TOP 15 mẫu Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (2023) SIÊU HAY

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ lớp 11 gồm dàn ý và 15 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 1699 lượt xem
Tải về


Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ – Ngữ văn 11

Bài giảng Ngữ văn 11 Hai đứa trẻ

Dàn ý Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Thạch Lam và tác phẩm Hai đứa trẻ

- Chất hiện thực và lãng mạn trong truyện ngắn

2. Thân bài

2.1 Chất hiện thực

– Tác phẩm trước hết là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn, những cuộc đời tàn

- Hình ảnh ngày tàn: tiếng trống thu không; mặt trời lặn; bóng tối nhanh chóng ngập tràn.

- Hình ảnh phiên chợ tàn: người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi; hình ảnh mấy đứa trẻ con đi lại tìm tòi. Tất cả gợi sự buồn tẻ, nghèo nàn.

- Hình ảnh những kiếp người tàn; Một nhóm nhân vật lặng lẽ trong bóng tối, ít nói năng, ít hành động. Ngày lao động vất vả, đêm xuống buôn bán kiếm thêm nhưng rất ế ẩm. Cuộc sống mòn mỏi, tẻ nhạt quẩn quanh trong kiếp nghèo.

– Tác phẩm còn là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn (chú ý hình ảnh đoàn tàu và sự chờ đợi háo hức của người dân phố huyện hướng về đoàn tàu, đặc biệt chú ý tâm trạng của hai chị em Liên).

2.2 Chất lãng mạn

* Chất lãng mạn trong bức tranh thiên nhiên trong cảnh chiều tàn:

- Âm thanh "tiếng trống thu không", "từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều", tiếng muỗi vo ve, kéo theo một loạt các âm thanh như tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng đàn bầu, tiếng trống cầm canh.

=> Tạo cảm giác chậm rãi, yên ắng, mang đến cảm giác buồn man mác.

- Màu sắc:

Một nhóm nhân vật lặng lẽ trong bóng tối, ít nói năng, ít hành động. Ngày lao động vất vả, đêm xuống buôn bán kiếm thêm nhưng rất ế ẩm. Cuộc sống mòn mỏi, tẻ nhạt quẩn quanh trong kiếp nghèo.

* Chất lãng mạn trong bức tranh tâm hồn Liên:

- Vẻ đẹp của một tâm hồn tinh tế nhạy cảm:

+ "Thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn"

+ Ngửi thấy"một thứ mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá...", nhưng trong tâm hồn tươi đẹp và lãng mạn của Liên thì đó lại là thứ mùi quen thuộc, gắn bó vô cùng của nơi phố huyện nghèo khó mà chị đã sinh sống suốt mấy năm, đó "là mùi riêng của đất, của quê hương".

- Vẻ đẹp của tâm hồn nhân hậu yêu thương con người, đồng cảm sâu sắc với những kiếp người tàn nơi phố huyện.

* Chất lãng mạn trong cảnh chờ tàu:

- Chuyến tàu ấy mang đến một thứ ánh sáng khác hẳn với những thứ ánh sáng leo lét, lốm đốm, buồn chán nơi phố huyện.

=> Ánh sáng của con tàu chính là đại diện cho niềm hy vọng thoát khỏi cuộc sống bế tắc, tối tăm, là khát khao đổi đời của những số phận cơ cực.

- Với Liên chuyến tàu đêm vừa là niềm hy vọng, vừa gợi lại cho Liên những ký ức tươi đẹp về một cuộc sống sung sướng ở thủ đô, mà theo như chị thì "con tàu như đã mang một chút thế giới khác đi qua", khác hẳn cái làng quê tối tăm, nghèo nàn này.

* Chất lãng mạn đến từ cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu:

- Giọng văn đầy chất thơ, giàu tính nhạc và sự kết hợp tinh tế trong cách miêu tả, sử dụng hình ảnh

- Cách hành văn chậm rãi, suy tư với màu sắc u buồn lãng mạn, làm nổi bật lên chủ đề của tác phẩm.

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề.

Bài giảng Ngữ văn 11 Hai đứa trẻ

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 1)

Phân tích tâm trạng chị em Liên trong cảnh đợi tàu Hai đứa trẻNhớ tới nhà văn Thạch Lam người ta không chỉ nhớ tới một giọng văn trong sáng, giản dị, thâm trầm nhưng sâu sắc mà người ta còn nhớ tới ông với những truyện ngắn có sự kết hợp giữa chất hiện thực và chất lãng mạn. "Hai đứa trẻ" là một truyện ngắn như vậy.

Tác phẩm được in trong tập "Nắng trong vườn" (1938), truyện ngắn này vừa tái hiện bức tranh của một phổ huyện nghèo lại vừa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Chất hiện thực chính là hiện thực cuộc sống, là những gì chân thật nhất, không tô vẽ. Chất hiện thực của truyện ngắn này được thể hiện qua cuộc sống của những con người nơi phố huyện. Đó là những con người tàn sống trong cái ao đời phẳng lặng.

Chị Tí ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn hàng nước, ngày nào cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm mà cũng chẳng được bao nhiêu. Vị khách hàng của chị rất hiếm hoi. Chị bán nước cho mấy người phu gạo, phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm.

Gánh hàng phở của bác Siêu cũng trở nên xa xỉ với cuộc sống của người dân nơi đây bởi đó là một thứ quà đắt tiền. Bên cạnh đó là vợ chồng nhà bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng, thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Cửa hàng của chị em Liên trông coi cũng không khá hơn là mấy, ngày phiên mà cũng chỉ bán được hai bánh rưỡi xà phòng. Bà cụ Thi điện đến mua hàng rồi ra về trong tiếng cười khanh khách đầy ma quái chìm vào trong bóng tối. Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, lá nhân và lá mía. Người ta nói để biết mức sống của người dân ở một nơi người ta dựa vào cảnh họp chợ. Nhưng ở đây Thạch Lam lại miêu tả cảnh chợ tàn ở phố huyện Tất cả những con người ấy đều kiểm sống bằng nghề buôn bán nhỏ, manh mún, cuộc sống thì lay lắt, gợi một sự đáng thương đến tội nghiệp.

Đó là bức tranh hiện thực về con người và bức tranh về cảnh vật thiên nhiên nơi đây cũng không tươi sáng là bao. Từng tiếng trông thu không vang ra để gọi buổi chiều, có âm thanh nhưng không gian hết sức tĩnh lặng. m thanh của tiếng ếch nhái, tiểng muỗi vo ve không đủ phá tan đi bầu tĩnh lặng đó. Chừng ấy những con người chỉ trông chờ vào chuyến tàu đêm đi qua phố huyện để có được một chút ánh sáng và sự sống.

Bên cạnh chất hiện thực, chất lãng mạn của truyện ngắn này cũng được tác giả thể hiện khá rõ nét.

Chất lãng mạn được bộc lộ qua những diễn biến tâm lý của nhân vật, qua bức tranh thiên nhiên, qua giọng điệu, ngôn ngữ tác phẩm. Trước tiên, bằng giọng điệu tâm tình đầy cảm xúc, Thạch Lam đã dẫn dắt chúng ta vào một bức tranh quê khá yên bình nhưng cũng đầy thơ mộng. Miền quê ấy có "phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hoàng hôn sắp tàn". Hay việc nhà văn đã miêu tả buổi chiều ấy thấm đượm cả hồn quê: "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Miền quê ấy không có những ánh đèn sáng trưng mà chỉ có những khe sáng, hột sáng. Nhà văn miêu tả buổi đêm ở phổ huyện thật lãng mạn và trữ tình: "Trời đã bắt đầu đếm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát". "Vòm trời hàn ngàn ngôi sao gánh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây". Chị em Liên thì ngước mắt nhìn các vì sao để tìm sống Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Có thể nói, bức tranh quê ấy đã góp một phần không nhỏ vào tính chất lãng mạn của truyện ngắn này.

Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã tô đậm thêm chất lãng mạn của bức tranh toàn cảnh nơi đây. Thạch Lam đã miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Liên rất chi tiết. Đó là một cô gái mới lớn, giàu lòng trắc ẩn. Chị cảm thấy "lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn". Liên cảm nhận được mùi riêng của đất, của quê hương này. Liên rất thương những đứa trẻ nhặt nhạnh. sau phiên chợ nhưng chính chị cũng không có gì để cho chúng. Liên thương những kiếp người tàn tạ trong cuộc sống mòn mỏi này trong đó có cả bản thân mình. Chị là một người nhân ái và có lòng trắc ẩn. Khi đoàn tàu đêm đi qua, Liên chưa bao giờ nhận thấy phố huyện tối đến thế, ngọn đèn chị Tỉ lại yếu ớt đến như vậy. Trong giấc mơ chập chờn, chị thấy mình giống như ngọn đèn hàng nước của mẹ con họ càng cố gắng tỏa sáng thì lại càng nhỏ bé, yếu ớt.

"Hai đứa trẻ" được đánh giá là truyện không có cốt truyện mà chỉ có một sự kiện duy nhất, đó là sự kiện đại đoàn tàu của chị em Liên. Giọng văn bàng bạc, nhẹ nhàng thẩm đượm màu sắc trữ tình thơ mộng. Có thể nói chất hiện thực và chất lãng mạn đã quyện hòa vào nhau để tạo nên thành công của tác phẩm nói riêng và thành công trong sự nghiệp văn chương của Thạch Lam nói riêng.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 2)

Nhớ tới nhà văn Thạch Lam, người ta không chỉ nhớ tới nhà văn có giọng văn trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc mà người ta còn nhớ tới ông với những truyện ngắn có sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn như vậy.

Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát - nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn '‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc "bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt cua Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sông của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi ", nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Hình ảnh ánh sáng và bóng tối Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 3)

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam nói riêng và của văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói chung. Truyện kể về hai đứa trẻ tên là Liên và An, vốn từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo. Hàng ngày hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều tối đến, hai chị em ngồi ngắm quang cảnh phố huyện. Đêm buông xuống, dù buồn ngủ nhưng hai đứa trẻ vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua. Với cốt truyện đơn giản, “Hai đứa trẻ” như một bài thơ trữ tình miêu tả cảnh vật và con người ở một phố huyện nghèo từ lúc chiều tàn cho đến đêm khuya khi có đoàn tàu chạy qua. Chỉ có vậy nhưng “Hai đứa trẻ” vẫn có sức hấp dẫn người đọc trong hơn nửa thế kỉ qua.

Nhà văn Nga M. Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”, nghĩa là văn học phải hướng tới con người, vì con người. Trong văn học vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình hòa quyện với nhau. Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc nỗi bận bịu, nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn qua miêu tả của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Phố huyện nghèo với ánh đèn tù mù, có cái ga xép, đêm đêm có chuyến tàu chạy qua đã trở thành một mô típ nghệ thuật quen thuộc trong những trang văn của Thạch Lam. Trong truyện “Hai đứa trẻ” cái phố huyện nghèo hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong Gió lạnh đầu mùa nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, gia đình bác xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương. Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát - nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng không sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”.

“Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng, con mắt “dõi theo những bóng người về muộn từ từ đi trong đêm”.

Nếu như chập tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “chộp nhanh” trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh, lầm lũi.

Ngọn đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một đời bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ. Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.

Nếu như trong các sáng tác của Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được đo bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện bộ mặt buồn nhân hậu tuyệt vời của ông.

Đến với cảnh sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn mà nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.”

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại nhặt nhạnh tìm tòi những gì còn có thể dùng được. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào, đó lòng thương những đứa trẻ. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí. Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng thương và tấm lòng của Liên thật thơm thảo khi bán rượu cho cụ. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt của Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì như đón nhận, săn tìm một nguồn vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu. Hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này có tầng lớp xuất thân khác nhau.

Yếu tố lãng mạn trữ tình cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện nghèo. Liên là mảng màu chủ đạo tạo nên yếu tố hiện thực và lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực với lãng mạn trữ tình. Chính điều này đã tạo cho tác phẩm của ông một sức sống lâu bền. Hai đứa trẻ mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc. Chính sự hòa quyện giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình đã giúp tác phẩm neo đậu vững vàng trong trái tim bạn đọc bao thế hệ.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 4)

Một tác phẩm truyện thì cần có một cốt truyện nhất định để từ đó người đọc thấy được những tư tưởng tình cảm mà nhà văn muốn truyền đạt thế nhưng riêng Thạch Lam thì ông vượt qua giới hạn ấy để làm nên tác phẩm Hai đứa trẻ giống như một bài thơ đượm buồn. Truyện ngắn Thạch Lam không có cốt truyện thế nhưng nó vẫn hấp dẫn người đọc. Không những giá trị hiện thực sâu sắc mà ở đây chúng ta còn thấy lấp lánh những giá trị lãng mạn.

Cơ sở của chất lãng mạn trong Hai đứa trẻ là có từ văn phong của Thạch Lam. Ông tham gia Tự lực văn đoàn cùng hai anh của mình là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Chính vì thế mà văn phong Thạch Lam cũng bị ảnh hưởng bởi tính lãng mạn trong văn của Tự lực văn đoàn. Hai người anh của ông chủ trương theo lãng mạn mà những tác phẩm tiêu biểu như hồn bướm mơ tiên. Có lẽ thế trong tác phẩm của mình Thạch Lam cũng ít nhiều thể hiện những cảm hứng lãng mạn trong đó. Có thể nói nhà văn Thạch Lam nói hiện thực nhưng cũng lại có những yếu tố lãng mạn dựa trên những hiện thực ấy. Và phải chăng điều đó chính là để khắc phục mặt hạn chế của văn học phê phán? Nó mang lại những màu sắc mới cho giá trị hiện thực. Phố huyện nghèo kia tuy nghèo khổ nhưng nó vẫn hiện lên như một bức họa đồng quê, tuy buồn nhưng mà đẹp.

Chất lãng mạn trong Hai đứa trẻ thể hiện rõ nhất trong bút pháp miêu tả thiên nhiên phố huyện và những tâm trạng của cô gái đáng ra vẫn còn rất vô tư như Liên. Bức tranh phố huyện đi liền với những tâm trạng của cô gái suy tư ấy.

Trước hết chất lãng mạn thể hiện rõ trong bức tranh phố huyện khi chiều xuống và tâm trạng của Liên cũng hiện lên thật rất rõ. Cảnh phố huyện được nhà văn Thạch Lam vẽ lên với những màu sắc và âm thanh rõ rệt thể hiện sự tàn tạ của buổi chiều đã đến tất cả từ hình ảnh cho đến đường nét đều thể hiện sự lụi tàn đó.

Màu sắc đường nét của bức tranh chiều xuống được thể hiện trong những màu sắc của những ánh hoàng hôn trên phố huyện. Hoàng hôn ấy không được vẽ lên bởi ánh mặt trời như trong thơ ca thường hay nói. Ở đây Thạch Lam đã vẽ lên những áng mây màu hồng như những ánh than sắp tàn. Màu hồng ấy phải chăng chính là sự thơ mộng trong văn Thạch Lam, khiến cho nó êm dịu ngọt ngào hơn. Trên cái nền trời với những áng mây như hòn than sắp tàn ấy chúng ta lại thấy đường nét của những dãy tre làng in hình trên cái nền trời ấy. Phương Tây với những hình ảnh ấy hiện lên thật sự báo hiệu một ngày tàn đã đến. Hình ảnh ấy báo hiệu một ngày tàn rơi rụng sắp đến. Mọi hình ảnh đường nét hay sự vận động của nó đều hướng đến một khoảnh khắc khi ánh nắng tắt xuống nhường không gian cho bóng đêm chuẩn bị buông xuống.

Bức tranh ấy không chỉ có màu sắc đường nét âm thanh mà còn có những âm thanh trên không gian phố huyện. Âm thanh ấy chính là những tiếng trống thu không trên cái chòi huyện nghèo “từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Đó còn là âm thanh của tiếng ếch nhái kêu ran ngoài cánh đồng rồi lại là những âm thanh của tiếng muỗi vo ve trong gian hàng nhà Liên. Những âm thanh ấy rời rạc thể hiện sự buồn bã của một buổi chiều tàn.

Có thể nói qua tất cả những màu sắc, đường nét, âm thanh của những tiếng ếch nhái kêu ran ngoài cánh đồng thì chúng ta thấy được một bức họa đồng quê do chính tay người nghệ sĩ tài hoa Thạch Lam vẽ nên. Bức họa ấy tuy đẹp nhưng lại đượm buồn và chính vì thế mà Liên một cô gái tưởng rằng vô tư nhưng trước những diễn biến của cuộc sống nghèo khổ khiến cho cô lớn trước tuổi. Có thể nói trước giờ khắc ngày tàn Liên thấy lòng mình buồn man mác. Đó chính là những cái tâm tư tình cảm của một cô gái trước giờ khắc ngày tàn. Phải chăng cô cũng đang cảm nhận được nhịp sống tù đọng ở đây, hay đây chính là những nét lãng mạn mà nhà văn đã kì công gây dựng?

Không những thế chất lãng mạn trong Hai đứa trẻ lại được thể hiện trong những hình ảnh của một phiên chợ tàn. Đó là sư lãng mạn thi vị đượm buồn, trên cái nền chợ tàn với những rác rưởi ấy những âm thanh náo nhiệt ban ngày mất đi thay vào đó là sự im ắng đến lạ kỳ. Trên cái nền ấy hình ảnh những cậu bé nghèo lom khom nhặt những cái có thể còn dùng được của buổi chợ mà khiến cho lòng Liên thương xót chúng. Thật ra thì Liên cũng đâu có kém gì họ vì thế cho nên Liên cũng không thể giúp được những đứa trẻ ấy.

Cảnh ban đêm hiện lên thật sự đen tối, với những hình ảnh lãng mạn hiện thực đói nghèo cứ thế hiện lên êm ả biết nhường nào, nghèo khổ thật đấy nhưng người ta biết sống có tình người với nhau và vẫn mong chờ vào một ngày mai tươi sáng. Trong cái bức tranh đêm tối ấy những chi tiết ánh sáng được nhà văn Thạch Lam nhắc đến nhiều nhất nhưng đó chỉ là những khe sáng những hột sáng, ánh sáng của những ngôi sao. Có thể nói rằng nói thế nhà văn nhằm thể hiện bóng tối của nơi đây. Ánh sáng tuy được nhắc đến nhiều như thế nhưng lại không thể thấy được sự tươi sáng trong khu phố mà chỉ toàn thấy những hình ảnh của ban đêm “tối hết cả”. Chính bởi lẽ đó mà ban đêm bắt đầu ập xuống với cái màn đêm tưởng chừng như không đáy đó: “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Hay là hình ảnh của bầu trời với “hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”.

Trên cái nền ấy những hình của những con người với những ngành nghề khác nhau nhưng lại sống một cuộc đời nghèo khổ giống nhau. Và Liên một cô gái nhỏ tuổi cũng như nhận ra những nỗi vất vả của những con người nơi đây. Nào là chị Tý, gia đình bác Xẩm, bác Siêu và bà cụ Thi điên. Tất cả những con người ấy khiến cho chúng ta như thấy được những cuộc sống của con người trong phố huyện. Họ đại diện cho những con người nơi đây. Họ có thể đổi nghề cho nhau chứ không thể đổi phận cho nhau được. Thế nhưng tất cả những con người ấy vẫn cứ lầm lũi trong bóng tối để mong một điều gì đó tươi sáng hơn đến với cuộc sống của họ. Đó chính là nét lãng mạn trong cái hiện thực tâm tối ấy.

Và đặc biệt là khi đoàn tàu đêm đến, đối với mỗi người ở phố huyện thì mong ước của họ khác nhau, có người mong bán thêm chút gì đó để trang trải cho cuộc sống nhưng đối với chị em Liên thì đó chỉ là một món quà tinh thần để Liên nhớ lại những lại những kỉ niệm những ngày còn trên Hà Nội. Sự lãng mạn thể hiện khi chính An mặc dù đã buồn ngủ díu cả mắt nhưng vẫn cố thức để đợi tàu đến. Sự sang trọng sáng lấp lánh của tàu và vẻ đẹp tâm hồn của những con người nơi đây đặc biệt là hai chị em Liên đã thể hiện được sự lãng mạn mà Thạch Lam muốn nói đến.

Qua đây ta thấy Hai đứa trẻ giống như một bài thơ đượm buồn, bởi vì sao, vì qua những chất lãng mạn trong truyện mà ta thấy câu chuyện lại giống như một bài thơ với nhịp điệu êm ả, dịu dàng, những hình ảnh mang màu sắc của thơ. Đồng thời qua đây nhà văn đã mang đến một hiện thực nghèo khổ bần cùng nhưng vẫn thi vị bởi những chất lãng mạn của vẻ đẹp tâm hồn con người nơi đây. Họ luôn mong chờ một tương lai tươi sáng hơn.

TOP 23 bài Phân tích Hai đứa trẻ hay nhất (Sơ đồ tư duy)

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 5)

"Văn học là nhân học" (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê "mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng". Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong "gió lạnh đầu mùa'' nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện "rõ ràng" không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ "tiếng trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: "chiều, chiều tối" cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những "tạp âm" của ban ngày chỉ còn "vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh". Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát - nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. "Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại".

Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió mát". Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt "dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm".

Nếu như đầu tối phố huyện còn được "trang hoàng" bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy "ngàn sao đua nhau nhấp nháy" nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn "chớp nhanh" trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai "gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm, nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được "đo" bằng một đơn vị "lãng mạn" nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện "bộ mặt buồn" nhân hậu tuyệt vời của ông.

Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn của Liên báo hiệu một sự "trưởng thành" về tâm sinh lí.

Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt của Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống cùa cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống "lác đa lác đác trước lều" và những "con người ấy" mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là "đợi tàu". Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi", nhưng rồi Liên cũng phải "ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối". Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo "Liên" là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa". Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn "Hai đứa trẻ" và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 6)

Nhớ tới nhà văn Thạch Lam, người ta không chỉ nhớ tới nhà văn có giọng văn trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc mà người ta còn nhớ tới ông với những truyện ngắn có sự kết hợp giữa chất hiện thực và lãng mạn. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn như vậy.

Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát - nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn '‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc "bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt cua Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sông của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi ", nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 7)

“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn ”chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt cua Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sông của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi “, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 8)

Thạch Lam - một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.

" Truyện ngắn Hai đứa trẻ" xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên - An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.

Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, "áng mây hồng như hòn than sắp tàn", tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn "Hai đứa trẻ" còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối "An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được". Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.

Đọc truyện "Hai đứa trẻ" ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 9)

Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chỉ ghi lại một góc đời thường của những sô phận cơ hàn, nhưng thê mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẩu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.

Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…

“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây đỏ rực… đám mây ánh hồng…”

Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buổi chiều như bao buổi chiều ở một phố huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị epi Liên, mà còn những chị Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mò cua bắt ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thê và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái vòng luẩn quẩn mà họ không sao tìm ra lối thoát. những con người, những con đường… tất cả đều hiện lên với cái vé xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tôi tăm. Chỉ bằng giọng vần êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện lèn ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” của phiên chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó. những cuộc đời nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực, không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không

gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa không khí phố huyện tĩnh lặng đến ghê sợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao con người. Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó để miêu tả chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm kín bày tỏ tấm lòng êm mát sâu kín của mình đối với những cuộc đời rất thực đó… Ân sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đối với những số phận nghèo nàn. Đó là tình yêu thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là tâm lòng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có thế được, nhưng “không có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, muốn nói lên lòng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao cả.

Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát “mấp mô cũng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực đã nêu lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khốn khổ kia. An đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn lao về cuộc sống tôi tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sống, chiều tôi lại về, cùng trên con đường đó. Tương lai mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vòng nhỏ hẹp không lối thoát kia. Đó là hiện thực khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.

Giữa lúc tôi tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt, đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lét soi rọi con đường cát “mấp mố kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tối tăm không ai câm chị em Liên mơ tưởng về những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai. Thật không quá lãng mạn chút nào! Ánh sáng leo lét của những ngọn đèn tỏa ra một vùng không gian nhỏ bé, SOI rọi về quá khứ mơ hồ đem đến cho người đọc hôm nay niềm xúc động lạ. Chỉ với lòng nhân đạo bao la, một quan niệm nhân bản thật sâu sắc tác giả mới có thể cho ta chi tiết xúc động đến thế! Tìm thấy mình trong quá khứ để rồi an ủi động viên mình trước thực tại đau buồn, đó là cái cỚ rất chính đáng để chị em Liên thức đợi chuyến tàu đêm nay. Tiếng còi tàu hú từ xa như là âm thanh của quá khứ vọng về thực tại để đưa chị em Liên cố gắng thu vào tất cả hình ảnh chuyến tàu như đi từ quá khứ, mang đến cho chị em cô kỉ niệm sáng rực ở Hà Nội có đen sáng lấp lánh. Ta lại gặp những ánh đèn, của năm xưa đang mơ hồ soi đến. Tác giả đã sử dụng ánh

sáng thật khéo léo, để làm nổi bật sự tương phản của bóng đêm thực tại và quá khứ lấp lánh. Chị em Liên lại được nhìn những người “từ Hà Nội” về, con tàu “đồng kền sáng lấp lánh” soi rọi cả một vùng trời mơ ước trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ. Giá trị nhân văn sâu sắc của truyện ngắn là ở đây, bằng tất cả tấm lòng yêu thương, nhà văn đã đem đến cho họ một chút gì đó để hy vọng mà đáng sống.

Nhưng rồi kỷ niệm đẹp nào rồi cũng trôi qua, con tàu lao vùn vụt từ quá khứ về đến thực tại, rồi lại lao nhanh vào đêm tối xa xăm, để lại cho chị em Liên ánh sáng của ngọn đèn tàu với bao luyến tiếc. Chuyến tàu đã đem lại cho Liên những kỉ niệm về “Hà Nội nhiều đèn” rực rờ ánh sáng của năm nào, đưa hai đứa trẻ ngây thơ đến sống với một “thế giới khác hẳn” nào đó. Liên cảm thấy mình sống giữa “sự xa xôi không biết”, ánh sáng leo lét cuối cùng của quá khứ, hơi ấm của quê hương đã khép lại tâm hồn nhỏ bé của Liên, đưa cô đến một giấc mơ tuyệt vời.

Câu chuyện đã khép lại nhưng vẫn để lại trong ta bao suy nghĩ. Câu chuyện được xây dựng theo phương pháp lãng mạn nhưng đã chất chứa bao hiện thực của cuộc sống lam lũ, đói rách. Chính với những câu văn nhẹ nhàng, Thạch Lam đã đi vào cuộc sống nghèo nàn, túng quẫn không lối thoát của chị em Liên, của chị Tí… Đằng sau những câu văn nhẹ nhàng đó là tấm lòng sâu kín của tác giả với bao số phận nghèo khó. Với lòng nhân đạo bao la, Thạch Lam đã xây dựng một câu chuyện mang tính nhân văn rất cao. Ông đã đem đến cho họ ánh đèn rực rỡ của quá khứ năm nào, nhà văn đã đem đến cho chị em Liên một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” mà giờ đây là quá khứ tuyệt vời bao người đang khát vọng…

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam mang giá trị nhân bản rất sâu sắc, được xây dựng theo thủ pháp lãng mạn pha lẫn yếu tố hiện thực, và bao trùm lên tất cả là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Đó là câu chuyện của một thời đã qua, nhưng hôm nay vẫn để lại trong ta bao điều tốt đẹp đáng trân trọng và ta hi vọng rằng sẽ chẳng bao giờ còn những em thơ mòn mỏi chờ chuyến tàu đêm nữa. cuộc sống mới đang đến và sẽ đến với mọi người.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 10)

“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn '‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thể của cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quên thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc "bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non nớt của Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi ", nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 11)

Nhà văn Thạch Lam là một trong những cây bút chính của nhóm Tự lực văn đoàn. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân, thân phận người dân éo le, khó khăn.

Trong mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam đều hiện thực của sống của mình. Tác phẩm Hai đứa trẻ là một tác phẩm thành công với truyện ngắn không có cốt truyện.

Truyện ngắn Hai đứa trẻ không có cốt truyện tình tiết kịch tính ly kỳ hấp dẫn nhưng lại có những triết lý sống sâu sắc, thể hiện giá trị hiện thực, xoay quanh những số phận đau khổ sống trong bóng tối của nơi phố huyện nghèo.

Sau khi đọc xong "Hai đứa trẻ" chúng ta thấy rằng toàn bộ câu chuyện thể hiện cuộc sống nghèo khổ xơ xác của những số phận con người leo lét nghèo khổ. Cuộc sống đó đã được tác giả Thạch Lam tái hiện vô cùng chân thực, tiêu biểu của một buổi chiều tàn lụi.

Trong tiếng trống thu không kêu lên, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, tiếng ếch nhái kêu từ cánh đồng không xa vang lên văng vẳng, những đám mây như hòn than sắp tàn…Thể hiện sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của của tác giả Thạch Lam.

Một khoảng không gian mênh mang của bầu trời và đồng ruộng vừa đẹp lại buồn gợi ra trước mắt người đọc vô cùng hiện thực. Trong nền của bức tranh thiên nhiên con người đó cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ được tác giả Thạch Lam vô cùng sâu sắc.

Trong bối cảnh đó hai chị em Liên dọn dẹp lại cửa hàng tạp hóa của gia đình cộng lại số tiền ghi chép trong sổ sau mỗi ngày. Bà cụ Thi điên lại đến cửa hàng nhà Liên mua cút rượu, uống một ngụm hết sạch sành sanh hết rồi kêu lên tiếng cười khanh khách.

Bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đỏ bập bùng trong bóng tối. Bác hát Xẩm ngồi chờ đợi trong bóng tối. Rồi hai mẹ con nhà chị Tý dọn gánh hàng nước của mình. Tối nào chị cũng dọn từ sớm tới khuya cũng chẳng bán được là bao nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng.

Thông qua ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi đây vô cùng hiện thực, một phố huyện nghèo nàn đang thoi thóp trong cảnh chiều tàn.

Đêm nào những con người nơi phố huyện nghèo khổ này để mong chờ một chuyến tàu đi qua. Một chuyến tàu từ Hà Nội mang theo chút ánh sáng, mang theo chút hy vọng cho những số phận con người nơi đây.

Mỗi khi chiếc tàu đi qua tiếng còi và tiếng bánh xe rầm rộ hai chị em Liên có thể nhìn chuyến tàu với ánh sáng chói lóa vụt qua, chuyến tàu thể hiện sức hấp dẫn của nó vô cùng ngập tràn ánh sáng chiếu xuống phố huyện, làm cho phố huyện sáng bừng trong chốc lát.

Trên chiếc tàu những toa tàu hạng sang sáng láng, cái nguồn sáng ấy vụt qua biến vào màn đêm tĩnh lặng nhưng vẫn mang lại cho những con người nhỏ bé nơi đây một chút niềm vui.

Khi nhìn chuyến tàu đó trong lòng hai chị em Liên lại gợi lên những suy nghĩ về biến động của gia đình. Nó là những kỷ niệm xa xôi về ký ức một thời ở Hà Nội. Với hai chị em Liên con tàu đem một chút gì của một thế giới khác đi qua, một thế giới văn minh tươi sáng.

Sau khi đọc xong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" người đọc không khỏi trằn trọc về số phận của những con người nơi đây. Hai chị em Liên và những người sống ở phố huyện mong chờ đoàn tàu tràn ngập ánh sáng, một chút gì mới mẻ đi qua.

Bởi trong cuộc sống của người dân phố huyện chỉ có bóng tối vây quanh, cảnh đời xơ xác nghèo khổ, họ không có niềm vui, cuộc sống mưu sinh của họ đã quá nghèo khổ vô vị.

Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một truyện ngắn vô cùng hay và đặc sắc thể hiện phong cách của nhà văn Thạch Lam qua tác phẩm ta thấy rõ lòng nhân đạo và tính hiện thực của nhà văn Thạch Lam với những con người nông dân nghèo khó.

Trong câu chuyện thể hiện màu sắc u tối đượm buồn nhưng nó thể hiện giá trị hiện thực của bối cảnh xã hội lúc đó.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 12)

Tác giả Thạch Lam - một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực sâu sắc.

Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên - An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.

Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, "áng mây hồng như hòn than sắp tàn", tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn "Hai đứa trẻ" còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối "An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được". Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.

Đọc truyện "Hai đứa trẻ" ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 13)

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam nói riêng và của văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói chung. Truyện kể về hai đứa trẻ tên là Liên và An, vốn từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo. Hàng ngày hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều tối đến, hai chị em ngồi ngắm quang cảnh phố huyện. Đêm buông xuống, dù buồn ngủ nhưng hai đứa trẻ vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua. Với cốt truyện đơn giản, “Hai đứa trẻ” như một bài thơ trữ tình miêu tả cảnh vật và con người ở một phố huyện nghèo từ lúc chiều tàn cho đến đêm khuya khi có đoàn tàu chạy qua. Chỉ có vậy nhưng “Hai đứa trẻ” vẫn có sức hấp dẫn người đọc trong hơn nửa thế kỉ qua.

Nhà văn Nga M. Gorki từng nói: “Văn học là nhân học”, nghĩa là văn học phải hướng tới con người, vì con người. Trong văn học vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình hòa quyện với nhau. Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc nỗi bận bịu, nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn qua miêu tả của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

Phố huyện nghèo với ánh đèn tù mù, có cái ga xép, đêm đêm có chuyến tàu chạy qua đã trở thành một mô típ nghệ thuật quen thuộc trong những trang văn của Thạch Lam. Trong truyện “Hai đứa trẻ” cái phố huyện nghèo hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong Gió lạnh đầu mùa nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, gia đình bác xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương. Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều rồi” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát - nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng không sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại”.

“Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng, con mắt “dõi theo những bóng người về muộn từ từ đi trong đêm”.

Nếu như chập tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “chộp nhanh” trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh, lầm lũi.

Ngọn đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một đời bươn chải với cuộc sông để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ. Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thế của cuộc sống.

Nếu như trong các sáng tác của Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được đo bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa nột cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện bộ mặt buồn nhân hậu tuyệt vời của ông.

Đến với cảnh sinh hoạt ban đêm nới phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn mà nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.”

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những đứa trẻ con nhà nghèo đi lại nhặt nhạnh tìm tòi những gì còn có thể dùng được. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào, đó lòng thương những đứa trẻ. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí. Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng thương và tấm lòng của Liên thật thơm thảo khi bán rượu cho cụ. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non ướt của Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán và những “con người ấy” mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành dộng tưởng như vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì như đón nhận, săn tìm một nguồn vui.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu. Hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này có tầng lớp xuất thân khác nhau.

Yếu tố lãng mạn trữ tình cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện nghèo. Liên là mảng màu chủ đạo tạo nên yếu tố hiện thực và lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp hiện thực với lãng mạn trữ tình. Chính điều này đã tạo cho tác phẩm của ông một sức sống lâu bền. Hai đứa trẻ mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc. Chính sự hòa quyện giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình đã giúp tác phẩm neo đậu vững vàng trong trái tim bạn đọc bao thế hệ.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 14)

Nhớ tới nhà văn Thạch Lam người ta không chỉ nhớ tới một giọng văn trong sáng, giản dị, thâm trầm nhưng sâu sắc mà người ta còn nhớ tới ông với những truyện ngắn có sự kết hợp giữa chất hiện thực và chất lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như vậy.

Tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938), truyện ngắn này vừa tái hiện bức tranh của một phố huyện nghèo lại vừa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Chất hiện thực chính là hiện thực cuộc sống, là những gì chân thật nhất, không tô vẽ. Chất hiện thực của truyện ngắn này được thể hiện qua cuộc sống của những con người nơi phố huyện. Đó là những con người tàn sống trong cái ao đời phẳng lặng.

Chị Tí ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn hàng nước, ngày nào cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm mà cũng chẳng được bao nhiêu. Vì khách hàng của chị rất hiếm hoi. Chị bán nước cho mấy người phu gạo, phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm.

Gánh hàng phở của bác Siêu cũng trở nên xa xỉ với cuộc sống của người dân nơi đây bởi đó là một thứ quà đắt tiền. Bên cạnh đó là vợ chồng nhà bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng, thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường.

Cửa hàng của chị em Liên trông coi cũng không khá hơn là mấy, ngày phiên mà cũng chỉ bán được hai bánh rưỡi xà phòng. Bà cụ Thi điên đến mua hàng rồi ra về trong tiếng cười khanh khách đầy ma quái chìm vào trong bóng tối.

Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, lá nhãn và lá mía. Người ta nói để biết mức sống của người dân ở một nơi người ta dựa vào cảnh họp chợ. Nhưng ở đây Thạch Lam lại miêu tả cảnh chợ tàn ở phố huyện.Tất cả những con người ấy đều kiếm sống bằng nghề buôn bán nhỏ, manh mún, cuộc sống thì lay lắt, gợi một sự đáng thương đến tội nghiệp.

Đó là bức tranh hiện thực về con người và bức tranh về cảnh vật thiên nhiên nơi đây cũng không tươi sáng là bao. Từng tiếng trông thu không vang ra để gọi buổi chiều, có âm thanh nhưng không gian hết sức tĩnh lặng. Âm thanh của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve không đủ phá tan đi bầu tĩnh lặng đó. Chừng ấy những con người chỉ trông chờ vào chuyến tàu đêm đi qua phố huyện để có được một chút ánh sáng và sự sống.

Bên cạnh chất hiện thực, chất lãng mạn của truyện ngắn này cũng được tác giả thể hiện khá rõ nét. Chất lãng mạn được bộc lộ qua những diễn biến tâm lí của nhân vật, qua bức tranh thiên nhiên, qua giọng điệu, ngôn ngữ tác phẩm. Trước tiên, bằng giọng điệu tâm tình đầy cảm xúc, Thạch Lam đã dẫn dắt chúng ta vào một bức tranh quê khá yên bình nhưng cũng đấy thơ mộng. Miền quê ấy có “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hoàng hôn sắp tàn”. Hay việc nhà văn đã miêu tả buoổi chiều ấy thấm đượm cả hồn quê: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Miền quê ấy không có những ánh đèn sáng trưng mà chỉ có những khe sáng, hột sáng. Nhà văn miêu tả buổi đêm ở phố huyện thật lãng mạn và trữ tình: “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. “Vòm trời hàn ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây”. Chị em Liên thì ngước mắt nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Có thể nói, bức tranh quê ấy đã góp một phần không nhỏ vào tính chất lãng mạn của truyện ngắn này.

Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã tô đậm thêm chất lãng mạn của bức tranh toàn cảnh nơi đây. Thạch Lam đã miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Liên rất chi tiết. Đó là một cô gái mới lớn, giàu lòng trắc ẩn. Chị cảm thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Liên cảm nhận được mùi riêng của đất, của quê hương này. Liên rất thương những đứa trẻ nhặt nhạnh sau phiên chợ nhưng chính chị cũng không có gì để cho chúng. Liên thương những kiếp người tàn tạ trong cuộc sống mòn mỏi này trong đó có cả bản thân mình. Chị là một người nhân ái và có lòng trắc ẩn. Khi đoàn tàu đêm đi qua, Liên chưa bao giờ nhận thấy phố huyện tối đến thế, ngọn đèn chị Tí lại yếu ớt đến như vậy. Trong giấc mơ chập chờn, chị thấy mình giống như ngọn đèn hàng nước của mẹ con họ càng cố gắng tỏa sáng thì lại càng nhỏ bé, yếu ớt.

“Hai đứa trẻ” được đánh giá là truyện không có cốt truyện mà chỉ có một sự kiện duy nhất, đó là sự kiện đợi đoàn tàu của chị em Liên. Giọng văn bàng bạc, nhẹ nhàng thấm đượm màu sắc trữ tình thơ mộng. Có thể nói chất hiện thực và chất lãng mạn đã quyện hòa vào nhau để tạo nên thành công của tác phẩm nói riêng và thành công trong sự nghiệp văn chương của Thạch Lam nói riêng.

Chất hiện thực và lãng mạn trong Hai đứa trẻ (mẫu 15)

"Văn học là nhân học" (M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, Hai đứa trẻ của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

Hai dứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê "mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thây khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru như bao chiều khác.

Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lại hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt... Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong Gió lạnh đầu mùa nhưng sao nó vẫn nhuôm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chôn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sông của những người mà trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trông thu không thì đóng của quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.

Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện "rõ ràng" không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nội tâm. Từ "tiếng trông thu không" đến một câu văn nhẹ nhàng: "Chiều, chiều rồi" cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những "tạp âm", của ban ngày chỉ còn "vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh". Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. "Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lại".

"Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát". Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ây xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt "Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm".

Nếu như đầu tối phố huyện còn được "trang hoàng" bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẽ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy "Ngàn sao đua nhau nhâ'p nháy" nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn "chớp" nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của ngòi bút phác lên và đằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.

Ánh đèn của chị Tí đủ soi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai "gam màu" sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chât phác đã trải qua một ngày bươn bải với cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sông gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cung góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống... Âm thanh của cuộc sống phát ra từ chính những lời đôi thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con người có mặt đã làm nên tổng thể của cảnh vật cuộc sống.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được "đo" bằng một đơn vị "lãng mạn" nhất định. Nét bút của ông đã phác họa một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.

Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tuyệt vời của ông.

Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm.

Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuồng cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ân tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một người chị còn bé hơn thế nữa, nỗi lòng buồn báo hiệu một sự "trưởng thành" về tâm sinh lí.

Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.

Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể người dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảnh đất trống "Lá đa lác đác trước lều" và những "con người ấy" mà thôi.

Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ mà trong số người trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là "đợi tàu". Nếu mẹ Liên ở đó chắc cũng không cho cô thức. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên cùng em đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con.

Tuy buồn ngủ nhưng An vẫn dặn Liên khi tàu đến thì gọi dậy. Chẳng biết vì cái gì mà em của Liên lại dặn thế. Có lẽ chỉ chị là hiểu hành động của mình khi chị vẫn chủ động kiên trì thức, mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu.

Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một nỗi buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại chợt gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồi lại trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuyên tàu vẫn là niềm mong mỏi của chị. Có người nói "chờ đợi là một điều khủng khiếp"; song, không có gì để chờ đợi lại càng khủng khiếp hơn. Với Liên, điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình.

Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cảnh đợi tàu ở đây tuy có khác với cảnh đợi tàu trên sân ga nhưng lại vẫn chung một nỗi niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống với một niềm vui của chuyến tàu đem lại. Liên là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thien truyện. Tạo nên bằng một cuộc đời. Tạo nên như là người dẫn chuyện.

Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tinh người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

Ai đó đã định nghĩa về thơ: "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơ nữa" thì truyện ngắn Hai đứa trẻ và nhiều thiên truyện khác nữa của Thạch Lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại "cuộc đời" thật sâu sắc.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:  

TOP 30 bài Phân tích chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (2022)

TOP 30 bài Cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong "Bài ca ngất ngưởng" (2022)

TOP 30 Phân tích hình ảnh “con tàu” trong "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam (2022)

TOP 30 bài Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (2022)

TOP 30 bài Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo lúc chiều trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam (2022)

1 1699 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: