TOP 35 mẫu Cảm nhận Từ ấy (2023) SIÊU HAY

Cảm nhận bài thơ Từ ấy lớp 11 gồm dàn ý và 35 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 8486 lượt xem
Tải về


Cảm nhận bài thơ Từ ấy - Ngữ văn 11

Bài giảng Ngữ văn 11 Từ ấy

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Từ ấy

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam

- “Từ ấy”- một tác phẩm vô cùng ý nghĩa đối với tác giả, đánh dấu một dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của tác giả.

2. Thân bài

* Khổ 1: Thể hiện niềm vui sướng say mê của Tố Hữu khi bắt gặp lý tưởng Cộng sản

- “từ ấy “ là một thời điểm quan trọng trong cuộc đời và trong sự nghiệp của Tố Hữu, khi tác giả được giác ngộ Cách mạng, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

=> Bước ngoặt đầu tiên và quan trọng nhất trong cuộc đời.

- “Bừng nắng hạ”: Là ánh sáng mạnh mẽ chói rực, hấp dẫn trong “tôi”.

- Hình ảnh “mặt trời chân lý”: Hình ảnh ẩn dụ chỉ chân lý của Đảng đã soi sáng cho tác giả

- Hình ảnh so sánh “hồn tôi như một vườn hoa lá”: Hình ảnh kiểu mới, hình ảnh dùng để giãi bày khái quát tình cảm của tác giả

* Khổ 2: Nhận thức về lẽ sống:

- “Buộc”- động từ mạnh, thể hiện sự sẵn sàng, tự nguyện buộc mình với mọi người.

- “Mạnh khối đời”- có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái với nhau

=> Lẽ sống: Gắn cái tôi với cái ta chung

* Khổ 3: Sự chuyển biến trong tình cảm của Tố Hữu

- Điệp ngữ “là” kết hợp với liệt kê (em, anh, con vạn nhà)

=> Tố Hữu là một thành viên trong đại gia đình Việt Nam, gắn bó máu thịt với tất cả mọi người; tác giả đã thoát ra cái ích kỷ hẹp hòi cá nhân để liên kết các giai cấp.

* Nghệ thuật:

- Biện pháp nghệ thuật: So sánh, liệt kê, ẩn dụ…

- Giọng điệu: Ngân vang, nhịp thơ được ngắt đều và giàu cảm xúc

- Hình ảnh trong các câu thơ mới lạ và tươi sáng: Vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim...

3. Kết bài

30 bài Cảm nhận về bài thơ

Kết luận, mở rộng.

- “Từ ấy”- bài thơ chứa đầy cảm xúc của tác giả, đó là niềm hân hoan khi được Đảng soi sáng, và nhận thức được lẽ sống mới.

- Đảng Cộng sản đã mang đến những ánh sáng rực rỡ, mở con đường mới cho nhiều người trong đó có tác giả.

Dàn ý Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy"

a) Mở bài

- Giới thiệu nhà thơ Tố Hữu và bài thơ Từ ấy.

b) Thân bài

* Tâm trạng vui sướng của nhân vật trữ tình khi bắt gặp lý tưởng cộng sản

- Thời điểm “Từ ấy”: là khi Tố Hữu được giác ngộ Cách Mạng, được dẫn dắt vào con đường giải phóng dân tộc

- Hình ảnh ẩn dụ: “nắng hạ”, “mặt trời chân lý” => thể hiện niềm vui khi tìm thấy lẽ sống cao đẹp cho cuộc đời trong buổi đầu đến với Cách Mạng

- Từ ngữ: “chói”, “bừng”, “rộn”, “rất đậm” => khẳng định lý tưởng cộng sản mở ra cho thế giới tâm hồn một nhận thức mới khiến tâm hồn vui tươi phơi phới

=> Khổ thơ là tiếng reo vui đầy phấn trấn của tác giả khi được giác ngộ lý tưởng cộng sản

* Lý tưởng cộng sản làm thay đổi nhận thức sâu sắc của nhân vật trữ tình

- Đại từ nhân xưng “tôi”: bộc lộ sâu sắc ý thức cá nhân

- Từ “buộc”, “trang trải”: thể hiện sự gắn kết, chia sẻ của nhà thơ với quần chúng cần lao

- Các từ “Mọi người”, “trăm nơi”, “hồn khổ”: chỉ đối tượng là quần chúng lao khổ trên mọi miền đất nước

- Hình ảnh ẩn dụ “khối đời”: khiến khái niệm về cuộc đời vốn trừu tượng trở nên hữu hình

=> Khổ thơ là sự gắn kết của cái tôi cá nhân với cái ta cộng đồng. Khi cái tôi hòa vào cái ta chung sẽ tạo nên một cuộc đời gắn bó, tạo nên một sức mạnh lớn lao.

* Lý tưởng cộng sản giúp nhà thơ vượt qua những tình cảm ích kỉ, hẹp hòi để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ

- Kết cấu định nghĩa “tôi…là” được sử dụng xuyên suốt khổ thơ tạo nhịp điệu khỏe khoắn, nhấn mạnh ý thức vững vàng của nhà thơ khi gắn kết với cộng đồng

- Điệp từ “của” kết hợp với hệ thống từ xưng hô chỉ quan hệ máu mủ “anh”, “em”, “con”: tình cảm của nhà thơ với quần chúng nhân dân gần gũi, khăng khít như anh em ruột thịt

- Điệp từ “vạn” kết hợp với các hình ảnh “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu em nhỏ”: thể hiện những số phận cơ cực, vất cả, nhỏ bé trong xã hội. Từ đó nói lên tình nhân ái bao la, mang tính giai cấp

=> Tố Hữu tự nguyện chọn một chỗ đứng trong lòng dân tộc, coi mình là một thành viên ruột thịt trong gia đình quần chúng cần lao => thể hiện tinh thần dân tộc, tính nhân đạo sâu sắc

* Nội dung, nghệ thuật của bài thơ

- Giá trị nghệ thuật:

Sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đặc sắc

Nhịp điệu thơ dồn dập, da diết

Diễn tả tâm trạng vui sướng, say mê của nhà thơ khi đón nhận lý tưởng cộng sản

- Giá trị nội dung:

“Từ ấy” là bản tuyên ngôn về nhận thức và quan điểm sáng tác của Tố Hữu

Tuyên ngôn về nhận thức: nhà thơ nguyện đi theo ánh sáng của Đảng, gắn bó với quần chúng lao khổ

Tuyên ngôn về nghệ thuật: sáng tạo văn học không mơ mộng, viển vông, người nghệ sĩ phải đứng trong hàng ngũ, gần gũi với quần chúng nhân dân.

Từ đây, Tố Hữu chính thức định hình phong cách của một ngòi bút trữ tình chính trị.

c) Kết bài

30 bài Cảm nhận về bài thơ

Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.

Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình - chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng.

Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.

Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.

Cảm nhận bài thơ Từ ấy của Tố Hữu | Văn mẫu 11

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 1)

Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của chính mình.

Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim.”

“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được dùng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời của tác giả. Tại thời điểm đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả.

Đó là khi tác giả được giác ngộ Cách mạng, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương - một bước ngoặt đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong cuộc đời. Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” - một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lênin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một con đường mới cho cuộc đời.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Nắm bắt được chân lý, tác giả như tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu dùng biện pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác giả như một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa - một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống.

Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết. Đến khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”

Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh cá nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối đoàn kết. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “trang trải đến trăm nơi”.

Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận bất hạnh để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và giúp đỡ lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người.

Và đặc biệt, khi mọi người có tinh thần đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, che chở cho nhau thì sẽ giúp cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” - hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung cảnh ngộ, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “gần gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn - một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.

Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.

“Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ.”

Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong cuộc đời. Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người.

Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời bất hạnh, đầy khó khăn đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. Nếu như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi cá nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết các giai cấp trong xã hội.

“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công kết hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.

Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang đến niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã nhận ra sứ mệnh của cuộc đời mình. Phân tích Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận được sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 2)

Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên con đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mạng.

“Từ ấy” là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời và trong cả tâm hồn của nhà thơ. Giây phút ấy khiến nhà thơ vui mừng đến nỗi không thể định nghĩa chính xác được, chỉ biết là “từ ấy”.

“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Một loạt những hình ảnh ẩn dụ “ bừng nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “chói qua tim” được nhà thơ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lí tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh.

“Bừng nắng hạ” – đó là ánh nắng mùa hè chói chang, mạnh mẽ và rực rỡ, đủ để soi rọi sau những ngày tăm tối. Đó là ánh sáng đến từ “trong tôi”, từ trái tim người chiến sĩ trẻ. Sự xuất hiện của lí tưởng Đảng, của cách mạng đã soi sáng cho tâm hồn nhà thơ, như soi rọi cả những góc khuất nhất trong con người, khiến cho cả con người người chiến sĩ trẻ bừng tỉnh ngộ sau những đêm dài tối tăm.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, nhà thơ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người chiến sĩ trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời ấm áp và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót.

Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự háo hức, say sưa, rạo rực và tràn đầy nhiệt huyết của nhà thơ khi tìm được lí tưởng của mình. Từ giác ngộ lí tưởng, người chiến sĩ trẻ tuổi tiếp tục chọn cho mình một lẽ sống mới:

“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải khắp muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Nhà thơ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn.

Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những người cùng khổ, họ dễ cảm thông, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, gần gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi. Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò, vị trí của mình:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Tố Hữu hòa mình với nhân dân, đã tự nguyện trở thành con, thành em, thành anh của bao quần chúng lao động cực khổ, những con người với kiếp sống “phôi pha”, sống hôm nay chưa biết đến ngày mai, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những đứa trẻ tội nghiệp nghèo khổ đói rách.

Từ “là” được nhà thơ sử dụng lặp đi lặp lại, như khẳng định một cách chắc chắn mối quan hệ giữa mình và nhân dân lao động, cũng như một lời khẳng định vai trò của mình đối với người dân, với cộng đồng và xã hội. “Cù bất cù bơ” – một tính từ vô cùng mới mẻ, như những lời nói thường ngày của những người lao động nói chuyện với nhau.

Cuộc sống bơ vơ, tác giả nói mình, nhưng cũng là nói chung những người dân quanh mình, những người anh em của mình, đồng thời bày tỏ lòng xót thương của nhà thơ trước tình cảnh bất công, trái ngang của cuộc đời.

“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương đất nước.

Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng giản dị, gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới.

Gợi ý đọc hiểu và soạn từ ấy - Tố Hữu - Cụ thể và Ngắn gọn

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 3)

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 quê ở Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế. Nhà thơ khi còn là chàng trai thanh niên 16 tuổi đã tham gia hoạt động Cách mạng, sau hai năm hoạt động sôi nổi và tích cực nhà thơ đã được đứng trong hàng ngũ Đảng viên Đảng Cộng Sản. Khi nhà thơ được đứng trong hàng ngũ danh dự của Đảng đây cũng chính là bước ngoặt lớn dẫn đến nhiều sự thay đổi trong sự nghiệp thi ca cũng như là lý tưởng của ông. Bài thơ Từ ấy chính là một bài thơ xuất sắc nhất trong tập thơ Máu lửa. Bài thơ chính là những cảm xúc chân thật là tiếng lòng sự hân hoan của người thanh niên trẻ được giác ngộ lý tưởng Cách Mạng.

Khổ thơ đầu tiên chính là cảm xúc vui sướng và thiêng liêng khi nhà thơ được kết nạp vào Đảng và được giác ngộ lý tưởng chân lý Cách Mạng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim’’

Mục tiêu lý tưởng cao đẹp đó chính là phải đánh đuổi được thực dân Pháp đô hộ trên nước ta phải giải phóng được xiềng xích ách thống trị của chúng đối với nhân dân ta. Khi được giác ngộ mục tiêu này tác giả đã cảm thấy mình có những hoài bão và ước mơ lớn lao trong cuộc đời mình mà như hát lên:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”

Khi đọc xong câu thơ ta cứ liên tưởng được rằng trước kia nhà thơ đâu được nhìn thấy những ánh sáng lý tưởng cao đẹp đó mà chỉ khi tác giả được trở thành Đảng viên rồi thì mới có được những chân lý sống tuyệt vời. Động từ “bừng’’ chính là động từ thể hiện sức mạnh sức bật vươn lên của một sự vật. Mà ở đây sự vật đó được gắn tên chính là nắng hạ. Nắng hạ chính là thứ ánh nắng goi gắt nhưng cũng thứ ánh sáng chói chang nhất trong tất cả các mùa. Vì vậy đó chính là sự nổi bật khi tác giả miêu tả câu thơ. Kể từ trước đấy tác giả chưa hề được giác ngộ những điều kỳ diệu như vậy chỉ có khi được vào hàng ngũ của Đảng mà thôi.

“Mặt trời chân lý chói qua tim’’ chính là hình ảnh ấn dụ một cách tuyệt vời cho Cách Mạng Cộng Sản Việt Nam. Nhà thơ ví mặt trời cũng giống như Đảng vậy phải có ánh sáng mặt trời soi chiếu vạn vật thì mới có thể có sự sống thì Đảng cũng như vậy Đảng được sinh ra là vì lợi ích và phục vụ cho nhân dân. Chân lý của Đảng đã soi rọi đến tận tâm can trái tim của người chiến sỹ yêu nước. Vì vậy mà tâm hồn Tố Hữu đã trở nên xinh đẹp và vui tươi hơn khi có tiếng chim và có cả mùi hương nữa:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim’’

Đây chính là lời reo vui sướng sự líu lo của một người chiến sĩ yêu đời hơn bao giờ hết tâm hồn của ông như một vườn hoa lá xinh đẹp, trẻ trung với tiếng chim và nhiều sắc màu với mùi hương thơm đậm đà.

Khổ thơ thứ hai chính là thể hiện được chân lý cao cả muốn gánh vác và cùng san sẻ với những người cùng khổ:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm vạn khối đời’’

Đó như một ước nguyện dù không cùng giai cấp nhưng nhà thơ luôn sẵn lòng chịu những khó khăn gian khổ cùng với mọi tầng cấp từ nhân dân cho đến giai cấp công nhân. Tấm lòng của ông đã được “trải’’ đi khắp muôn nơi để cùng gắn kết với mọi người. Tâm hồn tác giả cũng không còn tính cá nhân nữa mà nay đã được gắn cùng với tâm hồn của mọi người bởi vì mọi người cùng chung ý chí và lý tưởng để tiêu diệt kẻ địch và bảo vệ cho đất nước.

Khổ thơ thứ ba cũng chính là sự thể hiện trách nhiệm của người chiến sĩ khi được đứng trong đội ngũ Cách mạng Cộng Sản:

“Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ’’

Tố Hữu vừa là người anh của các em nhỏ cũng chính là những người em của những kiếp phôi pha cũng là con của vạn nhà là con của những người dân Việt Nam. Lặp từ là chính là sự nhấn mạnh mối quan hệ này kiên trung không thay đổi. Dù có phải chịu cảnh thiếu thốn cơm áo không nhà không cửa đi chăng nữa thì tác giả vẫn nguyện cam chịu vì lý tưởng cao đẹp của Cách Mạng chính là phải cứu quốc phải đánh đuổi thực dân để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Bài thơ cũng chính là sự thể hiện của cả đại khối đoàn kết dân tộc cùng chung tay bảo vệ và hy sinh cho nhau để thực hiện mục tiêu cao đẹp đó.

Bài thơ Từ ấy được viết lên khi tác giả được giác ngộ lý tưởng Cách mạng đó cũng chính là lời tuyên bố cũng là sự vui sướng khi ông được đứng trong đội ngũ Cách mạng. Giờ đây ông đã có được hoài bão cho riêng mình để có thể thực hiện đó là đoàn kết toàn dân đánh đuổi thực dân bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 4)

Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ "Từ ấy" vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và mang tên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.

Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim".

"Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón "Mặt trời chân lí chói qua tim". Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh "bừng nắng hạ". "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Lí tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng "tôi" và con đường cách mạng "bừng nắng hạ" chói chang, ấm áp. Trái tim "tôi" có "Mặt trời chân lí chói qua...". Ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn “ đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu "hoa lá", ngào ngạt "đậm hương” và "rộn tiếng chim" hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lí tưởng và tình yêu lí tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:

"Khi ta đã say mùi hương chân lí

Đời đắng cay không một chút ngọt bùi

Đời đau buồn không một tiếng cười vui

Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng”

("Như những con tàu" - 1938)

Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin thật vô cùng kì diệu. "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” ( Aragông - Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người", "với trăm nơi "với bao hồn khổ" với giai cấp” và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: "buộc", "trang trải", "gần gũi" - biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với "khối đời" - khối công nông liên minh:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: "là con của vạn nhà", "là em của vạn kiếp phôi pha", "là anh của vạn đầu em nhỏ... Các từ: "là", các số từ "vạn" được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ".

Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới "mặt trời chân lí", dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của Cách mạng.

Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. "Từ ấy" là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và Cách mạng. Đọc "Từ ấy" ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: "Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 4)

Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của ông. Và "Từ ấy" ra đời như một kết quả tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng.

"Từ ấy" được sáng tác năm 1938, in trong tập thơ đầu tay của ông. Cả tập thơ là tiếng ca mừng reo vui chân thành, háo hức, đầy nhiệt thành của người thanh niên Cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ "Từ ấy" được trích trong phần đầu "Máu lửa", cả bài thơ là những dòng cảm xúc của Tố Hữu khi lần đầu tiên cảm nhận được lý tưởng lớn lao, niềm tự hào đứng trong hàng ngũ Cách mạng, đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong cuộc đời của ông.

Về nhan đề "Từ ấy", đây chỉ là một từ ngữ phiếm chỉ của thời gian, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời Tố Hữu, đánh dấu sự trưởng thành trong sự nhận thức cũng như tình cảm của ông. Nó cũng diễn tả niềm vui, cảm xúc, sự rung động, biến đổi khó quên nhất trong tâm hồn của ông để giây phút ấy, ông chỉ có thể nghẹn ngào, thốt lên hai tiếng "từ ấy". Chính mốc thời điểm ấy đã tạo nên bước chuyển biến mới lạ, tươi sáng trong tâm hồn và hồn thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi – Tố Hữu.

Tố Hữu xuất thân từ một chàng trai tiểu tư sản, con của một nhà nho nghèo, sống tại Huế. Có thể vì vậy mà đến năm mười hai tuổi, khi được ra học tại Quốc học Huế, được tiếp xúc với tư tưởng Mác – Lênin cùng với tư tưởng của Đảng Cộng Sản mà ông mới được tìm hiểu và được tiếp xúc với lý tưởng Cách mạng . Tới năm mười tám tuổi, khi được chính thức đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng, Tố Hữu mới hiểu rõ, lý tưởng Cách mạng đã thay đổi cuộc đời ông thế nào, để rồi từ đó, ông vui mừng, rộn rã mà thốt lên rằng:

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim".

Niềm vui mừng khôn xiết khiến cho Tố Hữu không nói lên lời, ông vui sướng, say mê khi lần đầu tiên bắt gặp lý tưởng Cách mạng, ông ngập ngừng lên tiếng "từ ấy trong tôi bừng nắng hạ". "Từ ấy" là lúc nào? Phải chăng là lúc nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, cái tuổi còn chông chênh, chưa hiểu được cuộc đời, chưa rõ phải bước đi về đâu, như ông đã viết trong "Dậy lên thanh niên" rằng:

"Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước

Chọn một dòng hay để nước trôi".

Cái "bâng khuâng" mơ hồ ấy của người thanh niên trẻ đã được ánh sáng của lý tưởng cộng sản chiếu tới, để rồi "từ ấy", trong lòng ông bừng lên một thứ ánh sáng khác lạ, tươi tắn, rạng rỡ "nắng hạ". Hình ảnh "nắng hạ" là một ẩn dụ cho nguồn năng lượng mới mẻ, thứ ánh sáng chói lòa mà lý tưởng đã làm bừng cháy trong tâm hồn cả Tố Hữu. Nguồn nắng hè ấy chiếu rọi lên tâm hồn còn đang bơ vơ của ông, sưởi ấm nó, dẫn nó tới một con đường đúng đắn.

Hơn thế, Tố Hữu còn ví von lý tưởng Cách mạng như một "mặt trời chân lý". Đây là từ ngữ liên kết vô cùng sáng tạo trong cả hình ảnh và ngữ nghĩa. Lý tưởng Cộng sản là một nguồn sáng cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, như ánh mặt trời soi tỏ thế gian, như một chân lý không bao giờ thay đổi. Ở đây, người ta như thấy một sự rưng rưng, đầy biết ơn của Tố Hữu dành cho nguồn lý tưởng rực rỡ ấy. Từ trong tăm tối, Tố Hữu bước ra ngoài ánh mặt trời chói chang, tận hưởng nó bằng tất cả tình yêu, niềm hạnh phúc, biết ơn.

Ông cũng liên tục sử dụng các động từ mạnh như "bừng, chói" để diễn tả cảm giác khi được ánh sáng Cách mạng soi sáng đường đời. Những động từ này thể hiện sự đột ngột, bất ngờ, như chính tác giả cũng được chiếu rọi một cách bất ngờ như thế, đồng thời nó nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, mạnh mẽ, quyết liệt trong tâm hồn của nhân vật thơ.

Hai câu thơ đầu như một lời kể tự sự vừa du dương lại đầy tình cảm chân thành, đặc biệt là câu thơ "mặt trời chân lí chói qua tim". Người ta cũng nhận thấy có một sự đột ngột khi người thanh niên trẻ tuổi được lý tưởng cách mạng soi đường và thêm nữa là cái tác động mạnh mẽ của nó lên trái tim, cảm xúc, tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ đã nhấn mạnh sự tác động của lý tưởng đó lên mặt nhận thức của mình, cũng như trên phương diện tâm hồn, tình cảm, để từ đó, trái tim nhà thơ được sưởi ấm, được chiếu sáng rạng ngời.

Tiếp theo, Tố Hữu cảm nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt nhất trong tâm hồn ông rằng:

"Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Nếu như trước đây, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng chỉ là những nỗi lo toan, sự mơ hồ, lênh đênh, mù mịt không rõ phương hướng thì giờ đây, sau khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, tâm hồn ấy chợt nảy nở, sinh sôi một cách diệu kì. Một khu vườn tâm hồn bao trọn cả một vườn cây với hoa trái, quả ngon, hương thơm và cả chim chóc nữa. Phép so sánh ấy thực tài tình và sáng tạo quá! Một tâm hồn đã giác ngộ Cách mạng giờ đây trở nên sinh động, đổi mới, bừng dậy thật sống động, dâng trào một nguồn sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tất cả những âm thanh, màu sắc trong khu vườn tâm hồn ấy đều rất tươi đẹp, rất tràn trề, rộn rã khiến cho nhà thơ phải ngây ngất mà say mê. Lối thơ vắt dòng quả đã khiến cho hai câu thơ thêm phần thú vị và sáng tạo biết bao!

Qua khổ thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã đến với lý tưởng Cách mạng bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và nhận thức, bằng tất cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả người đọc chúng ta.

Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của nhà thơ mà còn thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên công cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong lý trí của người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi.

"Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên những người lao động nghèo vì thế ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm tình của giai cấp vô sản. Thế nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao quý ấy, ông đã nhận ra rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái ta chung của xã hội, của mọi người. Chính vì thế, ông tình nguyện "buộc lòng" mình với "mọi nhà" để mà cảm nhận được, để mà hòa chung với "bao hồn khổ" khác. Động từ "buộc" ở đây không có nghĩa là bắt buộc mà trái lại nó lại là một hành động tự nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.

Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, "trang trải" để tâm hồn mình được trải rộng ra với cuộc đời mà thấu hiểu, đồng cảm với mỗi con người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có được sự chuyển biến vô cùng lớn lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.

Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn "bâng khuâng" mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã hiểu được rằng tình thần đoàn kết, sự yêu thương dành cho quần chúng lao động, sự sát cánh cùng nhau của nhà thơ với những kiếp người sẽ tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Hình ảnh thơ được nhà thơ sử dụng "khối đời" là hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung cảnh ngộ với nhau, cùng đồng sức đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy quyền sống, quyền được độc lập tự do.

Nhà thơ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với thế giới xung quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không còn thờ ơ trước cuộc đời nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và bằng cả trái tim giàu tình yêu thương, hữu ái giai cấp nữa. Để miêu tả điều đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của mình cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào tinh thần đoàn kết của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta chung của mọi con người.

Nhận thức luôn song hành cùng tình cảm, lý trí luôn song hành cùng tâm hồn. Vậy nên nếu như ở khổ trên, nhà thơ đã nhận thấy sự chuyển biến trong nhận thức của mình thì ở đây, nhà thơ lại nhận thấy sự chuyển biến thật mạnh mẽ trong tình cảm của mình.

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ".

Tấm lòng kiên trung của người chiến sĩ trẻ muốn mang đến cho những lớp người kia có được áo cơm, có được sự bình an, no ấm, bớt đi nỗi cực nhọc. Chính vì vậy, ở khổ thơ cuối này, ông đã khẳng định vị thế của mình, khẳng định trách nhiệm cũng như mong ước được chở che, bao bọc, gắn bó với mọi người.

Ông tự nhận mình là "con", "là em", "là anh" của "vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu em nhỏ". Ông coi những người ở tầng lớp vô sản ngoài kia là ruột thịt của mình, đặt lên vai mình thứ trách nhiệm nặng nề, ông muốn được gắn bó với họ, cùng nhau gánh vác, cùng nhau chia sẻ chứ không muốn trở thành một kẻ bề trên mà ban ơn cho họ.

Động từ "đã là" cho thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của ông dành cho mọi người và thứ tình cảm ấy dường như đã có từ rất lâu. Đặt trong tình huống, Tố Hữu vốn là một tiểu tử sản, vốn là tầng lớp đề cao lối sống cá nhân, vị kỷ vậy mà ở đây, ông lại san sẻ tất cả tình cảm của mình mà không hề tính toán, so đo. Có lẽ chính cái lý tưởng Cách mạng ấy đã soi đường, đã chiếu rọi biến đổi nhận thức cũng như tình cảm của Tố Hữu.

Nhà thơ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp trong xã hội để hòa mình vào trong giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm chân thành. Thế mới biết sức mạnh của lý tưởng Cách mạng to lớn đến nhường nào, nó đã cảm hóa, biến đối những người trí thức tiểu tư sản, vốn có lối sống cá nhân, biến họ trở thành những con người của Cách mạng, trở thành những thi sĩ của Cách mạng, không còn quẩn quanh trong cái chủ nghĩa cá nhân ích kỉ. Điều này, chúng ta không chỉ thấy riêng ở Tố Hữu mà còn trong lớp các nhà thơ nhà văn khác như Huy Cận, Xuân Diệu, …

Với thể thơ thất ngôn quen thuộc, cùng cách thể hiện đầy nhịp nhàng, khúc chiết, nhà thơ đã viết lên một tác phẩm với những cảm xúc chân thành nhất để ca ngợi sức mạnh của lý tưởng Cách mạng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh hết sức thú vị đã diễn tả niềm vui, niềm hân hoan, vui sướng vô bờ của một chàng trai trẻ khi đang băn khoăn tìm lối đi cho cuộc đời thì bắt gặp được ánh sáng của Cách mạng chiếu rọi để từ đó dấn thân vô, hòa nhập với các mối quan hệ, với các tầng lớp khác đấu tranh cho quyền sống, độc lập tự do của dân tộc. Ngôn từ trong thơ vô cùng chân thành, giản dị, hình ảnh thơ được so sánh, bộc lộ tư tưởng Cách mạng rất sâu sắc. Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu trong thơ ca Cách mạng.

"Từ ấy" đã đánh dấu bước ngoặt trưởng thành vô cùng lớn lao của nhà thơ Tố Hữu trên chặng đường Cách mạng. Nó là tiếng reo mừng, sung sướng của một người thanh niên trẻ khi tìm được đường đi cho mình để từ đó, quyết tâm đem sức mình cống hiến cho Tổ quốc, đó là tấm gương để lớp trẻ chúng ta noi theo.

Phân tích bài thơ Từ ấy của tác giả Tố Hữu - Sách tài liệu

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 5)

Tố Hữu là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng Việt Nam với những tác phẩm tự sự nhưng dạt dào tình cảm. "Từ ấy" là bài thơ rút trong tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mạng. Bài thơ chính là tiếng reo vui của tác giả khi được đứng trong hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam.

"Từ ấy" là một từ chỉ thời gian đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa lớn trong cuộc đời của người thanh niên cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành, lớn lên về tâm hồn cũng như lý tưởng cách mạng. Giây phút ấy khiến cho tác giả nghẹn ngào, dường như không nói được nên lời, chỉ có thể dồn trong hai từ "từ ấy".

Từ ấy chính là cảm xúc chủ đạo của bài thơ, là tiếng lòng reo vui, rộn rã, tràn ngập tin yêu của một người thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng. Sau thời gian xác định "từ ấy" chắc chắn người thanh niên đó sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc đời cũng như trong con đường hoạt động cách mạng của mình.

Tác giả đã mở đầu bằng một lời thơ rộn ràng, tràn ngập tin yêu:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Tác giả vui mừng không nói nên lời, chỉ biết ngập ngừng "từ ấy", và sau thời gian "từ ấy" đó chính là những bước ngoặt cũng như sự giác ngộ lý tưởng lớn. Một loạt hình ảnh ẩn dụ "bừng nắng hạ", "mặt trời chân lý" đều mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi sáng, tốt đẹp, rạng ngời nhất.

Từ "bừng" ở câu thơ đầu tiên như làm sáng lên cả bài thơ, từ bừng mang ý nghĩa là thức tỉnh, một sự thức tỉnh có quá trình. Nắng hạ là thứ nắng chói chang, nắng đẹp, tràn ngập niềm vui và sức sống. Tác giả như bước ra, thoát khỏi chốn tăm tối, bế tắc, không lối thoát của cuộc đời để đến với ánh sáng của cách mạng và niềm tin. Giây phút được bước vào hàng ngũ của đảng như là "chân lý", điều đáng trân trọng một đời. Sự chuyển biến rõ nhất diễn ra trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Sự thức tỉnh và giác ngộ cách mạng khiến tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như một vườn hoa tràn ngập tiếng chim và rực rỡ sắc hoa. Phép so sánh ấy thực sự rất tài tình và đầy ý nghĩa. Một tâm hồn thực sự sinh động, tràn đầy sức sống, tác giả đã biến cuộc đời mình tràn ngập niềm tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này nhưng dường như cả bài thơ đã được vẽ lên bằng một gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.

Sự giác ngộ trong lý tưởng cách mạng đó đã hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn:

Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm vạn khối đời

Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ nét cái tôi cá nhân vừa bộc lộ cái ta rộng lớn, bao la nhất. Từ "buộc" ở câu thơ đầu tiên gợi lên cảm giác gắn bó đối với người chiến sĩ cách mạng với mọi người. Từ "buộc" chính là sợi dây, là con đường, là lẽ sống mà người chiến sĩ đã lựa chọn và theo đuổi đến cùng. Với một tấm lòng kiên trung, tình yêu thương rộng lớn, người chiến sĩ muốn mang đến sự bình an, ấm no nhất cho nhân dân, để có thể cùng nhân dân gánh bớt nỗi khổ, cực nhọc.

Từ chân lý muốn được bao bọc, chở che, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối chính là lời khẳng định vị thế của mình:

Tôi là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ

Khổ thơ mang ý nghĩa liệt kê nhưng nó vẫn toát lên được tình cảm, sự tin yêu và gắn bó của người chiến sỹ đối với toàn thể nhân dân. Từ "là" được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh mối quan hệ hiển nhiên giữa mình với nhân dân, gắn bó với họ, cùng san sẻ, cùng gánh vác khổ đau, đương đầu với sóng gió, quyết không để lùi bước. Tinh thần ấy của tác giả thực sự đáng ngưỡng mộ và khâm phục. Tác giả coi mình cũng như một người vô danh "cù bất cù bơ" nhưng có tinh thần đoàn kết và kiên trung

Quả vậy, "Từ ấy" là bài thơ ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của một con người và của một chặng đường cách mạng gian nan. Tiếng reo vui của tác giả như hòa chung vào với niềm vui chung của nhân dân.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 6)

"Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng, một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi..."- mỗi khi nghe bài hát ấy cất lên từ tiếng radio, lòng tôi lại xúc động, bồi hồi nghĩ về nhà thơ Tố Hữu. Một con người suốt cuộc đời cách mạng, suốt cuộc đời thơ dành cho Đảng một tình thương với niềm tin yêu mãnh liệt. Những vần thơ ông viết về Đảng đều thật đẹp, thật đáng trân trọng và gìn giữ. Một trong số đó phải kể đến tác phẩm Từ ấy được tác giả viết vào năm 1938, trong buổi đầu giác ngộ lý tưởng Đảng.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”

Câu thơ đầu mở ra thời điểm, hoàn cảnh mà tác giả có những thay đổi trong nhận thức và tâm hồn mình. Trạng ngữ "từ ấy" được đặt đầu câu nhằm nhấn mạnh thời gian có ý nghĩa trọng đại với "tôi", đó là vào năm 1938, tác giả được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện ấy đã mở ra trước mắt nhà thơ một cuộc đời mới, một hành trình cách mạng mới mà trên con đường ấy có lý tưởng của Đảng sáng soi. Ánh sáng cộng sản đã tác động mạnh mẽ đến nhân vật trữ tình khiến lòng "tôi" như "bừng nắng hạ". Động từ "bừng" kết hợp với danh từ "nắng hạ" đã diễn tả nỗi rạo rực trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ. "Nắng hạ" là cái nắng chói chang, rực rỡ và lâu bền nhất , "nắng hạ" là nắng trong tim của một tâm hồn đang rạo rực bùng cháy.

"Mặt trời chân lý chói qua tim"

Hình ảnh mặt trời vốn được dùng nhiều trong thi ca. Đó là mặt trời của mẹ- mặt trời bé con trong thơ Trần Đăng Khoa:

"Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng"

Hay trong thơ Viễn phương cũng từng viết:

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"

Mặt trời là ẩn dụ cho những gì quý giá nhất, có sức sống lâu bền nhất trong mỗi người. Tố Hữu cũng không nằm ngoài lựa chọn đó, ông đã ví ánh sáng của Đảng như ánh mặt trời chân lý. Nếu Mặt trời của tự nhiên cho vạn vật sức sống, nó trường tồn theo thời gian không thể nào mất đi được thì ánh sáng của Đảng cũng như mặt trời kia, tồn tại lâu bền, trở thành chân lý bất biến, không ai có thể xóa nhòa, phủ nhận. Những lý tưởng đẹp đẽ, đúng đắn của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người yêu nước "chói qua tim". Tính từ mạnh "chói" được sử dụng đầy khéo léo như khẳng định ánh sáng mãnh liệt, chói lòa, rực rỡ của Đảng trên con đường cách mạng.

 

"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Lối so sánh ngang bằng "hồn tôi" và "vườn hoa lá" cho thấy những tình cảm dạt dào, sôi động trong tâm khảm thi nhân. Vườn hoa lá có sắc hương, có thanh âm tự nhiên, vườn hoa lá đang dạt dào sức sống cũng như tâm hồn người lính vậy. Đó là một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, rạo rực, mê say, tin yêu Đảng, là tâm hồn đang khát khao tận hiến cho cuộc đời khi được lý tưởng Đảng soi đường, dẫn lối. Có lẽ, chính từ đầy, cuộc đời của tác giả sẽ bước sang một trang mới, đầy hy vọng và tươi sáng hơn.

Trí tuệ giác ngộ lý tưởng cách mạng, tâm hồn trở nên rộng mở hơn. Bây giờ, nó không còn là ý thức lo cho riêng cuộc đời mình nữa mà là sự gắn bó, gắn kết với mọi người, cho cuộc đời chung:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ.
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Danh từ “tôi” đứng đầu câu kết hợp với động từ "buộc" như một sự chủ động kết sợi dây gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân mình. Kể từ nay, mọi hành động, mọi việc làm của "tôi" đều gắn với lợi ích chung của mọi người, vì nhân dân, vì đất nước. Người cộng sản đã tự nhận thức được trách nhiệm, lẽ sống và sứ mệnh của mình trong cuộc đời làm cách mạng. Đó là mong muốn được thấu hiểu nhân dân mình, được chia sẻ với nỗi khổ đau, gian khó của nhân dân mình, để cùng nhân dân mình gắn bó, đoàn kết tạo nên sức mạnh bất diệt đánh tan quân thù, đem lại bình yên cho đất nước.

Khổ thơ cuối cất lên như lời khẳng định mang tính chân lý về vị trí và trách nhiệm và sứ mệnh của người chiến sĩ giữa cuộc đời:

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ"

Một tình cảm gắn bó lâu bền và thắm thiết của người chiến sĩ với nhân dân toát lên trong từng vần thơ đẹp. Phép liệt kê cùng điệp từ "là" đã nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết của "tôi" với nhân dân mình. Đó là tinh thần sẵn sàng bảo vệ, giúp đỡ nhân dân, sẻ chia với những khổ cùng của nhân dân. Làm con, làm bạn, làm anh, làm em, làm chiến sĩ, dù ở bất kì cương vị nào đi nữa thì vẫn một lòng gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân đương đầu khó khăn, vượt qua những sóng gió, quyết không lùi bước, dừng chân. Đó là một tinh thần thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu, là một tinh thần thép giữa cuộc đời. Cái tôi bây giờ không còn là một bản thể riêng rẽ nữa mà nó đang hòa trong cái ta chung, một cái tôi vì cộng đồng thật đáng ngưỡng mộ.

Bài thơ Từ ấy kết thúc như một tiếng reo vui của tác giả trong chặng đường đáng nhớ của cuộc đời. Đồng thời, đằng sau đó là nỗi thiết tha, tin yêu với Đảng, từng lời thơ mang cả tấm lòng ngợi ca ánh sáng của Đảng, của cách mạng. Ai đó từng nói rằng, một tác phẩm thành công không chỉ bộc lộ được những cảm xúc bên trong tâm hồn tác giả mà còn phải tác động đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức trong lòng người đọc. Nếu xét theo những tiêu chí ấy, ta có thể khẳng định Từ ấy chính là một tác phẩm vô cùng thành công, đáng để bao thế hệ học tập và noi theo.

 

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 7)

Khi nhắc đến nhà thơ trữ tình chính trị hàng đầu của thơ ca Việt Nam, hẳn ai cũng biết đến Tố Hữu. Ông là nhà văn lớn, nhà thơ lớn của dân tộc, là cây bút xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Thơ ông biểu hiện về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của người cách mạng. Đặc biệt, thơ ông đi sâu khai thác đời sống chính trị của đất nước tới tâm tư, tình cảm, cuộc đời hoạt động cách mạng của bản thân. Một trong những bài thơ biểu hiện rõ nhất cuộc đời cách mạng của ông là bài thơ: Từ ấy.

"Từ ấy" là bài thơ rất hay, đặc biệt bởi đây là bài thơ đánh dấu cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ. Tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với cảm xúc, suy tư sâu sắc Tố Hữu viết nên "Từ ấy". Bài thơ nằm trong phần "Máu lửa" của tập "Từ ấy". Bài thơ là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim"

Đó chính là giây phút ông nhận ra lẽ sống lớn, là giây phút "Mặt trời chân lí chói qua tim". Bắt gặp được lẽ sống, lí tưởng cách mạng soi sáng, chỉ đường, làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Với những hình ảnh ẩn dụ : nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim. Tố Hữu đã khẳng định một lí tưởng cách mạng: Đảng là mặt trời chân lí tỏa ra lẽ phải, sự đúng đắn, soi đường đưa cả dân tộc thoát khỏi ách nô lệ. Cũng như mặt trời của tự nhiên, tạo hóa tạo ra sức sống, ánh sáng, tỏa hơi ấm cho vạn vật. Bên cạnh đó, bằng cách sử dụng những động từ mạnh : bừng, chói. Tác giả muốn nhấn mạnh lên một điều rằng : ánh sáng cách mạng chính là ánh sáng chân lí, đã làm thức tỉnh lòng yêu nước nồng nàn trong lòng mỗi người con dân tộc Việt.

"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Chính giây phút bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là giây phút của hương thơm và ánh sáng. Tố Hữu đón nhận lí tưởng như cỏ cây, hoa lá, đón nhận ánh sáng mặt trời. Trong khi băn khoăn tìm kiếm lẽ đời, tác giả đã bắt gặp ánh sáng cách mạng. Được giác ngộ lí tưởng cao đẹp của Đảng, tác giả thêm tràn đầy sức sống, thêm yêu đời, thêm yêu người. Và nó cũng khiến tâm hồn nhà thơ thêm kiên định và thêm tràn đầy niềm tin với tâm trạng say sưa, náo nức, rộn ràng của một trái tim nhiệt huyết.

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ dân tộc. Bằng cách sử dụng thể thơ thất ngôn, làm âm điệu trở nên trạng trọng. Cách ngắt nhịp trong bài tạo ra tính nhạc : Từ ấy / trong tôi / bừng nắng hạ... làm cho bài thơ thêm hay, thể hiện đúng tâm trạng của nhà thơ:

"Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Khổ thơ thứ hai thể hiện rõ nhất cái tôi trữ tình. Là cái tôi mang giai cấp thời đại, đại diện cho dân tộc. "Tôi buộc hồn tôi với mọi người" chính là sự hài hòa giữa cái tôi và cái ta, giữa cá nhân và tập thể để từ đó mở lòng mình, đồng cảm với mọi người xung quanh. Từ đó tạo nên tính đoàn kết, sức mạnh tập thể. Đặc biệt là quần chúng nhân dân lao động cùng nắm tay đoàn kết lại thành một khối để vượt qua mọi khó khăn gian khổ.

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ..."

 

Đoạn cuối cùng hiện lên như khẳng định, nhấn mạnh một tình cảm gia đình đầm ấm, thắm thiết. Đó chính là một đại gia đình lớn của quần chúng nhân dân lao động. Mà trong đó tác giả là con, là em, là anh của đại gia đình đó. Tấm lòng của tác giả đã hòa vào tấm lòng đại gia đình dân tộc. Thấu hiểu và chia sẻ tấm lòng đó biểu hiện thật xúc động và chân thành. Từ đấy, ta thấy được tấm lòng căm phẫn của nhà thơ trước cuộc đời ngang trái. Tác giả xót thương cho những số phận của "vạn kiếp phôi pha", của những em nhỏ không có áo cơm, "cù bất cù bơ...". Ông mở lòng đón nhận những kiếp người đau khổ, nhân dân cần lao như đón nhận một cách chân thành những người thân ruột thịt. Câu "Không áo cơm cù bất cù bơ..." để lại ba dấu chấm lửng như tấm lòng của tác giả trải rộng ra, mở lòng mình với bao hồn khổ. Bài thơ rất đặc biệt không chỉ về ý thơ mà còn cả về tứ thơ. Tác giả dùng thể thơ truyền thống, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ.

Là lời tâm nguyện của chàng thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng và Bác Hồ. Đồng thời đó cũng là tâm nguyện gắn bó với nhân dân lao khổ. Và bài thơ cũng chính là mốc thời điểm mở đầu cho cuộc đời hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Bằng lời thơ giàu cảm xúc, suy tư theo lí tưởng cách mạng. Đó chính là chất lãng mạn của thi ca Việt Nam.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 8)

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
...
Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim".

"Từ ấy" là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ "bừng nắng hạ" là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. "Bừng nắng hạ" là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh "mặt trời chân lí chói qua tim" là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ "bừng" và từ "chói". Từ "bừng" chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ "chói" chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh "bừng nắng hạ", "chói qua tim" đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ "chói qua tim" là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Hình ảnh "vườn hoa lá" và "rộn tiếng chim" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.

 

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi"
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Động từ "buộc" thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. "Buộc" còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ "trang trải" khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. "Khối đời" là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng của nhà thơ Tố Hữu.

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với "vạn nhà" (Tôi đã là con của vạn nhà: "vạn nhà" là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, "vạn kiếp phôi pha" là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, "vạn đầu em nhỏ" là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ "đã là" là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.

Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 9)

Tố Hữu - một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của dòng Văn học cách mạng kháng chiến Việt Nam. Người đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn - rạo rực hăm hở tâm huyết của người lính trẻ, với chất giọng đằm thắm chân thành ngọt ngào của người dân xứ Huế mộng mơ, thơ Tố Hữu dường như đã thấm đẫm chân lí của thời đại, chân lí giác ngộ cách mạng, khi bắt gặp lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Từ ấy là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu (1937 - 1947). Đây là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là muôn năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi động đã diễn ra nhiều biến cố to lớn làm rung chuyển và thay đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam.

Có thể nói với Từ ấy đã đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Tố Hữu, đây là sự khẳng định lí tưởng của một chiến sĩ trẻ khi đã có Đảng dẫn lối soi đường.

Bài thơ này Tố Hữu đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt đột ngột, cảm xúc thực của một trái tim đang khao khát được giác ngộ, để đi theo chân lí của cách mạng, để tìm ra một hướng đi cho tương lai. Mở đầu bài thơ, tác giả đã dùng từ Từ ấy rất độc đáo - không hiểu là từ khi nào, thói quen không được xác định rõ ràng, cũng không phải là dạo ấy, dạo đó, hay là từ ngày đó... mà người chỉ dùng một cụm từ từ ấy, để diễn tả tâm trạng của mình khi bắt gặp lí tưởng cho cuộc đời. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ - là câu thơ như chợt tỉnh giấc sau một đêm dài mộng mị, của từ bừng câu thơ như trở nên có hồn hơn, chở đầy tâm trạng khi xao xuyến, khi thì rạo rực băn khoăn hớn hở. Tố Hữu đã rất tinh tế khi dùng câu thơ này để diễn tả một cái tôi bản ngã của một chàng thanh niên 19 tuổi đang băn khoăn đứng giữa cuộc đời: Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước - Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Thì cùng lúc đó người đã giác ngộ lí tưởng cách mạng. Ánh sáng lí tưởng đã chiếu rọi vào tâm hồn trẻ làm bùng nổ một thế giới đầy hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự gặp gỡ lí tưởng đã dẫn đến sự đổi thay cơ bản mối quan hệ con người với toàn bộ thế giới, đem lại sự gắn bó ruột thịt với muôn người lao khổ để tạo thành sức mạnh to lớn của cách mạng. Sự gặp gỡ lí tưởng cũng đã tạo nên một cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ: Cái tôi tự ý thức sâu sắc về mình đồng thời là cái tôi gắn bó với muôn người, ở giữa mọi người. Cái tôi ấy đã hòa chung vào với cộng đồng khi đã thấy:

 

Mặt trời chân lí chói qua tim.

Mặt trời - là một biện pháp tu từ ẩn dụ, để chiếu ánh sáng lí tưởng cách mạng, mặt trời ấy có đủ sức mạnh và ánh sáng chân lí để soi rọi bao con người, bao chiến sĩ trẻ, bao thanh niên trí thức chưa được giác ngộ. Chỉ có mặt trời ấy mới đủ chân lí vĩnh cửu để soi rọi bao nẻo đường, chiếu sáng mọi ngóc ngách trong sâu thẳm của trái tim.

Niềm vui tràn trề của một tâm hồn hòa vào niềm hân hoan của cả một thế hệ thanh niên cách mạng cũng đã tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê, trong bài Hy vọng, Tố Hữu đã viết :

Ôi vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo
Bốn phương trời vào theo dấu muôn chân
Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong túi đầy ánh sáng.

Tố Hữu đã bộc lộ một cảm xúc, một niềm tin vào tương lai: Người thanh niên cách mạng tự cảm thấy:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Tâm hồn của cái tôi trữ tình lúc này đã được mở rộng, để đón nhận những chân lí tuyệt vời mà Đảng đã đem lại, những hương vị tuyệt vời của cuộc sống đang nô nức reo vui vào một niềm vui mới, niềm vui khi đã có Đảng dẫn đường. Tố Hữu đã dùng biện pháp so sánh vì hồn tôi lúc này như là một vườn hoa lá - lại có cả hương thơm và rộn rã tiếng chim. Hương vị ngọt ngào của cuộc đời thực đã phai màu trong suy nghĩ của người thanh niên cách mạng, niềm tin của người thanh niên cách mạng mặc dầu mang màu sắc lí tưởng hóa, nhưng lại rất chân thành và trong trẻo là tâm huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ.

Từ ấy đã thể hiện được bầu nhiệt huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ, của một cái tôi trữ tình buổi đầu nặng trĩu những ưu tư, ưu phiền của cuộc đời. Song đã bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của con người đối với cuộc đời, của niềm tin vào một tương lai sáng huy hoàng, vào chân lí của cách mạng.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" (mẫu 10)

Chế Lan Viên từng nói "Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính... anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp". Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu - một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập Đảng với niềm vui khôn xiết:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

"Từ ấy" là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cách mạng là "những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi" nhưng vào năm 1938, gặp Đảng là lúc tìm được ánh sáng. "Từ ấy" không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiêng liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy, trong hồn thi sĩ "bừng nắng hạ". Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu. Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh, hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, "nắng hạ" trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm "bừng" sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của "mặt trời chân lí" là ánh sáng của Đảng.

Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh "vườn hoa lá", "tiếng chim ca",... mở ra cho người đọc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng. Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết.

Việc sử dụng động từ "buộc" thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người, tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,... Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn "trang trải" với "khối đời". Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.

Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:

Ta đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối là sự xuất hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn "vạn nhà", "vạn kiếp", "vạn đầu" và đại từ "ta", tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ, tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này. Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên, có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.

Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 11)

"Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng, một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi..."- mỗi khi nghe bài hát ấy cất lên từ tiếng radio, lòng tôi lại xúc động, bồi hồi nghĩ về nhà thơ Tố Hữu. Một con người suốt cuộc đời cách mạng, suốt cuộc đời thơ dành cho Đảng một tình thương với niềm tin yêu mãnh liệt. Những vần thơ ông viết về Đảng đều thật đẹp, thật đáng trân trọng và gìn giữ. Một trong số đó phải kể đến tác phẩm Từ ấy được tác giả viết vào năm 1938, trong buổi đầu giác ngộ lý tưởng Đảng. 

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”

Câu thơ đầu mở ra thời điểm, hoàn cảnh mà tác giả có những thay đổi trong nhận thức và tâm hồn mình. Trạng ngữ "từ ấy" được đặt đầu câu nhằm nhấn mạnh thời gian có ý nghĩa trọng đại với "tôi", đó là vào năm 1938, tác giả được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện ấy đã mở ra trước mắt nhà thơ một cuộc đời mới, một hành trình cách mạng mới mà trên con đường ấy có lý tưởng của Đảng sáng soi. Ánh sáng cộng sản đã tác động mạnh mẽ đến nhân vật trữ tình khiến lòng "tôi" như "bừng nắng hạ". Động từ "bừng" kết hợp với danh từ "nắng hạ" đã diễn tả nỗi rạo rực trong tâm hồn người chiến sĩ trẻ. "Nắng hạ" là cái nắng chói chang, rực rỡ và lâu bền nhất , "nắng hạ" là nắng trong tim của một tâm hồn đang rạo rực bùng cháy. 

"Mặt trời chân lý chói qua tim"

Hình ảnh mặt trời vốn được dùng nhiều trong thi ca. Đó là mặt trời của mẹ- mặt trời bé con trong thơ Trần Đăng Khoa: 

"Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng"
Hay trong thơ Viễn phương cũng từng viết: 

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ" 

Mặt trời là ẩn dụ cho những gì quý giá nhất, có sức sống lâu bền nhất trong mỗi người. Tố Hữu cũng không nằm ngoài lựa chọn đó, ông đã ví ánh sáng của Đảng như ánh mặt trời chân lý. Nếu Mặt trời của tự nhiên cho vạn vật sức sống, nó trường tồn theo thời gian không thể nào mất đi được thì ánh sáng của Đảng cũng như mặt trời kia, tồn tại lâu bền, trở thành chân lý bất biến, không ai có thể xóa nhòa, phủ nhận. Những lý tưởng đẹp đẽ, đúng đắn của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người yêu nước "chói qua tim". Tính từ mạnh "chói" được sử dụng đầy khéo léo như khẳng định ánh sáng mãnh liệt, chói lòa, rực rỡ của Đảng trên con đường cách mạng. 

"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Lối so sánh ngang bằng "hồn tôi" và "vườn hoa lá" cho thấy những tình cảm dạt dào, sôi động trong tâm khảm thi nhân. Vườn hoa lá có sắc hương, có thanh âm tự nhiên, vườn hoa lá đang dạt dào sức sống cũng như tâm hồn người lính vậy. Đó là một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, rạo rực, mê say, tin yêu Đảng, là tâm hồn đang khát khao tận hiến cho cuộc đời khi được lý tưởng Đảng soi đường, dẫn lối. Có lẽ, chính từ đầy, cuộc đời của tác giả sẽ bước sang một trang mới, đầy hy vọng và tươi sáng hơn.

 Trí tuệ giác ngộ lý tưởng cách mạng, tâm hồn trở nên rộng mở hơn. Bây giờ, nó không còn là ý thức lo cho riêng cuộc đời mình nữa mà là sự gắn bó, gắn kết với mọi người, cho cuộc đời chung: 

“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ.
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Danh từ “tôi” đứng đầu câu kết hợp với động từ "buộc" như một sự chủ động kết sợi dây gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân mình. Kể từ nay, mọi hành động, mọi việc làm của "tôi" đều gắn với lợi ích chung của mọi người, vì nhân dân, vì đất nước. Người cộng sản đã tự nhận thức được trách nhiệm, lẽ sống và sứ mệnh của mình trong cuộc đời làm cách mạng. Đó là mong muốn được thấu hiểu nhân dân mình, được chia sẻ với nỗi khổ đau, gian khó của nhân dân mình, để cùng nhân dân mình gắn bó, đoàn kết tạo nên sức mạnh bất diệt đánh tan quân thù, đem lại bình yên cho đất nước. 

Khổ thơ cuối cất lên như lời khẳng định mang tính chân lý về vị trí và trách nhiệm và sứ mệnh của người chiến sĩ giữa cuộc đời: 

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ"

Một tình cảm gắn bó lâu bền và thắm thiết của người chiến sĩ với nhân dân toát lên trong từng vần thơ đẹp. Phép liệt kê cùng điệp từ "là" đã nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết của "tôi" với nhân dân mình. Đó là tinh thần sẵn sàng bảo vệ, giúp đỡ nhân dân, sẻ chia với những khổ cùng của nhân dân. Làm con, làm bạn, làm anh, làm em, làm chiến sĩ, dù ở bất kì cương vị nào đi nữa thì vẫn một lòng gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân đương đầu khó khăn, vượt qua những sóng gió, quyết không lùi bước, dừng chân. Đó là một tinh thần thật đẹp, thật đáng quý, đáng yêu, là một tinh thần thép giữa cuộc đời. Cái tôi bây giờ không còn là một bản thể riêng rẽ nữa mà nó đang hòa trong cái ta chung, một cái tôi vì cộng đồng thật đáng ngưỡng mộ.

Bài thơ Từ ấy kết thúc như một tiếng reo vui của tác giả trong chặng đường đáng nhớ của cuộc đời. Đồng thời, đằng sau đó là nỗi thiết tha, tin yêu với Đảng, từng lời thơ mang cả tấm lòng ngợi ca ánh sáng của Đảng, của cách mạng. Ai đó từng nói rằng, một tác phẩm thành công không chỉ bộc lộ được những cảm xúc bên trong tâm hồn tác giả mà còn phải tác động đến tư tưởng, tình cảm, nhận thức trong lòng người đọc. Nếu xét theo những tiêu chí ấy, ta có thể khẳng định Từ ấy chính là một tác phẩm vô cùng thành công, đáng để bao thế hệ học tập và noi theo.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 12)

Đọc bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu ta không chỉ cảm nhận được niềm vui sướng, say mê của chàng trai trẻ trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng cách mạng. Mà hơn thế, ta nhận ra rằng, hóa ra chính là vào thời điểm “Từ ấy” mà cách mạng Việt Nam có thêm một chiến sĩ yêu nước, thi ca Việt Nam có thêm một nhà thơ của quần chúng nhân dân. Mỗi một khổ thơ là một giai đoạn trong quá trình chuyển biến tư tưởng, tình cảm của Tố Hữu, qua từng câu chữ, từng hình ảnh người đọc như đang được sẻ chia, cùng chung vui, cùng tâm nguyện với người thanh niên yêu nước này.

Mở đầu bài thơ là một lời tự sự như là giới thiệu của tác giả đối với người đọc về một sự kiện có ý nghĩa lớn lao trong cuộc đời mình:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

Hai chữ “Từ ấy” khiến người đọc không khỏi băn khoăn, tò mò mà suy nghĩ xem “từ ấy” là từ khi nào? Từ bao giờ? Nhưng chỉ cần đọc hết câu thơ là chúng ta có thể đoán ra đó chính là thời điểm Tố Hữu được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được trở thành một chiến sĩ cộng sản. “Từ ấy” là mốc thời gian vô cùng đặc biệt, giống như cột mốc đánh dấu trong chặng đường đời của tác giả. Ta có thể cảm nhận được sức mạnh, sự lan tỏa và giá trị của lý tưởng cộng sản qua những lời thơ so sánh, những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc như “nắng hạ”, “mặt trời chân lý”, “chói qua tim”. 

Đối với Tố Hữu, chẳng có nguồn sáng nào sáng hơn lý tưởng cộng sản, ánh sáng ấy làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ, là ánh nắng của mặt trời chân lý. Mặt trời của đời thường chỉ tỏa ánh nắng, hơi ấm và sự sống còn mặt trời chân lý lại tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, soi đường chỉ lối trong nhận thức con người. Lý tưởng cách mạng với Tố Hữu cũng lớn lao, rạng rỡ tựa ánh mặt trời, cũng giống như cây cối được tắm nắng, tâm hồn chàng trai trẻ đang bị mây mù bao phủ đã được xua tan bằng mặt trời của cách mạng. 

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Câu thơ đã mở ra một thế giới tràn đầy sự sống, tràn đầy hương sắc và âm thanh rộn rã. Nếu ánh nắng mặt trời mang đến sự sống, giúp cho cây cối sinh sôi phát triển thì ánh sáng cộng sản cũng đã “tưới” lên tâm hồn khô cằn của tác giả nguồn sức sống dạt dào, phong phú. Tâm hồn nhà thơ tràn ngập những cảm xúc hân hoan, vui sướng, đó tựa như khu vườn hoa lá tươi tốt đang phô ra tất cả nhựa sống căng tràn nhất “rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

"Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Những quan niệm về lẽ sống luôn có sự khác biệt giữa các giai cấp và giữa cá nhân từng người. Khi đã được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu đã không còn là một tiểu tư sản nữa mà đã hạ quyết tâm “buộc” bản thân mình vượt qua giới hạn cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người “Để tình trang trải khắp trăm nơi”. Lẽ sống đẹp trong nhận thức của nhà thơ chính là sự gắn bó hòa hợp giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung, có như vậy mới tạo ra được sự đồng cảm, sẻ chia lẫn nhau giữa những con người. 

Trong mối liên hệ với mọi người nói chung, Tố Hữu đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ, “khối đời” chính là khối người cùng chung cảnh ngộ cuộc đời cùng đoàn kết chặt chẽ và phấn đầu vì mục tiêu chung. Chẳng còn là Tố Hữu sống cho riêng mình mà chàng thanh niên này đã đặt mình giữa dòng đời, trong sự rộng lớn của quần chúng lao khổ, cũng chỉ có ở đây nhà thơ mới tìm thấy niềm vui, ý nghĩa cuộc đời bằng chính giao cảm của trái tim. Lý tưởng cộng sản đã giúp cho Tố Hữu vươn lên những tình cảm cá nhân để có được tình cảm hữu ái với quần chúng lao khổ, đó giống như tình thân giữa những người ruột thịt “là con”, “là anh”, “là em”. 

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ".

Nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân trở thành thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ, từ đó bộc lộ sự căm giận trước bất công, trái ngang của cuộc đời người lao động, của những “kiếp phôi pha”, những em nhỏ “không áo cơm cù bất cù bơ”. Lấy đó làm động lực, Tố Hữu càng hăng say hoạt động cách mạng, quần chúng lao khổ chính là nguồn cảm hứng sáng tác chủ yếu của nhà thơ để rồi cho ra đời nhiều tác phẩm tiêu biểu như Lão đầy tớ, Một tiếng rao đêm, Tiếng hát sông Hương.

Có thể nhận định rằng, bài thơ Từ ấy của Tố Hữu chính là một bản tuyên ngôn về quan điểm và cảm hứng sáng tác trong cuộc đời sự nghiệp của Tố Hữu. Bài thơ như một lời thức tỉnh thế hệ trẻ phải có nhận thức về lí tưởng, tìm kiếm lí tưởng của mình để lấy đó làm lẽ sống, là mục đích của cuộc đời. Cuộc đời sẽ trở nên ý nghĩa nếu chúng ta có lí tưởng để hướng đến và phấn đấu, nỗ lực hết mình để thực hiện lí tưởng đó.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 13)

Tố Hữu (1920-2002), là một nhà thơ có nhiều đóng góp lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và nền thơ ca trữ tình cách mạng nói riêng. Sự nghiệp thơ ca của ông luôn gắn liền sự nghiệp cách mạng nhiều vẻ vang mà cũng lắm gian lao, trong đó Tố Hữu đóng vai trò là một sử gia ghi chép lại lịch sử đất nước bằng những vần thơ giàu xúc cảm. Đời thơ của Tố Hữu cũng như sự nghiệp cách mạng của ông bắt đầu từ khá sớm, khi vẫn còn là một thiếu niên, Tố Hữu đã kịp ý thức được tầm quan trọng của việc giải phóng dân tộc, đồng thời giác ngộ lý tưởng cách mạng. Từ ấy là tác phẩm nằm trong tập thơ đầu tay cùng tên đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng, mở ra một con đường mới, lý tưởng mới, đưa cái tôi cá nhân của Tố Hữu hòa vào cái “ta” chung của cả dân tộc, bắt đầu một cuộc đời thơ gắn bó chặt chẽ với đời cách mạng.

Từ ấy ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, khi Tố Hữu chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng, trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất gánh vác trên vai những sứ mệnh to lớn trong tương lai. Đối với Tố Hữu đây là một sự kiện đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời, trở thành mốc son chói lọi trong cả sự nghiệp cách mạng kéo dài suốt mấy chục năm, đi qua cả hai cuộc kháng chiến đầy cam go của dân tộc. Tố Hữu có ý thức giác ngộ cách mạng từ rất sớm, bắt đầu tham gia kháng chiến tự phát từ khi mới mười mấy tuổi, nhưng chỉ đến khi được chính thức bước vào hàng ngũ của Đảng ông mới thực sự thoát ra khỏi sự bế tắc của trí thức đương thời để đến với lý tưởng giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, định hướng một cách rõ ràng cho con đường chiến đấu kéo dài mấy thập kỷ của mình. Tố Hữu đã viết Từ ấy để ghi lại kỷ niệm về bước ngoặt lớn của cuộc đời với những xúc cảm hạnh phúc, vui sướng, tự hào đến tột độ, đồng thời cũng thể hiện những sự thay đổi rõ ràng trong nhận thức của ông trước một chặng đường mới đầy hứa hẹn.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

“Từ ấy” là hai từ phiếm chỉ mốc thời gian thật đặc biệt và mang nhiều ý nghĩa, mặc dù không chỉ cụ thể ấy là ngày tháng năm nào, thế nhưng đối với Tố Hữu đó là ngày thiêng liêng và đáng nhớ nhất trong cuộc đời cách mạng mấy mươi năm của mình. Được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi mới tròn 18 tuổi, không chỉ với riêng gì Tố Hữu mà dù là với bất kỳ một con người nào, đó cũng là một sự kiện vô cùng đáng tự hào. Đối với Tố Hữu, sau khoảng thời gian liên tục đấu tranh, bế tắc trong con đường trí thức tiểu tư sản mà vẫn chưa tìm được lối ra thì có thể nói rằng vào Đảng là một bước ngoặt lớn, có tính chất quan trọng, đưa nhà thơ thoát ra khỏi cảnh “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng hay để nước trôi”. 

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

Tâm hồn vốn dĩ mệt nhoài, hoang mang trước thế sự, đứng trước ánh sáng soi đường của Đảng, tựa như một căn phòng tăm tối, ngột ngạt bỗng được soi tỏ bởi ánh dương ấm áp sau bao ngày bị khóa chặt. Mà ở đây tác giả dùng đến “nắng hạ”, một nguồn sáng dồi dào và mạnh mẽ, có sức lan tỏa, soi rọi đến từng ngóc ngách để ẩn dụ cho lý tưởng cách mạng. Đó là một hình ảnh đẹp và ấn tượng, thể hiện sức ảnh hưởng của Đảng đến sự biến đổi trong tâm hồn tác giả, từ chỗ tối tăm lạc lõng, sang việc được khai sáng, mở ra những tầm nhìn, những nhận thức mới. Từ “bừng” cũng mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về sự giác ngộ lý tưởng cách mạng một cách toàn diện, toàn tâm, toàn ý, cũng như niềm vui, niềm phấn khởi mạnh mẽ đang chảy trôi trong suốt huyết quản người chiến sĩ trẻ, khiến cả thân thể và tâm hồn đều như đang bừng sáng, toát lên niềm vui, lòng nhiệt huyết vô cùng.

 “Mặt trời chân lý chói qua tim”, là ý thơ nối tiếp của câu thơ đầu, trong đó “mặt trời chân lý” cũng lại là một hình ảnh ẩn dụ của lý tưởng cách mạng, mà Tố Hữu đã nâng niu đặt ngang tầm vóc vũ trụ, để khẳng định sự vĩ đại của Đảng trong công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. “chói qua tim” thể hiện sức xuyên thấu mạnh mẽ, khả năng khai mở, đánh thức con người từ trong tối tăm, lạc lõng, mang lý tưởng chiếu thẳng vào trái tim ấm nóng, đưa đến từng tế bào trong cơ thể. Với cách viết đầy trân trọng và thiêng liêng như thế, càng khẳng định một điều đối với Tố Hữu việc lựa chọn đứng vào hàng ngũ của Đảng từ khi rất sớm, đó không chỉ là một vinh dự đặc biệt mà còn là lựa chọn đúng đắn và sáng suốt nhất trong cuộc đời mình, để rồi từ đó nền thơ ca cách mạng Việt Nam có được một ngòi bút với bút lực mạnh mẽ, sâu lắng, nhiều cảm xúc, biến văn chương thành lịch sử, thành vũ khí sắc bén phụ trợ mạnh mẽ trong công cuộc giải phóng dân tộc.

Niềm hân hoan, vui sướng khi được bước chân vào hàng ngũ của Đảng còn được Tố Hữu thể hiện một cách tinh tế trong hai câu thơ tiếp:

 “Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và đậm tiếng chim”

Tác giả đã dùng cái vô hình “hồn tôi” so sánh với cái hữu hình “vườn hoa lá” tuy trừu tượng nhưng lại vô cùng thích hợp để diễn tả những biến đổi trong tâm hồn người thi sĩ khi đứng trước niềm vui lớn của cuộc đời. Ấy là cái cảm giác rạo rực, hào hứng, tràn đầy sức sống, nhiệt huyết tựa như một vườn hoa với đầy đủ sắc màu rực rỡ, gắn với từng cung bậc cảm xúc đang bừng bừng trong lòng người chiến sĩ trẻ tuổi. Câu thơ đã  tinh tế thể hiện sức mạnh của ánh sáng soi đường, lý tưởng cách mạng dường như đã mang đến cho tâm hồn khô cằn, tối tăm bấy lâu nay một nguồn sống mới thật dồi dào, để từ nơi hoang vắng, lạnh lẽo ấy nay đã thay bằng một vườn hoa đậm sắc. Ánh sáng của đảng mang đến cho người chiến sĩ một sức sống mới tuyệt diệu vô cùng, tựa như được bắt đầu một cuộc đời mới tràn đầy hy vọng tươi sáng. 

“Rất đậm hương và rộn tiếng chim” là cách thể hiện sự tăng tiến trong cảm xúc của Tố Hữu khi đứng trước bước ngoặt lớn của cuộc đời. Ở đó không đơn thuần là Tố Hữu tìm được cho mình nguồn sáng mới, con đường mới, đánh dấu sự hồi sinh của tâm hồn như một vườn hoa lá đơn thuần, mà nó còn là một vườn hoa lá với sự phát triển rực rỡ và toàn diện đến cực hạn “rất đậm hương”. Là sự náo nhiệt, rộn rã, là những tiếng reo vui của toàn thân thể, toàn trái tim được ví như những tiếng chim đang cất khúc ca tưng bừng. Như vậy chất trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thể hiện rất rõ bằng lối thơ hơi hướng thơ Pháp, lãng mạn, tinh tế, cách so sánh, ẩn dụ rất mực uyển chuyển, nhưng vẫn không làm lu mờ đi chất “thép” của cách mạng, khi liên tục khẳng định và đề cao vai trò của Đảng trong việc giải phóng con người, mà thoạt tiên là giải phóng chính tâm hồn người thi sĩ, mở ra những nhận thức mới mẻ.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Ở khổ thơ thứ hai, ta tiếp tục nhận thấy được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận của người chiến sĩ trẻ tuổi sau khi giác ngộ lý tưởng cách mạng. Từ chỗ sống với những tình cảm cá nhân, cái tôi cá nhân, thì Tố Hữu đã nhận thức được trách nhiệm, cũng như xác định hướng đi mới sao cho xứng đáng với cuộc đời người Đảng viên. Điều đó được thể hiện trong những khát khao được cống hiến, được giúp đỡ, chia sẻ, đùm bọc với nhiều những số phận khốn khổ trong xã hội. Cái tôi cá nhân, trí thức tiểu tư sản xưa cũ đã không còn hiện diện nữa, mà thay vào đó là sự rộng mở trong hồn, với một tâm thế sẵn sàng, tự nguyện kết nối của người chiến sĩ trong câu “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”. 

Để thấu hiểu, để đồng cảm và cùng sẻ chia, sống không chỉ vì cá nhân mà hơn hết là sống vì cả một cộng đồng, lấy tình yêu thương thành trách nhiệm thiêng liêng cao cả “để tình trang trải khắp muôn nơi”. Mở rộng trái tim “để hồn tôi với bao hồn khổ”, làm tốt công tác gắng kết khối đại đoàn kết dân tộc, xóa bỏ đi sự ngăn cách giai cấp, giàu nghèo, địa vị xã hội “gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Điều đó đã đánh dấu một nhận thức lớn và đầu tiên trong trái tim người chiến sĩ trẻ ấy là nhận thức về tầm quan trọng của tấm lòng nhân ái, biết từ bỏ cái tôi cá nhân ích kỷ, hẹp hòi để hòa chung vào cái ta lớn của dân tộc, rộng rãi và dao dung. Đồng thời đó cũng là mấu chốt quan trọng, là chất keo bền vững trong việc gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, để cùng nhau giải phóng đất nước, phấn đấu vì một ngày cách mạng thành công.

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”

Sau lẽ sống mới, nhận thức của Tố Hữu còn là ở tình cảm lớn, nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của người lính cộng sản đối với xã hội. Biện pháp lặp cấu trúc “là…của…” càng nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó như keo sơn ruột thịt của người chiến sĩ cách mạng khi đứng giữa đời. Bằng tấm lòng bao dung, cái ta chung rộng lớn anh đã trở thành con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ. Lượng từ “vạn” là một con số ước lệ có ý nghĩa chỉ sự rộng lớn, bao la của tình cảm trong trái tim tác giả. Sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm của Tố Hữu chính là sự giác ngộ sâu sắc và hoàn toàn nhất trước lý tưởng cách mạng trước ánh sáng soi đường của Đảng. Giờ đây anh lên đường chiến đấu, không phải vì cái tôi cá nhân, muốn bộc lộ chí làm trai giữa trời đất mà trên hết là vì dân tộc, vì giống nòi, vì những con người mà anh xem như ruột thịt thân thương. Người chiến sĩ cách mạng đứng giữa đời khiêm tốn, ý thức được trách nhiệm của bản thân, tự nguyện, sẵn sàng gắn bó một cách sâu sắc với từng số phận trong xã hội, biết đồng cảm, sẻ chia, căm giận trước những bất công ngang trái, tất cả đều là những phẩm chất tốt đẹp nhất mà một người Đảng viên cần có, và đã thực sự được khai sáng hoàn toàn bằng lý tưởng cách mạng soi đường.

Từ ấy chính là bản nhạc mừng vui, mở đầu cho một chặng đường cách mạng đầy chông gai và thử thách của Tố Hữu, có ý nghĩa đánh dấu một mốc son chói lọi trong cuộc đời người chiến sĩ cách mạng. Đồng thời đó cũng như một lời khẳng định về sự sẵn sàng, tự nguyện, toàn tâm toàn ý, cống hiến hết mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, khi tâm hồn của người chiến sĩ được hồi sinh, trí tuệ được khai mở, nhận thức phát triển toàn diện lên một tầm cao mới, cũng cái tôi cá nhân đã hòa vào cái ta chung của dân tộc, bằng chất keo của tình yêu thương và nhân ái vô tận.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 14)

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu là một trong những cây bút tiêu biểu với tiếng thơ trữ tình – chính trị. Thơ ông có sự gắn bó chặt chẽ với chặng đường đấu tranh của dân tộc với những biến động trong đại trong lịch sử chống xâm lược. Tác phẩm “Từ ấy” ra đời vào tháng 7-1938  đã đánh dấu mốc son chói lọi trong cuộc đời tác giả khi bắt gặp lí tưởng cách mạng.

Bài thơ được gợi mở bằng những cảm xúc về niềm vui sướng hân hoan của nhà thơ khi vừa được kết nạp vào Đảng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...”

“Từ ấy” là khoảng thời gian phiếm chỉ gợi nhiều cảm xúc, đó là sự nghẹn ngào, hân hoan vui sướng ngập tràn trong tâm hồn nhà thơ. Đồng thời, đánh dấu, nhấn mạnh cột mốc quan trọng trong cuộc đời nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản. Tác giả đã sử dụng hình ảnh “nắng hạ” – ánh nắng mùa hè rực sáng , thiêu đốt để ẩn dụ cho ánh sáng cách mạng đang bừng lên rực rỡ, bùng cháy trong lí trí của tác giả. Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời chân lí” đã khẳng định sức mạnh soi sáng của Đảng. Nếu mặt trời thiên nhiên đem đến ánh sáng, sự sống cho muôn loài thì ánh sáng của Đảng chiếu rọi tâm tưởng, trái tim, tạo nên niềm hạnh phúc của nhà thơ. Như vậy, “Từ ấy” trở thành tiếng reo ca đầy hân hoan, sôi nổi của con người đang “Bâng khuâng đi kiếm lẽ ở đời” để rồi bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng”, “chói” để khẳng định sức ảnh hưởng lớn lao cùng sức mạnh của lí tưởng, ánh sáng cách mạng. Ở hai câu thơ tiếp theo, chúng ta có thể thấy được cảm xúc hân hoan, vui sướng đến tột cùng thông qua biện pháp nghệ thuật so sánh: “Hồn tôi là một vườn hoa lá”. Tâm hồn nhà thơ ngập tràn hương thơm hoa lá và rộn ràng tiếng chim, thể hiện trạng thái sôi nổi của bản thân khi nhận ra ánh sáng, lí tưởng của Đảng. Trong niềm hân hoan đó, tác giả đã tìm thấy lẽ sống cao cả của đời mình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Tác giả đã sử dụng đại từ xưng hô “tôi”, nhưng không phải là cái “tôi” của cá nhân riêng tư mà là cái “tôi” gắn bó với mọi người. Điệp ngữ “để” được nhắc lại hai lần ở mỗi câu thơ tạo nên hình thức thơ vắt dòng, nhấn mạnh nhấn mạnh ý thức tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với cuộc đời của dân tộc, nhân dân từ khi giác ngộ lí tưởng cách mạng. Đồng  thời, hàng loạt động từ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” đã thể hiện tình cảm gắn bó với nhân dân và sự nghiệp cách mạng một cách dứt khoát của người chiến sĩ, người thanh niên yêu nước đã tìm thấy lẽ sống, lí tưởng cao cả của cuộc đời mình. Như vậy, qua giọng thơ sảng khoái, hân hoan, cái “tôi” của tác giả đã hòa chung với cái “ta”, cá nhân hòa chung cộng đồng một cách tự nguyện, quyết liệt và dứt khoát để “mạnh khối đời” – khối đại đoàn kết dân tộc. Đó cũng chính là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ khép lại bằng sự chuyển biến về tình cảm của tác giả:

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...”

Bằng điệp cấu trúc “đã là/ là”, tác giả đã nêu lên một chân lí, khẳng định sự chuyển biến lớn trong tình cảm của mình và vị trí của trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. Những danh từ: “con”, “em”, “anh” gợi ra mối quan hệ ruột thịt đối với “vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ” thể hiện sự gắn bó máu thịt của tác giả đối với đông đảo quần chúng nhân dân. Câu thơ đã nêu cao trách nhiệm chia sẻ, dẫn dắt, định hướng đối với những kiếp người khốn khổ, với mầm non của đất nước. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình hữu ái giai cấp, lòng nhân ái và sự đoàn kết dân tộc giữa những con người cùng mang trong mình dòng máu Lạc Hồng. Như vậy, bằng tinh thần nhiệt huyết tuổi trẻ, Tố Hữu đã nêu cao chân lí của người chiến sĩ cách mạng, phải lo lắng, chăm lo đối với vận mệnh của nhân dân, dân tộc dưới ánh sáng soi chiếu của Đảng. Vì thế, bài thơ được xem là lời tuyên ngôn về lẽ sống đối với thanh niên Việt Nam qua nhiều thế hệ.

Bằng việc sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, hệ thống ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, giọng thơ sảng khoái, hân hoan, tác giả Tố Hữu đã ngợi ca lí tưởng cách mạng của Đảng; đồng thời thể hiện lẽ sống lớn hòa nhập, cống hiến. Tất cả những yếu tố trên đã làm nổi bật tiếng thơ trữ tình – chính trị và phẩm chất cách mạng của nhà thơ Tố Hữu.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 15)

Tố Hữu là cánh chim đầu đàn trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ của ông tràn đầy những lí tưởng cao đẹp của thế hệ con người dám sống và chiến đấu vì Tổ quốc. Mỗi bài thơ là một lời tuyên thệ của chính Tố Hữu với sự nghiệp “biến bút lực thành vũ khí chống giặc”. Trong đó điển hình nhất phải kể đến tác phẩm “Từ ấy” (1938), bài thơ tràn đầy niềm say mê mãnh liệt trong tâm hồn tác giả khi gặp gỡ và được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cộng sản. 

Vừa bắt đầu bài thơ, người đọc đã thấy một niềm hân hoan tưng bừng trong từng câu chữ:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim

Ở cái tuổi 18 đẹp nhất của thanh xuân, tuổi trẻ, Tố Hữu đã tìm được “mặt trời chân lý” khi có lí tưởng cách mạng soi đường. “Từ ấy” như một dấu mốc thiêng liêng, làm thay đổi cả cuộc đời một con người. Tác giả ví đó như “nắng hạ” mang sức mạnh xua tan những ngày tăm tối. Nếu mặt trời mang đến sự sống, giúp vạn vật sinh sôi phát triển thì ánh sáng của Đảng chính là mặt trời để giúp hàng triệu người dân Việt Nam thoát khỏi bóng tối tù đày, nô lệ. Ở đây, tác giả đã sử dụng hai động từ mạnh là “bừng” và “chói” để diễn tả cảm xúc đột ngột, mạnh mẽ, bùng phát sự vui sướng đến khó có thể kìm nén.

Niềm hạnh phúc ấy còn được diễn tả thành hình ảnh, âm thanh qua hai câu thơ sau:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Tố Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh một cách tài tình: “hồn tôi” – “vườn hoa lá đậm hương và rộn tiếng chim”. Phần hồn vốn vô ảnh, vô hình nay lại được vẽ lên bởi những đường nét của bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, rộn ràng, tươi vui. Nhờ tiếp nhận cách mạng mà từ một con người chìm trong bóng tối nay đã có thể vươn mình về phía ánh sáng, để sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn.

Sau sự kiện kết nạp vào Đảng, chính thức gia nhập hàng ngũ tiên phong cứu quốc, tự bản thân tác giả “Từ ấy” đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về lẽ sống. Điều này được thể hiện rất rõ trong khổ thơ thứ hai của bài thơ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Một cái “tôi” Tố Hữu đã được bộc bạch thẳng thắn, chẳng hề e dè ngần ngại. Nhưng nó khác với cái “tôi” khao khát cuồng si của Xuân Diệu, cũng chẳng giống cái “tôi” sầu thảm cô đơn của Huy Cận. Tố Hữu lấy cái “tôi” riêng lẻ để gộp vào cái chung của tập thể, càng ngày càng hòa nhập, càng ngày càng xích lại gần nhau.

Một loạt từ ngữ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” đã được sử dụng để chỉ sự gắn kết keo sơn đặc biệt này. Khi cộng đồng đất nước lên tiếng, chàng thanh niên Tố Hữu 18 tuổi ngày luôn luôn trong tư thế sẵn sàng để cùng sống, cùng chiến đấu tại “trăm nơi”, sát cánh với “bao hồn khổ”. Tất cả nhằm một mục đích cao cả vĩ đại khi tạo nên “một khối đời” đoàn kết vững mạnh, cùng nhau chống lại kẻ thù. Cả khổ thơ âm vang sức mạnh đồng cam cộng khổ của những con người đang sống, chiến đấu cho công cuộc cứu quốc. Ở đó mỗi cá nhân góp phần tạo nên sức mạnh lớn, không còn những nỗi niềm riêng, chỉ có tiếng nói, mục đích, quyết tâm chung.

Nếu Tố Hữu chỉ dừng ở chuyển biến nhận thức thôi thì có lẽ chưa đủ để tạo ra một bài thơ hay và có sức lay động đến vậy. Trong thâm tâm người cộng sản còn có những thay đổi về mặt tình cảm. Tác giả khẳng định chắc nịch rằng:

Tôi đã là con của vạn nhà
Em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ

Tố Hữu gạt bỏ cái chủ nghĩa cá nhân để hòa nhập vào quần chúng lao khổ, để trở thành “con của vạn nhà”, “em của vạn kiếp”, “anh của vạn em nhỏ”. Biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc đã chỉ rõ mối quan hệ gắn bó khăng khít như máu mủ ruột thịt của nhà thơ với cộng đồng. Không còn sự phân tầng giai cấp, không còn phân biệt kẻ giàu người nghèo, bần nông hay trí thức, tất cả chỉ còn một Tố Hữu nỗ lực khao khát với trách nhiệm lớn lao là phải bảo vệ, cứu giúp những mảnh đời bất bạnh ngoài kia. Họ cần được giải phóng, cần được sống một cuộc đời của tự do, hạnh phúc. Tư tưởng của tác giả thấm nhuần đạo đức, lý tưởng cách mạng cao đẹp, liêm khiết.

Bài thơ “Từ ấy” là một khúc ca vui vẻ về sự giác ngộ lý tưởng, tình cảm của Tố Hữu khi đứng trước ánh sáng cách mạng vào độ tuổi rất trẻ. Ở đó ta thấy một con người tràn ngập những say mê, vui sướng, muốn cống hiến hòa mình vào cộng đồng. Các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ đã được sử dụng linh hoạt để tạo ra tính nhạc và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 16)

Chế Lan Viên từng nói " Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính... anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp" Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu- một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ Ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập đảng với niềm vui khôn xiết:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói trong tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

"Từ ấy" là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cánh mạng là" những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi" nhưng vào năm 1938, gặp đảng là lúc tìm được ánh sáng. " từ ấy" không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiên liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy , trong hồn thi sĩ " bừng nắng hạ" . Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu. Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh , hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, " nắng hạ" trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm " bừng" sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của " mặt trời chân lí" là ánh sáng của đảng.

Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh " vườn hoa lá", " tiếng chim ca",.. mở ra cho người độc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng. Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết

Việc sử dụng động từ " buộc" thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người , tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,... Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn " trang trải" với "khối đời". Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.

Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:

Ta đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối là sự suốt hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn " vạn nhà", "vạn kiếp" " vạn đầu" và đại từ "ta" , tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ , tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này. Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên , có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.

Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 17)

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặn đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.

" Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
...
Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim".

"Từ ấy" là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ "bừng nắng hạ" là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. "Bừng nắng hạ" là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh "mặt trời chân lí chói qua tim" là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ "bừng" và từ "chói". Từ "bừng" chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ "chói" chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh "bừng nắng hạ", "chói qua tim" đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ "chói qua tim" là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Hình ảnh "vườn hoa lá" và "rộn tiếng chim" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi"
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Động từ "buộc" thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. "Buộc" còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ "trang trải" khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. "Khối đời" là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng cảu nhà thơ Tố Hữu.

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với "vạn nhà" (Tôi đã là con của vạn nhà: "vạn nhà" là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, "vạn kiếp phôi pha" là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, "vạn đầu em nhỏ" là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ "đã là" là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.

Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 18)

Sức hấp dẫn của tập thơ Từ ấy (1937 - 1946) trước hết là sự hấp dẫn của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng vẫy gọi thanh niên Tố Hữu lên đường đấu tranh và anh đã hướng theo lí tưởng như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời. Nhà thơ nguyện suốt đời phấn đấu cho lí tưởng.

Tôi vẫn hằng tự nghĩ: Miễn quên thân
Dăng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa.

(Trăng trối)

Nhớ lại buổi đầu được giác ngộ Tố Hữu bồi hồi xúc động viết bài thơ Từ ấy (1938).

Bài thơ nói lên lí tưởng, nói đến những chuyến biến trong tâm hồn nhà thơ khi được ánh sáng lí tưởng chiếu rọi. Những vấn đề lí tưởng cách mạng được nhà thơ diễn đạt tự nhiên nhuần nhuyễn, bằng tiếng nói của nghệ thuật, bằng hình ảnh âm thanh, bằng tình cảm chân thành nồng thắm.

Nhan đề Từ ấy có ý nghĩa thông báo thời gian. Từ ấy gợi nhớ về thời điểm may mắn thiêng liêng, xúc động khi tâm tư đang Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời thì bắt gặp ánh sáng của Đảng nên tâm hồn nhà thơ bừng lên niềm vui sướng ngất ngây:

Từ ẩy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Nhà thơ dùng hàng loạt biện pháp tu từ để nói lên những cảm xúc động mãnh liệt khi đón nhận ánh sáng chân lí. Lí tưởng cách mạng là nguồn sáng dịu kí chói chang như ánh nắng mặt trời giữa những ngày hè rực rỡ đã tràn ngập tâm hồn, khơi dậy những tình cảm mới mẻ, những rung động thiết tha, tạo bước ngoặt mới trong đời. Ánh sáng soi đường đi tới tương lai rò ràng, rộng mở. Từ bừng vừa diễn tả sức mạnh của lí tương xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản vừa diễn tả sự bừng tỉnh của nhận thức, giác ngộ về chân lí, lẽ sống lớn. Từ chói cũng góp phần thể hiện sức mạnh chinh phục của li tưởng, nhanh chóng chiếm lĩnh mọi trái tim, tâm hồn. Tố Hữu đã ví tâm hồn xao động của mình đang chói chang nắng hạ khác nào như một vườn hoa lá đang đậm hương và rộn tiếng chim. Từ đậm và rộn diễn tả mật độ, mức độ dồi dào của sự sống, thể hiện niềm ngất ngây trong men say hạnh phúc. Tâm hồn thật tắm xanh vì tiếp nhận chân lí là tiếp nhận nguồn sống, nguồn năng lượng mới. Một lí tưởng đẹp nổi bật qua hệ thống hình ảnh đẹp.

Lí tưởng đến với nhà thơ, nhà thơ thắp sáng mình trong lí tưởng tạo nên những chuyển biến về tư tưởng tình cảm mở đầu cho những hoạt động đầy ý nghĩa: Tôi buộc lòng tôi với mọi người /Để tình trang trải với trăm nơi /Để hồn tôi với bao hồn khổ /Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời...

Bước chuyển biến đầu tiên của nhà thơ là hòa mình vào quần chúng lao khổ, thông cảm và chia sẻ với những nỗi khổ đau của họ. Nhà thơ đến với họ không phải từ lòng trắc ẩn mà với tình cảm chan chứa yêu thương. Tình cảm được diễn đạt bằng từ ngừ cô đọng hàm súc. Từ buộc diễn đạt một cách sinh động sự gắn bó khắng khít của nhà thơ quần chúng. Từ trang trải gợi lên tình cảm thương mến bao la. Từ khối cho ta hình dung về sức mạnh đoàn kết. Những từ này vừa có tính hình tượng vừa có giá trị biểu cảm. Lí tưởng dẫn (lắt nhà thơ về với cuộc đời, tìm thấy vị trí chỗ đứng trong đời đứng trên lập trường của nhân

Nhịp điệu câu thơ tạo âm hưởng vang vọng, góp phần biểu đạt trạng thái tâm hồn nhà thơ. Lúc này lí tưởng đã mở đôi cánh của tâm hồn. Tâm hồn anh đang lộng gió bốn phương, hướng về trăm ngả. Tâm hồn ấy đang cố gắng vượt ra khỏi cái tói tầm thường nhỏ bé để thực hiện tâm nguyện cao đẹp nơi cuộc đời rộng lớn:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Điệp từ là cái gạch nối bền chặt, một bên là cái tôi, bên kia là cuộc đời vạn kiếp thương đau. Cán cân bị lệch nên cái tôi nghiêng về chan hòa với cái ta rộng lớn. Lời thơ trang trọng như lời khẳng định tự nguyện đến với quần chúng lao khổ. Khổ thơ đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư tường tinh cảm của nhà thơ. Gắn bó với quần chúng, nhà thơ nguyện làm một thành viên trong đại gia đình của những người ở bậc thang cuối cùng trong xã hội cũ để thức tỉnh họ cùng đấu tranh và tranh đấu vì họ. Nếu khổ thứ hai chủ yếu hướng nội với cái tôi xuất xứ, thì ở khố thơ này, cái tôi chủ yếu hướng ngoại nhưng cái láng sâu trong tâm hồn người chiến sĩ là tình thương vô hạn dối với thản phận lạc loài, bé nhỏ, bơ vơ: Hai đứa bé, Đi đi em, Một tiếng rao đêm...Hai khổ thơ sau biểu hiện nhân sinh quan cách mạng, tinh thẩn nhân đạo cộng sản cao đẹp của nhà thơ

Nếu tập thơ Từ ấy là chặng đường thơ của tâm hồn người thanh niên tư sản được giác ngộ và trở thành người chiến sì cách mạng thì bài thơ Từ ẩy tóm tắt quá trình chuyến biến ấy. Quá trình chuyển biến tình cảm nhận thức diễn tả cô đọng hàm súc trong một bài thơ ngắn gọn đầy hình ảnh và giàu cảm xúc. Nhà thơ vui sướng ngất ngây khi bắt gặp ánh sáng diệu kì, ánh sáng chân lí của Đảng và nhà thơ nguyện sẽ là chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng công nông. Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn về quan điểm nhân sinh với những nhận thức, tình cảm mới của nhà thơ, trên cơ sở đó là quan điểm nghệ thuật của nhà thơ: Văn chương phục vụ sự nghiệp cách mạng. Thanh niên phải biết lựa chọn và xây dựng lí tường sống cao đẹp thì mới có cuộc sông giàu ý nghĩa.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 19)

Tố Hữu - một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc của dòng văn học cách mạng Việt Nam, ông đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn, rạo rực, hăm hở, tâm huyết của người lính trẻ với chất giọng đằm thắm dịu ngọt của người dân xứ Huế. Bài thơ Từ ấy được trích từ phần Máu lửa của tập thơ cùng tên đã ghi lại những giâ phút say mê của tác giả khi bắt gặp lý tưởng cách mạng. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng phấn khởi mà đó còn là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản muốn hòa nhập cống hiến hết mình cho cuộc đời.

Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu đặt tên bài thơ là Từ ấy. Sau bao tháng năm "Hoang mang không định trước tương lai" thì đến tháng 7- 1938 người chiến sĩ trẻ đã tìm được con đường lý tưởng cách mạng của cuộc đời mình. Chính vì thế mà cuộc đời đang tối tăm bỗng hóa thành những bình minh cây xanh nắng dội, tâm hồn đang u tối mịt mù bỗng trở nên vui tươi say mê náo nhiệt hẳn lên. Đó phải chăng chính là cái mốc đánh dấu cho sự trưởng thành trong con người nhà thơ. Và đồng thời nó cũng chính là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của ông. Từ đây nhà thơ đã tìm được con đường đi cho chính bản thân mình. Và cũng từ đây ông sẽ chuyên tâm vào con đường cách mạng với Đảng ấy. Nhà thơ không còn phải bâng khuâng đi tìm kiếm lẽ yêu đời yêu cuộc sống này nữa mà từ ấy sẽ mở ra một chân lý một tương lai hứa hẹn hơn:

"Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi tìm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi thoát chẳng rời"

Ngay từ khổ thơ đầu nhà thơ không thể nào dấu nổi cảm sướng say mê vui sướng của mình khi bắt gặp lý tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui sướng ấy rất chân thành và đầy thành kính:

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim. . . "

Cái khoảnh khắc nhà thơ bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng thì trong nhà thơ như có ánh nắng hạ sáng soi. Tại sao nhà thơ lại nói so sánh với ánh nắng hạ, là bởi không ánh nắng nào có thể chói chang như ánh năng mùa hạ. So sánh như thế nhà thơ muốn thể hiện được sức mạnh soi sáng của chân lý cách mạng kia. lý tưởng cách mạng của Đảng đến với người chiến sĩ cộng sản yêu đời nhiệt huyết hăng say ấy có sức sáng soi tâm hồn như xuyên như thấu cả một lý tưởng hoài bão. Ngày nào Tố Hữu còn bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời thì bây giờ tâm hồn ấy được xác định một cách chắc chắn nhất về lý tưởng. Ánh sáng chân lý như chói qua tim người chiến sĩ. Một lần nữa nhà thơ lại dùng hình ảnh mặt trời để nói đến chân lý ấy. Có thể nói một chân lý mà nhà thơ dùng đến hai hình ảnh mang sức gợi tả đó là nắng hạ và mặt trời để nhằm thể hiện lên sức mạnh soi sáng tâm hồn của lý tưởng của Đảng. Và trong thâm tâm người chiến sĩ ấy thì lý tưởng ấy giờ đây trở thành một chân lý của bản thân mình. Không thể dấu nổi sự say mê vui vẻ ấy, tâm hồn của nhà thơ giống như một vườn hoa lá đầy màu sắc. biện pháp so sánh ấy khiến cho chúng ta thấy được niềm vui của nhà thơ đang nảy nở giống như một khu vườn tươi tốt đầy màu sắc của nhiều loại cây. Không những thế trong khu vườn ấy còn có cả những âm thanh, đó là tiếng chim rộn ràng. Tiếng hót ấy hay chính là những khúc nhạc vui tươi réo rắt trong lòng người chiến sĩ khi không còn những ngày bâng khuâng kiếm lẽ yêu đời nữa. Khu vườn ấy lại còn đậm hương thơm, đó phải chăng là sự thơm thảo của tấm lòng con người muốn cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Như vậy có thể nói qua khổ thơ đầu ta thấy được niềm vui ngập tràn trong lòng người chiến sĩ khi bắt gặp lý tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui tràn ngập hân hoan như réo rắt ngân vang tràn đầy khí thế sinh sôi như khu vườn hoa lá nọ.

Sang khổ thơ thứ hai nhà thơ thể hiện sự hòa nhập giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. "

Từ "buộc" ở đây khi nghe thì ta sẽ hiểu là trói buộc nhưng không phải vậy. Nếu như nhà thơ dùng với nghĩa trói buộc thì hóa ra ông bị ép buộc à, trong khi ôn nhiệt huyết hi vọng cống hiến cho nhân dân đất nước. Nhà thơ sử dụng từ buộc ở đây nhằm thể hiện sự tự nguyện gắn kết bản thân mình với nhân dân, với mọi người. Cái tôi cá nhân không sống độc lập một mình nữa mà sống gắn kết với nhân dân đồng bào mình. Sự gắn kết ấy sẽ làm nên những sợi dây vô hình không những đem lại sự đoàn kết của một dân tộc mà nó còn mang để cho tình cảm ấy trang trải trăm nơi. Tất cả những điều ấy làm nên những tình cảm tốt đẹp của một dân tộc. Thi sĩ đồng cảm với những người khốn khổ hơn mình, gần gũi nhau để cho mạnh mẽ vượt qua cuộc sống, cuộc chiến tranh ác liệt này. Nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng và cũng từ đó nhà thơ thấy được sự gắn kết với mọi người. "khối đời" thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc của ta. Tâm hồn người cộng sản đồng điệu với tâm hồn của những con người khổ để từ đó thấy được lá lành đùm lá rách của nhân dân ta.

Cũng chính vì lý tưởng soi sáng ấy mà nhà thơ nhận ra được những tình cảm với mọi người trong cuộc chiến cũng như trong cuộc sống này:

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ. . . "

Buộc mình với nhân dân mọi người Tố Hữu nhận thức được mình đã là con của vạn nhà, là anh em của kiếp con người chịu nhiều đau thương mất mát. Cả nhưng em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ nữa. Điệp từ "là" các thể hiện sự khẳng định chắc nịnh của nhà thơ về sự nhận thức tình cảm của mình. các từ "anh", "em", "con" là những từ xưng hô trong một gia đình kết hợp với những từ chỉ số từ bé đến lớn như "Vạn", "đầu" đã thể hiện được trong tâm hồn, trong nhận thức của Tố Hữu thì ngoài gia đình nhỏ của mình thì anh còn có cả một đại gia đình lớn đó là tất cả những con người Việt Nam. Chính vì thế mà anh ý thức được trách nhiệm của mình với họ. Anh là con của tất cả những gia đình trên đất nước, là anh em trong một đại gia đình. Nhà thơ xưng hô như thế và tự nhận thấy trách nhiệm của cá nhân mình với những kiếp phôi pha khổ cực, với những em nhỏ không cha không mẹ không chốn nương thân.

Tóm lại khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng của Đảng thì Tố Hữu đã không còn một thời đi kiếm lẽ yêu đời nữa mà anh đã tìm thấy chân lý cuộc đời mình. Bài thơ từ ấy như thể hiện được niềm vui sướng của người chiến sĩ bắt gặp lý tưởng cách mạng Đảng. Đồng thời cũng qua đó Tố Hữu nhận thức được những tình cảm và trách nhiệm với đại gia đình lớn của mình.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 20)

Bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu cho ta cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng với nhà nước.

Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng.

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

"Dù ai thay ngựa giữa dòng
Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi"

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu

Bài thơ "Từ ấy" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói " Từ ấy" là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

"Từ ấy" là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời".Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu" bừng nắng hạ" đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

Mặt trời chân lí chói qua tim

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tuởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã "chói" vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:

Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :"hồn" người đã trở thành "vườn hoa", một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người:

Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời.

"Buộc" và "trang trải"là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. "Buộc" là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam

Để tình trang trải với trăm nơi

Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.Nhà thơ muốn được như Mác: "Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng"., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bấc cù bơ.

Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người "than bụi, lầy bùn"là lực lượng tiếp nối của "vạn kiếp phôi pha", là lực lượng ngày mai lớn mạnh của "vạn đầu em nhỏ",để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.

Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.

Bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần - tư tưởng của người cộng sản.

Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng:

Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro.
Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất
Sống là cho. Chết cũng là cho.

Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân..

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 21)

Tố Hữu - một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của dòng Văn học cách mạng kháng chiến Việt Nam. Người đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn - rạo rực hăm hở tâm huyết của người lính trẻ, với chất giọng đằm thắm chân thành ngọt ngào của người dân xứ Huế mộng mơ, thơ Tố Hữu dường như đã thấm đẫm chân lí của thời đại, chân lí giác ngộ cách mạng, khi bắt gặp lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Từ ấy là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu (1937 - 1947). Đây là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là muôn năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi động đã diễn ra nhiều biến cố to lớn làm rung chuyển và thay đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam.

Có thể nói với Từ ấy đã đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Tố Hữu, đây là sự khẳng định lí tưởng của một chiến sĩ trẻ khi đã có Đảng dẫn lối soi đường.

Bài thơ này Tố Hữu đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt đột ngột, cảm xúc thực của một trái tim đang khao khát được giác ngộ, để đi theo chân lí của cách mạng, để tìm ra một hướng đi cho tương lai. Mở đầu bài thơ, tác giả đã dùng từ Từ ấy rất độc đáo - không hiểu là từ khi nào, thói quen không được xác định rõ ràng, cũng không phải là dạo ấy, dạo đó, hay là từ ngày đó... mà người chỉ dùng một cụm từ từ ấy, để diễn tả tâm trạng của mình khi bắt gặp lí tưởng cho cuộc đời. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ - là câu thơ như chợt tỉnh giấc sau một đêm dài mộng mị, qua từ bừng câu thơ như trỏ nên có hồn hơn, trở đầy tầm trạng khi xao xuyến, khi thì rạo rực băn khoăn hớn hở. Tố Hữu đã rất tinh tế khi dùng câu thơ này để diễn tả một cái tôi bản ngã của một chàng thanh niên 19 tuổi đang băn khoăn đứng giữa cuộc đời: Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước - Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Thì cùng lúc đó người đã giác ngộ lí tưởng cách mạng. Ánh sáng lí tưởng đã chiếu rọi vào tâm hồn trẻ làm bùng nổ một thế giới đầy hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự gặp gỡ lí tưởng đã dẫn đến sự đổi thay cơ bản mốỉ quan hệ con người với toàn bộ thế giới, đem lại sự gắn bó ruột thịt với muôn người lao khổ để tạo thành sức mạnh to lớn của cách mạng. Sự gặp gỡ lí tưởng cũng đã tạo nên một cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ: Cái tôi tự ý thức sâu sắc về mình đồng thời là cái tôi gắn bó với muôn người, ở giữa mọi người. Cái tôi ấy đã hòa chung vào với cộng đồng khi đã thấy:

Mặt trời chân lí chói qua tim.

Mặt trời - là một biện pháp tu từ ẩn dụ, để chiếu ánh sáng lí tưởng cách mạng, mặt trời ấy có đủ sức mạnh và ánh sáng chân lí để soi rọi bao con người, bao chiến sĩ trẻ, bao thanh niên trí thức chưa được giác ngộ. Chỉ có mặt trời ấy mới đủ chân lí vĩnh cửu để soi rọi bao nẻo đường, chiếu sáng mọi ngõ ngách trong sâu thẳm của trái tim.

Niềm vui tràn trề của một tâm hồn hòa vào niềm hân hoan của cả một thế hệ thanh niên cách mạng cũng đã tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê, trong bài Hi vọng, Tố Hữu đã viết :

Ôi vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo

Bốn phương trời vào theo dấu muôn chân

Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân

Chen bước nhẹ trong giỏ dầy ánh sáng.

Tố Hữu đã bộc lộ một cảm xúc, một niềm tin vào tương lai: Người thanh niên cách mạng tự cảm thấy:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Tâm hồn của cái tôi trữ tình lúc này đã được mở rộng, để đón nhận những chân lí tuyệt vời mà Đảng đã đem lại, những hương vị tuyệt vời của cuộc sống đang nô nức reo vui vào một niềm vui mới, niềm vui khi đã có Đảng dẫn đường. Tố Hữu đã dùng biện pháp so sánh vì hồn tôi lúc này như là một vườn hoa lá - lại có cả hương thơm và rộn rã tiếng chim. Hương vị ngọt ngào của cuộc đời thực đã phai màu trong suy nghĩ của người thanh niên cách mạng, niềm tin của người thanh niên cách mạng mặc dầu mang màu sắc lí tưởng hóa, nhưng lại rất chân thành và trong trẻo là tâm huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ.

Từ ấy đã thể hiện được bầu nhiệt huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ, của một cái tôi trữ tình buổi đầu nặng trĩu những ưu tư, ưu phiền của cuộc đời. Song đã bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của con người đối với cuộc đời, của niềm tin vào một tương lai sáng huy hoàng, vào chân lí của cách mạng.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 22)

Khi nhắc đến nhà thơ trữ tình chính trị hàng đầu của thơ ca Việt Nam, hẳn ai cũng biết đến Tố Hữu. Ông là nhà văn lớn, nhà thơ lớn của dân tộc, là cây bút xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Thơ ông biểu hiện về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của người cách mạng. Đặc biệt, thơ ông đi sâu khai thác đời sống chính trị của đất nước tới tâm tư, tình cảm, cuộc đời hoạt động cách mạng của bản thân. Một trong những bài thơ biểu hiện rõ nhất cuộc đời cách mạng của ông là bài thơ : Từ Ấy.

"Từ ấy" là bài thơ rất hay, đặc biệt bởi đây là bài thơ đánh dấu cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ. Tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với cảm xúc, suy tư sâu sắc Tố Hữu viết nên "Từ ấy". Bài thơ nằm trong phần "Máu lửa" của tập "Từ ấy". Bài thơ là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim"

Đó chính là giây phút ông nhận ra lẽ sống lớn, là giây phút "Mặt trời chân lí chói qua tim". Bắt gặp được lẽ sống, lí tưởng cách mạng soi sáng, chỉ đường, làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Với những hình ảnh ẩn dụ : nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim. Tố Hữu đã khẳng định một lí tưởng cách mạng: Đảng là mặt trời chân lí tỏa ra lẽ phải, sự đúng đắn, soi đường đưa cả dân tộc thoát khỏi ách nô lệ. Cũng như mặt trời của tự nhiên, tạo hóa tạo ra sức sống, ánh sáng, tỏa hơi ấm cho vạn vật. Bên cạnh đó, bằng cách sử dụng những động từ mạnh : bừng, chói. Tác giả muốn nhấn mạnh lên một điều rằng : ánh sáng cách mạng chính là ánh sáng chân lí, đã làm thức tỉnh lòng yêu nước nồng nàn trong lòng mỗi người con dân tộc Việt.

"Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Chính giây phút bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là giây phút của hương thơm và ánh sáng. Tố Hữu đón nhận lí tưởng như cỏ cây, hoa lá, đón nhận ánh sáng mặt trời. Trong khi băn khoăn tìm kiếm lẽ đời, tác giả đã bắt gặp ánh sáng cách mạng. Được giác ngộ lí tưởng cao đẹp của Đảng, tác giả thêm tràn đấy sức sống, thêm yêu đời, thêm yêu người. Và nó cũng khiến tâm hồn nhà thơ thêm kiên định và thêm tràn đầy niềm tin với tâm trạng say sưa, náo nức, rộn ràng của một trái tim nhiệt huyết.

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngư dân tộc. Bằng cách sử dụng thể thơ thất ngôn, làm âm điệu trở nên trạng trọng. Cách ngắt nhịp trong bài tạo ra tính nhạc : Từ ấy / trong tôi / bừng nắng hạ... làm cho bài thơ thêm hay, thể hiện đúng tâm trạng của nhà thơ:

"Tôi buộc hồn tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Khổ thơ thứ hai thể hiện rõ nhất cái tôi trữ tình. Là cái tôi mang giai cấp thời đại, đại diện cho dân tộc. "Tôi buộc hồn tôi với mọi người" chính là sự hài hòa giữa cái tôi và cái ta, giữa cá nhân và tập thể để từ đó mở lòng mình, đồng cảm với mọi người xung quanh. Từ đó tạo nên tính đoàn kết, sức mạnh tập thể. Đặc biệt là quần chúng nhân dân lao động cùng nắm tay đoàn kết lại thành một khối để vượt qua mọi khó khăn gian khổ.

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ..."

Đoạn cuối cùng hiện lên như khẳng định, nhấn mạnh một tình cảm gia đình đầm ấm, thắm thiết. Đó chính là một đại gia đình lớn của quần chúng nhân dân lao động. Mà trong đó tác giả là con, là em, là anh của đại gia đình đó. Tấm lòng của tác giả đã hòa vào tấm lòng đại gia đình dân tộc. Thấu hiểu và chia sẻ tấm lòng đó biểu hiện thật xúc động và chân thành. Từ đấy, ta thấy được tấm lòng căm phẫn của nhà thơ trước cuộc đời ngang trái. Tác giả xót thương cho những số phận của "vạn kiếp phôi pha", của những em nhỏ không có áo cơm, "cù bất cù bơ...". Ông mở lòng đón nhận những kiếp người đau khổ, nhân dân cần lao như đón nhận một cách chân thành những người thân ruột thịt. Câu "Không áo cơm cù bất cù bơ..." để lại ba dấu chấm lửng như tấm lòng của tác giả trải rộng ra, mở lòng mình với bao hồn khổ. Bài thơ rất đặc biệt không chỉ về ý thơ mà còn cả về tứ thơ. Tác giả dùng thể thơ truyền thống, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ.

Là lời tâm nguyện của chàng thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mạng của Đảng và Bác Hồ. Đồng thời đó cũng là tâm nguyện gắn bó với nhân dân lao khổ. Và bài thơ cũng chính là mốc thời điểm mở đầu cho cuộc đời hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Bằng lời thơ giàu cảm xúc, suy tư theo lí tưởng cách mạng. Đó chính là chất lãng mạn của thi ca Việt Nam..

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 23)

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặn đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

...

Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim".

"Từ ấy" là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ "bừng nắng hạ" là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. "Bừng nắng hạ" là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh "mặt trời chân lí chói qua tim" là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ "bừng" và từ "chói". Từ "bừng" chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ "chói" chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh "bừng nắng hạ", "chói qua tim" đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ "chói qua tim" là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

"Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Hình ảnh "vườn hoa lá" và "rộn tiếng chim" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với muôn nơi"

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Động từ "buộc" thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. "Buộc" còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ "trang trải" khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. "Khối đời" là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng cảu nhà thơ Tố Hữu.

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với "vạn nhà" (Tôi đã là con của vạn nhà: "vạn nhà" là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, "vạn kiếp phôi pha" là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, "vạn đầu em nhỏ" là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ "đã là" là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.

Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 24)

Chế Lan Viên từng nói "Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính... anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp". Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu - một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập Đảng với niềm vui khôn xiết:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

"Từ ấy" là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cánh mạng là "những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi" nhưng vào năm 1938, gặp Đảng là lúc tìm được ánh sáng. "Từ ấy" không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiên liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy, trong hồn thi sĩ "bừng nắng hạ". Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu. Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh, hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, "nắng hạ" trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm "bừng" sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của "mặt trời chân lí" là ánh sáng của Đảng.

Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh "vườn hoa lá", "tiếng chim ca",... mở ra cho người đọc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng. Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết.

Việc sử dụng động từ "buộc" thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người, tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,... Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn "trang trải" với "khối đời". Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.

Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:

Ta đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối là sự suốt hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn "vạn nhà", "vạn kiếp", "vạn đầu" và đại từ "ta", tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ, tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này. Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên, có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.

Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 25)

Tố Hữu - một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc của dòng văn học cách mạng Việt Nam, ông đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn, rạo rực, hăm hở, tâm huyết của người lính trẻ với chất giọng đằm thắm dịu ngọt của người dân xứ Huế. Bài thơ Từ ấy được trích từ phần Máu lửa của tập thơ cùng tên đã ghi lại những giâ phút say mê của tác giả khi bắt gặp lý tưởng cách mạng. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng phấn khởi mà đó còn là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản muốn hòa nhập cống hiến hết mình cho cuộc đời.

Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu đặt tên bài thơ là Từ ấy. Sau bao tháng năm "Hoang mang không định trước tương lai" thì đến tháng 7 - 1938 người chiến sĩ trẻ đã tìm được con đường lý tưởng cách mạng của cuộc đời mình. Chính vì thế mà cuộc đời đang tối tăm bỗng hóa thành những bình minh cây xanh nắng dội, tâm hồn đang u tối mịt mù bỗng trở nên vui tươi say mê náo nhiệt hẳn lên. Đó phải chăng chính là cái mốc đánh dấu cho sự trưởng thành trong con người nhà thơ. Và đồng thời nó cũng chính là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của ông. Từ đây nhà thơ đã tìm được con đường đi cho chính bản thân mình. Và cũng từ đây ông sẽ chuyên tâm vào con đường cách mạng với Đảng ấy. Nhà thơ không còn phải bâng khuâng đi tìm kiếm lẽ yêu đời yêu cuộc sống này nữa mà từ ấy sẽ mở ra một chân lý một tương lai hứa hẹn hơn:

"Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi

Bâng khuâng đi tìm lẽ yêu đời

Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn

Muốn thoát than ôi thoát chẳng rời"

Ngay từ khổ thơ đầu nhà thơ không thể nào giấu nổi cảm xúc say mê vui sướng của mình khi bắt gặp lý tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui sướng ấy rất chân thành và đầy thành kính:

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim..."

Cái khoảnh khắc nhà thơ bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng thì trong nhà thơ như có ánh nắng hạ sáng soi. Tại sao nhà thơ lại nói so sánh với ánh nắng hạ, là bởi không ánh nắng nào có thể chói chang như ánh nắng mùa hạ. So sánh như thế nhà thơ muốn thể hiện được sức mạnh soi sáng của chân lý cách mạng kia. Lý tưởng cách mạng của Đảng đến với người chiến sĩ cộng sản yêu đời nhiệt huyết hăng say ấy có sức sáng soi tâm hồn như xuyên như thấu cả một lý tưởng hoài bão. Ngày nào Tố Hữu còn bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời thì bây giờ tâm hồn ấy được xác định một cách chắc chắn nhất về lý tưởng. Ánh sáng chân lý như chói qua tim người chiến sĩ. Một lần nữa nhà thơ lại dùng hình ảnh mặt trời để nói đến chân lý ấy. Có thể nói một chân lý mà nhà thơ dùng đến hai hình ảnh mang sức gợi tả đó là nắng hạ và mặt trời để nhằm thể hiện lên sức mạnh soi sáng tâm hồn của lý tưởng của Đảng. Và trong thâm tâm người chiến sĩ ấy thì lý tưởng ấy giờ đây trở thành một chân lý của bản thân mình. Không thể giấu nổi sự say mê vui vẻ ấy, tâm hồn của nhà thơ giống như một vườn hoa lá đầy màu sắc. Biện pháp so sánh ấy khiến cho chúng ta thấy được niềm vui của nhà thơ đang nảy nở giống như một khu vườn tươi tốt đầy màu sắc của nhiều loại cây. Không những thế trong khu vườn ấy còn có cả những âm thanh, đó là tiếng chim rộn ràng. Tiếng hót ấy hay chính là những khúc nhạc vui tươi réo rắt trong lòng người chiến sĩ khi không còn những ngày bâng khuâng kiếm lẽ yêu đời nữa. Khu vườn ấy lại còn đậm hương thơm, đó phải chăng là sự thơm thảo của tấm lòng con người muốn cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Như vậy có thể nói qua khổ thơ đầu ta thấy được niềm vui ngập tràn trong lòng người chiến sĩ khi bắt gặp lý tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui tràn ngập hân hoan như réo rắt ngân vang tràn đầy khí thế sinh sôi như khu vườn hoa lá nọ.

Sang khổ thơ thứ hai nhà thơ thể hiện sự hòa nhập giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời."

Từ "buộc" ở đây khi nghe thì ta sẽ hiểu là trói buộc nhưng không phải vậy. Nếu như nhà thơ dùng với nghĩa trói buộc thì hóa ra ông bị ép buộc à, trong khi ông nhiệt huyết hi vọng cống hiến cho nhân dân đất nước. Nhà thơ sử dụng từ "buộc" ở đây nhằm thể hiện sự tự nguyện gắn kết bản thân mình với nhân dân, với mọi người. Cái tôi cá nhân không sống độc lập một mình nữa mà sống gắn kết với nhân dân đồng bào mình. Sự gắn kết ấy sẽ làm nên những sợi dây vô hình không những đem lại sự đoàn kết của một dân tộc mà nó còn mang đến cho tình cảm ấy trang trải trăm nơi. Tất cả những điều ấy làm nên những tình cảm tốt đẹp của một dân tộc. Thi sĩ đồng cảm với những người khốn khổ hơn mình, gần gũi nhau để cho mạnh mẽ vượt qua cuộc sống, cuộc chiến tranh ác liệt này. Nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng và cũng từ đó nhà thơ thấy được sự gắn kết với mọi người. "Khối đời" thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc của ta. Tâm hồn người cộng sản đồng điệu với tâm hồn của những con người khổ để từ đó thấy được lá lành đùm lá rách của nhân dân ta.

Cũng chính vì lý tưởng soi sáng ấy mà nhà thơ nhận ra được những tình cảm với mọi người trong cuộc chiến cũng như trong cuộc sống này:

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ..."

Buộc mình với nhân dân mọi người Tố Hữu nhận thức được mình đã là con của vạn nhà, là anh em của kiếp con người chịu nhiều đau thương mất mát. Cả những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ nữa. Điệp từ "là" thể hiện sự khẳng định chắc nịch của nhà thơ về sự nhận thức tình cảm của mình. Các từ "anh", "em", "con" là những từ xưng hô trong một gia đình kết hợp với những từ chỉ số từ bé đến lớn như "Vạn", "đầu" đã thể hiện được trong tâm hồn, trong nhận thức của Tố Hữu thì ngoài gia đình nhỏ của mình thì anh còn có cả một đại gia đình lớn đó là tất cả những con người Việt Nam. Chính vì thế mà anh ý thức được trách nhiệm của mình với họ. Anh là con của tất cả những gia đình trên đất nước, là anh em trong một đại gia đình. Nhà thơ xưng hô như thế và tự nhận thấy trách nhiệm của cá nhân mình với những kiếp phôi pha khổ cực, với những em nhỏ không cha không mẹ không chốn nương thân.

Tóm lại khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng của Đảng thì Tố Hữu đã không còn một thời đi kiếm lẽ yêu đời nữa mà anh đã tìm thấy chân lý cuộc đời mình. Bài thơ từ ấy như thể hiện được niềm vui sướng của người chiến sĩ bắt gặp lý tưởng cách mạng Đảng. Đồng thời cũng qua đó Tố Hữu nhận thức được những tình cảm và trách nhiệm với đại gia đình lớn của mình.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 26)

Tố Hữu là nhà thơ lớn của Việt Nam ở đầu thế kỷ XX, là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng, ông làm thơ để tuyên truyền, cổ vũ cho cách mạng, con đường thơ ca của ông song hành cùng với con đường cách mạng của Việt Nam, của dân tộc. Sự gắn bó ấy đem đến cho thơ ông một vẻ đẹp độc đáo như đóa hoa lớn rực rỡ.

“Từ ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được sản xuất trong vòng 10 năm từ 1936 đến 1946. Khổ thơ đầu của tác phẩm thể hiện niềm vui sướng và hạnh phúc vô bờ bến của tác giả khi bắt gặp lý tưởng, lẽ sống của đời mình, khi ông còn băn khoăn giữa lẽ sống của đời, cảm thấy chán cuộc sống này thì cũng là lúc Tố Hữu bắt gặp lý tưởng cộng sản, lý tưởng của đời mình.

Câu thơ đầu tiên được bắt đầu bằng cụm từ “từ ấy” thể hiện sự đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của nhà thơ. Đây là thời điểm tác giả giác ngộ lý tưởng cách mạng, bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được giác ngộ vào năm 1938 ông vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi tròn 18 tuổi, Đảng là tập thể bao gồm những thanh niên ưu tú nhất của cả nước, nguyện hy sinh và phấn đấu vì sự nghiệp của đất nước và nhân dân.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Bài thơ “từ ấy” thuộc phần “máu lửa” của tập thơ cùng tên, phần thơ ra đời trong không khí đầy sục sôi, đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lúc này nhà thơ cũng không hoạt động phong trào học sinh, sinh viên ở Huế. Bài thơ ra đời vào tháng 7 năm 1938 ghi lại những tâm tư, tình cảm của nhà thơ khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng đây là việc vô cùng thiêng liêng, sự kiện trọng đại của nhà thơ, đã mang đến cho Tố Hữu niềm xúc động mạnh mẽ.

Khổ thơ mở ra là những cảm nhận vẻ đẹp sâu sắc lý tưởng của cách mạng và tác giả đón nhận nó bằng một tâm hồn tươi trẻ, “từ ấy” ở nhan đề và được nhắc lại ngay câu mở đầu để tô đậm giây phút thiêng liêng, sự kiện trang trọng trong đời của Tố Hữu, là bước ngoặt lớn lao cho thanh niên tiểu tư sản trở thành một chiến sĩ cộng sản thay đổi về nhận thức, về lẽ sống.

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ khi đất nước đang còn trong cảnh chiến tranh, nhân dân lầm than, bị đô hộ, trước tình hình ấy nhiều thanh niên muốn giải cứu đất nước nhưng hầu như đều rơi vào cảnh bế tắc, bơ vơ, một cái tôi mặc cảm, đầu thai nhầm thời đại, dù rất uất hận, đau xót nhưng chưa đủ dũng khí để cầm súng, cầm gươm và rồi khi may mắn tìm được lẽ sống cho mình, cho quê hương ta thấy được sự hào hứng và niềm vui sướng vô bờ bến của nhà thơ, hòa vào cuộc đấu tranh sinh tử, nhiều gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi vinh quang. “Từ ấy” đã cho nhà thơ thấy cuộc sống ý nghĩa và giây phút thiêng liêng sự nghiệp một hồn thơ.

Trong niềm xúc động lớn lao, nhà thơ đã có nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của lý tưởng Đảng, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời chỉ cho dân tộc con đường sống, đã có bao lời ca tiếng hát ca ngợi Đảng vinh quang, nhưng cách ca ngợi Đảng của Tố Hữu thật đặc sắc.

Dòng thơ thứ hai sử dụng nhiều âm điệu ở âm vực cao, phấn chấn như một tiếng reo, tiếp tục ca ngợi vẻ đẹp lý tưởng cách mạng, không chỉ là nguồn sáng chói mà là nguồn sống lớn lao, lý tưởng sống đúng đắn, cao cả. Khái niệm lý tưởng cách mạng một khái niệm chính trị trừu tượng đã được nhà thơ cụ thể hóa bằng hình ảnh ẩn dụ rất đỗi trữ tình.

“Mặt trời chân lý”, tiếp nối động từ “bừng” và từ “chói” ở câu hai để khẳng định lý tưởng cách mạng như nắng hạ chói lòa, như mặt trời vĩ đại, bất diệt đã tác động sâu sắc vào lý trí, tình cảm và thấm nhuần vào con tim, khối óc của nhà thơ và nhân dân những con người cần lao trong đêm trường nô lệ được ánh sáng cách mạng soi rọi, chỉ đường dẫn lối đến với hạnh phúc, ấm no, tương lai tươi sáng.

Với cách diễn đạt vừa gợi hình vừa gợi cảm, tôn vinh lý tưởng cộng sản, giúp cho bao nhiêu người được sáng mắt, sáng lòng. Khẳng định bản chất cao đẹp của lý tưởng ấy là giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, thống khổ, chỉ cho họ con đường sống ý nghĩa nhất.

Qua cách thể hiện sáng tạo, hai câu thơ còn mang hàm ý: với dân tộc Việt Nam, với tầng lớp trí thức, thanh niên trẻ những năm 30, 45. Lý tưởng cần thiết như mặt trời, tất yếu như chân lý. Hai câu thơ còn diễn tả sự phục sinh mạnh mẽ của một tâm hồn tươi trẻ khi được mặt trời lý tưởng soi rọi, chỉ lối, niềm vui tràn ngập trong lòng, người thanh niên yêu nước đã cất thành tiếng hát sôi nổi, náo nức, say mê:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Với phép so sánh độc đáo, đầy thi vị nhà thơ đã làm cho thế giới tinh thần, hồn thơ tươi trẻ tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu cuộc sống “ hồn tôi là một vườn hoa lá” từ hình tượng vô hình thành hữu hình. Ánh sáng chói lọi của lý tưởng, nguồn sống mãnh liệt của mặt trời cách mạng tác động vào tâm hồn nhà thơ, tạo ra sự biến đổi sâu sắc.

Trước khi bắt gặp lý tưởng cách mạng, người thanh niên trí thức trẻ này sống một cách buồn bã, ảm đạm, lụi tàn như mảnh vườn trong mùa đông giá lạnh nhưng sau khi được gặp và giác ngộ được lý tưởng cách mạng cuộc sống lẫn tâm hồn của nhà thơ như một mảnh hồn thơ đầy hương sắc giữa mùa xuân, mang đến nguồn sinh lực dồi dào cho biết bao tâm hồn trẻ trung, nhiệt huyết. Cuộc sống của họ có lý tưởng thật âm sắc, đượm hương.

Nhịp thơ sôi nổi cùng với hai tính từ “đậm”, “rộn” rất thẩm mỹ, đặc biệt với lối vắt dòng đặc sắc, hai câu thơ của Tố Hữu diễn tả chân thực, tinh tế bao cảm xúc dâng trào, niềm vui, niềm hạnh phúc vô hạn trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng. Có thể nói mặt trời chân lý đã xua tan những bóng đêm u ám, mở ra một tương lai tươi sáng, vẫy gọi bao tâm hồn hăm hở bước vào đời với tất cả niềm tin yêu, hy vong. Với nhà thơ đâu phải chuyện của nhận thức, của lý trí mà còn là chuyện của tình cảm, trái tim nên có sức sống cuốn hút khiến cho những thanh niên trí thức trẻ như Tố Hữu khiến cho tất cả dân tộc Việt Nam nguyện suốt đời theo Đảng.

Khổ thơ vừa hay về nội dung và đẹp về hình thức, ngôn ngữ, hình ảnh thơ sáng tạo đẹp đẽ, cảm xúc thơ chân thành mãnh liệt là sự ngợi ca lý tưởng cách mạng, ngợi ca Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Qua đoạn thơ nhà thơ đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về lý tưởng cách mạng chính là lẽ sống, con đường sống đúng đắn của cả dân tộc tộc, khổ thơ như khúc hát của một trái tim mà cũng là khúc hát say mê của triệu triệu trái tim hướng về Đảng, hướng về cách mạng.

9. Cảm nhận của anh chị về tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện trong đoạn thơ Từ ấy

Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ "Từ ấy" vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin.

Bài thơ đước viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lí tưởng cách mạng và mang tên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.

Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim".

"Từ ấy", là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón "Mặt trời chân lí chói qua tim". Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh "bừng nắng hạ". "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lenin. Lí tưởng cách mạng, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng "tôi" và con đường cách mạng "bừng nắng hạ" chói chang, ấm áp. Trái tim "tôi" có "Mặt trời chân lí chói qua…". Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn " đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu "hoa lá", ngào ngạt "đậm hương" và "rộn tiếng chim" hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lí tưởng và tình yêu lí tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:

"Khi ta đã say mùi hương chân lí

Đời đắng cay không một chút ngọt bùi

Đời đau buồn không một tiếng cười vui

Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng"

("Như những con tàu" – 1938)

Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin thật vô cùng kì diệu. "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng" ( Aragông – Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người", "với trăm nơi "với bao hồn khổ" với giai cấp" và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: "buộc", "trang trải", "gần gũi" – biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với "khối đời" – khối công nông liên minh:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi vời bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".

Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: "là con của vạn nhà", "là em của vạn kiếp phôi pha", "là anh của vạn đầu em nhỏ… Các từ: "là", các số từ "vạn" được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ".

Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới "mặt trời chân lí", dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của Cách mạng.

Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lí tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. "Từ ấy" là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và Cách mạng. Đọc "Từ ấy" ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: "Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình".

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 27)

Sức hấp dẫn của tập thơ Từ ấy (1937 - 1946) trước hết là sự hấp dẫn của lí tưởng cách mạng. Lí tưởng vẫy gọi thanh niên Tố Hữu lên đường đấu tranh và anh đã hướng theo lí tưởng như hoa hướng dương hướng về phía mặt trời. Nhà thơ nguyện suốt đời phấn đâu cho lí tưởng.

Tôi vẫn hằng tự nghĩ: Miễn quên thân

Dâng tất cả đề tôn thờ chủ nghĩa.

(Trăng trối)

Nhớ lại buổi đầu được giác ngộ Tố Hữu bồi hồi xúc động viết bài thơ Từ ấy (1938).

Bài thơ nói lên lí tưởng, nói đến những chuyển biến trong tâm hồn nhà thơ khi được ánh sáng lí tưởng chiếu rọi. Những vấn đề lí tưởng cách mạng được nhà thơ diễn đạt tự nhiên nhuần nhị, bằng tiếng nói của nghệ thuật, bằng hình ảnh âm thanh, bằng tình cảm chân thành nồng thắm.

Nhan đề Từ ấy có ý nghĩa thông báo thời gian. Từ ấy gợi nhớ về thời điểm may mắn thiêng liêng, xúc động khi tâm tư đang "Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời" thì bắt gặp ánh sáng của Đảng nên tâm hồn nhà thơ bừng lên niềm vui sướng ngất ngây:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Nhà thơ dùng hàng loạt biện pháp tu từ để nói lên những cảm xúc động mãnh liệt khi đón nhận ánh sáng chân lí. Lí tưởng cách mạng là nguồn sáng dịu chói chang như ánh nắng mặt trời giữa những ngày hè rực rỡ đã tràn ngập tâm hồn, khơi dậy những tình cảm mới mẻ, những rung động thiết tha, tạo bước ngoặc mới trong đời. Ánh sáng soi đường đi tới tương lai rõ ràng, rộng mở. Từ bừng vừa diễn tả sức mạnh của lí tưởng xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản vừa diễn tả sự bừng tỉnh của nhận thức, giác ngộ về chân lí, lẽ sống lớn. Từ chói cũng góp phần thể hiện sức mạnh chinh phục của lí tưởng, nhanh chóng chiếm lĩnh mọi trái tim, tâm hồn. Tố Hữu đã ví tâm hồn xao động của mình đang chói chang nắng hạ khác nào như một vườn hoa lá đang đậm hương và rộn tiếng chim. Từ đậm và rộn diễn tả mật độ, mức độ dồi dào của sự sống, thể hiện niềm ngất ngây trong men say hạnh phúc. Tâm hồn thật tắm xanh vì tiếp nhận chân lí là tiếp nhận nguồn sống, nguồn năng lượng mới.

Một lí tưởng đẹp nổi bật qua hệ thống hình ảnh đẹp.

Lí tưởng đến với nhà thơ, nhà thơ thắp sáng mình trong lí tưởng tạo nên những chuyển biến về tư tưởng tình cảm mở đầu cho những hoạt động đầy ý nghĩa:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời...

Bước chuyển biến đầu tiên của nhà thơ là hòa mình vào quần chúng lao khổ, thông cảm và chia sẻ với những nỗi khổ đau của họ. Nhà thơ đến với họ không phải từ lòng trắc ẩn mà với tình cảm chan chứa yêu thương. Tình cảm được diễn đạt bằng từ ngữ cô đọng hàm súc. Từ buộc diễn đạt một cách sinh động sự gắn bó khắng khít của nhà thơ quần chúng. Từ trang trải gợi lên tình cảm thương mến bao la. Từ khối cho ta hình dung về sức mạnh đoàn kết. Những từ này vừa có tính hình tượng vừa có giá trị biểu cảm. Lí tưởng dẫn dắt nhà thơ về với cuộc đời, tìm thấy vị trí chỗ đứng trong đời đứng trên lập trường của nhân dân để hành động.

Nhịp diệu câu thơ tạo âm hưởng vang vọng, góp phần biểu đạt trạng thái tâm hồn nhà thơ. Lúc này lí tưởng đã mở đôi cánh của tâm hồn. Tâm hồn anh đang lộng gió bốn phương, hướng về trăm ngả. Tâm hồn ấy đang cố gắng vượt ra khỏi cái tôi tầm thường nhỏ bé để thực hiện tâm nguyện cao đẹp nơi cuộc đời rộng lớn:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ...

Điệp từ là cái gạch nối bền chặt, một bên là cái tôi, bên kia là cuộc đời vạn kiếp thương đau. Cán cân bị lệch nên cái tôi nghiêng về chan hòa với cái ta rộng lớn. Lời thơ trang trọng như lời khẳng định tự nguyện đến với quần chúng lao khổ. Khổ thơ đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư tưởng tình cảm của nhà thơ. Gắn bó với quần chúng, nhà thơ nguyện làm một thành viên trong đại gia đình của những người ở bậc thang cuối cùng trong xã hội cũ để thức tỉnh họ cùng đấu tranh và tranh đấu vì họ. Nếu khổ thứ hai chủ yếu hướng nội với cái tôi xuất xứ, thì ở khổ thơ này, cái tôi chủ yếu hướng ngoại nhưng cái lắng sâu trong tâm hồn người chiến sĩ là tình thương vô hạn đôi với thân phận lạc loài, bé nhỏ, bơ vơ: Hai đứa bé, Đi đi em, Một tiếng rao đêm...

Hai khổ thơ sau biểu hiện nhân sinh quan cách mạng, tinh thần nhân đạo cộng sản cao đẹp của nhà thơ

Nếu tập thơ Từ ấy là chặng đường thơ của tâm hồn người thanh niên tư sản được giác ngộ và trở thành người chiến sĩ cách mạng thì bài thơ Từ ấy tóm tắt quá trình chuyển biến ấy.

Quá trình chuyển biến tình cảm nhận thức diễn tả cô đọng hàm súc trong một bài thơ ngắn gọn đầy hình ảnh và giàu cảm xúc. Nhà thơ vui sướng ngất ngây khi bắt gặp ánh sáng diệu kì, ánh sáng chân lí của Đảng và nhà thơ nguyện sẽ là chiến sĩ cách mạng đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng công nông.

Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn về quan điểm nhân sinh với những nhận thức, tình cảm mới của nhà thơ, trên cơ sở đó là quan điểm nghệ thuật của nhà thơ: Văn chương phục vụ sự nghiệp cách mạng. Thanh niên phải biết lựa chọn và xây dựng lí tưởng sống cao đẹp thì mới có cuộc sống giàu ý nghĩa.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 28)

Tố Hữu - một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của dòng Văn học cách mạng kháng chiến Việt Nam. Người đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn - rạo rực hăm hở tâm huyết của người lính trẻ, với chất giọng đằm thắm chân thành ngọt ngào của người dân xứ Huế mộng mơ, thơ Tố Hữu dường như đã thấm đẫm chân lí của thời đại, chân lí giác ngộ cách mạng, khi bắt gặp lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Từ ấy là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu (1937 - 1947). Đây là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là muôn năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi động đã diễn ra nhiều biến cố to lớn làm rung chuyển và thay đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam.

Có thể nói với Từ ấy đã đánh dấu sự trưởng thành của hồn thơ Tố Hữu, đây là sự khẳng định lí tưởng của một chiến sĩ trẻ khi đã có Đảng dẫn lối soi đường.

Bài thơ này Tố Hữu đã bày tỏ cảm xúc mãnh liệt đột ngột, cảm xúc thực của một trái tim đang khao khát được giác ngộ, để đi theo chân lí của cách mạng, để tìm ra một hướng đi cho tương lai. Mở đầu bài thơ, tác giả đã dùng từ Từ ấy rất độc đáo — không hiểu là từ khi nào, thói quen không được xác định rõ ràng, cũng không phải là dạo ấy, dạo đó, hay là từ ngày đó... mà người chỉ dùng một cụm từ từ ấy, để diễn tả tâm trạng của mình khi bắt gặp lí tưởng cho cuộc đời. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ - là câu thơ như chợt tỉnh giấc sau một đêm dài mộng mị, qua từ bừng câu thơ như trỏ nên có hồn hơn, trở đầy tầm trạng khi xao xuyến, khi thì rạo rực băn khoăn hớn hở. Tố Hữu đã rất tinh tế khi dùng câu thơ này để diễn tả một cái tôi bản ngã của một chàng thanh niên 19 tuổi đang băn khoăn đứng giữa cuộc đời: Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước - Chọn một dòng hay để nước trôi đi. Thì cùng lúc đó người đã giác ngộ lí tưởng cách mạng. Ánh sáng lí tưởng đã chiếu rọi vào tâm hồn trẻ làm bùng nổ một thế giới đầy hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự gặp gỡ lí tưởng đã dẫn đến sự đổi thay cơ bản mối quan hệ con người với toàn bộ thế giới, đem lại sự gắn bó ruột thịt với muôn người lao khổ để tạo thành sức mạnh to lớn của cách mạng. Sự gặp gỡ lí tưởng cũng đã tạo nên một cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ: Cái tôi tự ý thức sâu sắc về mình đồng thời là cái tôi gắn bó với muôn người, ở giữa mọi người. Cái tôi ấy đã hòa chung vào với cộng đồng khi đã thấy:

Mặt trời chân lí chói qua tim.

Mặt trời — là một biện pháp tu từ ẩn dụ, để chiếu ánh sáng lí tưởng cách mạng, mặt trời ấy có đủ sức mạnh và ánh sáng chân lí để soi rọi bao con người, bao chiến sĩ trẻ, bao thanh niên trí thức chưa được giác ngộ. Chỉ có mặt trời ấy mới đủ chân lí vĩnh cửu để soi rọi bao nẻo đường, chiếu sáng mọi ngõ ngách trong sâu thẳm của trái tim.

Niềm vui tràn trề của một tâm hồn hòa vào niềm hân hoan của cả một thế hệ thanh niên cách mạng cũng đã tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê, trong bài Hi vọng, Tố Hữu đã viết:

Ôi vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo

Bốn phương trời vào theo dấu muôn chân

Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân

Chen bước nhẹ trong giỏ đầy ánh sáng.

Tố Hữu đã bộc lộ một cảm xúc, một niềm tin vào tương lai: Người thanh niên cách mạng tự cảm thấy:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Tâm hồn của cái tôi trữ tình lúc này đã được mở rộng, để đón nhận những chân lí tuyệt vời mà Đảng đã đem lại, những hương vị tuyệt vời của cuộc sống đang nô nức reo vui vào một niềm vui mới, niềm vui khi đã có Đảng dẫn đường. Tố Hữu đã dùng biện pháp so sánh vì hồn tôi lúc này như là một vườn hoa lá - lại có cả hương thơm và rộn rã tiếng chim. Hương vị ngọt ngào của cuộc đời thực đã phai màu trong suy nghĩ của người thanh niên cách mạng, niềm tin của người thanh niên cách mạng mặc dầu mang màu sắc lí tưởng hóa, nhưng lại rất chân thành và trong trẻo là tâm huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ.

Từ ấy đã thể hiện được bầu nhiệt huyết mãnh liệt của người chiến sĩ trẻ, của một cái tôi trữ tình buổi đầu nặng trĩu những ưu tư, ưu phiền của cuộc đời. Song đã bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của con người đối với cuộc đời, của niềm tin vào một tương lai sáng huy hoàng, vào chân lí của cách mạng.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 29)

Chế Lan Viên từng nói "Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính... anh là con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp" Không ai khác, Chế Lan Viên đang nói đến Tố Hữu- một nhà thơ của lí tưởng cộng sản, một nhà cách mạng yêu nước. Thơ ông luôn gắn liền với cách mạng, tiêu biểu là bài thơ Từ Ấy trích tập thơ cùng tên được ông sáng tác năm 18 tuổi, năm ông ra nhập đảng với niềm vui khôn xiết:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói trong tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

"Từ ấy" là tên bài thơ, là tên tập thơ cũng là thời điểm trong đời Tố Hữu. Những năm trước cánh mạng là" những ngày bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước, chọn một dòng để nước trôi" nhưng vào năm 1938, gặp đảng là lúc tìm được ánh sáng. " từ ấy" không còn chỉ là thời điểm vô danh trôi chìm trong quên nhớ đời người mà đã trở thành thời khắc thiên liêng không thể lãng quên phai nhạt. Vào thời khắc ấy , trong hồn thi sĩ " bừng nắng hạ" . Hình ảnh nắng hạ thật chói chang khác cái nắng nhợt nhạt của mùa xuân, cái nắng hanh của mùa thu. Những tia nắng hạ làm lá thêm xanh , hoa thêm ngát, trái thêm ngọt, đất trời thêm cao. Không những vậy, " nắng hạ" trong bài thơ cho ta nguồn sáng rất ấm, rất tươi của tinh thần, của linh hồn. Nó làm " bừng" sáng tâm hồn, bừng lên niềm vui, bừng dậy cả nguồn sống, bừng thức cả một miền kí ức thật đẹp đẽ. Ánh sáng ấy chỉ có thể là của mặt trời, đó là sự sống, hơi ấm bao la bất biến của vũ trụ. Đó là ánh sáng của " mặt trời chân lí" là ánh sáng của đảng.

Niềm vui ấy không hề dừng lại, mà ngày càng tăng lên với các hình ảnh " vườn hoa lá", " tiếng chim ca",.. mở ra cho người độc đó là khu vườn xuân tươi mới tràn ngập sắc xanh của cây, hương thơm của hoa và những tiếng chim hót ríu rít tràn đầy sức sống. Vẻ đẹp tâm hồn, niềm vui của tác giả đã thoát khỏi ước lệ tượng trưng, nó tươi sáng trẻ trung có chút bồng bột say mê của chàng trai xanh tuổi trẻ lòng. Câu thơ với kiểu định nghĩa rất mới mẻ viết bằng cảm xúc dạt dào mãnh liệt với các hình ảnh rất cụ thể khiến cho ta cảm nhận được niềm vui và say mê khi tác giả được kết nạp đảng.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho ta cảm nhận được niềm vui, sự say mê của tác giả thì đến khổ hai chính là những nhận thức mới về lí lẽ sống:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Khổ thơ với điệp ngữ kết hợp với nhịp thơ nhanh, trôi chảy, hơi thở liền mạch, giọng thơ sôi nổi thiết tha tràn đầy nhiệt tình nhiệt huyết

Việc sử dụng động từ " buộc" thể hiện một lòng tự nguyện chan hòa lòng mình cùng mọi người , tác giả dường như muốn mình trải lòng cùng quần chúng nhân dân cần lao của bao kiếp người đau khổ. Đó là những trẻ em bán dạo, người ở, đầy tờ, những người nông dân khổ cực sớm hôm,... Tố Hữu với mong muốn đồng cảm, xót thương đoàn kết với những người dân ngoài kia mà mở hồn " trang trải" với "khối đời". Có lẽ đó là một lẽ sống lớn, tình cảm lớn với mọi người.

Tiếp tục mạch cảm xúc là những biến chuyển trong tâm hồn thi sĩ và mong muốn tột cùng hòa mình với đời:

Ta đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ

Khổ thơ cuối là sự suốt hiện của tập thể với các cụm từ chỉ số lượng lớn " vạn nhà", "vạn kiếp" " vạn đầu" và đại từ "ta" , tác giả một lần nữa khẳng định tình cảm gắn bó của mình với mọi người, những người sống nghèo khổ , tuổi cao nhưng còn gánh nhiều nỗi cơ cực, những trẻ em thời ấy không có cơm ăn áo mặc, lang thang không nhà và tất cả mọi người trên thế gian này. Đây là bước chuyển từ cái tôi sang cái ta rõ rệt nhất, tình cảm thay đổi cũng bắt nguồn từ nhận thức về lẽ sống, nó ập đến trong lòng tác giả như một mối duyên , có thể nói là mối duyên giữa thi sĩ và ánh sáng chân lí của đảng. Đặt tác phẩm vào thời đại và bối cảnh bấy giờ năm 1938, thời điểm mà các nhà trí thức tiểu tư sản đang đề cao cái tôi cá nhân thì Tố Hữu đã có thể buông bỏ cái tôi để hòa mình cùng cái ta của thế gian. Điều này cho thấy sức mạnh to lớn của lí tưởng cách mạng đã cảm hóa con người, soi sáng đường đi cho họ, hướng họ về phía mặt trời.

Với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn, và chất trữ tình chính trị sâu sắc, thơ Tố Hữu đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho những thế hệ thanh niên yêu nước. Và bài thơ Từ ấy của ông truyền cho ta ngọn lửa, nhiệt huyết và khát vọng tuổi trẻ lớn lao.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 30)

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp và thơ ca của ông gắn liền với cách mạng. Thơ của ông gắn bó và phản ánh chân thật những chặn đường cách mạng đầy gian khổ và hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi đầy vẻ vang. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu với những cảm nhận và suy tư sâu sắc.

" Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

...

Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Bài thơ nằm trong phần máu lửa của tập Từ ấy được viết vào ngày mà Tố Hữu được đứng vào hàng ngũ của Đảng.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim".

"Từ ấy" là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ "bừng nắng hạ" là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. "Bừng nắng hạ" là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh "mặt trời chân lí chói qua tim" là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ "bừng" và từ "chói". Từ "bừng" chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ "chói" chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh "bừng nắng hạ", "chói qua tim" đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ "chói qua tim" là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

"Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim"

Hình ảnh "vườn hoa lá" và "rộn tiếng chim" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với muôn nơi"

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"

Động từ "buộc" thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. "Buộc" còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ "trang trải" khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. "Khối đời" là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lí tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng cảu nhà thơ Tố Hữu.

"Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ"

Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với "vạn nhà" (Tôi đã là con của vạn nhà: "vạn nhà" là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, "vạn kiếp phôi pha" là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, "vạn đầu em nhỏ" là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ "đã là" là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản.

Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 31)

Tố Hữu là cánh chim đầu đàn trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ của ông tràn đầy những lí tưởng cao đẹp của thế hệ con người dám sống và chiến đấu vì Tổ quốc. Mỗi bài thơ là một lời tuyên thệ của chính Tố Hữu với sự nghiệp “biến bút lực thành vũ khí chống giặc”. Trong đó điển hình nhất phải kể đến tác phẩm “Từ ấy” (1938), bài thơ tràn đầy niềm say mê mãnh liệt trong tâm hồn tác giả khi gặp gỡ và được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cộng sản.

Vừa bắt đầu bài thơ, người đọc đã thấy một niềm hân hoan tưng bừng trong từng câu chữ:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Ở cái tuổi 18 đẹp nhất của thanh xuân, tuổi trẻ, Tố Hữu đã tìm được “mặt trời chân lý” khi có lí tưởng cách mạng soi đường. “Từ ấy” như một dấu mốc thiêng liêng, làm thay đổi cả cuộc đời một con người. Tác giả ví đó như “nắng hạ” mang sức mạnh xua tan những ngày tăm tối. Nếu mặt trời mang đến sự sống, giúp vạn vật sinh sôi phát triển thì ánh sáng của Đảng chính là mặt trời để giúp hàng triệu người dân Việt Nam thoát khỏi bóng tối tù đày, nô lệ. Ở đây, tác giả đã sử dụng hai động từ mạnh là “bừng” và “chói” để diễn tả cảm xúc đột ngột, mạnh mẽ, bùng phát sự vui sướng đến khó có thể kìm nén.

Niềm hạnh phúc ấy còn được diễn tả thành hình ảnh, âm thanh qua hai câu thơ sau:

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Tố Hữu sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh một cách tài tình: “hồn tôi” – “vườn hoa lá đậm hương và rộn tiếng chim”. Phần hồn vốn vô ảnh, vô hình nay lại được vẽ lên bởi những đường nét của bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, rộn ràng, tươi vui. Nhờ tiếp nhận cách mạng mà từ một con người chìm trong bóng tối nay đã có thể vươn mình về phía ánh sáng, để sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn.

Sau sự kiện kết nạp vào Đảng, chính thức gia nhập hàng ngũ tiên phong cứu quốc, tự bản thân tác giả “Từ ấy” đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về lẽ sống. Điều này được thể hiện rất rõ trong khổ thơ thứ hai của bài thơ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Một cái “tôi” Tố Hữu đã được bộc bạch thẳng thắn, chẳng hề e dè ngần ngại. Nhưng nó khác với cái “tôi” khao khát cuồng si của Xuân Diệu, cũng chẳng giống cái “tôi” sầu thảm cô đơn của Huy Cận. Tố Hữu lấy cái “tôi” riêng lẻ để gộp vào cái chung của tập thể, càng ngày càng hòa nhập, càng ngày càng xích lại gần nhau.

Một loạt từ ngữ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” đã được sử dụng để chỉ sự gắn kết keo sơn đặc biệt này. Khi cộng đồng đất nước lên tiếng, chàng thanh niên Tố Hữu 18 tuổi ngày luôn luôn trong tư thế sẵn sàng để cùng sống, cùng chiến đấu tại “trăm nơi”, sát cánh với “bao hồn khổ”. Tất cả nhằm một mục đích cao cả vĩ đại khi tạo nên “một khối đời” đoàn kết vững mạnh, cùng nhau chống lại kẻ thù. Cả khổ thơ âm vang sức mạnh đồng cam cộng khổ của những con người đang sống, chiến đấu cho công cuộc cứu quốc. Ở đó mỗi cá nhân góp phần tạo nên sức mạnh lớn, không còn những nỗi niềm riêng, chỉ có tiếng nói, mục đích, quyết tâm chung.

Nếu Tố Hữu chỉ dừng ở chuyển biến nhận thức thôi thì có lẽ chưa đủ để tạo ra một bài thơ hay và có sức lay động đến vậy. Trong thâm tâm người cộng sản còn có những thay đổi về mặt tình cảm. Tác giả khẳng định chắc nịch rằng:

Tôi đã là con của vạn nhà

Em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ

Tố Hữu gạt bỏ cái chủ nghĩa cá nhân để hòa nhập vào quần chúng lao khổ, để trở thành “con của vạn nhà”, “em của vạn kiếp”, “anh của vạn em nhỏ”. Biện pháp nghệ thuật điệp cấu trúc đã chỉ rõ mối quan hệ gắn bó khăng khít như máu mủ ruột thịt của nhà thơ với cộng đồng. Không còn sự phân tầng giai cấp, không còn phân biệt kẻ giàu người nghèo, bần nông hay trí thức, tất cả chỉ còn một Tố Hữu nỗ lực khao khát với trách nhiệm lớn lao là phải bảo vệ, cứu giúp những mảnh đời bất bạnh ngoài kia. Họ cần được giải phóng, cần được sống một cuộc đời của tự do, hạnh phúc. Tư tưởng của tác giả thấm nhuần đạo đức, lý tưởng cách mạng cao đẹp, liêm khiết.

Bài thơ “Từ ấy” là một khúc ca vui vẻ về sự giác ngộ lý tưởng, tình cảm của Tố Hữu khi đứng trước ánh sáng cách mạng vào độ tuổi rất trẻ. Ở đó ta thấy một con người tràn ngập những say mê, vui sướng, muốn cống hiến hòa mình vào cộng đồng. Các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ đã được sử dụng linh hoạt để tạo ra tính nhạc và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 32)

Bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu cho ta cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng với nhà nước.

Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỷ 20. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng.

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

"Dù ai thay ngựa giữa dòng

Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi

Vẫn là ta đó những khi

Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi"

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua 6 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng, Máu

Bài thơ "Từ ấy" được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói " Từ ấy" là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

"Từ ấy" là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng Cách mạng,Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời".Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu" bừng nắng hạ" đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mạng

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

Mặt trời chân lí chói qua tim

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã "chói" vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:

Hồn tôi là một vườn hoa lá,

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :"hồn" người đã trở thành "vườn hoa", một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót.Ở đây hiện thưc và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

Nếu khổ đầu là một tiếng reo vui phấn khởi thì khổ thứ hai và thứ ba là bản quyết tâm thư của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái tôi nhỏ bé của mình vào cái ta chung rộng lớn của quần chúng nhân dân cần lao.Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành thiết tha đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ giai cấp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó vớI mọi người:

Tôi buộc hồn tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi bên nhau thêm mạnh khối đời.

"Buộc" và "trang trải"là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau nhưng nó đều nằm trong nhận thức mới về lẽ sống của Tố Hữu. "Buộc" là đoàn kết gắn bó, tự nguyện gắn bó đời mình với nhân dân cần lao, với hết thảy nhân dân lao động Việt Nam

Để tình trang trải với trăm nơi

Xác định vị trí của mình là đứng trong hàng ngũ nhân dân lao động chưa đủ, Tố Hữu còn biểu hiện một tinh thần đoàn kết, tình cảm nồng thắm, chan hòa với nhân dân.Tình yêu người, yêu đời trong Tố Hữu đã nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Nhà thơ muốn được như Mác: "Vì lẽ sống, hy sinh cho cuộc sống - Đời với Mác là tình cao nghĩa rộng"., mong ước xây dựng một khối đời vững chắc làm nên sức mạnh quần chúng cách mạng.Từ đó Tố Hữu đã thể hiện niềm hãnh diện khi được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình những người nghèo khổ bất hạnh:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bấc cù bơ.

Tố Hữu nguyện sẽ đứng vào hàng ngũ những người "than bụi, lầy bùn"là lực lượng tiếp nối của "vạn kiếp phôi pha", là lực lượng ngày mai lớn mạnh của "vạn đầu em nhỏ",để đấu tranh cho ngày mai tươi sáng.Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ lắng đọng trong tâm hồn ta một niềm cảm phục, quý mến người trai trẻ yêu đời, yêu người này.

Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.

Bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu là một bài thơ vừa có tính triết lý sâu sắc, vừa rất gần gũi, bình dị, thân thuộc. Sau mấy chục năm đọc lại, những vần thơ đó vẫn là một câu hỏi thấm thía mà những người cộng sản hôm nay không thể không suy ngẫm một cách nghiêm túc để tự mình tìm ra lời giải đáp thấu đáo. Giữa cái chung và cái riêng, giữa cộng đồng - tập thể và cá nhân, giữa vật chất tầm thường và tinh thần - tư tưởng của người cộng sản.

Cả cuộc đời Tố Hữu đã hiến dâng cho tổ quốc, cho Đảng và nhân dân. Khi biết sắp phải đi xa, ông cũng chỉ nghĩ là về một nơi mà ta vẫn gọi là "cõi tạm". Ông mong muốn tiếp tục được hiến dâng:

Tạm biệt đời ta yêu quý nhất

Còn mấy vần thơ, một nắm tro.

Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất

Sống là cho. Chết cũng là cho.

Bởi thế, con người, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng và thi ca của Tố Hữu luôn sống mãi trong niềm tin yêu, kính trọng của Đảng và nhân dân.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 33)

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Tố Hữu là một trong những cây bút tiêu biểu với tiếng thơ trữ tình – chính trị. Thơ ông có sự gắn bó chặt chẽ với chặng đường đấu tranh của dân tộc với những biến động trong đại trong lịch sử chống xâm lược. Tác phẩm “Từ ấy” ra đời vào tháng 7-1938 đã đánh dấu mốc son chói lọi trong cuộc đời tác giả khi bắt gặp lí tưởng cách mạng.

Bài thơ được gợi mở bằng những cảm xúc về niềm vui sướng hân hoan của nhà thơ khi vừa được kết nạp vào Đảng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim...”

“Từ ấy” là khoảng thời gian phiếm chỉ gợi nhiều cảm xúc, đó là sự nghẹn ngào, hân hoan vui sướng ngập tràn trong tâm hồn nhà thơ. Đồng thời, đánh dấu, nhấn mạnh cột mốc quan trọng trong cuộc đời nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cộng sản. Tác giả đã sử dụng hình ảnh “nắng hạ” – ánh nắng mùa hè rực sáng , thiêu đốt để ẩn dụ cho ánh sáng cách mạng đang bừng lên rực rỡ, bùng cháy trong lí trí của tác giả. Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời chân lí” đã khẳng định sức mạnh soi sáng của Đảng. Nếu mặt trời thiên nhiên đem đến ánh sáng, sự sống cho muôn loài thì ánh sáng của Đảng chiếu rọi tâm tưởng, trái tim, tạo nên niềm hạnh phúc của nhà thơ. Như vậy, “Từ ấy” trở thành tiếng reo ca đầy hân hoan, sôi nổi của con người đang “Bâng khuâng đi kiếm lẽ ở đời” để rồi bắt gặp được lí tưởng cách mạng. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng”, “chói” để khẳng định sức ảnh hưởng lớn lao cùng sức mạnh của lí tưởng, ánh sáng cách mạng. Ở hai câu thơ tiếp theo, chúng ta có thể thấy được cảm xúc hân hoan, vui sướng đến tột cùng thông qua biện pháp nghệ thuật so sánh: “Hồn tôi là một vườn hoa lá”. Tâm hồn nhà thơ ngập tràn hương thơm hoa lá và rộn ràng tiếng chim, thể hiện trạng thái sôi nổi của bản thân khi nhận ra ánh sáng, lí tưởng của Đảng. Trong niềm hân hoan đó, tác giả đã tìm thấy lẽ sống cao cả của đời mình:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Tác giả đã sử dụng đại từ xưng hô “tôi”, nhưng không phải là cái “tôi” của cá nhân riêng tư mà là cái “tôi” gắn bó với mọi người. Điệp ngữ “để” được nhắc lại hai lần ở mỗi câu thơ tạo nên hình thức thơ vắt dòng, nhấn mạnh nhấn mạnh ý thức tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với cuộc đời của dân tộc, nhân dân từ khi giác ngộ lí tưởng cách mạng. Đồng thời, hàng loạt động từ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” đã thể hiện tình cảm gắn bó với nhân dân và sự nghiệp cách mạng một cách dứt khoát của người chiến sĩ, người thanh niên yêu nước đã tìm thấy lẽ sống, lí tưởng cao cả của cuộc đời mình. Như vậy, qua giọng thơ sảng khoái, hân hoan, cái “tôi” của tác giả đã hòa chung với cái “ta”, cá nhân hòa chung cộng đồng một cách tự nguyện, quyết liệt và dứt khoát để “mạnh khối đời” – khối đại đoàn kết dân tộc. Đó cũng chính là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Bài thơ khép lại bằng sự chuyển biến về tình cảm của tác giả:

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm, cù bất cù bơ...”

Bằng điệp cấu trúc “đã là/ là”, tác giả đã nêu lên một chân lí, khẳng định sự chuyển biến lớn trong tình cảm của mình và vị trí của trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng. Những danh từ: “con”, “em”, “anh” gợi ra mối quan hệ ruột thịt đối với “vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ” thể hiện sự gắn bó máu thịt của tác giả đối với đông đảo quần chúng nhân dân. Câu thơ đã nêu cao trách nhiệm chia sẻ, dẫn dắt, định hướng đối với những kiếp người khốn khổ, với mầm non của đất nước. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tình hữu ái giai cấp, lòng nhân ái và sự đoàn kết dân tộc giữa những con người cùng mang trong mình dòng máu Lạc Hồng. Như vậy, bằng tinh thần nhiệt huyết tuổi trẻ, Tố Hữu đã nêu cao chân lí của người chiến sĩ cách mạng, phải lo lắng, chăm lo đối với vận mệnh của nhân dân, dân tộc dưới ánh sáng soi chiếu của Đảng. Vì thế, bài thơ được xem là lời tuyên ngôn về lẽ sống đối với thanh niên Việt Nam qua nhiều thế hệ.

Bằng việc sử dụng thành công các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ, hệ thống ngôn ngữ gợi cảm, giàu nhạc điệu, giọng thơ sảng khoái, hân hoan, tác giả Tố Hữu đã ngợi ca lí tưởng cách mạng của Đảng; đồng thời thể hiện lẽ sống lớn hòa nhập, cống hiến. Tất cả những yếu tố trên đã làm nổi bật tiếng thơ trữ tình – chính trị và phẩm chất cách mạng của nhà thơ Tố Hữu.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 34)

Tố Hữu - một tiếng thơ trữ tình chính trị xuất sắc của dòng văn học cách mạng Việt Nam, ông đã thổi vào thơ ca cách mạng một luồng sinh khí nồng nàn, rạo rực, hăm hở, tâm huyết của người lính trẻ với chất giọng đằm thắm dịu ngọt của người dân xứ Huế. Bài thơ Từ ấy được trích từ phần Máu lửa của tập thơ cùng tên đã ghi lại những giâ phút say mê của tác giả khi bắt gặp lý tưởng cách mạng. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng phấn khởi mà đó còn là phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản muốn hòa nhập cống hiến hết mình cho cuộc đời.

Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu đặt tên bài thơ là Từ ấy. Sau bao tháng năm "Hoang mang không định trước tương lai" thì đến tháng 7- 1938 người chiến sĩ trẻ đã tìm được con đường lý tưởng cách mạng của cuộc đời mình. Chính vì thế mà cuộc đời đang tối tăm bỗng hóa thành những bình minh cây xanh nắng dội, tâm hồn đang u tối mịt mù bỗng trở nên vui tươi say mê náo nhiệt hẳn lên. Đó phải chăng chính là cái mốc đánh dấu cho sự trưởng thành trong con người nhà thơ. Và đồng thời nó cũng chính là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của ông. Từ đây nhà thơ đã tìm được con đường đi cho chính bản thân mình. Và cũng từ đây ông sẽ chuyên tâm vào con đường cách mạng với Đảng ấy. Nhà thơ không còn phải bâng khuâng đi tìm kiếm lẽ yêu đời yêu cuộc sống này nữa mà từ ấy sẽ mở ra một chân lý một tương lai hứa hẹn hơn:

"Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi tìm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi thoát chẳng rời"

Ngay từ khổ thơ đầu nhà thơ không thể nào dấu nổi cảm sướng say mê vui sướng của mình khi bắt gặp lý tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui sướng ấy rất chân thành và đầy thành kính:

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim. . . "

Cái khoảnh khắc nhà thơ bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng thì trong nhà thơ như có ánh nắng hạ sáng soi. Tại sao nhà thơ lại nói so sánh với ánh nắng hạ, là bởi không ánh nắng nào có thể chói chang như ánh năng mùa hạ. So sánh như thế nhà thơ muốn thể hiện được sức mạnh soi sáng của chân lý cách mạng kia. lý tưởng cách mạng của Đảng đến với người chiến sĩ cộng sản yêu đời nhiệt huyết hăng say ấy có sức sáng soi tâm hồn như xuyên như thấu cả một lý tưởng hoài bão. Ngày nào Tố Hữu còn bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời thì bây giờ tâm hồn ấy được xác định một cách chắc chắn nhất về lý tưởng. Ánh sáng chân lý như chói qua tim người chiến sĩ. Một lần nữa nhà thơ lại dùng hình ảnh mặt trời để nói đến chân lý ấy. Có thể nói một chân lý mà nhà thơ dùng đến hai hình ảnh mang sức gợi tả đó là nắng hạ và mặt trời để nhằm thể hiện lên sức mạnh soi sáng tâm hồn của lý tưởng của Đảng. Và trong thâm tâm người chiến sĩ ấy thì lý tưởng ấy giờ đây trở thành một chân lý của bản thân mình. Không thể dấu nổi sự say mê vui vẻ ấy, tâm hồn của nhà thơ giống như một vườn hoa lá đầy màu sắc. biện pháp so sánh ấy khiến cho chúng ta thấy được niềm vui của nhà thơ đang nảy nở giống như một khu vườn tươi tốt đầy màu sắc của nhiều loại cây. Không những thế trong khu vườn ấy còn có cả những âm thanh, đó là tiếng chim rộn ràng. Tiếng hót ấy hay chính là những khúc nhạc vui tươi réo rắt trong lòng người chiến sĩ khi không còn những ngày bâng khuâng kiếm lẽ yêu đời nữa. Khu vườn ấy lại còn đậm hương thơm, đó phải chăng là sự thơm thảo của tấm lòng con người muốn cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Như vậy có thể nói qua khổ thơ đầu ta thấy được niềm vui ngập tràn trong lòng người chiến sĩ khi bắt gặp lý tưởng cách mạng của Đảng. Niềm vui tràn ngập hân hoan như réo rắt ngân vang tràn đầy khí thế sinh sôi như khu vườn hoa lá nọ.

Sang khổ thơ thứ hai nhà thơ thể hiện sự hòa nhập giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung:

"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. "

Từ "buộc" ở đây khi nghe thì ta sẽ hiểu là trói buộc nhưng không phải vậy. Nếu như nhà thơ dùng với nghĩa trói buộc thì hóa ra ông bị ép buộc à, trong khi ôn nhiệt huyết hi vọng cống hiến cho nhân dân đất nước. Nhà thơ sử dụng từ buộc ở đây nhằm thể hiện sự tự nguyện gắn kết bản thân mình với nhân dân, với mọi người. Cái tôi cá nhân không sống độc lập một mình nữa mà sống gắn kết với nhân dân đồng bào mình. Sự gắn kết ấy sẽ làm nên những sợi dây vô hình không những đem lại sự đoàn kết của một dân tộc mà nó còn mang để cho tình cảm ấy trang trải trăm nơi. Tất cả những điều ấy làm nên những tình cảm tốt đẹp của một dân tộc. Thi sĩ đồng cảm với những người khốn khổ hơn mình, gần gũi nhau để cho mạnh mẽ vượt qua cuộc sống, cuộc chiến tranh ác liệt này. Nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng và cũng từ đó nhà thơ thấy được sự gắn kết với mọi người. "khối đời" thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc của ta. Tâm hồn người cộng sản đồng điệu với tâm hồn của những con người khổ để từ đó thấy được lá lành đùm lá rách của nhân dân ta.

Cũng chính vì lý tưởng soi sáng ấy mà nhà thơ nhận ra được những tình cảm với mọi người trong cuộc chiến cũng như trong cuộc sống này:

"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ. . . "

Buộc mình với nhân dân mọi người Tố Hữu nhận thức được mình đã là con của vạn nhà, là anh em của kiếp con người chịu nhiều đau thương mất mát. Cả nhưng em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ nữa. Điệp từ "là" các thể hiện sự khẳng định chắc nịnh của nhà thơ về sự nhận thức tình cảm của mình. các từ "anh", "em", "con" là những từ xưng hô trong một gia đình kết hợp với những từ chỉ số từ bé đến lớn như "Vạn", "đầu" đã thể hiện được trong tâm hồn, trong nhận thức của Tố Hữu thì ngoài gia đình nhỏ của mình thì anh còn có cả một đại gia đình lớn đó là tất cả những con người Việt Nam. Chính vì thế mà anh ý thức được trách nhiệm của mình với họ. Anh là con của tất cả những gia đình trên đất nước, là anh em trong một đại gia đình. Nhà thơ xưng hô như thế và tự nhận thấy trách nhiệm của cá nhân mình với những kiếp phôi pha khổ cực, với những em nhỏ không cha không mẹ không chốn nương thân.

Tóm lại khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng của Đảng thì Tố Hữu đã không còn một thời đi kiếm lẽ yêu đời nữa mà anh đã tìm thấy chân lý cuộc đời mình. Bài thơ từ ấy như thể hiện được niềm vui sướng của người chiến sĩ bắt gặp lý tưởng cách mạng Đảng. Đồng thời cũng qua đó Tố Hữu nhận thức được những tình cảm và trách nhiệm với đại gia đình lớn của mình.

Cảm nhận về bài thơ "Từ ấy" ( mẫu 35)

Tố Hữu là nhà thơ nổi tiếng và ngọn cờ đi đầu trong sử dụng văn chương động viên khích lệ chiến sỹ và dùng tác phẩm của mình làm vũ khí chống giặc. Ông giác ngộ cách mạng từ rất sớm và tác phẩm Từ ấy thể hiện dấu ấn của cuộc đời, sự vinh dự được đứng vào hàng ngũ cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.

Bài thơ sáng tác khi tác giả được kết nào vào Đảng cộng sản, chính ông như tìm ra được lý tưởng sống mới đó chính là bước ngoặt to lớn của cuộc đời.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim “

Tâm trạng hồ hởi, phấn khích khi tìm được ánh sáng của cuộc đời mình, cũng giống như một con người đang lạc lối này bỗng tìm được ánh sáng soi rọi dẫn lối. Thứ ánh sáng đỏ “bừng” lên như ngọn nắng chói chang của mùa hạ, xua tan đi mây mù đen tối. Lí tưởng Đảng hệt như “mặt trời chân lí” trường tồn theo thời gian,

Khi tìm ra được chân lý sống mới tác giả trở nên vui vẻ và yêu đời hơn. Tâm hồn đó muốn trở thành “một vườn hoa lá” xanh tươi và có âm thanh rộn ràng của “tiếng chim”. Cảnh sắc thiên nhiên tươi tốt và nảy nở hòa chung vào niềm cảm xúc vui sướng đang trào dâng trong lòng tác giả.

Khi giác ngộ được với lý tưởng cách mạng tác giả nhận thức rõ mình phải có trách nhiệm với cuộc đời và tìm ra lý lẽ sống mới cho riêng mình.

“Tôi buộc hồn tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời “

Tác giả biết rằng mình không thể sống riêng lẻ, bản thân phải trói buộc vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Mỗi con người cùng lý tưởng sống cùng gắn kết trở thành một gia đình yêu thương, khối đại đoàn kết đó thực hiện nhiệm vụ cách mạng chắc chắn sẽ đi đến thành công.

Tố Hữu mong muốn hòa cái tôi cá nhân vào lợi ích chung của dân tộc, sống vì mọi người, vì lợi ích chung của dân tộc đó là lý tưởng sống hoàn toàn mới mẻ của tác giả.

“Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ…”

Trong đoạn cuối tác giả sẽ khẳng định mình chính là đứa con của vạn nhà cùng chung lý tưởng cách mạng, chung một gia đình yêu thương, tuy không cùng ruột thịt, máu mủ nhưng họ chung mục tiêu cách mạng. Tố Hữu vốn có nguồn gốc từ tư sản nhưng ông đã bỏ đi thân phận của mình hòa chung vào nỗi đau tầng lớp vô sản đó là nỗi đau chung của dân tộc lúc bấy giờ. Có thể thấy ông đã bỏ đi cái tôi của mình mong muốn sao cho tầng lớp nghèo khổ được no ấm, hạnh phúc. Chính ông và những người cùng chiến tuyến với sự đoàn kết, yêu thương sẽ hoàn thành mục tiêu cách mạng.

Bài thơ Từ ấy không chỉ thể hiện được sự vui sướng, hồ hởi, hạnh phúc của người thanh niên lần đầu tìm ra lý tưởng sống mới cho mình mà còn thể hiện được trọng trách, lối sống của thanh niên trong thời đại mới.

Xem thêm các văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Phân tích "Đây thôn vĩ dạ"

Phân tích bài thơ "Chiều tối" – Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ “Vội vàng” – Xuân Diệu

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu

Phân tích quan niệm sống của Xuân diệu trong bài Vội vàng

1 8486 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: