phèo lần lượt hiện dần lên đầy xót xa. Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ...Muốn thế hẳn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “ Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn...hai mắt gườm gườm trông gớm chết”....Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng”, “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người...” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nửa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”. Nhưng điều đặc sắc và đáng quý hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp. Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỷ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tỉm qua bao tháng ngày bị hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ...Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét , ốm đau và cô độc- cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau...Hắn khát khao làm hòa với mọi người...” Từ con quỷ dữ, nhờ Thị Nở hay nói đúng hơn là tình thương của Thị Nở, Chí thực sự trở lại làm người. Bát cháo hành như một chất xúc tác kì lạ làm thăng hoa ở Chí bẳn chất người mà bấy lâu nay anh dường như quên lãng. Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỷ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn để có ý nghĩa xã hội lớn lao. Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước CMT8- Chí Phèo.
Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 21)
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. "Chí Phèo" là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao viết về những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm vừa là tiếng nói của những người nông dân vừa là bản tố cáo xã hội lúc bấy giờ đã chà đạp lên quyền sống của con người.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã để cho nhân vật của mình xuất hiện vô cùng ấn tượng: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Tiếng chửi của Chí dường như đã trở thành một thói quen. Tiếng chửi khiến nhân vật của Nam Cao bỗng nhiên trở thành sự tò mò lớn với người đọc. Cuộc đời Chí rốt cuộc đã trải qua bao nhiêu phần cay đắng để phải trút ra những tiếng chửi không của riêng ai như vậy?
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ không cha, không mẹ. Hắn bị chính người sinh ra hắn bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng. Hắn không được cha mẹ mình thừa nhận, chào đón rồi bị vứt bỏ tại cái lò gạch cũ. Hắn được hết người này đến người khác nhặt nuôi. Ban đầu được một người đi thả ống lươn nhặt về nuôi, sau đó là một góa phụ rồi lại đến tay bác phó cối. Rồi cuối cùng Chí lại trở thành đứa trẻ không nơi nương tựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí phần nào đó thể hiện cuộc sống khó khăn của những kiếp người phải đi ở đợ, lam lũ, vất vả trước cách mạng tháng Tám. Mãi cho đến khi mười tám tuổi, Chí vào làm ở nhà Bá Kiến với mong muốn kiếm được bữa cơm sống qua ngày. Chí vốn là con người chân chất, mộc mạc nhưng cái bản chất tốt đẹp đó lại bị chính cái xã hội mà Chí đang sống hủy hoại. Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào tù vì cái tính hay ghen của lão khi thấy vợ mình hằng ngày sai Chí bóp chân cho bà. Giống như chị Dậu cầm đống giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, xấu xa, như Lão Hạc đã tìm đến cái chết vì lòng tự trọng của mình, Chí không hề bị khuất phục trước những lời ngon ngọt của bà ba. Nhưng xã hội đó đâu có chỗ cho những người lương thiện. Nhà tù thực dân vô tình đã tiếp tay cho Bá Kiến cướp đi sự lương thiện của Chí.
Bảy, tám năm sau, ra tù, Chí quay trở về làng Vũ Đại. Lúc này Chí không còn là anh nông dân thật thà, chân chất ngày xưa nữa mà đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại với cái "đầu thì trọc lốc", "răng cạo trắng hớn", "trông gớm chết", khắp người thì xăm những hình thù quái dị. Nam Cao đã phải sử dụng đến từ "ghê chết" để miêu tả dáng vẻ Chí lúc này. Thậm chí tính khí lưu manh còn được thể hiện rất rõ qua từng hành động của Chí. Từ hành động rạch mặt ăn vạ, đến đốt quán khi không mua được rượu và đỉnh điểm là khi Chí trở thành tay sai, thành công cụ của Bá Kiến. Chỉ với vài đồng bạc mà Bá Kiến đưa cho Chí càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Cái mới của "Chí Phèo" chính là ở điểm này. Thay vì phân tích, tái hiện cuộc sống khốn khổ của những người nông dân, Nam Cao đã khám phá, phát hiện và đi sâu vào con đường lưu manh hoá của những người nông dân vốn bình dị, thật thà nhưng xã hội đã biến họ thành những kẻ tàn ác. Bằng lối viết sắc sảo, chỉ thông qua quá trình tha hoá của Chí, quá trình từ một người lương thiện biến thành một kẻ lưu manh, Nam Cao đã gián tiếp vạch trần được cái bộ mặt tàn ác, xấu xa của xã hội bây giờ.
Rồi Chí gặp Nở. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với Thị Nở đã thay đổi cuộc đời Chí. Người ta ví Thị Nở giống như một ánh trăng dịu êm của cuộc đời Chí. Sự quan tâm của Thị, tình thương của Thị đã đánh thức trong Chí ham muốn được làm người lương thiện. Buổi sáng hôm ấy cũng như bao buổi sáng bình thường khác mà thôi nhưng đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh trong trẻo của cuộc sống hằng ngày, từ tiếng chim hót cho đến tiếng hỏi nhau của các bà, các cô đi chợ về. Chí nhớ về niềm mong ước có một gia đình nhỏ, nuôi thêm con gà, trồng thêm cái cây... sống hạnh phúc qua ngày. Thì ra Chí cũng có những phút giây "người" đến thế! Đỉnh điểm nhất là bát cháo hành của Thị đã khiến Chí "mắt ươn ướt" rồi "cười thật hiền". Thị khiến Chí - một kẻ chỉ biết sống qua ngày chợt nghĩ về tương lai, hy vọng về một gia đình hạnh phúc. Rồi Chí khóc. Giọt nước mắt của một con quỷ dữ khiến Thị bất ngờ, thầm nghĩ: "có lúc hắn hiền như đất". Rồi Chí ngỏ ý muốn Thị về ở với Chí. Nhờ có Thị, Chí khao khát muốn được trở về cuộc sống lương thiện trước đây, cùng Thị vun vén hạnh phúc.
Đây được coi như những trang viết làm bừng sáng cuộc đời Chí. Từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói của Chí đều khiến người đọc vô cùng cảm động. Mong ước giản dị của Chí lại đến từ chính người đàn bà bị cả xã hội xa lánh, nó khiến độc giả phải giật mình suy nghĩ, trân trọng hơn hạnh phúc mà mình đang có.
Chúng ta cũng tưởng rằng đến đây cuộc đời Chí có thể bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Chí bị Thị từ chối bởi bà cô của Thị không cho phép ả lấy một ông chồng chỉ biết "rạch mặt ăn vạ", lấy một kẻ "đòi nợ thuê". Cái nhìn của bà cô dành cho Chí cũng là cái nhìn mà xã hội phong kiến bấy giờ nhìn Chí. Không ai nhìn ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận Chí. Lần thứ hai Chí khóc, khóc vì tiếp tục quay lại những tháng ngày bi kịch. Chí quay trở lại với những chén rượu, những câu chửi rủa. Cuộc đời Chí lại là những tháng ngày không lối thoát. Rồi Chí đến tìm Bá Kiến. Chí đến nhà bá Kiến trong trạng thái nửa tỉnh, nửa say. Miệng lúc nào cũng chửi rủa đòi giết "con khọm già" nhà Thị nhưng lại ý thức được rằng đến nhà Bá Kiến để đòi "làm người lương thiện". Sau tất cả, Chí đã cảm nhận được những bế tắc, tuyệt vọng của cuộc đời mình. "Ai cho tôi làm người lương thiện?", câu hỏi mà hắn không thể tìm được lời giải đáp nhưng xót xa hơn cũng không ai có thể trả lời được câu hỏi đó. Rồi hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Câu hỏi của Chí, cái chết của hắn cùng đứa con sắp chào đời trong bụng Nở đã khép lại câu chuyện trong sự day dứt của tất cả mọi người. Cái chết của Chí chính là bản tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát lúc bấy giờ. Chí chọn cái chết như một sự giải thoát cho chính mình bởi đấy là cách giải thoát duy nhất cho Chí trong cái xã hội bấy giờ. Cái chết của Chí cũng là niềm tin mà Nam Cao dành cho nhân vật của mình, dành cho những con người khó khăn lúc bấy giờ. Như vậy, qua từng chi tiết truyện, Nam Cao đã chỉ ra được các nguyên nhân đẩy Chí vào con đường tha hoá. Chí rơi vào con đường lưu manh không lối thoát một phần là do xã hội bấy giờ đã cướp đi quyền làm người của Chí, một phần là do chính những người nông dân cùng cảnh ngộ đã chối bỏ Chí, không cho Chí con đường quay trở lại.
"Chí Phèo" khép lại nhưng hình tượng nhân vật Chí Phèo thì vẫn luôn sống mãi trong tâm trí độc giả. Nó đã làm nên một màu sắc rất riêng trong kho tàng truyện viết về người nông dân.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 22)
Trước cách mạng tháng tám, số phận của người nông dân luôn là đề tài đặc biệt được các nhà văn quan tâm khai thác. Nếu như Ngô Tất Tố phát hiện ra cái đẹp, sức sống tiềm tàng của người nông dân, Vũ Trọng Phụng chỉ nhìn thấy cái xấu xa của họ thì đến Nam Cao là một người đến sau nhưng ông đã khai thác được mặt khác của người nông dân đó là bản chất lương thiện và bi kịch bị tha hóa. Nhân vật Chí Phèo chính là bản vẽ tổng quát nhất của Nam Cao khi viết về người nông dân. Đây đồng thời cũng là nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng biết bao thế hệ bạn đọc.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã gây ấn tượng mạnh với người đọc bằng tiếng chửi của Chí Phèo, hắn chửi trời, chửi đời, chửi dân làng Vũ Đại, nhưng chẳng ai đáp lại, hắn lại chửi đến “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo” . Tại sao tiếng chửi lại đau đớn, uất ức đến vậy? Ngược về quá khứ, Nam Cao đã cho thấy số phận bất hạnh của Chí Phèo, đẻ ra là một đứa trẻ mồ côi, bị mẹ bỏ mặc ở lò gạch cũ, Chí may mắn được ông thả ống lươn nhìn thấy và nhặt về. Chí bị trao tay qua nhiều người, ban đầu là bà góa mù, rồi đến bác phó cối, khi bác phó cối mất, Chí lớn lên trong sự đùm bọc của xóm làng. Từ nhỏ Chí đã sống trong sự thiếu thốn tình yêu thương, nhưng bản thân Chí vẫn là con người lương thiện. Chí làm việc cho Bá Kiến để nuôi sống mình, Chí yêu lao động và có những mơ ước thuần phác, hồn hậu: lấy vợ, sinh con, chồng làm thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, để được chút vốn liếng sẽ mua ruộng để làm. Không chỉ vậy, Chí còn là người có lòng tự trọng, bóp chân cho bà ba hắn chỉ thấy nhục hơn là thấy thích. Ai có thể ngờ rằng một con người lương thiện đến vậy có thể tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Sự tha hóa của Chí Phèo nguyên nhân trực tiếp là Bá Kiến, sự ghen tuông khiến Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân với sự tàn bạo, tra tấn dã man cả về thể xác và tinh thần đã biến Chí Phèo trở thành kẻ mất cả nhân hình và nhân tính. Ngày ở tù về Chí trông như thằng “săng đá” răng cạo trắng, đôi mắt gườm gườm, xăm trổ toàn thân, ... khiến cho ai cũng phải khiếp sợ. Người đọc vừa ngỡ ngàng, vừa đau đớn, anh Chí của ngày xưa đâu? Nhà tù thực dân có sức phá hủy nhân hình, nhân tính của con người ghê gớm đến vậy sao? Bi kịch chồng lẫn bi kịch, Chí trở về con bị chính kẻ thù của mình là Bá Kiến dụ dỗ, dùng những lời ngon ngọt làm lu mờ nhận thức của Chí. Trong cơn say triền miên, Chí chính thức trở thành tay sai cho Bá Kiến, đòi nợ, chém giết thuê. Bất cứ việc gì Bá Kiến sai Chí đều thực hiện. Có lẽ cuộc đời của Chí sẽ chấm dứt từ đây, từ giờ cho đến lúc chết Chí Phèo chỉ còn là tay sai của Bá Kiến, của xã hội thực dân.
Nam Cao khác so với những nhà văn trước đó là ở chỗ ông đã chỉ ra con đường người nông dân bị lưu manh hóa. Các tác phẩm trước mới chỉ miêu tả đời sống bí bách, túng quẫn bị đẩy đến bước đường cùng của người nông dân (Tắt đèn – Ngô Tất Tố; Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan). Còn Nam Cao đã tiến một bước xa hơn: ông khẳng định bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng vốn có của họ, đồng thời nêu lên nguyên nhân, con đường tha hóa chính là do nhà tù thực dân, bọn cường hào ác bá đã nhào nặn những người nông dân lương thiện trở thành những con quỷ dữ, bị cả xã hội xua đuổi.
Nhưng cái hay trong tác phẩm Nam Cao chính là liên tục tạo ra những khúc rẽ, những biến cố giúp thúc đẩy câu chuyện phát triển. Cuộc đời Chí tưởng rằng sẽ chìm trong bế tắc, sẽ mãi mãi không nhận ra kẻ thù của mình cho đến ngày Chí gặp thị Nở. Thị Nở xuất hiện như một luồng gió mới đến với cuộc đời chí Phèo. Sáng hôm sau, Chí nằm một mình trong lều, trận cảm đã làm hắn yếu đi nhiều, đây cũng là cơ hội để hắn cảm nhận cuộc sống xung quanh. Hắn nghe những âm thanh quen thuộc của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người ta đi chợ và hắn chợt thấy nhớ về ngày xưa, về những mơ ước rất đỗi dung dị của mình. Nhìn lại thực tại hắn chẳng có gì ngoài những vết sẹo chằng chịt trên mặt, nhận ra mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Trong dòng suy nghĩ miên man, Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay. Lần đầu tiên trong cuộc đời chỉ có chém giết và ăn vạ chị được người ta cho bát cháo hành, chí đường người ta yêu thương, quan tâm, chăm sóc. Đây cũng là lần đầu Chí thấy cháo hành ngon đến vậy “những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon. Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo hành?”. Câu hỏi ấy vang lên làm ta không khỏi nhức nhối, thương cảm cho số phận của Chí. Hắn cầm bát cháo Thị Nở cho bằng đôi mắt thật hiền, cảm động, đôi mắt hắn ươn ướt vì sự biết ơn. Cùng với năm ngày chung sống cùng thị Nở trong hắn lại trỗi dậy khao khát về một cuộc sống khác, hắn khao khát được làm hòa với mọi người biết bao. Mong mỏi được làm người lương thiện, nhân tính trong Chí đã trở về: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Năm ngày đó như ánh nắng rực rỡ làm bừng sáng quãng đời đen tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ người ta thấy một thằng chuyên rạch mặt ăn vạ lại hiền lành đến vậy, hắn cố uống rượu cho thật ít, để tỉnh tạo tận hưởng hạnh phúc, để được say trong men tình. Lần đầu tiên sau khi ở tù về Chí Phèo mới có lại mục đích và lí tưởng sống. Đó là những mong ước giản dị mà bất cứ ai cũng nâng niu, trân trọng.
Nhưng cuộc đời Chí Phèo vẫn chưa thoát khỏi những bi kịch. Thị Nở từ người cứu vớt lại trở thành người chối tự quyền làm người và hạnh phúc của Chí Phèo, chỉ vì bà cô không cho phép lấy một kẻ chỉ có chuyên đi rạch mặt ăn vạ. Bà cô chính là đại diện cho những hủ tục của xã hội đương thời, đẩy Chí đến bi kịch của sự tuyệt vọng. Chí Phèo uống, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng nhận ra số phận nghiệt ngã của bản thân. Chí xách dao định tìm đến nhà Thị Nở để giết cả nhà “nó”, nhưng bước chân lại hướng về nhà Bá Kiến. Chí Phèo dõng dạc đòi lương thiện, nhưng bản thân hiểu rõ: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể làm người lương thiện nữa?” Và hắn rút dao giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cái chết của cả hai quá đỗi bất ngờ. Chí giết kẻ thù của mình, kẻ cướp đi người nông dân lương thiện, và tự giết chết thân xác của một thằng tha hóa, giữ lại cho mình phẩm chất lương thiện. Cái chết của Chí Phèo là hệ quả tất yếu nhưng cũng không khỏi làm cho ta thương xót, đồng cảm.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một người nông dân chất phác, lương thiện nhưng bị đẩy đến bước đường tha hóa phải tìm đến cái chết để khôi phục danh dự. Đồng thời với nhân vật Chí Phèo tác giả cũng lên án, tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến độc ác, bất nhân đẩy con đường đến bước đường cùng. Không chỉ vậy, ông còn thể hiện cái nhìn tin yêu vào bản chất lương thiện của những người nông dân.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 23)
Nam Cao là cây bút xuất sắc viết về đề tài người nông dân trong đó “Chí Phèo” xứng đáng là một kiệt tác. Nhân vật chính cùng tên với tác phẩm là một kẻ lưu manh tha hóa nhưng sâu thẳm trong bản chất lại là người lương thiện. Chí Phèo là hình tượng nhân vật độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam hiện lên với ngoại hình, tính cách và tâm lí để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Viết về người nông dân Nam Cao thường chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm họ càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp tàn nhẫn, bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị đày đọa vào cảnh nghèo đói cùng đường và Chí Phèo chính là một trong những nhân vật tiêu biểu đại diện cho số phận người nông dân Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo được tác giả Nam Cao khắc họa với ấn tượng đầu tiên mở đầu cho tác phẩm là tiếng chửi hé mở cho người đọc thấy sự bất hạnh của nhân vật. “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi” Chí Phèo chửi ai? Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng trời có hề gì, đời chẳng là ai, cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ “Chắc nó trừ mình ra”, rồi hắn chửi cha mẹ đứa nào không chửi nhau với hắn, chửi chết mẹ đứa nào đẻ ra hắn nhưng cũng không ai đáp lời ngoài mấy con chó. Đối tượng chửi của Chí Phèo cứ thế thu hẹp phạm vi dần. Tiếng chửi ấy cho thấy sự bế tắc và tuyệt vọng nơi Chí. Lúc say cũng là lúc tỉnh táo nhất, không phải hắn hửi trong men rượu mà chửi rất tỉnh. Bởi Chí có tỉnh mới chọn đối tượng chửi logic và thấm thía nỗi thống khổ của bản thân mình. Chí bị cô lập, bị mọi người khinh rẻ, né tránh nếu có ai chửi nhau cùng hắn thì đó còn được gọi là giao tiếp dù cho chẳng hay ho gì nhưng có còn hơn không. Tuy nhiên hiện thực nghiệt ngã và đi ngược lại với mong muốn của hắn cả dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi Chí là người, tuyệt nhiên không một ai thu nhận hắn vào xã hội chung mà coi hắn là con quỷ dữ.
Chí Phèo là thằng lưu manh tha hóa bị mất hết nhân hình và nhân tính. Về ngoại hình Nam Cao khắc họa hắn “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết”. Dưới ngòi bút của Nam Cao Chí Phèo hiện lên với vẻ bề ngoài đúng chất thằng đầu bò, lưu manh, côn đồ khiến cho mọi người đều xa lánh hắn. Chí không còn là anh canh điền hiền lành giờ đây nhân tính của hắn cũng đã bị biến dạng méo mó. Vừa về làng hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều, say xỉn rồi xách vỏ chai đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ để đòi lại danh dự và nhân phẩm đã bị cụ Bá tước đoạt.
Năm ấy nếu không phải Bá Kiến là kẻ đã đẩy Chí vào tù vì sự ghen tuông vô cớ với Chí Phèo về bà ba thì có lẽ bây giờ hắn không thành ra như vậy. Lần thứ hai hắn đến nhà cụ bá với vẻ mặt hiền lành gãi đầu gãi tai đòi đi ở tù, xin cụ cho vào tù sống nhưng thực chất là đòi miếng cơm tấc đất để mưu sinh. Đây là một nhu cầu chính đáng nhưng một lần nữa Bá Kiến lợi dụng nó để biến Chí thành tay sai, tên đòi nợ thuê cho hắn. Như vậy chế độ hà khắc của nhà tù phong kiến thực dân đã biến Chí Phèo từ một người hiền lành thành kẻ lưu manh, nay trở về để cho thế lực hắc ám như Bá Kiến hoàn thành nốt công đoạn cuối cùng biến Chí thành con quỷ dữ sống với kiếp thú vật độc ác.
Chí kể từ đó trượt dài trên cái dốc tha hóa, chìm đắm trong men say triền miên “Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo để nhớ rằng hắn có mặt ở đời”. Hắn là con quỷ dữ ở làng Vũ Đại “phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện” Chí Phèo đích thị đã không còn là người nữa hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người ta sai bảo trong lúc hắn say. Hắn mưu sinh chỉ bằng một nghề cướp của giết người, rạch mặt ăn vạ cuộc đời của một con người nhưng lại đội lốt quỷ ác.
Chí Phèo sau bảy tám năm đi biệt bỗng hắn trở về làng sống trong những ngày tháng đen tối, sống không bằng đã chết, thân hình bị biến dạng, nhân tính bị bóp méo, linh hồn bị quỷ dữ cướp mất. Chí bị đẩy đến tận đáy cùng của xã hội, rơi vào tình cảnh bi thảm. Chắc hẳn Nam Cao cũng rất đau lòng khi buộc phải để cho nhân vật của mình chịu đựng biết bao bất hạnh, đắng cay nghiệt ngã nhưng tránh sao được hiện thực khắc nghiệt. Hoàn cảnh Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Bản chất của người nông dân là hiền lành, lương thiện và cam chịu nhưng khi bị chèn ép đến đường cùng họ buộc phải vùng dậy đấu tranh đòi quyền sống. Chí Phèo cũng vậy bản chất thật sự con người hắn là lương thiện. Điều đó được thể hiện trước đây hắn là anh canh điền chất phác, vốn hiền lành và có lòng tự trọng. Khi hắn bị bà ba vợ thứ ba của Bá Kiến bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa “hắn thấy nhục hơn là thích”, “hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Chí có nhân cách của người bình thường khi phải làm một việc không chính đáng hắn cũng biết lo sợ, biết run, biết là mình bị xúc phạm đến lòng tự trọng. Ngày xưa ấy hắn cũng đã từng có một thời mơ ước cuộc sống bình dị về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Anh Chí ngày ấy hiền như cục đất, bản tính đáng được yêu thương và trân trọng nhưng hiện thực đã đẩy anh đến đường cùng.
Con người lương thiện trong Chí thực sự trỗi dậy mạnh mẽ khi gặp thị Nở cảm nhận được tình người trong bát cháo hành và tình cảm chân thành của thị hắn muốn hoàn lương, muốn sống đúng nghĩa là con người. Hắn đã ngạc nhiên và cảm động biết bao trước hành động ân cần, săn sóc của thị. Lần đầu tiên giọt nước mắt tình người chảy ra, trái tim sắt đá bao năm nay được yêu thương trở lại. “Hắn thèm lương thiện hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được”. Hắn khao khát được hòa nhập với mọi người, hắn đặt niềm tin vào thị, hắn tin thị có thể giúp mình. Nhưng bi kịch một lần nữa lại ập đến Chí Phèo sau năm ngày sống hạnh phúc với thị tưởng chừng sóng gió đã ngừng vậy mà Chí lại bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô thị Nở cũng như của toàn xã hội. Chí Phèo không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết ám ảnh với tiếng kêu đòi làm người lương thiện thống thiết trong khổ đau “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí đã thực sự thức tỉnh và hồi sinh để nhận thức giá trị bản thân. Bản chất lương thiện trong người Chí không bị mất đi mà chỉ bị khuất lấp chỉ cần có cơ hội là trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Chi tiết ấy cho thấy nét độc đáo riêng biệt: “Khi miêu tả người nông dân bị lưu manh hóa, Nam Cao không hề bôi nhọ nông dân mà trái lại đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện ra và khẳng định nhân phẩm của họ, ngay khi trong họ bị xã hội cướp đi cả nhân hình, nhân tính”.
Chí Phèo là nhân vật đại diện cho người nông dân Việt Nam sống trong chế độ phong kiến nửa thuộc địa tàn ác. Nhân vật Chí Phèo được khắc họa rất sinh động với lối trần thuật linh hoạt giọng điệu của tác giả và các nhân vật khác được đan xen, phối hợp với nhau, nghệ thuật điển hình hóa nhân vật được sử dụng thành công làm nên một nhân vật Chí Phèo có một không hai trong lịch sử văn học, khái quát được cả một hiện tượng trở thành quy luật xã hội: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”
Như vậy bằng tài năng của nhà văn chân chính, Nam Cao đã để lại cho nền văn học dân tộc một kiệt tác nghệ thuật và một hình tượng nhân vật độc đáo. Trang văn đã khép lại nhưng tiếng kêu thống thiết của Chí vẫn khiến cho độc giả phải suy tư, trăn trở về bản chất tốt đẹp trong con người.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 24)
Với tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 cùng với những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Có thể nói cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, đặc biệt là trong thể loại truyện ngắn thì “Chí Phèo” đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Có thể nói rằng Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Nhân vật Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Hoàn cảnh éo le không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Trong khoảng thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Và cũng như biết bao nông dân nghèo khác, Chí đã từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Nếu làm ăn khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một con người rất lành rồi cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được nữa.
Có ai ngờ đâu một anh canh điền chất phác đến thật thà ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy anh Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng có thể nói nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Khi ra tù, Chí như đã biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Có thể nói chính nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Khi mà Chí Phèo trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm rõ được quy luật khắt khe của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Hắn dường như đã hiểu và biết rằng phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay cường hào, thâm độc.
Và với nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã bị sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa mà không thể nào gượng đứng lên được, càng lúc càng lún sâu xuống đáy. Cũng có lẽ rằng hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp của mọi người, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Và vô tình hắn cũng đã đập nát tất cả những gì thuộc về tư cách của một con người trong hắn. Tất cả dân làng Vũ Đại đều quay lưng lại với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta rất sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt của một con thú dữ, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Có thể nói sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Dường như đã đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo luôn luôn bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn như vẫn còn le lói đâu đó ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Có thể nói đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say triền miên, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi, và sau đó lại cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Cho đến cuối cùng thì chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại mà thôi, ai cũng đều xa lánh và sợ hãi.
Những khi hắn tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt và bất ngờ với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã làm hồi sinh lại cho Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn - một tên Chí Phèo tha hóa kia lại sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng lúc này đây thì cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng hạnh phúc, thì giờ đây Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn đã thực sự muốn làm người trở lại, muốn làm người lương thiện nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Có thể nói để giành lại sự sống cho tâm hồn, thì Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo’, Nam Cao đã thực sự đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 25)
Nhà văn Nam Cao là một nhà văn tên tuổi có vị trí quan trọng trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Việc xây dựng nhân vật vô cùng đặc sắc điển hình tạo nên sự thành công trong sự nghiệp của Nam Cao đó chính là nhân vật Chí Phèo.
Với tác phẩm "Chí Phèo" tác giả Nam Cao xứng đáng với tên tuổi nổi bật của mình trong nền văn học nước nhà. Bởi nói tới nỗi khổ của người nông dân thì nhiều nhà văn đã thành công với nhiều tác phẩm nổi tiếng như tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố.
Chí Phèo là một thanh niên bản tính hiền lành, lương thiện, nhưng chính xã hội phong kiến, tầng lớp bóc lột của xã hội cũ đã chà đạp, xô đẩy cuộc đời Chí Phèo tới chân tường, không lối thoát, đánh mất giá trị con người mình, mất đi tính lương thiện vốn có của người nông dân hiền lành chất phác.
Nhân vật Chí Phèo khổ từ khi mới sinh ra, bởi anh là đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong chiếc lò gạch cũ. Rồi may mắn được bác phó cối nhặt về nuôi dưỡng thương yêu như con của mình. Nhưng chỉ được vài năm thì bác phó cối chết đi, Chí Phèo lang thang đi ở đợ cho hết nhà này tới nhà khác kiếm miếng ăn.
Năm mười mấy tuổi Chí Phèo đi làm canh điền cho gia đình giàu có quyền lực nhất làng Vũ Đại chính là nhà Bá Kiến. Chí Phèo được tiếng là hiền lành chăm chỉ như cục đất suốt ngày chỉ biết làm việc mà thôi. Dù không được học hành nhiều nhưng Chí Phèo hiểu thế nào là đúng sai, phải trái. Trong nhà Bá Kiến có bà Ba thường xuyên bắt Chí Phèo lên hầu hạ bóp chân, đấm lưng, bà ba còn trẻ nên có nhiều mong muốn trong vấn đề tình cảm, nhưng lão Bá Kiến thì già rồi nên không thể chiều bà thường xuyên được. Bà ba vợ lão Bá Kiến để mắt tới Chí Phèo, Chí Phèo biết và lão Bá Kiến biết.
Những lúc như vậy, Chí Phèo cảm thấy nhục chứ chẳng vui vẻ gì. Lão Bá Kiến thì sinh ghen tuông vô cớ với Chí Phèo rồi lão âm mưu vu vạ, cho Chí Phèo tội ăn cắp đẩy anh vào tù chừng bảy, tám năm gì đó tưởng đâu Chí Phèo đã chết mất mạng trong tù rồi chẳng ai còn nhớ tới anh nữa.
Chính những thời gian bị ngồi tù oan đã biến Chí Phèo từ con người hiền lành lương thiện trở một kẻ bị lưu manh hóa, đánh mất tính lương thiện trong mình. Khi mãn hạn tù trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã biến thành một người hoàn toàn khác với trước kia, một tên giang hồ thật sự, răng cạo trắng ởn, đầu trọc lốc, ai nhìn thấy hắn cũng lảng tránh. Hắn đã trở thành tay sai cho Bá Kiến trong những việc đánh đấm đòi nợ thuê. Cuộc đời Chí Phèo từ khi ra tù về hắn triền miên trong những cơn say rượu, hết rượu, hết tiền hắn cướp để có tiền tiếp tục mua rượu uống. Hắn thật sự đã biến chất trở thành nỗi khiếp sợ của những người dân hiền lành lương thiện.
Khi xây dựng nhân vật Chí Phèo có lẽ Nam Cao đã phản ánh vô cùng sống động, chân thực cuộc sống của xã hội cũ, những người nông dân bị bần cùng, hủy hoại về tâm hồn vì sự nghèo khổ áp bức, tới cùng quẫn. Nhân vật Chí Phèo bị sa lầy trong vũng bùn của sự xuống cấp đạo đức, tha hóa lòng nhân hậu sự lương thiện. Nhưng chính Bá Kiến và xã hội lúc đó là nguyên nhân xô đẩy Chí Phèo tới bước đường đó. Sự tha hóa của Chí Phèo đã tố cáo tội ác dã man của xã hội phong kiến đã chà đạp lên nhân cách số phận của người nông dân, khiến cho người nông dân đánh mất nhân cách, tính thiện lương trong con người mình.
Càng đi sâu vào những bi kịch của người nông dân trước khi cách mạng tháng Tám xảy ra Nam Cao càng nhận ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong vẻ ngoài xù xì gai góc của họ. Mỗi người nông dân đều có nội tâm phong phú sâu sắc. Chí Phèo là một con người lương thiện, bản chất hiền lành nhưng chính xã hội đó đã tước đi quyền làm người lương thiện của Chí Phèo.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở là một cuộc gặp gỡ định mệnh, chính bát cháo hành của Thị Nở khi Chí Phèo ốm đã cứu vớt linh hồn con người của anh. Chí Phèo cảm thấy một cảm giác khó tả anh mong ước mơ hồ nhớ về nguyện vọng ước mơ của mình ngày xưa. Khi muốn có một mái ấm gia đình, vợ làm việc vợ, chồng làm việc chồng cùng nhau sum vầy sớm tối bên nhau.
Lần đầu tiên sau nhiều năm Chí Phèo tỉnh rượu hắn mơ hồ nhận thấy sự cô đơn của cuộc đời mình. Chí Phèo muốn có gia đình nhưng cánh cửa trở về làm người lương thiện đang mở ra bỗng đóng sầm trước mắt Chí Phèo. Khi bà cô ruột của Thị Nở không cho Thị Nở qua lại với anh, chê anh là thằng không cha không mẹ, thằng chuyên làm nghề rạch mặt ăn vạ…
Chí Phèo hận lắm, anh cảm thấy mình chẳng còn gì để mất cả anh muốn trả thù. Anh sẽ tìm tới bà cô Thị Nở cho bà ta một bài học, nhưng bàn chân của Chí Phèo lại đưa anh tới nhà lão Bá Kiến bởi trong tiềm thức Chí Phèo hiểu rằng mình trở nên mất lương thiện, mất tính người đi tới bước đường này đều do lão Bá Kiến gây ra. Câu hỏi Chí Phèo hỏi lão Bá Kiến khiến người đọc vô cùng xúc động "Ai cho tao lương thiện?" đó là câu hỏi thấm thía sâu sắc thể hiện sự đồng cảm của tác giả Nam Cao với đứa con tinh thần của mình.
Câu chuyện khép lại để lại trong lòng bạn đọc nhiều ám ảnh day dứt trong lòng người đọc về cuộc đời số phận của nhân vật Chí Phèo một con người đáng thương hơn đáng giận, một số phận bị bần cùng lưu manh hóa nhưng thực chất trong con người anh ta sự lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều nó bị xã hội phong kiến chà đạp lên mà thôi.
Truyện ngắn "Chí Phèo" với cốt truyện độc đáo, thể hiện sự nhân văn, nhân đạo của Nam Cao khi đi sâu khai thác nội tâm bên trong con người lao động thể hiện một cây bút lão luyện thiên tài của nền văn học hiện thực. Chí Phèo thật sự là một tác phẩm kinh điển của nền văn học hiện thực nước ta cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ độc đáo hơn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 26)
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nói lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn để Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bởi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ẩn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hẳn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu để hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khổ đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khổ và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đến cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thể quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình. Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là để khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thể đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với cường hào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Song, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thể bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chẳng khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lợn”.
Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?”. Những âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thể làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có để nâng niu và thấy trân trọng nó hơn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 27)
Nam Cao được mệnh danh là nhà văn của nền văn học hiện thực, ông sáng tác các tác phẩm chủ yếu viết về người nông dân Việt Nam, đây là tác phẩm để lại cho người đọc nhiều cảm xúc khi viết về một hiện thực đó là người nông dân bị bần cùng hóa trước cách mạng tháng tám.
Nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao là nhân vật phải chịu nhiều đắng cay, cực khổ do xã hội gây nên, họ bị bần cùng hóa về con người và tính cách, như Chí Phèo là một nhân vật như thế, Chí đã phải chịu đựng những bần cùng do xã hội gây nên, từ một nhân vật hiền lành, chất phác, đi làm thuê để lấy tiền sinh sống, khó khăn khi đi làm thuê nhà Bá Kiến nhưng lại bị người nhà này hành hạ, và biến chí thành một con người ác, người nông dân lương thiện, nhưng lại bị xã hội tha hóa, khi đọc tác phẩm, chắc hẳn không ai không có một thái độ xót thương và có thái độ cảm thông cho nhân vật này.
Chí đã phải chịu đựng nhiều khó khăn, và vất vả, xuất thân đã không giống như những người bình thường khác, bị bỏ rơi trong lò gạch cũ, chí phải chịu đựng từ nhỏ, không được ai chăm sóc, nuôi dạy, và rồi chí đã trở thành một người nông dân muốn sống bằng chính sức lao động của mình, nhưng lại không được, bởi Chí Phèo đang phải chịu đựng những cảnh cơ cực của sự đàn áp, bị tha hóa về con người và cả về tính cách của nhân vật.
Ở đây nhân vật Chí vừa là biểu hiện của cá nhân khi bị người khác áp bức bóc lột, mà nó còn biểu hiện cho cả một tầng lớp, luôn bị đàn áp cả về tinh thần lẫn thể xác, sự cơ cực đó đã biến chí từ lương thiện trở thành người không có nhân tính. Chí đã làm thuê với chính sức lao động của mình, nhưng rồi bao nhiêu công lao, mà Chí phèo cố gắng lại bị chính những con người có quyền lực trong tay đàn áp, đó là những con người, xấu xa, họ đại diện cho thế lực cầm quyền cho xã hội, chính những con người đấy đã làm tụt lùi đi chính xã hội của chúng ta, mỗi người chúng ta đều có thể thấy người nông dân phải chịu đựng rất nhiều những bất công.
Họ đàn áp, áp bức bóc lột sức lao động của con người, biến người nông dân thành những công cụ để họ có thể thực hiện mục đích của mình, chí đã là con người như thế, chí bị tha hóa và trở thành con người tàn ác, Chí bị nhà Bá kiến đưa vào tù, từ đây chí biến thành con người hoàn toàn khác, Chí bị tha hóa về đạo đức cũng như con người, tất cả những điều đó đã ảnh hưởng xấu đến toàn xã hội, không chỉ Chí mà còn rất nhiều những người nông dân cũng rơi vào tình trạng như thế này, nhưng chí là một nhân vật đại diện và điển hình.
Chí rơi vào con đường bị tha hóa, thể xác đau khổ, tâm hồn như bị xé ra hàng trăm mảnh, với những đau đớn đó mà Chí đã rơi vào vòng pháp luật, Chí bị tha hóa khi trong tù, và chính bọn quyền lực đã đưa Chí trở thành một con người như thế này. Chí đã bị tha hóa tính cách do tính chất khắc nghiệt của xã hội, những điều đó làm cho cuộc đời của Chí lâm vào nhiều những lâm ly bi đát hơn. Chí đi tù và phải chịu những đàn áp của bọn cai trị, đặc biệt cái đói, cái khổ, nó cũng đang ám ảnh và bao vây lấy cuộc đời của Chí, Chí là một người nông dân vốn dĩ rất lương thiện, nhưng chỉ một cơn gió độc thổi vào làm cho cuộc đời của Chí chịu đựng rất nhiều những khó khăn, và tha hóa tính cách của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Chí phèo là đại diện của người nông dân để đấu tranh và tố cáo những thế lực tàn ác, luôn che khuất mắt Chí, tác giả đã thể hiện một hiện thực vô cùng nghiệt ngã, đó là bản ngã của con người trong cuộc sống, Chí đã thể hiện được tư tưởng của chính tác giả, khi sử dụng trong tác phẩm, Chí Phèo là hình tượng trung tâm của tác phẩm, đây là một hình tượng để tố cáo tội ác của thế lực cầm quyền trong xã hội phong kiến. Nhưng rồi nhờ có tấm lòng nhân đạo của tác giả, mà Chí được sống những tháng ngày hạnh phúc khi Thị Nở xuất hiện, hoàn cảnh họ gặp nhau cũng vô cùng, vào một hôm trăng thanh gió mát, hai người gặp nhau bên vườn chuối, chỉ với một hình ảnh éo le như thế này mà hai người nảy sinh tình cảm với nhau, tình cảm đó làm ấm lên tình người trong con người Chí, đây quả thực là một hoàn cảnh thể hiện tình cảm vô cùng chặt chẽ và nó mang đậm giá trị trong chính tác phẩm, với sự thể hiện đầy táo bạo, tác giả đã thổi ấm lên tình người vào Chí, làm cho Chí thức tỉnh, có thể nói, Chí đã trở nên nhân đạo và có tình người hơn, khi gặp Chí, trước thì Chí chửi đời, chửi đất, chửi người đã sinh ra hắn, nhưng nay Chí lại muốn trở thành một con người lương thiện.
Chí đã từng nói: “ Ai cho ta lương thiện”. Tất cả đang thể hiện những ước nguyện của Chí để mong muốn mình trở thành một con người bình thường. Cuộc đời của Chí cũng phải trải qua rất nhiều thăng trầm, từ một người nông dân hiền lành chất phác, nay lại trở thành một con quỷ dữ, hắn gặp ai cũng chửi, nhưng mọi người xung quanh không ai quan tâm đến hắn, họ đều nghĩ, hắn chửi nhưng trừ mình ra, và Chí còn chửi những người không chửi nhau với hắn. Đây là những chi tiết thể hiện Chí Phèo đang bị xã hội này tha hóa đi bản chất, của một con người lương thiện, hiền lành.
Chí là nhân vật được tác giả xây dựng để tố cáo xã hội phong kiến tàn ác, họ đang tha hóa và dồn con người hiền lành trở thành những con ác quỷ, tác giả đã thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình khi để Chí gặp Thị Nở và qua nhân vật này tác giả cũng thể hiện một sự tố cáo sâu sắc đối với chính những nhân vật được xây dựng trong tác phẩm.
Tác phẩm đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có hai giá trị nổi bật đó là giá trị nhân đạo, và sự tố cáo sâu sắc đối với xã hội phong kiến.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 28)
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.
– Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất.nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu.
Chí Phèo ngạc nhiên,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiến, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 29)
Nam Cao là một trong những cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. "Chí Phèo" là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao viết về những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm vừa là tiếng nói của những người nông dân vừa là bản tố cáo xã hội lúc bấy giờ đã chà đạp lên quyền sống của con người.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã để cho nhân vật của mình xuất hiện vô cùng ấn tượng: "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Tiếng chửi của Chí dường như đã trở thành một thói quen. Tiếng chửi khiến nhân vật của Nam Cao bỗng nhiên trở thành sự tò mò lớn với người đọc. Cuộc đời Chí rốt cuộc đã trải qua bao nhiêu phần cay đắng để phải trút ra những tiếng chửi không của riêng ai như vậy?
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ không cha, không mẹ. Hắn bị chính người sinh ra hắn bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng. Hắn không được cha mẹ mình thừa nhận, chào đón rồi bị vứt bỏ tại cái lò gạch cũ. Hắn được hết người này đến người khác nhặt nuôi. Ban đầu được một người đi thả ống lươn nhặt về nuôi, sau đó là một goá phụ rồi lại đến tay bác phó cối. Rồi cuối cùng Chí lại trở thành đứa trẻ không nơi nương tựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí phần nào đó thể hiện cuộc sống khó khăn của những kiếp người phải đi ở đợ, lam lũ, vất vả trước cách mạng tháng Tám. Mãi cho đến khi mười tám tuổi, Chí vào làm ở nhà Bá Kiến với mong muốn kiếm được bữa cơm sống qua ngày. Chí vốn là con người chân chất, mộc mạc nhưng cái bản chất tốt đẹp đó lại bị chính cái xã hội mà Chí đang sống hủy hoại. Chí đã bị Bá Kiến đẩy vào tù vì cái tính hay ghen của lão khi thấy vợ mình hằng ngày sai Chí bóp chân cho bà. Giống như chị Dậu cầm đống giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, xấu xa, như Lão Hạc đã tìm đến cái chết vì lòng tự trọng của mình, Chí không hề bị khuất phục trước những lời ngon ngọt của bà ba. Nhưng xã hội đó đâu có chỗ cho những người lương thiện. Nhà tù thực dân vô tình đã tiếp tay cho Bá Kiến cướp đi sự lương thiện của Chí.
Bảy, tám năm sau, ra tù, Chí quay trở về làng Vũ Đại. Lúc này Chí không còn là anh nông dân thật thà, chân chất ngày xưa nữa mà đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại với cái "đầu thì trọc lốc", "răng cạo trắng hớn", "trông gớm chết", khắp người thì xăm những hình thù quái dị. Nam Cao đã phải sử dụng đến từ "ghê chết" để miêu tả dáng vẻ Chí lúc này. Thậm chí tính khí lưu manh còn được thể hiện rất rõ qua từng hành động của Chí. Từ hành động rạch mặt ăn vạ, đến đốt quán khi không mua được rượu và đỉnh điểm là khi Chí trở thành tay sai, thành công cụ của Bá Kiến. Chỉ với vài đồng bạc mà Bá Kiến đưa cho Chí càng ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Cái mới của "Chí Phèo" chính là ở điểm này. Thay vì phân tích, tái hiện cuộc sống khốn khổ của những người nông dân, Nam Cao đã khám phá, phát hiện và đi sâu vào con đường lưu manh hoá của những người nông dân vốn bình dị, thật thà nhưng xã hội đã biến họ thành những kẻ tàn ác. Bằng lối viết sắc sảo, chỉ thông qua quá trình tha hoá của Chí, quá trình từ một người lương thiện biến thành một kẻ lưu manh, Nam Cao đã gián tiếp vạch trần được cái bộ mặt tàn ác, xấu xa của xã hội bấy giờ.
Rồi Chí gặp Nở. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo với Thị Nở đã thay đổi cuộc đời Chí. Người ta ví Thị Nở giống như một ánh trăng dịu êm của cuộc đời Chí. Sự quan tâm của Thị, tình thương của Thị đã đánh thức trong Chí ham muốn được làm người lương thiện. Buổi sáng hôm ấy cũng như bao buổi sáng bình thường khác mà thôi nhưng đó là lần đầu tiên Chí nghe được những âm thanh trong trẻo của cuộc sống hằng ngày, từ tiếng chim hót cho đến tiếng hỏi nhau của các bà, các cô đi chợ về. Chí nhớ về niềm mong ước có một gia đình nhỏ, nuôi thêm con gà, trồng thêm cái cây... sống hạnh phúc qua ngày. Thì ra Chí cũng có những phút giây "người" đến thế! Đỉnh điểm nhất là bát cháo hành của Thị đã khiến Chí "mắt ươn ướt" rồi "cười thật hiền". Thị khiến Chí - một kẻ chỉ biết sống qua ngày chợt nghĩ về tương lai, hy vọng về một gia đình hạnh phúc. Rồi Chí khóc. Giọt nước mắt của một con quỷ dữ khiến Thị bất ngờ, thầm nghĩ: "có lúc hắn hiền như đất". Rồi Chí ngỏ ý muốn Thị về ở với Chí. Nhờ có Thị, Chí khao khát muốn được trở về cuộc sống lương thiện trước đây, cùng Thị vun vén hạnh phúc.
Đây được coi như những trang viết làm bừng sáng cuộc đời Chí. Từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói của Chí đều khiến người đọc vô cùng cảm động. Mong ước giản dị của Chí lại đến từ chính người đàn bà bị cả xã hội xa lánh, nó khiến độc giả phải giật mình suy nghĩ, trân trọng hơn hạnh phúc mà mình đang có.
Chúng ta cũng tưởng rằng đến đây cuộc đời Chí có thể bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Chí bị Thị từ chối bởi bà cô của Thị không cho phép ả lấy một ông chồng chỉ biết "rạch mặt ăn vạ", lấy một kẻ "đòi nợ thuê". Cái nhìn của bà cô dành cho Chí cũng là cái nhìn mà xã hội phong kiến bấy giờ nhìn Chí. Không ai nhìn ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận Chí. Lần thứ hai Chí khóc, khóc vì tiếp tục quay lại những tháng ngày bi kịch. Chí quay trở lại với những chén rượu, những câu chửi rủa. Cuộc đời Chí lại là những tháng ngày không lối thoát. Rồi Chí đến tìm Bá Kiến. Chí đến nhà bá Kiến trong trạng thái nửa tỉnh, nửa say. Miệng lúc nào cũng chửi rủa đòi giết "con khọm già" nhà Thị nhưng lại ý thức được rằng đến nhà Bá Kiến để đòi "làm người lương thiện". Sau tất cả, Chí đã cảm nhận được những bế tắc, tuyệt vọng của cuộc đời mình. "Ai cho tôi làm người lương thiện?", câu hỏi mà hắn không thể tìm được lời giải đáp nhưng xót xa hơn cũng không ai có thể trả lời được câu hỏi đó. Rồi hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
Câu hỏi của Chí, cái chết của hắn cùng đứa con sắp chào đời trong bụng Nở đã khép lại câu chuyện trong sự day dứt của tất cả mọi người. Cái chết của Chí chính là bản tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát lúc bấy giờ. Chí chọn cái chết như một sự giải thoát cho chính mình bởi đấy là cách giải thoát duy nhất cho Chí trong cái xã hội bấy giờ. Cái chết của Chí cũng là niềm tin mà Nam Cao dành cho nhân vật của mình, dành cho những con người khó khăn lúc bấy giờ. Như vậy, qua từng chi tiết truyện, Nam Cao đã chỉ ra được các nguyên nhân đẩy Chí vào con đường tha hoá. Chí rơi vào con đường lưu manh không lối thoát một phần là do xã hội bấy giờ đã cướp đi quyền làm người của Chí, một phần là do chính những người nông dân cùng cảnh ngộ đã chối bỏ Chí, không cho Chí con đường quay trở lại.
"Chí Phèo" khép lại nhưng hình tượng nhân vật Chí Phèo thì vẫn luôn sống mãi trong tâm trí độc giả. Nó đã làm nên một màu sắc rất riêng trong kho tàng truyện viết về người nông dân.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 30)
Nhắc đến văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, không thể không nhắc đến "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao. Dưới ngòi bút chân thực, sắc sảo của Nam Cao, "Chí Phèo" đã trở thành tác phẩm có thể "làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời". Trong tác phẩm kinh điển ấy, Nam Cao đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Chí Phèo - một nhân vật điển hình. Qua đó, gửi gắm giá trị nhân đạo và hiện thực vô cùng sâu sắc.
Hình tượng Chí Phèo được xây dựng với số phận chồng chất bi kịch. Nhưng dù bị tha hóa biến chất vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn, vẫn khát khao được sống làm người lương thiện. Cuộc đời Chí Phèo là những chuỗi dài bi kịch, khổ đau. Đó là cuộc đời của một người nông dân khốn khổ cùng cực bị, bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi. Bi kịch đến mức sinh ra là con người, nhưng lại bị cự tuyệt quyền làm người.
Bi kịch ấy bắt nguồn ngay từ khi Chí Phèo xuất hiện. Không cha không mẹ, Chí Phèo sinh ra "trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không". Anh thả ống lươn nhìn thấy, "rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù". Sau đó lưu lạc bị đem bán cho bác phó cối. Từ lúc bắt đầu sự sống, Chí đã bơ vơ, không gia đình, không người thân, không nơi nương tựa, vật lộn với cuộc sống mà trưởng thành. Gần hai mươi năm, Chí Phèo lưu lạc, "hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ". Đến năm 20 tuổi thì làm canh điền cho Lí Kiến.
Là người nông dân không một tấc đất cắm dùi, sống kiếp làm thuê ở đợ. Bi kịch vẫn không buông tha cho kẻ đã đầy bất hạnh. Chỉ vì một hồi ghen tuông vô lí, Chí Phèo bị Lí Kiến đẩy vào tù. Một lần này mất trọn 8 năm. Để rồi 8 năm sau, nhà tù thực dân nhận vào một anh canh điền hiền lành, chất phác. Trả lại một tên lưu manh, một con quỷ dữ cho làng Vũ Đại.
Nhà tù tối tăm u ám ấy đã hủy hoại cả nhân hình của một con người. Chí Phèo đi "biệt tăm", bỗng "lù lù lần về" với "cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết". Trên người chỉ độc quần nái đen, cái áo tây vàng, ngực và tay chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy... Chí Phèo từ nhà tù trở ra đã mang trên mình ngoại hình đầy dữ tợn. Không dừng lại ở đó, hành động và tính cách của Chí cũng thay đổi. Chí nồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt, Chí xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi "mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất", đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ. Đây có lẽ là thay đổi cả làng Vũ Đại không ai ngờ đến được, dữ dội và tha hóa.
Những ngày sau đó, Chí Phèo vẫn vô cùng ngang ngược và dữ dội. Chí nhận ra Bá Kiến chính là kẻ đã đẩy mình đến bước đường này. Nhưng, không được bao lâu, thủ đoạn của kẻ được xưng "Bá Kiến" đã làm Chí Phèo thay đổi. Một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá khiến "Chí Phèo vô cùng hả hê". Bằng rượu, thịt và tiền, Bá Kiến cứ thế ru ngủ hận thù của Chí. Từ đó, Chí Phèo rơi vào tình trạng lạc hướng, tiếp tục rơi vào bẫy rập mà Bá Kiến đã giăng sẵn, Chí trở thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại.
Bá Kiến biến Chí Phèo thành công cụ đòi nợ đáng sợ của mình. Chí Phèo lần nữa để mình trượt dài vào bi kịch, bán mình cho quỷ dữ. "Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm". Không còn làm ruộng chất phác, hắn đâm thuê chém mướn, đắm chìm trong những cơn say. Nhân tính trong Chí biến mất dần, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại : "Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện".
Cuộc đời Chí dường như cứ thế bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị biến chất. Xã hội ruồng bỏ hắn, tất cả dân làng đều sợ hắn. Họ "tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua". Khi Chí Phèo chửi, ai cũng nghĩ "mặc thây cha nó", chẳng thèm nghe. Chí chửi đời, chửi người nhưng chẳng khác nào "những người say rượu hát", không ai đáp lại, không ai lắng nghe. Năm thì mười họa mới "ba con chó dữ với một thằng say rượu". Một người như thế bỗng chốc trở nên vô hình giữa làng Vũ Đại. Cả xã hội ấy dứt khoát cư tuyệt nhìn nhận Chí như một con người. Sau này, đến khi trang truyện đã khép lại, hình ảnh Chí Phèo "vừa đi vừa chửi" vẫn là nỗi ám ảnh trong lòng người đọc về bi kịch của con người bị gặm nhấm trong cô đơn tuyệt vọng.
Tưởng chừng cuộc đời Chí Phèo sẽ trôi đi trong đơn độc như thế. Nhưng không, một gã rẽ đã bất ngờ xuất hiện trong cuộc sống u ám đầy men say của Chí. Đó là cuộc tương ngộ giữa "con quỷ dữ" và người đàn bà "xấu ma chê quỷ hơn" làng Vũ Đại. Chí gặp Thị Nở. Sau một đêm ăn nằm với nhau, Chí Phèo ốm. Chính khi đó, người đàn bà xấu xí ngẩn ngơ kia đã mang đến cho Chí sự ấm áp giản dị, chân thành. Thị Nở chăm sóc Chí, nấu cho hắn một bát cháo hành. Chỉ một bát cháo hành bình đạm đã khiến Chí Phèo thay đổi.
Cả cuộc đời đầy rẫy tủi hờn và bi kịch, lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc. Lần đầu tiên hắn được "một người đàn bà cho", không phải cướp, không phải dọa. Cũng không phải rạch mặt ăn vạ. Cũng chính người đàn bà xấu xí ấy đã nhận ra bản tính lương thiện bị chôn vùi. Trong cái nhìn của Thị, Chí Phèo ăn cháo lại hiền lành như vậy. "Ôi sao mà hắn hiền…"."hắn cười nghe thật hiền...". Có lẽ Thị Nở là người duy nhất cảm nhận được sự hiền lành của Chí Phèo dưới nhân dạng đã bị hủy hoại của hắn.
Cũng chính sau cuộc tương ngộ với Thị Nở, tâm lý của Chí Phèo đã có bước chuyển biến bất ngờ. Linh hồn của một kẻ của một kẻ đã bán mình cho quỷ dữ thức tỉnh. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy và nghe thấy những âm thanh thuộc về cuộc sống. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá... Lòng hắn lao xao buồn "chao ôi là buồn!".
Lương tâm của một kẻ đã từng khiến bao người tan cửa nát nhà bị lay động. Kí ức những ngày xưa trở về trong tâm trí. Hắn nhớ lại ước mơ bình dị xa xưa về "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng nhớ càng lo âu, càng buồn. Ngần ấy năm, có lẽ cũng là lần đầu tiên hắn sợ, sợ "đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Con người đã từng bất chấp làm tổn thương cả mình, vậy mà biết sợ hãi, biết lo âu. Vừa húp cháo hành vừa nhìn Thị Nở, hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa.
Đến đây, người đọc phát hiện ra, trong sâu thẳm con người Chí Phèo, bản tính lương thiện đã bị vùi lấp. Nhờ có tình yêu thương, sự thừa nhận và săn sóc của Thị Nở, bản tính ấy mới thức dậy. Đây là cái nhìn sâu sắc đầy nhân đạo của Nam Cao đối với những người nông dân nghèo khổ, lương thiện nhưng bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa.
Để rồi khi linh hồn đã thực sự thức tỉnh, Chí Phèo bỗng thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!". Hắn khát khao được hòa nhập lại với cuộc sống, được "mọi người nhận lại vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Câu nói với Thị Nở: "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui" không chỉ gửi gắm khát khao có một gia đình mà còn có cả khát khao được làm người, được sống là một con người bình thường. Câu trả lời của Thị Nở chính là quyết định có đồng ý cho hắn làm người hay không.
Song, bi kịch một lần nữa kéo Chí trượt dài trong đau đớn. Bởi những lời đay nghiến cay nghiệt của bà cô, Thị Nở gạt tay Chí. Hắn rơi xuống vực sâu, quằn quại trong bi kịch tinh thần vô cùng đau đớn. Hắn "ngẩn người" nhìn và nghe Thị nói. "Sửng sốt" đứng lên gọi Thị, đuổi theo "nắm lấy tay" Thị nhưng bị gạt ra và dúi thêm cho một cái ngã "lăn khoèo xuống sân". Hắn dùng mọi cách để níu kéo Thị Nở, như níu kéo sợi dây duy nhất kết nối với cuộc sống con người. Nhưng không được.
Chí Phèo vật vã trong sự tuyệt vọng. Hắn lại lấy gạch đập đầu ăn vạ, lại uống, "càng uống càng tỉnh ra", càng thấm thía nỗi đau giày xéo tâm hồn mình. Hắn đã dứt khoát bị cự tuyệt. Rồi "hắn ôm mặt rưng rức". Không còn giọt nước mắt hạnh phúc ươn ướt khi được Thị Nở chăm sóc, đây là giọt nước mắt của nỗi đớn đau cùng cực. Chí Phèo đưa ra một quyết định.
Chí mang một con dao ở thắt lưng, lần thứ ba đến nhà Bá Kiến. Không rạch mặt ăn vạ, không đòi tiền, hắn đòi lương thiện, đòi quyền "làm người lương thiện!". Ở chính nơi khởi nguồn của những vết rạch sâu trên mặt mình, hắn nói: "... Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!...". Lời nói ấy ẩn sâu những nỗi đau uất nghẹn, cũng là lời lẽ đanh thép vạch trần tội ác của tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến. Nó chất chứa nỗi bi thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí tự tay kết liễu kẻ đã làm đã hủy hoại cuộc đời mình. Đồng thời cũng tự kết liễu chính mình. Hắn không muốn làm quỷ dữ, không muốn tiếp tục cuộc sống đầy bi kịch, tội lỗi nữa. Chí Phèo đã chết trong quằn quại. Chết trong tiếng kêu uất hận, đầy xót và ám ảnh, chết trên ngưỡng cửa để trở về cuộc đời.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh từng nói “Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” Chí Phèo chính là nhân vật điển hình mà Nam Cao xây dựng. Hắn là hình tượng đại diện cho những người nông dân trong xã hội đương thời, bị xã hội chèn ép đến cùng cực, trở thành kẻ lưu manh, tha hóa. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo chính là bản án đanh thép, kết tội xã hội tàn bạo đã nhẫn tâm đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm u ám. Nhẫn tâm cướp đoạt của họ cả diện mạo lẫn linh hồn.
Hình tượng Chí Phèo và truyện ngắn cùng tên đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và phong cách văn chương độc đáo, Nam Cao đã ghi dấu trong lòng người đọc những ấn tượng vô cùng khác biệt. Để đến khi trang văn khép lại, người ta vẫn nhớ mãi hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi, xót xa đầy ám ảnh.
Cảm nhận về hình tượng nhân vật Chí Phèo (mẫu 31)
Trong Giăng sáng Nam Cao đã đã viết lên một quan niệm văn chương thật sâu sắc và thấm thía "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời". Với quan niệm nghệ thuật đáng quý ấy Nam Cao đã mạnh mẽ bước vào đứng giữa những tầng lớp nhân dân cùng khổ, những người nông dân nghèo, trí thức nghèo đang bị cái xã hội thối nát làm cho điêu đứng để viết ra những tác phẩm văn chương chân chính, vừa tố cáo hiện thực xã hội tàn ác vừa đồng cảm và xót thương cho những mảnh đời bất hạnh những năm tháng trước Cách mạng. Bên cạnh Đời thừa, Vợ nhặt, Sống mòn thì Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Ở đó người ta thấy hiện lên một xã hội thực dân - nửa phong kiến tàn ác, từng bước dồn người nông dân, những con người vốn lương thiện như Chí Phèo vào bước đường bi kịch bị từ chối quyền làm người một cách đau đớn và xót xa vô cùng.
Có lẽ ai cũng có ấn tượng sâu đậm về một Chí Phèo nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ và hay chửi thế nhưng có phải ngay từ ban đầu Chí đã đổ đốn và trở nên đáng sợ như vậy không? Câu trả lời là hoàn toàn không phải, Nam Cao đã tường tận nói về cả cái gốc gác con người và cả cái tâm hồn cao quý ban đầu của nhân vật, điều đó đã làm cho ấn tượng về cái bi kịch của nhân vật chính trong truyện càng thêm sâu sắc và có căn nguyên rõ ràng. Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được trao cho hết người này đến người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại. Có thể nói rằng ngay từ khi lọt lòng Chí Phèo đã gặp phải bi kịch lớn của cuộc đời - bi kịch bị bỏ rơi. Thế nhưng thật may mắn rằng, Chí tuy lớn lên thiếu thốn tình cảm gia đình, cuộc sống vất vả không ruộng đất, nhưng anh lại là người hiền lành, lương thiện. Sự lương thiện của Chí Phèo thể hiện ở chỗ, anh quyết tâm làm ăn chân chính, đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, bỏ mồ hôi công sức để kiếm sống. Hơn thế nữa ấn tượng về tâm hồn lương thiện của nhân vật này còn thể hiện ở lòng tự trọng sâu sắc trước sự ve vãn của bà ba vợ Bá Kiến, Chí thấy xấu hổ "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì" hay "Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh" cái nội tâm Chí khi nghĩ về bản thân cũng khiến người ta phải yêu thương, trân trọng về một tấm lòng trong sáng, hiểu biết và đạo đức vô cùng. Rồi năm 20 tuổi ấy, Chí Phèo cũng có một giấc mơ dung dị, bình thường nhưng rất đỗi tươi đẹp, đó là giấc mơ có một mái ấm gia đình, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nuôi lợn, dành dụm mua đất,...cứ thế mà bình bình đạm đạm qua ngày. Có thể nói rằng giấc mơ của Chí Phèo là một giấc mơ thực tế, giấc mơ có thể thực hiện được của những con người lương thiện, cần cù chứ không phải viển vông xa vời như "một túp lều tranh hai trái tim vàng". Và nếu không có gì bất ngờ thì có lẽ Chí Phèo đã thực hiện được ước mơ nhỏ bé đó của mình rồi, chỉ tiếc rằng cuộc đời vẫn lắm trái ngang, đặc biệt là trái ngang với kẻ lương thiện, hiền lành.
Thật lạ lùng, bởi một con người hiền lành lương thiện, có ý chí phấn đấu như Chí thế nhưng cuối cùng lại rơi vào bước đường bi kịch bị tha hóa nhân cách, bị tước quyền làm người. Chí Phèo có lòng tự trọng, anh giữ mình trong sạch trước sự lẳng lơ lăng loàn của người đàn bà kia, thế nhưng Bá Kiến, một kẻ hay ghen và ác độc đại diện cho chế độ phong kiến quyền lực lại không thấy vậy. Hoặc cũng có thể là hắn biết nhưng cái lòng ghen của hắn đã không thể tha thứ cho Chí Phèo và rắp tâm đẩy anh vào tù sống khổ sở tới tận 7, 8 năm trời vì một cái tội và Chí vốn không làm. Nhà tù của chế độ cũ chắc là một cái gì đó kinh khủng lắm, cái nhà tù thực dân - phong kiến đã nhào nặn Chí từ một người nông dân đứng đắn, có lòng tự trọng thành một thằng lưu manh chính hiệu, tha hóa nhân cách, không biết đến tự trọng là gì. Bởi khi thấy Chí trở về anh đã thay đổi cả hình dạng lẫn tính cách, còn đâu một anh Chí hiền lành, chất phác ngày xưa, mà chỉ thấy một người với bộ dạng "Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!", khiến người ta e ngại và sợ hãi. Nhưng những thay đổi về nhân hình vẫn chưa đủ để chứng minh Chí Phèo là một kẻ lưu manh, chỉ khi phát hiện những thay đổi về nhân tính người ta mới nắm chắc rằng, Chí đã không còn là anh canh điền khi xưa nữa mà là Chí Phèo, một kẻ nhân cách dị dạng. Ngay hôm đầu tiên ra tù hắn đã ra giữa chợ ngồi uống rượu ăn thịt chó từ trưa tới chiều, rồi uống cho say khướt, rồi xách cái vỏ chai đến nhà Bá Kiến, gọi thẳng tên tục ra mà chửi. Rồi từ chửi bới, hắn lại đâm ra đánh nhau với lý Cường, rồi sau đó đổ đốn ra ăn vạ, ăn vạ một cách vô cùng cực đoan, Chí Phèo đập vỡ vỏ chai rồi lấy mảnh vỏ cào vào mặt, máu chảy bê bết, khiến người ta từ hứng chí xem trò vui đâm ra sợ hãi và ghê tởm trước cảnh tượng Chí Phèo nằm lăn ra ăn vạ. Xong màn ăn vạ Chí Phèo lại đâm ra thách thức với cả Bá Kiến, với khẩu khí rất ngang ngược, bất cần "Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi". Có thể nói rằng Chí Phèo sau khi đi tù trở về đã bị lưu manh hóa hoàn toàn, trở thành con người hung hăng, liều lĩnh, cái bản chất lương thiện dường như đã bị bóp chết trong 7, 8 tù đày ấy.
Thế nhưng sự tha hóa của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó, Chí Phèo tiếp tục trượt dài trên sự lưu manh, mất nhân tính trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sự tha hóa này có một nửa nguyên nhân là sự gian xảo của Bá Kiến nửa còn lại cũng là bắt nguồn từ cuộc đời bị bỏ rơi, không gia đình, không học hành của Chí, thế nên hắn mới có thể dễ dàng bị Bá Kiến lợi dụng và tha hóa nhân cách đến độ không thể cứu vãn được. Sự khờ khạo u mê của Chí, đã khiến Chí bán lẻ nhân cách của mình, đi đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến để lấy vài hào bạc sống qua ngày mà không hề ý thức được. Nam Cao đã rất dụng tâm để khắc họa lại chân dung của nhân vật này, đó không phải là chân dung của một con người có nhân tính như trước kia mà đó là chân dung của một con vật lạ, đó là một gương mặt "vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo". Nhiêu đấy câu chữ thôi nhưng cũng đủ làm người ta phải thấy đau đớn, xót xa cho một số kiếp làm người, nhưng lại không phải là con người nữa mà là một "con vật lạ" không biết là con gì. Không chỉ nhân hình hóa thú mà cả nhân tính của Chí Phèo cũng hoàn toàn biến đổi, vặn vẹo từ một kẻ thích uống rượu trở thành một kẻ triền miên trong những cơn say, "cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận", cơn say ấy đã kéo dài suốt 15 năm. Và cơn say ấy đã biến cuộc đời Chí Phèo thành bi kịch, bởi khi say hắn có thể làm bất kỳ điều gì mà Bá Kiến yêu cầu, "bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!", xót xa hơn cả là "Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn", Chí Phèo bán linh hồn, bán cả cuộc đời cho rượu chè và việc đâm thuê chém mướn. Rồi cuộc đời hắn nát bấy, hắn trở thành kẻ chuyên chửi, hắn chửi đời, chửi tất cả, "chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?" để cho hắn đớn đau, khổ sở lay lắt trên cõi này đã hơn 40 năm. Nhưng từ cái chửi của Chí Phèo người ta cũng nhìn ra được cái khát khao giao tiếp, đối thoại với cộng đồng của một con người khốn khổ, Chí Phèo mong rằng có ai đó chửi nhau với hắn, hoặc nói chuyện với hắn, thế nhưng hắn càng chửi người ta càng sợ, càng xa lánh hắn, thậm chí nghe hắn chửi miết cũng thành quen, mà không ai đoái hoài tới hắn cả. Như vậy bản thân Chí Phèo đã thất bại trong giao tiếp, hắn bị đẩy ra khỏi cộng đồng, bị cô lập, bị từ chối quyền làm người, hắn thực sự trở thành một con quỷ dữ, sánh ngang với cả loài chó "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!". Như vậy đằng sau cái bi kịch đau thương của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một thông điệp để phơi bày, tố cáo và lên án cái xã hội cũ đầy bất công ngang trái, với giai cấp thống trị nắm trong tay quyền lực tối thượng đã gây ra biết bao đớn đau và bi kịch cho tầng lớp nông dân cùng khổ, tiêu biểu là Chí Phèo với bi kịch tha hóa.
Nhưng nếu chỉ tha hóa không thôi thì câu chuyện chỉ dừng lại ở mức độ tố cáo xã hội cũ, việc Nam Cao để cho Chí Phèo gặp Thị Nở rồi hồi sinh cái tấm lòng thiện lương tưởng đã chết của hắn mới thực sự đem lại cho câu chuyện những ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn cả. Khởi đầu của việc hồi sinh phải kể đến việc Chí Phèo tỉnh rượu sau đêm gặp gỡ thị Nở, hắn bắt đầu có những nhận thức về thế giới xung quanh, hắn nhận ra ánh sáng của nắng ngoài trời đã lên cao, nghe được tiếng chim ríu rít ngoài vườn nhà, tiếng người ta trò chuyện với nhau, và hắn cũng nhận ra cái thân thể yếu ớt, đã qua dốc bên kia đời người của mình. Hắn nhận ra mình cô độc, hắn thấy buồn, rồi bắt đầu hắn nhớ về những ước mơ khi còn trai trẻ, chỉ tiếc là đã dang dở tới hơn hai mươi năm nay, rồi hắn nhìn về hiện tại, cũng đoán trước được cái tuổi già ốm đau, đói rét, và đáng sợ nhất là sự cô độc, không thân thích. Nguyên nhân thứ hai khiến Chí Phèo hồi sinh và có ý nghĩa quyết định ấy là Thị Nở một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, thế nhưng thị lại là người đầu tiên quan tâm tới hắn khi hắn ốm đau, thị nói chuyện với hắn, tình tứ với hắn, thị không xa lánh hắn, và bát cháo hành của thị khiến hắn cảm động vô cùng. Tất cả những điều ấy đã khiến Chí Phèo thức tỉnh tính người, Chí Phèo đã khóc trước sự quan tâm ân cần của Thị Nở, hắn thấy mắt mình ươn ướt, những giọt nước mắt ấy đã ngăn cản không cho Chí Phèo tiếp tục trượt dài trên con đường tha hóa. Không chỉ thức tỉnh tính người mà ở Chí còn là sự thức tỉnh của tình người, Chí Phèo đã biết đến tình yêu, biểu hiện cao nhất của tình người, hắn yêu thị Nở, hắn thấy thị Nở có duyên, hắn khao khát được xây dựng mái ấm hạnh phúc với thị Nở. Không chỉ thức tỉnh tính người, tình người mà ở Chí Phèo còn thức tỉnh cả khát vọng làm người, khát vọng quay lại cuộc đời lương thiện "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện...". Và thị Nở sẽ thành cầu nối của hắn, đưa hắn về với cuộc sống hạnh phúc, chan hòa với mọi người cuộc sống mà bao năm nay hắn vẫn hằng khao khát nhưng nằm ngoài tầm tay với.
Thế nhưng bi kịch của Chí Phèo vẫn không hề dừng lại bởi sự thức tỉnh của hắn mà còn nên đau đớn và xót xa đến tận cùng, hắn bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn muốn cưới Thị Nở thế nhưng chính bà cô của thị đã khiến hắn nhận ra rằng hắn không thể quay lại quay lại làm người được nữa, cả cái xã hội này đã từ bỏ hắn lâu rồi. Từ nhận thức đớn đau và tuyệt vọng như vậy, Chí Phèo đã nhận ra rằng chỉ có cái chết mới là sự kết thúc bi kịch, mới là sự giải thoát, quyết định tự tử của Chí Phèo chính là biểu hiện của bản chất lương thiện tồn tại bất diệt trong tâm hồn Chí, giờ đây chỉ có kết liễu mạng sống thì mới có thể hoàn toàn từ bỏ cuộc đời của một con quỷ dữ, một thằng lưu manh, bị cả xã hội xa lánh.
Cuộc đời của Chí Phèo từ lúc bắt đầu cho đến tận lúc kết thúc, hơn 40 năm trời đều chỉ là bi kịch, hắn chỉ được nếm chút hạnh phúc nhỏ nhoi rồi lại lập tức bị vùi ngay xuống những bi kịch không thể chịu đựng, bi kịch bị từ chối quyền làm người, rồi cuối cùng là cái chết để giải thoát. Bằng cách xây dựng nhân vật kỹ lưỡng, tài tình, ngôn ngữ biến ảo, chân thực, Nam Cao đã tạo nên một nhân vật điển hình, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc, phản ánh, tố cáo sự bất công, độc ác của chế độ cũ, đồng thời thể hiện tấm lòng xót thương cho những số phận người nông dân bất hạnh ở chế độ cũ. Không chỉ vậy đọc Chí Phèo người ta còn phát hiện ra những vẻ đẹp bất diệt trong tâm hồn của nhân vật đó là tấm lòng lương thiện, khao khát được sống, được giao tiếp với xã hội dù rằng trong những khốn cảnh nhất định nó đã vô tình bị che lấp đi.
Xem thêm các văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo
Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo
Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù
Phân tích nhân vật viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11