TOP 10 mẫu Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (2023) SIÊU HAY
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Dàn ý 1
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
- Cảm nhận chung về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
II. Thân bài
1. Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ
* Câu 1: Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Câu hỏi có hai cách hiểu:
Lời của người thôn Vĩ hỏi tác giả
Lơi phân thân của tác giả tự hỏi chính mình
=> Dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.
* Câu 2: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
- Hình ảnh “nắng hàng cau”: ánh nắng của bao trùm khắp làng quê.
- Điệp ngữ: “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy ánh nắng sức sống.
* Câu 3:
- Khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh.
- “xanh như ngọc” một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu.
* Câu 4: Lá trúc che ngang mặt chữ điền
- Trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện:
- Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?
=> Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.
2. Bức tranh sông nước trong đêm trăng
* Câu 5 và câu 6:
- Hình ảnh thiên nhiên thể hiện sự chia lìa: gió, mây vốn quấn quýt nay chia lìa đôi ngả.
- Dòng sông như nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương.
- Hình ảnh hoa bắp khẽ lay cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.
* Câu 11: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh gợi khung cảnh huyền ảo, không có thật.
=> Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.
=> Sự đối lập giữa hai bức tranh thiên nhiên nơi làng quê thôn Vĩ và đêm trăng.
3. Tâm trạng của nhà thơ
- Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói.
- Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.
- Đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu.
=> Làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.
III. Kết bài
- Cảm nhận về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Dàn ý 2
1. Mở bài:
- Giới thiệu về bài thơ
2. Thân bài:
* Cảm hứng sáng tác:
- Được lấy cảm hứng từ bức bưu ảnh được cho là của Hoàng Cúc gửi tặng.
- Làm sống dậy những kỉ niệm về Vĩ Dạ và khao khát được giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
* Khổ thơ đầu:
- Là bức tranh phong cảnh và con người Vĩ Dạ:
- Mở đầu bài thơ bằng câu hỏi, “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nghe như tiếng trách cứ của người Vĩ Dạ với nhà thơ nhưng thực ra là lòng tự hỏi lòng.
“về chơi”: thân thiết, trở về nơi chốn thân thương.
- Hình ảnh “nắng hàng cau”:
Điệp từ “nắng”: gợi không gian ngập tràn nắng
“nắng hàng cau”: thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ.
- Hình ảnh “vườn ai … ngọc”:
“Vườn ai”: phiếm chỉ, khu vườn trong tâm tưởng nhà thơ
Tính từ “mướt”: lời ăn tiếng nói của nhân dân, gợi một khu vườn tươi tốt, mơn mởn, mỡ màng.
“Xanh như ngọc”: Khu vườn ướt sương đêm như một khối ngọc trong suốt.
- Hình ảnh “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”:
Hình ảnh con người xứ Huế
Khuôn mặt thấp thoáng sau cành trúc gợi ra vẻ thẹn thùng, e ấp đặc trưng của người xứ Huế.
- Bốn câu thơ là bức tranh thôn Vĩ với cảnh vườn ấm áp, giàu sức sống, ẩn chứa là tấm lòng gắn bó của thi nhân với Vĩ Dạ và khao khát được giao cảm với cuộc đời, nỗi buồn nuối tiếc vẻ đẹp trong quá khứ.
* Khổ thơ thứ hai:
- Bức tranh phong cảnh thôn Vĩ có sự vận động sang cảnh sông nước mây trời
Bức tranh với mây trời và dòng Hương giang thơ mộng.
Nhịp thơ chậm tạo sự êm ả, yên bình đặc trưng Huế.
- Nhân hoá hình ảnh mây gió đang trong sự chia ly
- Ẩn dụ nỗi buồn của thi nhân trong tình yêu đơn phương
- Nỗi buồn của thi nhân còn gửi vào dòng nước: Dòng nước lặng lờ chảy như tâm trạng trĩu nặng của thi nhân, nỗi cô đơn thấm thía.
- Hình ảnh “thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có kịp chở trăng về tối nay?”
Hình ảnh “thuyền ai”: hình ảnh phiếm chỉ, gợi ra dấu hiệu của sự sống, của con người.
“Có chở trăng về kịp tối nay?”: muốn mượn trăng để hoá giải nỗi cô đơn trong lòng.
- Sống trong đau đớn bệnh tật nên nhà thơ luôn khát khao hướng giao cảm với cuộc đời.
* Khổ thơ thứ ba:
- Câu thơ đầu khuyết chủ ngữ, dụng ý của tác giả, chủ thể và khách thể nhập làm một “Mơ khách đường xa khách đường xa”:
Nhà thơ tự mơ mình là người khách đường xa về thăm Vĩ Dạ.
Nhịp thơ 1/3/3, và điệp từ “khách đường xa”: sự rạo rực, reo vui, náo nức.
- Bức tranh Vĩ Dạ được mở ra với hình ảnh của “em” với tà áo dài trắng trong sương khói bảng lảng.
- Nhà thơ khao khát được sống trong tình người nhưng sương khói làm mờ nhân ảnh “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” liệu tình người có thực sự tha thiết, mặn nồng?
- Nhà thơ rơi vào trong hụt hẫng.
- Bài thơ mở ra bằng câu hỏi, kết cũng bằng câu hỏi
3. Kết bài:
- Bài thơ là bức tranh Vĩ Dạ với thiên nhiên và con người mang đặc trưng xứ Huế.
- Tâm trạng của thi nhân với nỗi cô đơn, buồn tủi vì bị bệnh tật ngăn cách với cuộc đời.
Cảm nhận bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1
Hàn Mặc Tử là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Ông là một nhà thơ tài hoa nhưng lại mang trong mình căn bệnh phong hiểm nghèo, chính vì vậy, thơ của ông luôn có hai thế giới, một là tươi mới trong trẻo, một là ma quái, kinh dị. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng trong tập Thơ Điên của ông, được viết vào năm 1938. Bài thơ là bức tranh thôn quê Vĩ Dạ vừa yên bình vừa tươi đẹp, lồng ghép vào đó là một tình yêu tha thiết và niềm khao khát được giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử.
Đây thôn Vĩ Dạ được khơi cảm hứng từ một tấm bưu ảnh vẽ cảnh vườn tược sông nước được cho là của Hoàng Cúc gửi ra cho ông. Bức ảnh đó đã làm sống dậy những kỉ niệm của Hàn Mặc Tử về Vĩ Dạ - một xóm nhỏ ven sông Hương, nơi lưu giữ tuổi học trò của thi nhân cũng là nơi có bóng hình người con gái ông thương nhớ. Và hơn thế, nó đã làm sống dậy khao khát được giao cảm với cuộc đời của ông, bởi khi đó, ông đang ở Phú Yên và đang bị bệnh tật dày vò.
Có lẽ vì được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt như thế nên ngay đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử đã mở lời bằng một câu hỏi:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nghe câu thơ mà người ta như nghe được tiếng người thôn Vĩ đang hờn trách thi nhân, đang mời gọi thi nhân về với Vĩ Dạ. Thế nhưng, đây lại chỉ là một câu hỏi lòng tự hỏi lòng của nhà thơ, bởi ông đang sống trong nỗi nhung nhớ và niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ. Hàn Mặc Tử không phải đến thăm Vĩ Dạ mà là “về chơi”, bởi Vĩ Dạ là chốn thân thương, là nơi mà nhà thơ gắn bó bằng cả tâm hồn. Ông đã làm một cuộc hành trình bằng tâm tưởng để quay trở lại Vĩ Dạ, để ngắm:
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nhà thơ say sưa trong cảnh vườn Vĩ Dạ, trong những khoảnh khắc yên bình, êm dịu của tâm hồn. Bức tranh Vĩ Dạ được miêu tả từ xa tới gần, từ cao xuống thấp, mỗi góc độ một vẻ đẹp nhưng đểu rất thơ mộng và tràn trề sức sống. Điểm nhìn đầu tiên của nhà thơ bắt gặp là hình ảnh của nắng sớm trên những hàng cau.
“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”
Điệp từ “nắng” gợi lên một không gian tràn ngập sắc vàng rực rỡ của nắng mãi. Đó là thứ ánh nắng trong trẻo, tinh khôi của buổi sớm, đẹp đẽ và thật dịu dàng! Nắng trên hàng cau cũng là thứ ánh nắng rất đặc trưng của Vĩ Dạ bởi Vĩ Dạ vốn nổi tiếng với những vườn cau xanh mướt. Những hàng cau cao vút, thẳng tắp luôn vươn mình đón ánh mặt trời, là loài cây đầu tiên đón ánh nắng mặt trời của Vĩ Dạ. Tả nắng hàng cau nhưng Hàn Mặc Tử dường như đã làm sống dậy cả một buổi ban mai tinh khôi và mát lành của xứ Huế mộng mơ.
Trong ánh nắng sớm tinh khôi ấy là hình ảnh của khu vườn xanh mát:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Chỉ là khu vườn của “ai” phiếm chỉ bởi đó là khu vườn sống trong tâm tưởng của nhà thơ. Cùng với tính từ “mướt” và lối so sánh “xanh như ngọc” đã khiến người đọc có thể cảm nhận được sự sống động, lung linh của khu vườn Vĩ Dạ. Tính từ “mướt” được đặt trong câu thơ vô cùng tinh tế, nó đã gợi lên hình ảnh một vườn cây trái mỡ màng, tươi tốt, mơn mởn. Những cành cây, nhành lá còn đang vương những giọt sương đêm lóng lánh. Có lẽ vì thế mà Hàn Mặc Tử đã so sánh “xanh như ngọc”. Khu vườn đẫm sương đêm lại được mặt trời chiếu rọi lung linh như một khối ngọc khổng lồ. Lời thơ bay bổng không chỉ gợi lên hình ảnh của khu vườn mà còn gửi vào trong đó lời trầm trồ, ca ngợi của nhà thơ với cảnh vườn Vĩ Dạ.
Say sưa với cảnh vườn, nhưng càng say hơn là hình ảnh của:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ không phải lời tả thực mà là một nét vẽ cách điệu của thi nhân. Khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc, hòa cùng thiên nhiên, khiến cả khu vườn của Vĩ Dạ bỗng chốc trở nên ấm áp, có sinh khí đến lạ thường.
Nhà thơ để khuôn mặt người thấp thoáng sau lớp lá trúc che ngang gợi ra nét thẹn thùng, e ấp, nét kín đáo rất riêng của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” là khuôn mặt phúc hậu, được thi nhân lấy ý từ trong câu ca dao quen thuộc của người dân Huế:
“Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung”
Câu thơ mang đậm phong vị dân gian và hơn thế, nó còn gợi ra cả vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế.
Bốn câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh vườn tược xứ Huế thơ mộng, ấm áp và giàu sức sống. Đằng sau bức tranh đó là tâm hồn gắn bó tha thiết với miền quê Vĩ Dạ của nhà thơ đồng thời là khát khao được giao cảm với cuộc đời. Sâu thẳm bên trong lời thơ là nỗi buồn khi nuối tiếc khi vẻ đẹp kia chỉ còn trong hoài niệm còn thi nhân thì đang phải cách biệt với cuộc đời. Đoạn thơ cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử khi ông mang vào thơ những hình ảnh và ngôn từ rất đỗi mộc mạc, giản dị, gần gũi.
Cảnh thôn Vĩ Dạ không hề tĩnh tại mà có sự chuyển động, từ cảnh vườn tược Vĩ Dạ chuyển sang cảnh sông nước mây trời:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Bức tranh mây trời nước phóng khoáng mở ra, khung cảnh đẹp đẽ, thơ mộng đúng như cái chất thơ của xứ Huế. Nhịp thơ chậm đều gợi lên sự yên bình, êm ả. Một dòng Hương giang đẹp đến tĩnh lặng dưới trăng trong đêm tịch mịch.
Hoà vào khung cảnh đó là tâm trạng của người thi nhân được gửi gắm kín đáo qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hoá gió và mây thành hai con người. Thế nhưng hai con người ấy lại chẳng cùng đường như vẫn thường thấy mà lại đang trong cảnh chia ly đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây”. Đây phải chăng là ẩn dụ cho mối tình đơn phương của nhà thơ trong sự xa cách vời vợi và cả sự ngăn cách bởi bệnh tật với cuộc đời đã khiến cho ông cảm thấy thật cô đơn, lẻ loi. Nỗi xót xa, nỗi buồn ấy đã thấm sang cả cảnh vật khiến cho mây và gió cũng mang đậm một nỗi buồn sâu thẳm.
Nỗi buồn ấy còn được gửi cả vào dòng sông, dòng Hương giang lững lờ. Nhìn dòng nước chảy xuôi trong tĩnh lặng mà nhà thơ như cảm thấy cả “dòng nước” cũng “buồn thiu”. Nhân hoá dòng sông cũng là cách để Hàn Mặc Tử hé lộ tâm trạng của mình, đó là một cái tôi đang cô đơn, lẻ loi giữa rợn ngợp đất trời, xung quanh chỉ có nước, có hoa bắp lay động, đìu hiu, cô quạng đến thấm thía lòng.
Nỗi buồn cô đơn còn thấm thía hơn bao giờ hết khi nhà thơ tự đặt mình giữa trời, trăng, sông, nước. Màn đêm tịch mịch, ánh trăng bạc lạnh lẽo, sông nước mênh mang, khung cảnh ấy khiến cho người ta cảm thấy có chút gì thật ma quái, nhưng đó lại là nơi nhà thơ đang giam mình trong sự cô đơn tột độ, Sống giữa cõi người mà vẫn cảm thấy cô đơn, trống trải, đó là cảm xúc của nhà thơ khi ông bị bệnh tật ngăn trở được giao cảm với cuộc đời.
Sống trong cô đơn nên khao khát lớn nhất của Hàn Mặc Tử là được giao cảm với cuộc đời, mong chờ tình người sẽ hoá giải đau thương. Vậy nên mới thấp thoáng một bóng “thuyền ai” của sự sống con người, nhà thơ đã cuống quýt cất tiếng gọi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Những nỗi mong chờ ấy cũng nhanh chóng rơi vào hụt hẫng, chẳng có ai đáp lại lời của thi nhân. Vì thế mà nhà thơ mới mong “chở trăng về kịp tối nay”. Tối nay nhà thơ đang cô đơn, đang lạnh lẽo, và trăng có lẽ là thứ duy nhất có thể giúp ông hoá giải được nỗi cô đơn ấy. Bởi trăng xưa nay luôn là tri kỉ, tri âm của thi nhân, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ và Hàn Mặc Tử cũng không ngoại lệ. Ông yêu trăng tha thiết!
Đoạn thơ thứ hai là sự kế thừa và phát huy của thơ ca truyền thống, vẫn là thể thơ thất ngôn nhưng trong đó thể hiện nỗ lực cách tân thơ mới của nhà thơ khi đưa vào trong thơ những hình ảnh rất bình dị, sử dụng ngôn từ giản dị như lời buột miệng thốt ra.
Khổ thơ cuối cùng cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ Việt của Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa”
Câu thơ khuyết chủ ngữ và không hề tuân theo ngữ pháp thông thường bởi nhà thơ muốn nhập hoà giữa chủ thể và khách thể. Khao khát được trở về Vĩ Dạ nên nhà thơ đã mơ mình được làm khách đường xa trở về. Nhịp thơ 1/3/3 nhanh dồn dập cũng điệp từ “khách đường xa”, người đọc như cảm thấy được tiếng reo vui náo nức của nhà thơ. Bởi vậy mới biết Hàn Mặc Tử yêu Vĩ Dạ đến nhường nào!
Trở về Vĩ Dạ để được đắm mình trong tình người, trong cảnh sắc của Vĩ Dạ:
“Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Một Vĩ Dạ với sương khói bảng lảng, với những bóng áo dài thấp thoáng duyên dáng, thướt tha của những nữ sinh trường Đồng Khánh đã in dấu vào tâm hồn thi nhân, để mỗi khi nhớ về Vĩ Dạ, những hình ảnh ấy lại hiện lên thật rõ ràng.
Nhà thơ trở về Vĩ Dạ là mong được sống trong tình người ấm áp, sống trong cảnh vườn quê yên bình, thế nhưng ông chỉ thấy bóng áo “trắng quá” đến mức “nhìn không ra”. Sương khói đã làm mờ đi hình người, mờ đi nhân dạng, vì thế mà:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Sương khói đã làm mờ đi nhân ảnh vậy thì làm sao có thể hiểu thấu được lòng người nữa chẳng, làm sao có thể biết “tình ai có đậm đà” như trước nữa chăng? Hàn Mặc Tử lại một lần nữa rơi vào trong hụt hẫng, chơi vơi. Ông bất lực trước cuộc đời, đau đớn trước cuộc đời bởi ông bị xa cách thế gian, không thể giao cảm được cùng ai.
Bài thơ mở ra bằng câu hỏi và kết lại cũng bằng câu hỏi. Nếu như câu hỏi mở ra bài thơ là một câu hỏi thấm đượm tình người thì câu hỏi cuối cùng lại mang một nỗi hoài nghi lớn. Chứa trong câu thơ là sự chua xót, đau đớn bởi nhà thơ không biết rằng liệu người Vĩ Dạ với ông có còn “đậm đà” như trước?
Bài thơ là bức tranh thôn Vĩ Dạ với con người và thiên nhiên mang những nét đẹp đặc trưng của xứ Huế. Dù được vẽ lên chỉ bằng những hồi ức và tâm tưởng của nhà thơ, những bức tranh ấy thấm đượm linh hồn của miền quê Vĩ Dạ trong tình yêu tha thiết của nhà thơ. Sau bức tranh ấy là tâm trạng của thi nhân trong nỗi nhớ nhung da diết, niềm khao khát được về Vĩ Dạ, khao khát được giao cảm với cuộc đời và cũng chứa một nỗi buồn, cô đơn sâu thẳm khi ông bị ngăn trở bởi bệnh tật. Dù vậy, chúng ta vẫn cảm nhận được một hồn thơ rất đỗi tài hoa, một tình yêu đời da diết, một nguồn cảm hứng và đam mê cái đẹp bất tận của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận - Mẫu 2
Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mạc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi..."
(Bẽn lẽn)
"Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu"
(Hãy nhập hồn em)
"Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".
(Đêm không ngủ)
Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sông trăng... Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mạc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai biết hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" như Hàn Mạc Tử.
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã viết về một tình yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mạc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
"Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây"
(Mùa xuân chín)
Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc... mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.
Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mạc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bên phiên cảnh hài hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy;
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông trăng". Hàn Mạc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mạc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông
Hương - Da thơm là phấn, má hường là son...". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mạc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?
"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
"Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có..." các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?''. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.
Hàn Mặc Tử đã đế lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ... bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, cọn thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta.
"Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô".
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
Một trong những tác giả tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam là Hàn Mặc Tử. Nổi bật trong các sáng tác của ông là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm đã khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
Khi đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng đầu tiên với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu hỏi tu từ đầu tiên gợi về hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ hỏi tác giả đã lâu rồi sao không về chơi thôn Vĩ. Hoặc có thể là lơi phân thân của tác giả vì quá khao khát được về thăm thôn Vĩ mà tự hỏi chính mình. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì câu hỏi trên cũng thể hiện được nỗi nhớ thôn Vĩ da diết cũng như mong muốn được về chơi thôn Vĩ.
Tiếp đến, bức tranh thiên nhiên dần hiện ra với những nét khắc họa. Hình ảnh “nắng hàng cau” gợi ra ánh nắng bao trùm khắp không gian làng quê. Kết hợp với điệp ngữ: “nhìn nắng” - “nắng mới” cho thấy sức sống bao trùm khắp không gian. Nhưng khu vườn không chỉ tràn ngập sắc nắng mà còn sắc xanh. Đó là màu “xanh như ngọc” - một màu xanh mát mẻ, tươi mới và dễ chịu. Và trong không gian thiên nhiên thôn Vĩ, hình ảnh con người thoáng xuất hiện. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Như vậy, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong sáng, tươi tắn và có sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.
Trái ngược với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ, bức tranh sông nước đêm trăng lại mang màu sắc đượm buồn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Ở bức tranh này, tác giả đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên nhuốm màu sắc chia ly. Trong thực tế, “gió và mây” vốn quấn quýt, gắn bó. Nhưng khi đi vào thơ của Hàn Mặc Tử lại gợi sự chia lìa đôi ngả. Còn dòng sông lại “buồn thiu”, dòng sông được nhân hóa như đang nhuốm màu tâm trạng buồn bã, thê lương. Và cuộc đời của con người cũng giống như “hoa bắp lay”. Bông hoa nhỏ bé bị dòng nước cuốn trôi, vùi dập. Hình ảnh thiên nhiên đêm trăng đượm buồn và mờ ảo, hư không.
Khổ thơ cuối cùng là nỗi niềm tâm trạng của Hàn Mặc Tử:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Đông từ “mơ” chỉ trạng thái vô thức của con người, cho thấy rằng nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng. Cùng với điệp ngữ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ. Tiếp đến là hình ảnh “áo em trắng quá nhìn không ra” đã diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu sắc hiện lên trong tâm tưởng của nhà thơ. Đến câu thơ tiếp theo “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” lại gợi cho ta hai cách hiểu. Hình ảnh thực đã gợi ra khung cảnh xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều nên nhiều sương khói và sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của xứ Huế. Đồng thời đó còn là hình ảnh biểu tượng gợi làn sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn. Đặc biệt là câu hỏi tu từ kết lại bài thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc. Ở đây, Hàn Mặc Tử đã sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Đồng thời làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.
Như vậy, “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Từ đã khắc họa đẹp về cảnh và người xứ Huế qua đó cho thấy được tình yêu thiết tha, đằm thắm của tác giả đối với quê hương đất nước, với con người xứ Huế đoan trang, dịu dàng. Đồng thời, tác phẩm còn thể hiện tiếng lòng riêng tư của Hàn Mặc Tử - một con người tài hoa bạc mệnh. Dù tác giả đang phải đối mặt với cái chết cận kề nhưng vẫn khao khát sự sống. Chính vì vậy mà tác phẩm lại có được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn thế hệ bạn đọc.
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 4
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Bài thơ không chỉ khắc họa bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, mà còn là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
Hàn Mặc Từ đã khắc họa hai bức tranh thiên nhiên đối lập nhau. Đó là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ và bức tranh sông nước đêm trăng. Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ:
Bài thơ bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Ở đây, người đọc có thể hiểu theo hai cách. Đó có thể là lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Nhưng cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Nhưng cả hai cách hiểu đều cho chúng ta thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ. Sau đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Cụm từ “nắng hàng cau” gợi ra một thực tế. Cau vốn là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày. Còn “nắng mới” cho thấy đây thứ ánh nắng mới bắt đầu của một ngày. Nó gợi sự ấm áp, tươi vui. Nhà thơ đã kết hợp sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “nhìn nắng hàng cau” và “nắng mới” cho thấy lúc này, khắp không gian đều đang ngập tràn ánh nắng của buổi sớm mai. Thiên nhiên không chỉ có màu vàng của nắng. Mà còn có màu xanh của vườn cây: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. Cách so sánh “xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn. Giữa thiên nhiên đó không thể thiếu được dáng vẻ của con người: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu của người thôn Vĩ. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương?
Kết lại bức tranh thôn Vĩ đầy sức sống, Hàn Mặc Tử đưa người đọc đến với bức tranh thiên nhiên sông nước đượm buồn:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Cảnh vật trong bức tranh này đều nhuốm màu buồn bã, chia lìa. Với một tâm hồn tràn đầy mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh đẹp đấy nhưng cũng buồn đấy. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, “gió và mây” luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở trong thơ Hàn, gió và mây lại chia lìa đôi ngả. Gió theo lối gió, mây theo đường mây. Không có bất kì mối liên hệ nào. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, con sông cũng nhuốm màu bi thương “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, làm cho dòng sông cũng trở nên buồn bã, không buồn vận động. Bức tranh sông nước đêm trăng không thể thiếu được hình ảnh ánh trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu hỏi toát lên niềm hy vọng đầy khắc khoải. Đó là khát khao, là ước vọng được giao duyên, được hội ngộ của nhà thơ gửi gắm qua từ“kịp”.
Những câu thơ cuối cùng là dòng tâm trạng được khắc họa nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo. Câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” với từ “mơ” đã gợi ra trạng thái vô thức của con người, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng. Kết hợp với điệp ngữ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ. Để rồi “Áo em trắng quá nhìn không ra”, ở đây với từ “quá” diễn tả sự choáng ngợp, thảng thốt; “nhìn không ra” cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa mà là màu trong tâm tưởng. Câu thơ tiếp theo “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” gợi cho ta cách hiểu làn sương khói làm mờ ảo cả bóng người hay chính là tượng trưng cho một mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn. Bài thơ được kết lại bằng một câu hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?. Đó là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, vừa gần gũi vừa xa xăm, vừa hoài nghi vừa như giận hờn, trách móc.
Từ việc khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ được chuyển biến về không gian, thời gian để từ đó bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình. “Đây thôn Vĩ Dạ” quả là một trong những tác phẩm độc đáo của Hàn Mặc Tử.
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 5
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.
Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.
Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”
(Thơ duyên)
Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.
Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước - một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” - biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” - bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.
Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:
“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”
(Bẽn lẽn)
Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng:
“Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”
(Say trăng)
Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” - gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.
Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.
Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.
Cảm nhận về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 6
Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chói lọi diệu kỳ trong vòm trời rực rỡ lấp lánh nhiều tinh tú lạ. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng gửi gắm của nhân vật trữ tình, trong một tâm trạng vời vợi nhớ mong:
“Sao anh không về chơi thôn Vi?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”
Nếu như mỗi tình yêu đều gắn với một không gian và thời gian cụ thể, thì mỗi hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ này gắn với vườn tược và con người Vĩ Dạ, đều những kỉ niệm thật khó quên. Có dịp, xin mời bạn hãy về thăm thôn Vĩ vào một buổi sớm mai Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương êm đềm thơ mộng, chỉ cách trung tâm cố đô Huế khoảng không đầy một giờ tản bộ. Từ xưa, thôn Vĩ Dạ đã nổi tiếng bởi cây cối xanh tươi, và những biệt thự nhỏ nhắn duyên dáng, thấp thoáng, tưới màu xanh của cây lá. Thôn Vĩ Dạ cũng nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ... của xứ này. Bởi vậy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhiều nghệ sĩ tên tuổi như Nguyễn Bính, Bích Khuê, Nguyễn Tuân... đều có những cảm giác mà cảm hứng được nảy sinh từ thôn Vĩ Dạ nên thơ.
Sớm mai, nắng mới long lanh trên những tàu cau còn ướt sương đêm. Khách từ xa tới sẽ thấy hàng cau trước nhất, vì nó thường cao hơn hẳn những cây cối xum xuê ở dưới. Đất đai Vĩ Dạ phì nhiêu, được con người cần cù chăm bón; quả thật, cây cối ở đây xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ như được lau chùi, mài giũa thành như những cành vàng lá ngọc...
Thật là một sáng tạo độc đáo. “Mặt chữ điền” gợi cho người đọc nhớ tới hình ảnh người dân có khuôn mặt vuông vức, thân hình cường tráng, đầy nam tính. Nhưng, khi hình tượng này đặt trong chính thể đoạn thơ và câu thơ: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền" thì ấn tượng nổi bật lại là sự hài hòa, gắn bó mật thiết giữa con người với vườn tược quê hương. Như vậy, câu thơ còn khắc họa thành công một nét đáng nhớ; đáng yêu của thôn Vĩ: Cảnh đẹp đẽ, tốt tươi; con người đôn hậu giàu sức sống.
Tiếp nối mạch cảm xúc của khổ đầu, dường như khổ thứ hai, nhà thơ miêu tả cảnh thiên nhiên sông nước đêm trăng:
“Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp bay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nhịp điệu dịu dàng, khoan thai của xứ Huế được khắc họa thành công: Gió và mây nhè nhẹ trôi đi; sông Hương nước chảy lặng lờ. Hoa ngô (hoa bắp) chi khẽ đung đưa theo chiều gió. Khác với khố một, đến khổ thứ hai này, không gian được miêu tả như trong mộng ảo, tràn ngập ánh trăng. Nhà thơ không những chỉ ta, không những chỉ nhìn bằng mắt mà điều quan trọng hơn là còn "nhìn" bằng thế giới tâm linh của mình: Do đó, không có biên giới giữa thực và mộng và dường như càng về cuối thế giới tâm linh, thế giới mộng ảo càng lấn át thế giới hiện thực. Vì là mộng ảo, nên có nỗi băn khoăn rất mộng mơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”. Thuyền trăng thì có nhiều thi nhân nhắc đến. nhưng "sông Trăng" thì có lẽ Hàn Mặc Tử là người sáng tạo đầu tiên. Dường như trong những câu thơ trên, có sự mong chờ, niềm hy vọng, lẫn nỗi buồn man mác của nhà thơ, ở đây rõ ràng, không có sự đặc sắc của một bút pháp phác họa đúng linh hồn của một xứ sở, mà điều quan trọng nữa là: Những nét phác họa ấy gợi lên ở người đọc một tình yêu thật dịu dàng, kín đáo, mà sâu xa rộng mở đến khôn cùng. Ấn tượng của người đọc về những điều nói trên sẽ được nhà thơ tô đậm qua khổ kết:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đúng là xứ Huế vốn mưa nhiều, lắm sương khói. Do đó, phải chăng khổ thơ trên có nét tả thực, cũng giống như "hàng cau", "lá trúc" "hoa bắp"... ở những khổ thơ trước? Sương khói trắng, và áo em cũng trắng: Bởi vậy, nếu nhà thơ chỉ nhìn thấy bóng người thôi (nhân ảnh), thì cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, như đã nêu, Hàn Mặc Tử vốn là nhà thơ lãng mạn đích thực, cái chính là thi sĩ đã nói bằng tâm tưởng, gieo vào lòng người đọc một thoáng bâng khuâng: Người thiếu nữ Huế tươi đẹp quá, kín đáo và huyền ảo quá; nào ai có biết tình yêu của họ bền chặt, hay cũng chỉ mờ ảo như khói sương xứ Huế? Ở đây, dường như tác giả cảm thấy mình chơi vơi hụt hẫng, trước một mối tình đơn phương lung linh, huyền ảo. Nếu nhận ra rằng. Hàn Mặc Tử vốn là người rất mực tài hoa, luôn khao khát yêu thương; nhưng căn bệnh phong hiểm nghèo đã làm ông không có được một tình yêu trọn vẹn. Nhà thơ đã từng phải sống có độc, lúc thì trong một con thuyền nhỏ lênh đênh chẳng có bến bờ, lúc thì khắc khoải bên dãy núi ven thành phố, và cuối cùng phải nằm vô vọng ở nhà thương Tuy Hòa chờ cái chết... Ta càng thông cảm cho một thoáng hờn dỗi, trách móc tưởng như vô cớ của cây bút đa tài, mà bất hạnh này. Phải yêu người Vĩ Dạ, nói rộng ra là phải yêu người xứ Huế; hiểu xứ Huế, gắn bó với xứ Huế sâu sắc đến độ nào, thì thi sĩ mới nói về tình yêu, về xứ Huế đứng và hay như thế.
Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại cho người đọc một ấn tượng sâu sắc về thiên nhiên của nơi thôn Vĩ. Cũng như nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ Hàn Mặc Tử được gửi gắm trong bài thơ.
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 7
Đến với “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử có lẽ người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống nơi thôn Vĩ. Điều đó được thể hiện qua khổ thơ đầu của bài thơ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi mang nhiều ý nghĩa. Đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này dù khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.
Đến câu thơ thứ hai, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ bắt đầu được nhà thơ khắc họa với những nét đẹp: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Đây là ánh nắng của buổi bình minh bao trùm khắp không gian làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Còn hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, cao lớn nhất trong khu vườn nên đã đón được ánh nắng đầu tiên của một ngày.
Câu thơ thứ ba gợi ra một không gian ngập tràn màu xanh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Khu vườn này không rõ là của “ai”. Chỉ biết nó được chăm sóc rất cẩn thận. Khắp nơi đều tràn ngập màu xanh của cây cối. “Xanh như ngọc” gợi một màu xanh trong sáng, ẩn chứa ánh sáng của sự sống. Từ “quá” bộc lộ sự trầm trồ, khen ngợi của nhà thơ dành cho khu vườn.
Và bức tranh thiên nhiên kết lại bằng hình ảnh con người thoáng xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. “Mặt chữ điền” gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu. Hàn Mặc Tử như nhìn thấy khuôn mặt ai thấp thoáng sau lá trúc. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Qua đây, nhà thơ muốn khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.
Tiếp đến, ở khổ thơ thứ hai là bức tranh sông nước đêm trăng gợi ra sự chia ly:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nếu ở khổ thơ đầu, thiên nhiên hiện lên tràn đầy sức sống với những gam màu tươi tắn. Thì ở khổ này, cảnh vật lại nhuốm màu buồn bã. Nguyễn Du đã từng viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Quả vật, với con mắt tràn đầy đau đớn và mặc cảm, Hàn Mặc Tử đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên đẹp đấy nhưng buồn đấy. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo quy luật thông thường của thiên nhiên, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”, nhưng qua những câu thơ của chàng thi sĩ họ Hàn, gió – mây lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách, trôi nổi và tượng trưng cho nỗi trống vắng, cô đơn trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.
Những câu thơ cuối cùng là dòng tâm trạng được khắc họa nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo. Khung cảnh thiên nhiên với vườn thôn Vĩ, nắng sớm mai, hàng cau, lá trúc, gió mây, dòng nước, thuyền trăng, sông trăng biến mất và nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. “Áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bi kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “Ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng. Đó là nỗi tuyệt vọng của một tâm hồn khát khao giao cảm với đời nhưng mãi mãi không được cộng hưởng và hồi đáp.
Tóm lại, “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gợi cho người đọc cảm nhận về một hồn thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khẳng định: "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”.
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 8
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét về nhà thơ Hàn Mặc Tử: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ bến nhưng càng đi xa càng thấy lạnh”. Khi đọc bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, người đọc đã cảm nhận rõ hơn về những nhận định trên.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang nhiều ý nghĩa. Đó có thể là một lời trách móc nhẹ nhàng tại sao đã lâu rồi mà anh không về chơi vườn thôn Vĩ, cũng có thể là lời tự vấn của chính tác giả nhằm bộc lộ khao khát được trở về thôn Vĩ. Từ đó, nhà thơ bắt đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ. Đầu tiên là hình ảnh ánh nắng buổi bình minh đang len lỏi trên cành cây kẽ lá, quyện hòa làm nên thi ảnh độc đáo “nắng hàng cau”. Chiều không gian thay đổi với vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ trong gam màu “mướt quá xanh như ngọc” gợi lên sự xanh non, tươi mới và trong trẻo. Và trong những gam màu tươi sáng đó, hình ảnh con người xuất hiện trong mối quan hệ giao hòa: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Câu thơ gợi ra hình ảnh con người thấp thoáng cùng sự bí ẩn, gợi ra nhiều cách giải mã trong lòng độc giả. Đó phải chăng là khuôn mặt của người thiếu nữ ẩn hiện sau khóm trúc, lá trúc cắt ngang tạo nên khuôn mặt chữ điền? Hay là khuôn mặt tượng trưng cho vẻ đẹp phúc hậu của con người xứ Huế? Với tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, tác giả Hàn Mặc Tử đã kiến tạo nên những hình ảnh, thi liệu đa nghĩa và giàu sắc thái biểu đạt để phác họa bức tranh về thiên nhiên, cảnh vật và con người xứ Huế.
Tiếp đến khổ thơ thứ hai, tác giả lại gợi lên không gian của sự chia lìa, xa cách đượm buồn hiu hắt và lung linh, huyền ảo:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được miêu tả với những gam màu tươi tắn của buổi sớm mai thì ở khổ thơ này, dòng thời gian đã vận động, chuyển mình qua khung cảnh gió mây, trăng nước. Theo như quy luật thông thường, gió và mây luôn là hai hình ảnh sóng đôi “gió thổi, mây bay”. Nhưng ở đây hình ảnh “gió – mây” lại hiện lên trong mối quan hệ đối lập của sự chia lìa, xa cách. Không chỉ dừng lại ở đó, khung cảnh còn được bao phủ bởi bức màn của nỗi buồn qua những hình ảnh giàu sức gợi như “dòng nước buồn thiu”. Với tính từ “buồn thiu” kết hợp biện pháp nhân hóa, dường như nỗi buồn mang sắc thái chia phôi của gió và mây đã thấm vào sông nước, khiến dòng thủy lưu mang nặng nỗi buồn của thiên nhiên tạo vật. Và trong khung cảnh đó, ánh trăng xuất hiện và bao trùm không gian, làm nên một liên tưởng độc đáo về sông trăng, thuyền trăng. Trong mặc cảm chia lìa, ánh trăng hiện lên trong nỗi lo âu, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay?” đã làm nổi bật hơn nữa nỗi bồn chồn cùng tâm trạng xót xa, đau đớn cùng nỗi ám ảnh về khát khao giao cảm với đời của nhân vật trữ tình.
Dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình tiếp tục được làm nổi bật qua không gian vừa thực vừa ảo mộng:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Khung cảnh thiên nhiên đã nhường chỗ cho hình bóng “khách đường xa” trong ảo mộng. Cụm từ “áo em trắng quá” phải chăng là ẩn dụ cho bóng dáng của người con gái từng xuất hiện trong thi ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khung cảnh cũng vận động từ thực đến ảo, từ vườn thôn Vĩ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Dường như “sương khói” là tác nhân làm mờ đi, nhòa đi bóng dáng con người và tình người. Thi nhân đã cố gắng níu kéo trong khát khao giao cảm với hồn người, tình người nhưng tất cả chỉ là sương khói mờ ảo. Bài thơ được kết thúc bởi câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” xoáy sâu hơn nữa bi kịch của nhân vật trữ tình. Đại từ phiếm chỉ “ai” được điệp lại hai lần khiến câu thơ ngân dài và vang xa, làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông tận cùng.
“Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên với tâm hồn của một người thi sĩ khát khao giao cảm với tình đời, tình người trong nỗi ám ảnh, khắc khoải và xót xa.
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 9
Hàn Mặc Từ là một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ của ông nổi bật với những đường nét và màu sắc riêng khi thì táo bạo ấn tượng, khi thì thanh trong thoát tục. Đặc biệt là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã để lại nhiều tình cảm trong trẻo trong lòng người đọc.
Bài thơ bắt đầu với câu hỏi tu từ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Khi làm bài thơ này, Hàn Mạc Tử đang ở trại phong Tuy Hòa và nhận được bức ảnh của Hoàng Cúc về miền quê xứ Huế. Ông theo đó mà miêu tả những đường nét của xứ Huế qua trí nhớ mà bức ảnh gợi lại. Câu hỏi tu từ đã bộc lộ khao khát của nhà thơ mong muốn được trở về thôn Vĩ. Từ đó, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trong tưởng tượng của người đọc, bức tranh tươi đẹp về thiên nhiên, con người xứ Huế được hiện lên nên thơ, yên bình. Màu sắc nổi bật là màu nắng tươi mới trên bầu trời cao xanh. Cùng với đó là từ “mướt” trong câu thơ gợi cho người đọc cảm giác xanh tươi lạ thường, có liên tưởng mảnh vườn nhỏ y như một viên ngọc thanh thoát mà đồng nội giữa cảnh sắc xứ Huế. Đặc biệt, hình ảnh con người xứ Huế hiện lên hiền lành, đôn hậu với "khuôn mặt chữ điền" ấn lấp sau lá trúc, một biểu tượng cho sự thanh tao của người quân tử. Có thể đó là khuôn mặt dễ mến, đôn hậu của con người xứ Huế trong tâm thức nhà thơ cũng có thể là hình ảnh người con gái Huế thân thương dịu dàng.
Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ lại khắc họa bức tranh thiên nhiên sông nước đêm trăng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…”
“Gió” và “mây” vốn là hai hiện tượng thân thiết nhưng ở câu thơ của Hàn Mạc Tử thì lại mỗi thứ một đường, tạo một sự chia xa khó tả. Không chỉ có vậy, sự êm đềm của dòng sông xứ Huế lại tạt vào lòng người cảm giác “buồn thiu”, những cánh hoa bắp “lay” cũng gợi sự mỏng manh yếu ớt khiến cho cả không gian nhuốm màu thê lương, buồn bã. Trong khung cảnh thiên nhiên đó, câu hỏi cất lên:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Câu hỏi nhẹ nhàng nhưng nặng trĩu sự lo lắng, sự thấp thỏm, không biết liệu rằng có còn kịp hay không? Kịp để nhìn thấy sự tươi đẹp của cuộc đời, của con người, có kịp làm điều mong ước, tất cả đều là sự khát khao giao cảm đến tột cùng khi con người ta phải xa với đời trong chốn cô đơn và ngày ngày chờ đến lời phán quyết cuối cùng của cuộc đời mình.
Ở đoạn thơ thứ ba, khát khoa này càng bộc lộ rõ hơn bao giờ hết:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Điệp từ “khách đường xa” được lập lại như thể nhấn mạnh sự ước ao, sự lưu ý bao nhiêu ngày tháng. Màu trắng là màu sắc rất hay xuất hiện trong thơ của Hàn Mạc Tử, luôn là biểu hiện của sự tinh khôi thanh khiết, giống y như nàng trinh nữ, lúc nào cũng trắng trong tuyệt vời. Nhưng có lẽ do màu trắng tinh khôi của áo mà trong giấc mơ của mình, Hàn Mạc Tử đã không thể nhìn rõ cô gái, bởi sương khói mông lung đã làm mờ nhạt cả trí nhớ, chỉ còn lại sự thanh khiết không gì nhạt phai. Kết thúc bài thơ, một câu hỏi tu từ lại được thốt lên hết sức thiết tha: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Câu hỏi tu từ với đại từ phiếm chỉ “ai” như bộc lộ một niềm khao khát được sống, được yêu thương.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số ít những bài thơ không mang những nét u buồn thất vọng về cuộc đời nhưng cũng không hẳn là mang âm hưởng vui tươi. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra những tình cảm hết sức sâu sắc, yêu đời, yêu đời và khát khao giao.
Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 10
Hàn Mặc Từ là một trong những nhà thơ nổi tiếng thuộc trường phái thơ điên. Các tác phẩm của ông đều mang đậm phong cách sáng tác độc đáo. Một trong những bài thơ nổi tiếng phải kể đến “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Ở khổ thơ thứ nhất, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ đầy tươi sáng:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu hỏi tu từ mở đầu bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” đã gợi cho người đọc hai cách hiểu. Cách hiểu đầu tiên đây có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Nhưng đó cũng chính là lời tự hỏi của Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Cả hai cách hiểu đều cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ quê cũng như khao khát được trở về thôn Vĩ của nhà thơ.
Bức tranh thiên nhiên được khắc họa qua những hình ảnh giản dị. Đó là khu vườn thôn Vĩ với “nắng hàng cau”. Điệp ngữ vòng “nhìn nắng” - “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Khu vườn ấy không chỉ có màu vàng của ánh nắng mà còn có màu xanh của cây cối “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Trong không gian thiên nhiên ấy, con người thấp thoáng hiện ra: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Như vậy, người đọc có thể cảm nhận được tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho thôn Vĩ.
Đến khổ thơ tiếp theo, Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh sông nước đêm trăng hoàn toàn đối lập với thiên nhiên thôn Vĩ Dạ:
“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn sóng đôi cùng nhau. Thì trong thơ Hàn Mặc Tử, gió và mây lại gợi sự chia lìa, xa cách: “gió theo lối gió, mây đường mây”. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước - một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” - biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” - bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.
Bức tranh thiên nhiên xuất hiện trong đêm trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Nếu trong thơ Lí Bạch, ánh trăng gợi nhớ về quê hương:
“Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương”
Hay trăng trong thơ của Bác Hồ đã thể hiện được tình yêu thiên nhiên cũng như tâm hồn thư thái, lạc quan của Bác dù trong hoàn cảnh ngục tù.
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Thì trong “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” - gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.
Cuối cùng, nhà thơ đã khắc họa tâm trạng của nhân vật trữ tình:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.
Như vậy, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã cho người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11