TOP 6 mẫu Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (2023) SIÊU HAY

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên lớp 11 gồm dàn ý và 6 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 727 lượt xem
Tải về


Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên – Ngữ văn 11

Bài giảng Ngữ văn 11 Hai đứa trẻ

Dàn ý Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên

1. Mở bài

- Sơ lược về tác giả Thạch Lam.

- Giới thiệu Hai đứa trẻ với bức tranh phố huyện và bức tranh tâm hồn nhân vật Liên.

2. Thân bài

a. Bức tranh phố huyện lúc chiều tà:

* Bức tranh thiên nhiên:
- Âm thanh: Tiếng muỗi, tiếng ếch nhái kêu râm ran, tiếng trống thu không gợi cảm giác chậm rãi, buồn man mác làm cho buổi chiều tàn càng thêm im ắng, tẻ nhạt.
- Màu sắc: Hai gam màu đỏ rực, ánh hồng mang đến những xúc cảm ảm đạm, báo hiệu cho sự lụi tàn một một ngày, là ánh sáng cuối cùng lóe lên trước khi trời tối hẳn, trước khi cái màu đen của bóng tối chính thức bao trùm trên cảnh vật.
- Đường nét: “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, mang đến một cảm giác ảm đạm, gợi ra những nhận thức rất rõ rệt về cái khoảnh khắc chuyển giao giữa ngày và đêm.

* Bức tranh sinh hoạt trong cảnh chợ tàn:

- Âm thanh “tiếng ồn ào cũng mất”, cùng với hình ảnh “trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” cùng với cảnh mấy đứa trẻ con tìm bới, nhặt nhạnh những thứ rác rưởi còn sót lại sau buổi chợ.

=> Mang vẻ u buồn tịch liêu, cảm giác tàn tạ, xơ xác và nghèo khổ.

- Mùi “âm ẩm bốc lên…” gợi sự nghèo nàn, ẩm thấp, buồn bã.

- Những kiếp người tàn: những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên điên nghiện rượu, với tràng cười ám ảnh, chị em Liên, An, bóng dáng của người mẹ vất vả, khổ cực.

=> Điểm chung của tất cả những con người nơi phố huyện ấy là sự nghèo khổ, với cuộc sống đơn điệu tẻ nhạt, tù túng, bó hẹp, tối tăm và bế tắc. 

* Bức tranh tâm hồn Liên:

- Tâm hồn tinh tế và nhạy cảm:

+ Cảm nhận của Liên về “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. => Cảm thấy nó thân thuộc, gần gũi, gắn bó và yêu thương vô cùng.

+ Chứng kiến màn đêm đang dần sập xuống trước mắt “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”.

=> Cảm nhận được một cách thấm thía, cái buồn của cảnh sắc ngày tàn thấm dần vào tâm hồn non nớt của chị, khiến chị suy tư như một con người trưởng thành.

- Tấm lòng nhân hậu, yêu thương của chị đối với những kiếp người tàn nơi phố huyện.

+ Đối với mẹ con chị Tí thì là sự quan tâm, hỏi han là ánh nhìn thương cảm, ái ngại, xót xa cho cuộc sống vất vả của họ thông qua cái cách mà Liên kể về gia cảnh của chị.

+ Với mấy đứa trẻ con ven xóm chợ là lòng thương xót tội nghiệp là cảm giác bất lực vì chính bản thân chị cũng nghèo, chị cũng không thể giúp đỡ gì cho những đứa trẻ tội nghiệp ấy.

+ Với bà cụ Thi điên điên, với tiếng cười ám ảnh, Liên có chút sợ hãi nhưng chị vẫn dành cụ sự quan tâm, nó không nằm ở lời nói mà đến từ hành động của chị. 

b. Bức tranh phố huyện lúc trời tối:

* Bức tranh thiên nhiên:

- Xây dựng bằng hai mảng màu sáng tối, là thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn, gợi ra một khung cảnh để lại ấn tượng trong lòng lòng người đọc.

- “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”.

=> Bóng tối hiện diện ở khắp mọi nơi, bóng tối bao trùm lên tất cả, mỗi lúc càng trở nên đặc quánh hơn.

- Ánh sáng: “khe sáng” lọt ra từ các ngôi nhà, “quầng sáng” lay động trên ngọn đèn của chị Tí, rồi thì những “hột sáng” của các ngọn đèn vặn nhỏ, nguồn sáng của bếp lửa bác Siêu nhạt nhòa. Ánh sao, ánh đom đóm.

=> Yếu ớt, le lói, mong manh, không đủ sức chiếu sáng.

=> Những ánh sáng chập chờn ấy chỉ tô đậm thêm cái tối tăm vô tận, cái bế tắc mù mịt của màn đêm nơi phố huyện này, tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh và lay lắt ở phố huyện, còn bóng tối chính là tượng trưng cho cái cảnh bế tắc, quanh quẩn, tối tăm mênh mông của xã hội cũ, đang nuốt chửng những kiếp người nghèo khổ, yếu ớt.  

* Bức tranh sinh hoạt:

- Vợ chồng bác Xẩm với “tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” đứa con thì bò ra ngoài đất nghịch ngợm những rác bẩn, nghèo khổ, bần hàn.

- Chị Tí ngồi cầm cành chuối khô phe phẩy đuổi ruồi, đã vẽ ra cảnh tượng quán hàng ế khách, vắng lặng và thiểu não.

- Bác Siêu với gánh phở nghi ngút khói, với bếp lửa bập bùng trong đêm tối, ế ẩm, chán ngán.

- Còn chị em Liên, lại bị bó buộc trong cái gian hàng xập xệ, ngày này qua ngày khác chán chường trên chiếc chõng tre sắp gãy nát.

=> Và giữa một khung cảnh tối tăm bế tắc ấy có một đốm sáng hiện lên “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”, đó là ước mơ về sự đổi đời, nhưng rất mơ hồ.

* Tâm trạng Liên:

- Sự rung cảm tinh tế trước những cảnh sống xung quanh, ấy là sự tưởng tượng thú vị khi ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm đầy ánh sao lấp lánh với những vệt sáng của đom đóm, nghĩ về một thế giới cổ tích xa xăm. 

- Quan sát rất tỉ mỉ, nhạy bén phát hiện được những sự biến chuyển của cuộc sống trong chi tiết các loại nguồn sáng với đủ hình dạng, kích thước, sắc thái.

- Ước mơ về sự đổi đời, thể hiện trong việc cô bé luôn hướng về nguồn sáng, hướng về những ánh sáng hiện diện nơi phố huyện, nhớ về ánh sáng ở Hà Nội.

c. Bức tranh phố huyện lúc tàu đến và đi:

* Khi tàu đến:

-  Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh ““tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới”, đó đều là những âm thanh thực sự rộn ràng và náo nhiệt khác hẳn với những âm thanh buồn tẻ, chậm rãi nơi phố huyện.

- Chuyển động mạnh mẽ “tàu rầm rộ đi tới”, “đoàn xe vụt qua” cũng mang lại sắc thái khác hẳn với những chuyển động rời rạc, chậm chạp, khẽ khàng và chán nản của phố huyện.

- Ánh sáng “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” khác hoàn toàn so với những thứ ánh sáng tù mù, le lói, từng hột, từng vệt => Rực rỡ, kèm theo cả sự sung túc giàu có trái ngược với cái tối tăm, nghèo khổ nơi phố huyện.

=> Kéo về trong tâm trí Liên ký ức về một vùng thủ đô văn minh, về cuộc sống sung túc thuở ấu thơ mà chị từng được hưởng, đem lại những kỷ niệm đẹp đẽ của một thời đã xa. 

* Khi tàu đi:

- Đoàn tàu ấy đi qua đã để lại trong lòng cô bé rất nhiều cảm xúc, Liên nghĩ về Hà Nội, bởi đoàn tàu ấy từ thủ đô về nó đã mang một chút thế giới khác đi qua, một thế giới mà Liên vẫn hằng ao ước.

- Đoàn tàu hôm nay dường như kém sáng hơn hôm qua => Cuộc sống đã ngày càng bế tắc và khó khăn hơn

- Liên bắt đầu quay về với thực tại “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, tiếp tục một cái khung cảnh vắng lặng, màn đêm thì đặc quánh. Còn những con người thì rệu rã, chậm rãi thu xếp đồ ra về, buồn bã, mệt mỏi => Vắng lặng, chán chường và bế tắc, tăm tối hơn.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận chung.

Bài giảng Ngữ văn 11 Hai đứa trẻ

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (mẫu 1)

Cảm nhận về nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ (9 mẫu) - Văn 11Thạch Lam (1910-1942), là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, là con người có tính cách đôn hậu, điềm đạm và tinh tế thế nên các tác phẩm của ông cũng mang cái vẻ trong sáng, giản dị, thâm trầm và sâu sắc. Ông là nhà văn có biệt tài về truyện ngắn, với nội dung thường khai thác những vẻ đẹp của cuộc sống đời thường bình dị ở không gian phố huyện ven đô ngoại thành, vốn là không gian sống quen thuộc của nhà văn trong thời thơ ấu cơ cực, vất vả tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Những ngày tháng ấy đã trở thành dấu ấn không thể phai mờ, trở thành một không gian nghệ thuật thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam. Về nghệ thuật, ông thường viết những “truyện không có chuyện”, mà sức hấp dẫn trong tác phẩm của ông là đến từ thế giới nội tâm phức tạp của con người, tác giả cố công đi tìm kiếm những vẻ đẹp tâm hồn với những cái xúc cảm mong manh, mơ hồ và tinh tế. Nét nghệ thuật độc đáo ấy đã khiến cho các tác phẩm của Thạch Lam tựa như những bài thơ trữ tình đượm buồn, dẫu là truyện đấy nhưng nó lại mang trong mình chất thơ vô cùng đậm đặc trong từng câu chữ. Hai đứa trẻ nằm trong tập truyện Nắng trong vườn (1938), là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất mang đầy đủ phong vị sáng tác truyện ngắn theo cách riêng biệt của Thạch Lam. Nội dung chính của tác phẩm là khung cảnh phố huyện và bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên với những xúc cảm đặc biệt, sâu sắc nổi bật lên trên cái nền tàn tạ, tối tăm của phố huyện lúc chiều tàn và khi đêm xuống.

Đi vào tác phẩm, điều đầu tiên hiện lên trước mắt độc giả ấy là bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, khung cảnh thiên nhiên bắt đầu bằng cái tâm trạng buồn man mác của cô bé Liên trong cái khoảnh khắc ngày tàn, từ đó bức tranh thiên nhiên bắt đầu hiện ra với cái vẻ u buồn, tàn tạ. Không hiểu là cảnh thấm vào hồn người hay là do hồn người lây nhuốm sang cảnh như cụ Nguyễn Du viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, chỉ biết rằng cái buồn của cả người và cảnh rất cân đối và hòa quyện nhịp nhàng với nhau, tạo nên một cái màu truyện buồn man mác, buồn nên thơ. Ở trong tác phẩm Thạch Lam đã cảm nhận bức tranh thiên nhiên bằng cả thị giác và thính giác, cứ mỗi câu văn lại mở ra một cảnh mới, câu trước gọi câu sau. Khung cảnh chiều tàn đã được mở ra bằng các âm thanh từ nhỏ đến to dần, đó là “tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve” trong cửa hàng hơi tối, xa hơn nữa là “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” và cuối cùng bao trùm cả không gian, báo hiệu chính thức cái thời khắc ngày tàn ấy là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Tất cả những âm thanh ấy, dẫu có ồn ã, làm xáo động không gian đấy, thế nhưng khi cộng hưởng lại trong tác phẩm nó lại không mang đến cảm giác tươi vui náo nhiệt, mà ngược lại nó gợi ra một không gian rất tĩnh lặng, hoang vắng, mang cảm giác buồn man mác của buổi chiều tà. Điều này ít nhiều làm chúng ta liên tưởng đến bút pháp lấy động tả tĩnh trong thơ ca phương Đông, lấy cái động sắc nét để diễn tả cái tĩnh đang bao trùm lên tất thảy. Đó là những cảm nhận về thính giác, về thị giác Thạch Lam trước hết cảm nhận cảnh chiều tàn thông qua những hình ảnh và màu sắc rất đẹp, rất lãng mạn. Đó là cảnh tượng “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Hai gam màu đỏ rực, ánh hồng đều là những gam màu rực rỡ, sắc nét thông thường đại diện cho sự vui tươi, sáng sủa, thế nhưng trong trường hợp này chúng lại mang đến những xúc cảm hết sức ảm đạm, bởi những màu sắc ấy ở trong cảnh hoàng hôn chính là báo hiệu cho sự lụi tàn một một ngày, là ánh sáng cuối cùng lóe lên trước khi trời tối hẳn, trước khi cái màu đen của bóng tối chính thức bao trùm trên cảnh vật. Các cảm nhận của thị giác không chỉ dừng lại ở các hình ảnh và màu sắc mà nó còn hiện lên một cách rất nghệ thuật, mang phong cách hội họa thông qua đường nét mà tác giả quan sát một cách tỉ mỉ. Cảnh “Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”, mang đến một cảm giác ảm đạm, gợi ra những nhận thức rất rõ rệt về cái khoảnh khắc chuyển giao giữa ngày và đêm, nền trời thì hơi sáng bởi có ánh hoàng hôn, còn lũy tre làng thì tối lại in hằn rõ vệt trên nền trời, như một bức tranh độc đáo với gam màu tối tăm, gợi ra cảm giác ảm đạm, buồn bã vô cùng. Bên cạnh những cảm nhận về thính giác và thị giác, thì bức tranh thiên nhiên buổi chiều tàn còn được gợi ra một cách tinh tế bởi nhịp điệu câu văn chậm rãi, giàu tính nhạc, giàu hình ảnh ảnh, tổng hòa các yếu tố ấy đã tạo nên một khung cảnh êm dịu, thanh bình tiêu biểu của làng quê Việt Nam. Thêm vào đó, cách miêu tả của Thạch Lam không thiên về tính cầu kỳ kiểu cách mà mang đậm chất giản dị, chân thực, lột tả được cái thần và cái hồn của bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện.

Trên cái nền bức tranh thiên nhiên buổi chiều tàn ấy là bức tranh sinh hoạt của con người nơi phố huyện bao gồm cảnh chợ tàn. Nếu như bức tranh thiên nhiên ở trên được cảm nhận bằng các giác quan là thính giác và thị giác thì ở cảnh chợ tàn tác giả còn cảm nhận bằng cả khứu giác để cho ra những cảm nhận rất sâu sắc và độc đáo. Buổi chợ tàn được tái hiện bằng một âm thanh duy nhất “tiếng ồn ào cũng mất”, trả lại cho phố huyện cái vẻ tĩnh lặng và buồn bã. Bên cạnh đó là hình ảnh “trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía” cùng với cảnh mấy đứa trẻ con tìm bới, nhặt nhạnh những thứ rác rưởi còn sót lại sau buổi chợ, trông vô cùng tội nghiệp, đáng thương, dấy lên trong lòng người nỗi xót xa. Như vậy bức tranh phố huyện lúc chiều tàn nó không chỉ mang vẻ u buồn tịch liêu mà nó còn mang đến một cảm giác tàn tạ, xơ xác và nghèo khổ, để lại một nỗi ám ảnh về cái tối tăm của làng quê Việt Nam thời bấy giờ. Và có lẽ điểm nhấn của cảnh chợ tàn chính là ở những cảm nhận về khứu giác của Thạch Lam “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Đó rõ ràng không phải là một thứ mùi thơm tho dễ chịu, thế nhưng trong cảm nhận tinh tế, trong tâm hồn đa cảm của Liên đó lại trở thành thứ mùi rất đỗi quen thuộc, gắn bó, thân thiết, là mùi của quê hương xứ xở, là mùi riêng của buổi chợ tàn, đánh dấu trong ký ức của cô bé những xúc cảm sâu sắc. Và trên nền của cảnh chợ tàn chúng ta sẽ thấy hiện lên cảnh những kiếp người tàn. Từ những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ, còn nhỏ tuổi nhưng đã phải lăn vào cuộc sống mưu sinh khắc khổ, nhặt nhạnh từng cái rác rưởi còn sót lại, cho đến mẹ con chị Tí, ban ngày mò cua bắt tép, tối lại mở một hàng nước chẳng có mấy người ghé mua, sống lay lắt, ảm đạm. Rồi bà cụ Thi hơi điên điên nghiện rượu, với tràng cười ám ảnh, có lẽ bà đã phải trải một cuộc đời đầy đau đớn khổ sở, nên đến cuối đời mới trở nên tàn tạ, xơ xác nhường ấy. Và đến chị em Liên, An cũng là những kiếp người tàn, hai đứa trẻ 8,9 tuổi đầu thôi thế nhưng cũng phải sớm tham gia vào công việc mưu sinh của gia đình, với cái gian hàng xập xệ, tạm bợ. Thấp thoáng sau chị em Liên ấy là bóng dáng của người mẹ vất vả, khổ cực làm công việc buôn gạo nặng nhọc. Điểm chung của tất cả những con người nơi phố huyện ấy là sự nghèo khổ, với cuộc sống đơn điệu tẻ nhạt, tù túng, bó hẹp, tối tăm và bế tắc. 

Nổi bật trên bức tranh phố huyện với khung cảnh ngày tàn chợ tàn và những kiếp người tàn ấy là bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên, nhân vật chính của tác phẩm. Liên là một cô bé có tâm hồn tinh tế và nhạy cảm, điều đó thể hiện qua những thay đổi trong tâm hồn của cô khi chứng kiến biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc ngày tàn. Đầu tiên là trong cảm nhận của Liên về “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đó là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trước một cái mùi ngai ngái, khó chịu như vậy nhưng trong cảm nhận của Liên, trong cái tình yêu thương gắn bó dành cho phố huyện, cho cái mảnh đất mà chị đã gắn bó một thời gian thì Liên lại cảm thấy nó thân thuộc, gần gũi, gắn bó và yêu thương vô cùng. Ngoài ra một chi tiết khác cũng thể hiện cái nhạy cảm tinh tế của nhân vật này ấy là cảm giác của cô khi chứng kiến màn đêm đang dần sập xuống trước mắt “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Với một đứa trẻ 9 tuổi đầu, có lẽ nỗi buồn là một cái gì đó còn rất đỗi mơ hồ, thế nhưng với Liên, chị lại cảm nhận được một cách thấm thía, cái buồn của cảnh sắc ngày tàn thấm dần vào tâm hồn non nớt của chị, khiến chị suy tư như một con người trưởng thành. Như đã đề cập không biết rằng là cái buồn của cảnh khiến người đổ bóng buồn theo, hay là do vốn dĩ tâm hồn của Liên đã đượm những nỗi buồn nên cảnh ngày tàn mới trở nên vừa ảm đạm, vừa có gì đó rất nên thơ lãng mạn như vậy. Bên cạnh sự tinh tế trong việc cảm nhận cảnh sắc ngày tàn, thì sự nhạy cảm của Liên còn được thể hiện qua tấm lòng nhân hậu, yêu thương của chị đối với những kiếp người tàn nơi phố huyện. Đối với mẹ con chị Tí thì là sự quan tâm, hỏi han là ánh nhìn thương cảm, ái ngại, xót xa cho cuộc sống vất vả của họ thông qua cái cách mà Liên kể về gia cảnh của chị. Rồi với mấy đứa trẻ con ven xóm chợ là lòng thương xót tội nghiệp là cảm giác bất lực vì chính bản thân chị cũng nghèo, chị cũng không thể giúp đỡ gì cho những đứa trẻ tội nghiệp ấy. Hay đối với bà cụ Thi điên điên, với tiếng cười ám ảnh, Liên có chút sợ hãi nhưng chị vẫn dành cụ sự quan tâm, nó không nằm ở lời nói mà đến từ hành động của chị. Cái cách chị rót chút rượu đầy cho bà cụ như một thói quen, thể hiện sự thơm thảo, để tâm của Liên đối với một người già tội nghiệp, đặc biệt là cảnh chị dõi nhìn theo bóng cụ Thi khuất dần vào đêm tối thể hiện sự xót xa, thương cảm cho một kiếp người tàn tạ, khốn khổ. 

Nối tiếp theo bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, chính là bức tranh phố huyện lúc đêm xuống, được tác giả xây dựng bằng hai mảng màu sáng tối, là thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn, gợi ra một khung cảnh để lại ấn tượng trong lòng lòng người đọc. Bóng tối ở phố huyện hiện lên thông qua hình ảnh “đường phố và các ngõ con chứa đầy bóng tối”, “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Chỉ với hai câu văn ấy thôi nhưng người đọc có thể mường tượng ra cảnh bóng tối hiện diện ở khắp mọi nơi, bóng tối bao trùm lên tất cả, mỗi lúc càng trở nên đặc quánh hơn. Trên cái nền đen đặc ấy có sự xuất hiện của ánh sáng từ nhiều nguồn khác nhau, đó là ánh đèn trong các hình ảnh “khe sáng” lọt ra từ các ngôi nhà, “quầng sáng” lay động trên ngọn đèn của chị Tí, rồi thì những “hột sáng” của các ngọn đèn vặn nhỏ, yếu ớt và thưa thớt. Sau là nguồn sáng của bếp lửa bác Siêu “chiếu sáng một vùng đất cát”, nhạt nhòa. Rồi ánh sáng của sao trời lấp lánh, những vệt sáng của loài đom đóm cũng góp thêm vào cái nguồn sáng trong đêm nơi phố huyện. Tất cả những thứ ánh sáng với nhiều sắc độ và hình thù ấy đều mang một điểm chung ấy là sự yếu ớt, le lói, mong manh, không đủ sức chiếu sáng màn đêm, xuyên thấu màn đêm, dường như đang bị bóng đêm nuốt chửng. Những ánh sáng chập chờn ấy chỉ tô đậm thêm cái tối tăm vô tận, cái bế tắc mù mịt của màn đêm nơi phố huyện này. Thạch Lam muốn truyền tải một ý nghĩa rằng ánh sáng chính là tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh và lay lắt ở phố huyện, còn bóng tối chính là tượng trưng cho cái cảnh bế tắc, quanh quẩn, tối tăm mênh mông của xã hội cũ, đang nuốt chửng những kiếp người nghèo khổ, yếu ớt.  

Trong bức tranh phố huyện lúc chiều tối cũng có sự xuất hiện của những kiếp người với cuộc sống khốn khổ, nghèo nàn ấy là vợ chồng bác Xẩm với “tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng” đứa con thì bò ra ngoài đất nghịch ngợm những rác bẩn, một thứ âm thanh thê lương, với cảnh tượng đầy xót xa tội nghiệp, gợi lên cái cuộc đời nghèo khổ, bần hàn của hai vợ chồng. Chị Tí ngồi cầm cành chuối khô phe phẩy đuổi ruồi, đã vẽ ra cảnh tượng quán hàng ế khách, vắng lặng và thiểu não. Bên cạnh đó còn có nhân vật bác Siêu với gánh phở nghi ngút khói, với bếp lửa bập bùng trong đêm tối, thế nhưng thức quà sang chảnh ấy xuất hiện ở cái phố huyện nghèo này thì cũng chẳng thể khá khẩm nổi vì chẳng ai có tiền mà thưởng thức. Nó trở thành niềm mơ ước khó thành hiện thực của cư dân ở đây và cũng trở thành nguyên do khiến gánh hàng ế ẩm, chán ngán không khác gì với chị Tí với bác Xẩm là bao. Còn chị em Liên, lại bị bó buộc trong cái gian hàng xập xệ, không được hòa nhập vào cuộc vui như bao đứa trẻ khác, ngày này qua ngày khác chán chường trên chiếc chõng tre sắp gãy nát. Và giữa một khung cảnh tối tăm bế tắc ấy có một đốm sáng hiện lên “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”, đó là ước mơ về sự đổi đời, nhưng rất mơ hồ.

Ở bức tranh phố huyện lúc đêm tối, thì bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên hiện lên với hai điểm sáng chính. Đầu tiên là sự rung cảm tinh tế trước những cảnh sống xung quanh, ấy là sự tưởng tượng thú vị khi ngước mắt nhìn lên bầu trời đêm đầy ánh sao lấp lánh với những vệt sáng của đom đóm, nghĩ về một thế giới cổ tích xa xăm. Rồi sự quan sát rất tỉ mỉ, nhạy bén phát hiện được những sự biến chuyển của cuộc sống trong chi tiết các loại nguồn sáng với đủ hình dạng, kích thước, sắc thái. Bên cạnh đó, sự nhạy cảm, tinh tế trong tâm hồn Liên còn thể hiện ở ước mơ về sự đổi đời, thể hiện trong việc cô bé luôn hướng về nguồn sáng, hướng về những ánh sáng hiện diện nơi phố huyện, nhớ về ánh sáng ở Hà Nội, cuối cùng là tìm kiếm thứ ánh sáng rực rỡ ở đoàn tàu đêm, để thoát khỏi cái thế giới tăm tối, bế tắc nơi phố huyện. 

Và bức tranh cuối cùng mà Thạch Lam xây dựng ấy là bức tranh phố huyện khi đoàn tàu đến và đi qua. Chuyến tàu đêm ấy không chỉ là nỗi mong chờ, ao ước của chị em Liên mỗi đêm mà là của cả những con người khốn khổ nơi phố huyện. Chính vì thế ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên bác Siêu đã vội reo lên với chất giọng sung sướng “Kìa đèn ghi đã ra kia rồi”. Thế rồi tiếng còi của xe lửa kéo dài theo ngọn gió xa xôi, “một làn khói trắng bừng sáng lên từ đằng xa”. Khi đoàn tàu đến cả Liên và An đều đứng hẳn dậy mắt hướng theo chỗ đoàn tàu đang tới với sự say mê và thích thú khôn cùng. Đoàn tàu xuất hiện với những âm thanh ““tiếng dồn dập, rít mạnh vào ghi”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên và tàu rầm rộ đi tới”, đó đều là những âm thanh thực sự rộn ràng và náo nhiệt khác hẳn với những âm thanh buồn tẻ, chậm rãi nơi phố huyện. Cùng với âm thanh thì đoàn tàu tới còn mang đến những chuyển động hết sức mạnh mẽ “tàu rầm rộ đi tới”, “đoàn xe vụt qua” cũng mang lại sắc thái khác hẳn với những chuyển động rời rạc, chậm chạp, khẽ khàng và chán nản của phố huyện. Đặc biệt nhất đó là hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với thứ ánh sáng “toa đèn sáng trưng, chiếu cả xuống đường… đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” khác hoàn toàn so với những thứ ánh sáng tù mù, le lói, từng hột, từng vệt, từng khe tỏa ra từ chiếc đèn dầu vặn nhỏ hay cái bếp củi đang cháy. Thứ ánh sáng ấy thực sự là thứ ánh sáng rực rỡ, kèm theo cả sự sung túc giàu có trái ngược với cái tối tăm, nghèo khổ nơi phố huyện, nó kéo về trong tâm trí Liên ký ức về một vùng thủ đô văn minh, về cuộc sống sung túc thuở ấu thơ mà chị từng được hưởng, đem lại những kỷ niệm đẹp đẽ của một thời đã xa. Thế rồi khi đoàn tàu đi qua hai đứa trẻ cứ đứng nhìn theo mãi, cho đến khi những dấu hiệu cuối cùng của đoàn tàu cũng biến mất vào đêm đen. Sau cái ánh nhìn đây tiếc nuối ấy Liên bắt đầu lặng mình đi trong mơ tưởng. Đoàn tàu ấy đi qua đã để lại trong lòng cô bé rất nhiều cảm xúc, Liên nghĩ về Hà Nội, bởi đoàn tàu ấy từ thủ đô về nó đã mang một chút thế giới khác đi qua, một thế giới mà Liên vẫn hằng ao ước. Thế nhưng đoàn tàu hôm nay dường như kém sáng hơn hôm qua, điều ấy cho thấy có vẻ như cuộc sống đã ngày càng bế tắc và khó khăn hơn, đến cả cô bé Liên cũng cảm nhận được điều ấy. Thế rồi sau những giây phút mơ tưởng Liên bắt đầu quay về với thực tại nhìn ra xung quanh “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, tiếp tục một cái khung cảnh vắng lặng, màn đêm thì đặc quánh. Còn những con người thì rệu rã, chậm rãi thu xếp đồ ra về, buồn bã, mệt mỏi. Dường như chuyến tàu đi qua như là ánh sao băng vụt sáng đầy hy vọng, thế nhưng đi qua rồi thì trả lại là một thế giới thậm chí còn vắng lặng, chán chường và bế tắc, tăm tối hơn.

Đọc hết Hai đứa trẻ, người ta chẳng nhìn thấy một cốt truyện nào rõ ràng, thế nhưng thu hút người đọc nhất lại là ở bức tranh phố huyện nghèo nàn qua các mốc thời gian, qua các chuyển biến nho nhỏ, vừa lãng mạn, nên thơ nhưng cũng nhuốm màu buồn bã. Hiện lên trên nền bức tranh ấy là hình ảnh cô bé Liên với tâm hồn rất đỗi tinh tế với những xúc cảm mơ hồ, thế giới nội tâm phong phú, cùng với những khao khát hướng về ánh sáng, hướng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, rất đáng trân trọng. Thế nhưng, chỉ mơ ước thôi là chưa đủ, người ta còn cần làm gì đó nữa để thực hiện ước mơ ấy, điều đó đã để lại trong lòng độc giả những cảm xúc băn khoăn, trăn trở về số phận những kiếp người tàn nơi phố huyện. Bao giờ họ mới có thể đạt tới ước mơ của mình, Liên và An có thể có một sống khác tốt đẹp hơn không?

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (mẫu 2)

Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, bởi mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. "Hai đứa trẻ" là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo khó, cơ cực trong xã hội.

Thạch Lam luôn khiến cho người đọc nhận ra được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhàng đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. "Hai đưa trẻ" là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. CŨng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những khó khăn mà con người đã trải qua.

Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là khung cảnh phố huyện nghèo luôn chấp chới, ẩn hiện trong mỗi trang viết. Có lẽ chính bức tranh là gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bày tỏ cảm xúc của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng - nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.

Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên "Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều...". Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Tại sao tác giả lại lựa chọn một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là bơi mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày "thắp đèn" rồi "đóng quan" và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.

Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu". Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.

Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian đìu hiu, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ nghèo "Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh trem hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng". Một bức tranh thêm ảm đảm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, dường như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên,thánh thiện và cao cả.

Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng "chả kiếm được bao nhiêu". Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng giúp cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình.

Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.

Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thị bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà liên. Hình ảnh bà cụ thi "ngửa cổ uống một hơi sạch, đặt 3 xu vào tay liên và lảo đảo bước đi" khiến người đọc chạnh lòng về một khiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.

Giữa chốn phố huyện này, dường như ai cũng mong ngóng một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. Có lẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi "con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua"/ Đó có thể là thế giới có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn.

Chuyên tàu có lẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những con người tại phố huyện nghèo này.

"Hai đứa trẻ" là một câu chuyện nhẹ nhàng, không có tình huống gay cấn những lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời, mảnh đất nghèo nàn những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.

Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (mẫu 3)

Hai đứa trẻ là một trong số nhiều truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Câu chuyện kể về hai chị em (Liên và An), hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một gian hàng tạp hóa nơi phố huyện. Đêm chuyển dần về khuya, nhiều bóng người lù mù đi qua như những chấm sáng mờ nhạt: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, cụ Thi điên, gia đình bác Xẩm. Họ cùng với đêm tối phố huyện gieo vào lòng trẻ thơ những nỗi niềm thương xót. Hai chị em dù buồn ngủ "ríu cả mắt" vẫn cố thức để đợi chuyên tàu đêm đi qua. Đoàn tàu như một vệt sao băng lao lên chốc lát rồi tất cả chìm vào bóng tối mênh mang...

Bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ (và cả Nhà mẹ Lê và Gió lạnh đầu mùa) gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của Thạch Lam. Theo hồi kí về gia đình Nguyễn Trường, bà Nguyễn Thị Thế, chị ruột của Thạch Lam kể lại: "Tôi không ngờ em Sáu có trí nhớ dai đến thế, như chuyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới ngủ. Năm đó tôi mới lên chín, em tôi lên tám mà mẹ đã giao cho hai chị em tôi coi hàng". Cả một thời thơ ấu của Thạch Lam đã gắn với phố huyện Cẩm Giàng, bên cạnh đường xe lửa Hà Nội - Hải Phòng lúc đó cha vừa mất ở sầm Nưa - Lào, mẹ con bồng bế nhau về quê ngoại). Cái không gian buồn tẻ, quạnh hiu của phố huyện như một ám ảnh để rồi sau này thường xuất hiện trong nhiều trang viết của Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhất là Thạch Lam. Thời gian như một chiếc bình lộc kì diệu, nó giữ lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Dựng lên nhân vật Liên, thực chất Thạch Lam đã đánh thức trong tâm khảm của cậu bé An hồi nào để trở về phố huyện, nơi "bóng tối u uất nhẫn nại của đời thôn quê lưới mái lá nát hay những đêm sâu trong huyện" (Thế Lữ).

Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc "văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào" rồi "muỗi bắt đầu vo ve" nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là "tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều". Nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy khó nhất là việc tạo không khí truyện, khi tạo được không khí rồi thì mạch truyện cứ như thế mà tuôn chảy. Với tiếng trống thu không thủng thẳng từng tiếng một "vang ra đê gọi buổi chiều", Thạch Lam đã tạo được không khí truyện một cách tự nhiên và có lẽ cái tiếng trống từ thời thơ ấu ấy đã đánh thúc, gọi dậy ở Thạch Lam tất cả những bâng khuâng, mơ hồ, man mác về một phố huyện ngày nào. Tiếng trống thu không là âm thanh quen thuộc xuất hiện thường nhật, trở thành một mảnh linh hồn của buổi chiều phố huyện, tạo cho phố huyện cái vẻ bình lặng đến nao nao buồn. Đúng là "một chiều êm ả như ru". Tiếng trống thu không đã kéo cả buổi chiều trong ánh tà dương lặng trầm và u uất thấm thìa vào tận tâm hồn. Đây là hoàn toàn không phải là tiếng trống thúc sưu thuế bức bách khiến cho không gian trở nên ngột ngạt đầy sợ hãi trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, càng không phải là tiếng trông hộ đê giục giã hồi đầu thế kỉ của Phạm Duy Tốn trong sống chết mặc bay. Thật buồn nhưng thật êm, thật đẹp. Chính cái vẻ đẹp êm dịu, đượm buồn của buổi chiều quê ấy đã tạo nên chất thơ trong truyện của Thạch Lam. Thạch Lam đã khẽ đưa những nét vẽ thiên nhiên đầy lãng mạn.

Trong bức tranh phố huyện, đêm tối xuất hiện như một nhân vật mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn chứ không đơn thuần là cái nhìn không gian mang tính vật lý của sự chảy trôi từ ngày sang đêm. Có lẽ Thạch Lam luôn nhìn cuộc sống trong những góc khuất của nó nên trong truyện của ông ta thường thấy có hình ảnh bóng tối. Bóng tối đã tạo thành một bầu khí quyển riêng. Trong truyện có không dưới 30 lần tác giả trở đi trở lại với hình ảnh đêm tối, bóng tối. Mở đầu truyện là cái thế lụi tắt của ngày tàn và sự xâm chiếm của bóng tối khi "dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời". Khi "các nhà đã lên đèn" cũng là lúc bóng tối được cảm nhận rõ rệt nhất bởi những hòn đá nhỏ cùng "một bên sáng, một bên tối". Bóng tối không ập đến bất ngờ mà cứ lặng lẽ, âm thầm từng khoảnh khắc một vây bọc lấy tất cả mọi cảnh vật. Bà cụ Thi sau khi ngửa cổ dốc tọt cút rượu to đã "đi lẫn vào bóng tối" và bóng tối đả nuốt dần tiếng cười khanh khách nửa điên nửa dại của cụ. Sau tiếng cười của cụ Thi, đêm mới thực sự là đêm "một đêm mùa hạ êm như nhung" với những con người "từ từ đi trong đêm". Cái chấm lửa vàng lơ lửng như ma trơi của gánh phở bác Siêu "đi trong đêm tối" càng tô đậm thâm cái tối của đêm phố huyện. Cảnh đêm tối ở phố huyện được Thạch Lam nói đến đây không phải là một đêm do mất điện hoặc không trăng mà "đêm tối đối với Liên đã quen lắm" quen đến nỗi trong cái tối của đêm Liên nhìn xuyên qua nó để thấy được "con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà" mặc dù cứ mỗi lúc "càng sẫm đen hơn trước". Ngay cả tiếng trống cầm canh cũng bị cái tối của đêm làm cho quánh lại "khô khan không vang động ra xa" mà "chìm ngay vào bóng tối". Đoàn tàu đêm đi qua, cả phố huyện bừng sáng lên chốc lát rồi lại bị bóng tối vây bọc. Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn hạt đỗ trong gian hàng tồi tàn của chị em Liên được vặn nhỏ hơn nữa và Liên sau khi "nhìn quanh đêm tối" đã chìm trong giấc ngủ "tịch mịch và đầy bóng tối".

Có thể nói, hình tượng đêm tối không chỉ tạo nên một bầu không khí riêng cho câu chuyện mà hình tượng ấy đã tạo nên một sức ám ảnh mạnh mẽ, gây nên cảm giác phập phồng, lo lâu, hồi hộp, mong đợi, hi vọng để rồi thờ dài ở người đọc. Bóng tối trở thành một thế lực thống trị phố huyện, nó len lỏi, thâm nhập vào mọi sự vật. Nó như một con quái vật khổng lồ nuốt chừng cả cảnh và người phố huyện. Bóng tối không chỉ là cái nền của bức tranh phố huyện mà còn là không gian xã hội, không gian nghệ thuật của tác phẩm. Bóng tối chính là biểu tượng cho cuộc sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc không lối thoát của những kiếp người nơi phố huyện. Bóng tối cứ đè nặng lên số phận khiến cho họ đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé, đã tội nghiệp, hầm hiu càng hẩm hiu tội nghiệp.

Đối lập với bóng tối là ánh sáng. Thực chất nhà văn đã sử dụng thành công một cách xuất, sắc nghệ thuật tương phản. Sự tồn tại của những chấm sáng sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có bóng tối, ngược lại, tả bóng tối cũng là đã chứng minh sự tồn tại của những chấm sáng, những chấm sáng lắt lay mà bóng tối có thể nuốt chưng bất cứ lúc nào. Nhưng như một quy luật của sự sinh tồn, ánh sáng dù lắt lay vẫn cứ tồn tại. Dường như suốt thiên truyện là sự giao tranh gay gắt. mà lặng lẽ giữa bóng tối và ánh sáng.

Ánh sáng tự nhiên không chỉ có ánh mặt trời "đỏ rực" mà còn có ánh sáng lấp lánh" của vòm trời bởi những vì sao đêm. Dưới mặt đất còn có ánh sáng của "những con đom đóm bay là là".

Ánh sáng nhân tạo gồm ngọn đèn chị Tí; ngọn đèn dầu vặn nhỏ của chị em Liên mà "từng hột ánh sáng lọt qua phên nứa"; bếp lửa của bác phở Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất cát: ánh sáng của "cái thau sắt trắng" mà gia đình bác Xẩm mù để trước mặt được ánh sáng của xung quanh hắt vào; ánh sáng của tàn nhang rụng xuống đường ray; ánh sáng của "hai ba người cầm đèn lồng lung lay cái bóng dài". Ngoại trừ ánh sáng mà đoàn tàu mang đến và ánh sáng hiện lên trong tâm tướng của Liên về Hà Nội còn lại tất cả đều ở thế lụi tàn, leo lét, rơi rụng, mờ dần.

Ánh sáng ngọn đèn của ngọn đèn chị Tí và cả cái bếp lửa của bác Siêu chỉ đù chiếu sáng một vùng đất cát" và dường như đêm càng về khuya càng yếu ớt. Ngọn đèn của chị em Liên thì vặn nhỏ tối đa chỉ vừa đù cho "từng hột sáng lọt qua phên nứa". Những ngọn đèn lồng di động lung lay có thể tát bất cứ lúc nào. Những vì sao trên trời và những con đom đóm dưới đất chỉ "nhấp nháy" lúc sáng lúc tắt. Thảm hại nhất và cũng là chi tiết tuy bâng quơ mà giàu ý nghĩa nhất là chiếc thau sắt trắng của gia đình bác xẩm. Mỗi gia đình đều có một chút ánh sáng dù leo lét, gia đình bác xẩm với công việc "đặc trưng" của mình nên không dùng đèn nhưng vẫn còn có một chút ánh sáng - đó là sự chia sẻ của những người xung quanh dù vô cùng ít ỏi. Chiếc thau sắt trắng đã hắt lên thứ ánh sáng dược "hứng" từ ánh sáng của mọi người xung quanh.

Ánh sáng của phố huyện là thứ ánh sáng yếu ớt và trong phạm vi rất hẹp. Nó chỉ như những viên sỏi ném vào "cái ao lớn" của bóng tối. Ánh sáng không làm cho phố huyện sáng lên mà thậm chí còn gợi cho người ta cảm nhận rõ hơn về bóng tối. Ánh sáng phải chăng chỉ là một sự cầm cự kéo dài, một sự vật lộn với bóng tối để tồn tại. Cũng như những cư dân phố huyện, ánh sáng của phố huyện là biểu tượng cho kiếp sống lắt lay, mòn mỏi, thảm hại, những kiếp người cũng như những kiếp đèn bé nhỏ kia, có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Dường như Thạch Lam, bằng cách này, đã âm thầm chứng minh cho một câu ngạn ngữ của phương Tây: "Đời người như ngọn nến". Đời người nói chung đã vô cùng mong manh. Đời người của những cư dần phố huyện nơi đây lại càng mong manh gấp vạn lần. Họ chỉ là những đốm sáng yếu ớt bị bỏ quên giữa hoang mạc tăm tối của cuộc đời. Điều đáng nói hơn cả là Thạch Lam đã tạo nên sự đối chọi gay gắt giữa hai mảng tối - sáng, đặc biệt là ngọn đền dầu leo lét chị Tí.

Bức tranh đời sống phố huyện được mở đầu bằng cảnh chợ tàn. Cảnh chợ tàn của bức tranh phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng những nét vẽ hiện thực khiến cho phố huyện lộ rõ thực chất nghèo đói, thảm hại của nó. Đó là những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, và lá mía" - chợ nghèo nên "rác thải" của chợ cũng chẳng có gì. Ấy thế mà vẫn có "mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom đi lại tìm tòi" rồi thì "nhặt thanh nứa, thanh tre". Có gì đây mà nhặt. Chi tiết này thường xuất hiện trong truyện của Thạch Lam như một nỗi ám ảnh từ thời thơ ấu hằn vào tâm hồn nhà vãn "duy cảm" để trở thành một tình thương mến day dứt, ngậm ngùi.

Khi bóng tối xuất hiện, những cư dân kiếm sống ban ngày vừa ngập vào bóng tối thì những cư dân kiếm sông ban đêm quanh ga xép lại từ bóng tối kéo ra. Bằng một chút ánh sáng yếu ớt, những con người này bị vây hãm bởi bóng tối. Họ là những cuộc đời tàn, bên cạnh những đồ vật tàn trong một khung cảnh tàn lụi héo úa.

Bắt đầu cho sự chuyển giao giữa chiều và tối là cảnh mấy đứa trẻ lom khom... đi lại... nhặt nhanh., tìm tòi.. Và để tô thêm những bóng dáng xiêu vẹo đó, tác giả tả tỉ mỉ những thứ "rác thải" của một phiên chợ nghèo và cái mùi ẩm mốc bốc lên cùng vài người về muộn còn nói rốn với nhau thêm vài câu chuyện rời rạc.

Mẹ con chị Tí có lẽ là nhân vật điển hình nhất cho cuộc sông lay lắt, ngoi ngóp của hố huyện này. Gánh hàng của mẹ con chị là tâm điểm trong bức tranh sinh hoạt nơi phố huyện khi đêm xuống. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre ra ga bày bán hàng nước. Đã biết, là không bán được gì mà vẫn cứ đi, đi vì biết đâu kiếm thêm được vài xu ít ỏi. Đó đâu phải là sống, đó chẳng qua là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trở đi trở lại với ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Ngọn đèn lắt lay cố chống chọi với bóng tối cũng giống như cuộc đời của chị lay lắt chống chọi với đói nghèo, ảm đạm và buồn tẻ. Đây là hình ảnh không chỉ có sức ám ảnh đôi với Liên mà đôi với cả tác giả và người đọc. Thạch Lam đã dồn không biết bao nhiêu thương mến xót xa vào đấy để rồi đọc những trang viết của ông, hình ảnh ngọn đèn cùng số phận chị Tí cứ len lỏi cả vào giấc ngủ.

Bác phở Siêu có vẻ khá hơn bởi ở cái đất nghèo này phở là một thứ xa xỉ. Tiếng đòn gánh kĩu kịt cùng với mùi thơm ngầy ngậy và chấm lửa vàng lơ lửng vừa đem lại cho phố huyện một chút sinh khí chưa đủ ấm đã lại rơi vào một tiếng thở dài cho sự ế ẩm.

Gia đình bác xẩm ngồi đấy tự lúc nào bởi đối với bác ta ngày và đêm đều có nghĩa gì đâu. Cả nhà sinh sống, chơi đùa, "làm ăn" trên một manh chiếu rách với một chiếc thau sắt dùng để đựng của bố thí. Bác xẩm góp chuvện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng và thằng con phụ họa bằng cách bò ra đất nhặt những rác bẩn để nghịch.

Tưởng như thế đã là thê thảm và đáng sợ nhưng có một con người còn đáng sợ hơn, đấy là bà cụ Thi điên. Bà xuất hiện như một cái bóng nhưng ám ảnh mãi bởi tiếng cười nửa điên nửa dại và hình ảnh người đàn bà cầm một cút rượu to dốc một hơi cạn sạch khiến người ta cảm thấy đắng chát cho kiếp người tím tạ, héo mòn, lay lắt. Ai? Cái gì khiến bà cụ Thi ra nông nổi ấy? Thạch Lam không luận bàn mà lặng lẽ đặt vào lòng trắc ẩn của người đời cái câu hỏi ấy. Cuộc sống cứ tiếp diễn theo cái đà này thì có lẽ tất cả cũng sẽ nửa điên nửa dại mất thôi. Thật thê thảm khi một người đàn bà uống rượu để tìm quên trong men đắng, càng thê thảm khi người đàn bà ấy không đủ tiền mua hẳn một chai rượu để uống cho đủ say mà quên. Một cút rượu to dốc tọt vào họng là một chi tiết rất Thạch Lam - vừa tinh tế, vừa sâu sắc mà tưởng như vụn vặt, vu vơ.

Gian hàng của chị em Liên có vẻ bình yên đứng giữa phố huyện. Mặc dù được coi là khá giả hơn nhưng cũng thật buồn tẻ, ảm đạm. Một gian hàng nhỏ xíu, xiêu vẹo, với tấm phên nửa dán giấy nhật trình, vài phong thuốc lào, cái chõng sắp gãy... Và hai đứa trẻ vừa ngây thơ vừa già nua đêu tội nghiệp. Nếu đi sâu tìm hiểu gia cảnh và hoàn cảnh hiện tại của hai đứa trẻ, ta sẽ thấy cả một sự "xuống cấp", sa sút ghê gớm: thầy mất việc... từ Hà Nội chuyển về... thuê quán bán hàng...

Những câu chuyện tẻ nhạt, đơn điệu dường như hôm nào cũng lặp lại một cách bâng quơ, chậm rãi. Những con người hôm nào cũng hiện ra rồi khuất đi như những cái bóng lặng lẽ, âm thầm.

Bao quanh họ là những đồ vật tồi tàn: ngôi quán ọp ẹp, chõng gãy, chiếu rách, đàn còm, bát sứt... Những con người, những đồ vật, cảnh vật đó tạo nên gương mặt âm u, ảm đạm, buồn thiu của phố huyện. Cuộc sống cứ diễn ra theo hướng tàn tạ mòn mỏi với những con người không nguồn gốc xuất thân, không số phận thậm chí tác giả cũng không miêu tả chi tiết dáng vẻ, nét mặt... Nhưng có lẽ vì thế mà số phận họ hiện lên càng bé nhỏ, côi cút, tội nghiệp. Ai cùng nhẫn nhục, âm thầm với cái kiếp của mình như nó vốn sinh ra đã thế, lặp lại nhiều thành quen. Thật đáng sợ khi những hình ảnh lay lắt ấy cứ diễn ra trước mất hai đứa trẻ như một vòng đời quẩn quanh không lối thoát của phố huyện. Nếu cuộc sống không có kì đổi thay thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố huyện sẽ là tương lai của những thế hệ như Liên, An, con chị Tí... Liên sợ không dám nhìn bà Thi điên một phần bởi vì bà ta điên nhưng một phần vì Liên sợ cho cái tương lai của chính mình. Rồi dây Liên sẽ thành chị Tí? Bác phở Siêu? Cụ Thi điên?... Vẽ ra sự tương quan giữa hai đứa trẻ với phố huyện này, Thạch Lam đã đặt ra sự tương quan giữa những mầm cây với một thế giới già nua tàn tạ, héo mòn. Những mầm cây ấy đã mọc lên trên một mảnh đất khô cằn, bạc phếch. Chúng sẽ lên thế nào đây? Hãy cứu lấy chúng, những đứa trẻ vô tội! Đó là điều Thạch

Lam âm thầm gửi gắm vào những trang viết của mình khi miêu tả bức tranh phố huyện. Và có lẽ cũng vì thế mà truyện cứ gợi lên những xót thương day dứt mãi không thôi.

Không phải những con người phố huyện không có những mong ước, hi vọng. Không có hi vọng thì loài người chắc đã bị hủy diệt lâu rồi. Nhưng hi vọng điều gì? "Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ". Sự mong đợi cũng thật tội nghiệp - "Một cái gì tươi sáng" - thật mong manh, thật mơ hồ. Cái nghèo đói, lam lũ, cơ cực đã mài mòn đến cả ước mơ và hi vọng khiến cho những con người nơi đây không ngẩng đầu lên được. Ngay cả cái khả năng tự lừa dối mình để bám trụ cuộc sống dường như họ cũng không còn được là bao. Có thể nói, tấm lòng yêu thương của Thạch Lam đã nghiêng xuống những kiếp người nhỏ bé ấy đã mà lắng nghe, để mà chia sẻ, để mà an ủi. Cứ như thế, nhà văn trân trọng từng hột ánh sáng bằng những lời lẽ tâm tình nhỏ nhẹ mà đầy sâu sắc thấm thìa. Phố huyện và những con người phố huyện đã được bao bọc bởi một trái tim dung dị mà ấm áp của một nhà văn suốt đời mong muốn cho cuộc đời "có nhiều công bằng và yêu thương hơn".

Trên cái nền của bức tranh phố huyện hiện lên hình ảnh hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên. Phố huyện luôn được đặt trong tầm mắt của Liên, cô bé ngây thơ mà vô cùng nhạy cảm. Thạch Lam đã mượn cái nhìn, diễn biến tâm trạng của Liên để thể hiện cảm nhận của mình trong kí ức cũng như hiện tại đối với thế giới xung quanh, từ đó tư tưởng của tác phẩm được phát biểu một cách nhẹ nhàng, kín đáo mà sâu sắc, thấm thía.

Bắt đầu là nỗi buồn của Liên trước một buổi chiều tàn. Liên đã "ngồi yên lặng" để cho tất cả buổi chiều lặng trầm và u uất thấm thía vào tận tâm hồn để rồi "đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần. Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác". Đoạn văn giống như một câu thơ trữ tình mang âm hưởng trầm buồn ngọt ngào thấm thía và man mác bâng khuâng. Trong tâm hồn Liên có một chút, ngày thơ của trẻ con và một chút già dặn của người lớn cộng với một chút cái tôi lãng mạn khó cắt nghĩa. Liên chính là hiện thân của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Thạch Lam.

Liên không chỉ buồn trước cảnh chiều tàn, Liên còn buồn trước những kiếp người tàn và cuộc sống cứ như một tiếng thở dài, nhẹ mà sâu. Nhìn những đứa trẻ nhà nghèo bới rác "Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền đế mà cho chúng nó". Một niềm thương cảm vừa bùi ngùi, vừa xót xa cứ dâng lên trong hồn Liên giống như cái cậu bé Sơn hồi nào trong Gió lạnh đầu mùa lặng nhìn những đứa trẻ nghèo tím tái vì rét.

"Bóng tối cứ ngập đầy dần" trong đôi mắt Liên và cũng ở khang cửa sổ tâm hồn ấy, những chấm sáng cùng với những con người hiện ra trong tình thương mến. Tình thương mến ấy được thể hiện qua những câu chào hỏi ân cần với chị Tí, qua cái cử chỉ "lẳng lặng rót rượu" cho cụ Thi rồi tuy có hơi run sợ vẫn "đứng sững nhìn theo cụ đi lẫn vào bóng tối". Tình thương ấy không chỉ tụ lại nơi ngọn đèn chị Tí, chiếc thau sắt của gia đình bác xẩm, đóm lửa nhỏ của gánh phở bác Siêu, mà dường như trùm phủ lên toàn cảnh phố huyện, thậm chi đến cả những hòn đá nhỏ "một bên sáng, một bên tối" khi mà đêm buông xuống, trăng về khuya, tâm trạng của Liên càng u uất, xao xác đến tội nghiệp.

Cũng có lúc. Liên lặng ngắm "vũ trụ thăm thẳm bao la". Những cái "bí mật" và xa lạ" của nó đã làm "mỏi trí nghĩ" của Liên và Liên lại "chúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí". Như vậy, cũng như Thạch Lam, tâm hồn Liên dù có lãng mạn tới đâu cũng không thoát li", không "lãng quên" mà luôn gán với cuộc đời, với con người.

Cái nhạy cảm của Liên với cuộc đời còn thể hiện ở chi tiết: từ gánh phở của bác Siêu mà Liên sống lại với những kí ức tuổi ấu thơ khi gia đinh còn ờ Hà Nội. Tuy "những kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là "một vùng sáng rực lấp lánh" nhưng đó chính là khởi nguồn sâu thẳm cho tâm trạng thấp thỏm đợi tàu của Liên ở cuối truyện. Đêm nào Liên cũng đợi, và đêm nào cũng háo hức như lần đầu để rồi sau đó lại chìm và cuộc đời đầy bóng tối. Tâm trạng đợi MU của Liên cùng là tâm trạng mòn mỏi đến xót xa, hi vọng đến tội nghiệp. Nếu tinh ý sẽ thấy một tiếng thở dài rất nhẹ của chị em Liên qua chi tiết: "Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?" (câu hỏi của An). "Liên không đáp, chuyến tàu đêm nay thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Niềm vui chưa trọn thì một chút lo âu mơ hồ xuất hiện. Rồi từ đêm mai... đêm mai nữa... rất có thể sẽ không còn chuyến tàu đêm ấy nữa. Cuộc sống sẽ ra sao khi con người ta không còn niềm tin và hi vọng?.

Kết thúc tác phẩm là tiếng vang động nhỏ dần "mất dần trong bóng tối, lắng tai nghe cũng không thấy nữa" chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác Siêu đi vào làng, "vợ chồng bác Xâm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ". Và Liên, Liên "gối đầu lên tay nhắm mát lại", "Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi", "ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối". Đúng là "một đêm mùa hè êm như nhung" giấu đi những tiếng thở dài cố nén của biết bao kiếp người. Giấc ngủ của Liên là giấc ngủ yên tĩnh mà thực ra đầy xao động và có gì nằng nặng, buồn buồn, thương thương, tồi tội khiến đọc xong những dòng cuối cùng, gấp trang sách lại mà bao nhiêu nỗi niềm day dứt, trăn trờ khiến ta thao thức mãi không thôi.

Tác giả đã mượn tâm trạng nhân vật để tạo nên nỗi ám ảnh nơi người đọc rất nhiều lần Thạch Lam như muốn nhấn mạnh tới cái ngây thơ của chị em Liên: "Không hiểu sao", Liên "tưởng là", Liên "mơ hồ", Liên "không hiểu", Liên "thấy" mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi", ... Có thể Liên không hiểu, không biết thật nhưng chính cái từ "không" ấy đã "bẫy" người đọc khiến người ta sa vào những bất định mông lung. Người đọc đã trôi theo dòng tâm trạng của nhà văn là "lây nhiễm" cái cảm giác chập chờn bất định của nhân vật. Người ta sống với nhân vật, buồn nỗi buồn mơ hồ của nhân vật tự lúc nào không hay biết. Đó chính là ma lực của truyện ngắn Thạch Lam.

Liên vừa giống những con người phố huyện vừa rất khác họ. Giống vì cùng với họ cô là một nét trong bức tranh u buồn đầy bóng tối: cũng dọn hàng, cũng góp vài lời đứt quãng, cũng có một ngọn đèn leo lét, với một gian hàng còm gồm: thuốc lào, xà phòng, diêm... Và cùng với những con người nơi đây, những con người trong bóng tối ảm đạm âm thầm mơ hồ "mong đợi một cái gì tươi sáng" ...

Nhưng Liên lại rất khác với những cư dân phố huyện. Cô tách ra làm thành một điểm nhìn của "cái tôi chú thể" không chịu đánh mất mình trong cái tổng thể có nguy cơ biến mất vì đang ở quá trình nhạt nhòa, leo lét. Liên không phải là một cô gái quê nhưng cũng không hẳn là một cô gái thị thành. Trong Liên có cả nét giản dị, mộc mạc lẫn sự phức tạp, khó hiểu đầy lãng mạn. Cô không chỉ biết chúi đầu nhìn những quầng sáng trên mặt đất, cô còn biết thả hồn theo những vì sao lấp lánh đế tìm sông Ngân Hà. Cô không chỉ quen nhìn con đường tối từ làng ra bờ sông mà còn biết mơ tưởng về một thế giới đầy ánh sáng dù mơ tường ấy rất đổi mong manh và có lúc vụt biến mất. Liên là một đứa trẻ, dù có lớn hơn An nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ với tất cả những gì ngây thơ của một đứa trẻ. Nhưng trong Liên lại có cả sự trưởng thành thậm chí có cả cái già nua của một người lớn. Chính sự nhập nhoạng giữa hai vùng sáng - tối ấy đã có sức tự khen lên những giai điệu buồn trong một tâm hồn buồn khiến người đọc bị xâm chiếm, bị ám ảnh và cứ rưng rưng một niềm thương cảm.

Mỗi điểm khác biệt nữa của Liên với những cư dân phố huyện là niềm khao khát hướng tới ánh sáng. Cái nghèo nàn đơn điệu nơi phố huyện tuy khiến Liên không giấu được một tiếng thở dài nhưng cũng không ngăn được ở cô những ước mơ, những khao khát về một sự đổi thay, một thế giới tươi sáng. Nhà văn đã lắng nghe, đã thấu hiểu và đã trân trọng những tia hi vọng nhỏ bé ấy của con người. Đó chính là giá trị nhân đạo nhẹ nhàng mà sâu sắc thấm thía của tác phẩm.

Nỗi xót thương của Liên, tâm trạng của Liên, cảm xúc của Liên thật ra là cảm xúc, tâm trạng, nỗi xót thương của Thạch Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật và bằng lối văn duy cảm, ông đã đưa người đọc nhập vào thế giới tâm hồn nhân vật, người đọc sẽ liên tưởng, hình dung tới điều tác giả muốn đặt ra.

Điều mà tác giả muốn đặt ra trong Hai đứa trẻ mặc dù giản dị và nhẹ nhàng nhưng luôn luôn có ý nghĩa đối với con người ở mọi thời đại. Hãy biết, lắng nghe cuộc sống xung quanh và chắt chiu những gì tốt đẹp nhất. Điều đó tưởng dễ nhưng chỉ cần một chút vô tình ta sẽ bỏ qua. Thạch Lam đã kéo con người xích lại gần nhau hơn từ những điều hết sức bình thường ấy.

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (mẫu 4)

Bước vào những trang viết của Thạch Lam là ta bước vào một thế giới nghệ thuật riêng, một thế giới hiện thực đẫm chất thơ. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn bộc lộ rất rõ thế giới nghệ thuật riêng đó của Thạch Lam. Nhà văn đã bày tỏ tấm lòng sâu kín đầy trắc ẩn yêu thương của mình qua việc miêu tả bức tranh phố huyện và diễn biến tâm trạng nhân vật Liên.

Là một trong bảy thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ) nhưng Thạch Lam đã chọn cho mình một hướng đi riêng với một quan điểm nghệ thuật riêng. Theo ông: “Thiên chức của nhà văn là nâng đỡ cái tốt, cái đẹp để cho cuộc đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn” và “văn chương không thể thoát ly, lãng quên mà phải là một thứ vũ khí thanh cao góp phần cải tạo xã hội”.

Lúc bấy giờ, trên văn đàn, người ta đua nhau viết nhiều loại tiểu thuyết có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kì hoặc nhiều chuyện tình ái mùi mẫn của giới thượng lưu. Lối đi của Thạch Lam tưởng sẽ dẫn tới ngõ cụt, dẫn tới “mảnh đất chết” của nghệ thuật. Đó là một loại truyện không có cốt truyện. “Thạch Lam đến với văn chương như mang một sứ mệnh hòa giải, hòa giải giữa thơ và văn xuôi, giữa hiện thực và lảng mạn” (Chu Văn Sơn). Truyện của Thạch Lam chú trọng nhiều đến những biến thái tinh vi, mơ hồ trong đời sống tâm hồn (chứ không phải phân tích tâm lí sắc lạnh như Nam Cao), và cứ thế trôi theo dòng cảm xúc, tâm trạng khiến cho khi đọc người ta luôn có cảm giác xao xuyến rất lạ. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam chính là một bài thơ trữ tình xót thương mà cũng vô cùng ấm áp và thấm thìa. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan gọi truyện của Thạch Lam là truyện “tình cảm” và cho rằng Thạch Lam “rất tin ở chủ nghĩa duy cảm”. Ông đứng vào một phái riêng của tiểu thuyết.

Chính vì không chú trọng đến cốt truyện nên Thạch Lam cũng không đi vào những đề tài to tát; quy mô cuộc sống xã hội được phản ánh không rộng lớn, những vấn đề đặt ra không mang tính bức xúc như trong nhiều sáng tác của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Chất liệu tạo nên cuộc sống trong tác phẩm được Thạch Lam chắt chiu từ những gì hết sức nhỏ bé thậm chí vụn vặt mà nếu vô tình sẽ rất dễ bỏ qua.

Cái tài của Thạch Lam là ở chỗ nhà văn đã vượt lên đề tài, chế ngự chất liệu, chiếm lĩnh phạm vi phản ánh bằng lăng kính chủ quan và phong cách nghệ thuật tài hoa tinh tế. Và cứ tự nhiên như không, Thạch Lam đã gieo vào lòng độc giả một thứ tình yêu ngọt ngào đối vói nhiều trang viết của mình bởi người ta luôn tìm thấy ở văn xuôi Thạch Lam một thứ mê hương kì lạ: dìu dịu mà lan tỏa, thoang thoảng mà ngây ngất, mơ hồ mà đầy ám ảnh. Thạch Lam “vừa sống vừa lắng nghe chung quanh cũng là lắng nghe mình phản ứng trước mọi diễn biến cả bên ngoài và bên trong mình rồi trang trọng đề nghị với mọi người cùng bàn về điều hơn lẽ thiệt, mặc dù cái điều hơn lẽ thiệt đưa ra có khi nhỏ như một sợi tóc” (Nguyễn Tuân).

Nếu nhìn bề ngoài, ta sẽ nhận thấy cách lựa chọn chất liệu của Thạch Lam gần với những nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo như Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài... Còn nếu đi sâu khám phá nhiều trang văn của Thạch Lam ta lại cảm thấy ông rất gần với các nhà văn lãng mạn như: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng bởi ông luôn kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Thạch Lam đã tạo ra một thứ chủ nghĩa tình cảm riêng không giống như Vích-to Huy-gô, người đứng đầu tao đàn lãng mạn Pháp, cũng không giỗng như Nhất Linh và Hoàng Đạo, hai người anh của mình - hai cây bút có thể coi là đứng đầu tao đàn lãng mạn Việt Nam. Thạch Lam đã lặng lẽ mang đến cho văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa” (Nguyễn Đức Quyền). “Một thứ hương Hoàng Lan thanh tao được chưng cất từ những nỗi đời” (Chu Văn Sơn).

Hai đứa trẻ là một trong số nhiều truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Câu chuyện kể về hai chị em (Liên và An), hai đứa trẻ được mẹ giao cho trông coi một gian hàng tạp hóa nơi phố huyện. Đêm chuyển dần về khuya, nhiều bóng người lù mù đi qua như những chấm sáng mờ nhạt: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, cụ Thi điên, gia đình bác Xẩm. Họ cùng với đêm tối phố huyện gieo vào lòng trẻ thơ những nỗi niềm thương xót. Hai chị em dù buồn ngủ “ríu cả mắt” vẫn cố thức để đợi chuyên tàu đêm đi qua. Đoàn tàu như một vệt sao băng lao lên chốc lát rồi tất cả chìm vào bóng tối mênh mang..

Truyện chỉ có vậy nhưng cho đến hôm nay, sức hấp dẫn của nó vẫn còn vẹn nguyên. Có một cái gì đó vừa quen thuộc gần gũi lại vừa lạ lùng khiến ta ngạc nhiên và xao xuyến mãi.

Sức hấp dẫn của Hai đứa trẻ trước hết ở không khí truyện. Bước vào thế giới nghệ thuật của Hai đứa trẻ, người đọc lại bị xâm chiếm hấp dẫn bởi bầu không khí rất đặc trưng của một miền quê nghèo trước một buổi chiều tà chuyển dần vào đêm tối và tối dần tới đêm khuya. Và một điều tưởng như thật nghịch lý là cái sinh khí của câu chuyện lại được dệt nên bởi bức tranh của một phố huyện đang mất dần sinh khí. Cuộc sống ở đó đang đuổi dần, lụi tàn dần gợi lên cảm giác mòn mỏi. Nó toát lên từ không gian đến thời gian, từ cảnh vật, đồ vật đến con người... Tất cả như âm thầm nói cùng ta rằng cái phố huyện này là một miền đời đang chìm dần vào quên lãng, một miền quê heo hút bị cuộc đời bỏ quên. Nhưng thật lạ qua tất cả những gì Thạch Lam miêu tả, có một cái gì ấm áp cứ thấm vào hồn ta bởi không khí buồn Thạch Lam tạo ra là không khí “buồn mà rất đẹp” (Vũ Ngọc Phan). “Hai đứa trẻ” có một hương vị thật là man mác [...]. Đọc Hai đứa trẻ thấy một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” (Nguyễn Tuân). Thạch Lam đã thổi hồn mình vào bức tranh phố huyện. Đây là thành công đầu tiên, thành công cuối cùng cũng là thành công đặc sắc nhất của truyện ngắn Thạch Lam.

Như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan tổng kết: “Mỗi một nhân vật của Thạch Lam đều phảng phất tâm hồn Thạch Lam”. Hai đứa trẻ thực chất là những trạng thái tâm hồn của nhân vật Liên được tắm trong một bầu không khí trầm buồn man mác mà nhà văn đã thổi hồn mình vào đó. Những biến thái tinh vi của một tâm trạng buồn vừa mơ hồ, vừa khắc khoải vừa hiện hữu vừa mong manh đã trở thành ám ảnh. Mở đầu mới chỉ là những xao động được gợi lên từ một buổi chiều tàn trước cảnh chợ tàn. Rồi theo màn đêm buông xuống, tâm hồn trẻ thơ có gì xao xác, u uất đến tội nghiệp để cuối cùng xốn sang lên đôi chút lúc đoàn tàu chạy qua. Dòng cuối của tác phẩm là giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” của nhân vật Liên, song đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm bâng khuâng. Chất thơ của Hai đứa trẻ đã được khơi lên từ những rung động tâm hồn như thế.

Bức tranh phố huyện trong Hai đứa trẻ (và cả Nhà mẹ Lê và Gió lạnh đầu mùa) gắn với những kỉ niệm thời thơ ấu của Thạch Lam. Theo hồi kí về gia đình Nguyễn Trường, bà Nguyễn Thị Thế, chị ruột của Thạch Lam kể lại: “Tôi không ngờ em Sáu có trí nhớ dai đến thế, như chuyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tàu đêm qua rồi mới ngủ. Năm đó tôi mới lên chín, em tôi lên tám mà mẹ đã giao cho hai chị em tôi coi hàng”. Cả một thời thơ ấu của Thạch Lam đã gắn với phố huyện Cẩm Giàng, bên cạnh đường xe lửa Hà Nội - Hải Phòng lúc đó cha vừa mất ở sầm Nưa — Lào, mẹ con bồng bế nhau về quê ngoại). Cái không gian buồn tẻ, quạnh hiu của phố huyện như một ám ảnh để rồi sau này thường xuất hiện trong nhiều trang viết của Nhất Linh, Hoàng Đạo và nhất là Thạch Lam. Thời gian như một chiếc bình lộc kì diệu, nó giữ lại trong tâm hồn đa cảm và tinh tế của Thạch Lam nhiều dấu ấn không thể phai mờ. Dựng lên nhân vật Liên, thực chất Thạch Lam đã đánh thức trong tâm khảm của cậu bé An hồi nào để trở về phố huyện, nơi “bóng tối u uất nhẫn nại của đời thôn quê lưới mái lá nát hay những đêm sâu trong huyện” (Thế Lữ).

Bức tranh phố huyện trong con mắt của hai đứa trẻ cũng đầy đủ màu, âm thanh, đường nét và sự phối hợp giữa cảnh và người. Tất cả đều đượm vẻ u buồn: một con đường vào làng, ra sông, một phố chợ, một ga xép, một lũy tre... Những đường nét đơn sơ, giản dị, mộc mạc. Gam màu chủ đạo của bức tranh phố huyện là màu xám đen của bóng tối hòa lẫn với những quầng sáng mờ nhạt nhỏ nhoi. Đúng hơn là có cả “màu đỏ rực như lửa cháy” của mặt trời sắp tàn và màu “hồng nhạt” của những đám mây nhưng cái màu sắc tưởng như rực rỡ kia chỉ tồn tại trong tích tắc để rồi “đen lại”, lụi tàn đi nhường chỗ cho bóng tối bao trùm, xâm chiếm.

Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” rồi “muỗi bắt đầu vo ve” nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Nhà văn Nguyễn Tuân cảm thấy khó nhất là việc tạo không khí truyện, khi tạo được không khí rồi thì mạch truyện cứ như thế mà tuôn chảy. Với tiếng trống thu không thủng thẳng từng tiếng một “vang ra đê gọi buổi chiều”, Thạch Lam đã tạo được không khí truyện một cách tự nhiên và có lẽ cái tiếng trống từ thời thơ ấu ấy đã đánh thúc, gọi dậy ở Thạch Lam tất cả những bâng khuâng, mơ hồ, man mác về một phố huyện ngày nào. Tiếng trống thu không là âm thanh quen thuộc xuất hiện thường nhật, trở thành một mảnh linh hồn của buổi chiều phố huyện, tạo cho phố huyện cái vẻ bình lặng đến nao nao buồn. Đúng là “một chiều êm ả như ru”. Tiếng trống thu không đã kéo cả buổi chiều trong ánh tà dương lặng trầm và u uất thấm thìa vào tận tâm hồn. Đây là hoàn toàn không phải là tiếng trống thúc sưu thuế bức bách khiến cho không gian trở nên ngột ngạt đầy sợ hãi trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, càng không phải là tiếng trông hộ đê giục giã hồi đầu thế kỉ của Phạm Duy Tốn trong sống chết mặc bay. Thật buồn nhưng thật êm, thật đẹp. Chính cái vẻ đẹp êm dịu, đượm buồn của buổi chiều quê ấy đã tạo nên chất thơ trong truyện của Thạch Lam. Thạch Lam đã khẽ đưa những nét vẽ thiên nhiên đầy lãng mạn.

Trong bức tranh phố huyện, đêm tối xuất hiện như một nhân vật mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn chứ không đơn thuần là cái nhìn không gian mang tính vật lý của sự chảy trôi từ ngày sang đêm. Có lẽ Thạch Lam luôn nhìn cuộc sống trong những góc khuất của nó nên trong truyện của ông ta thường thấy có hình ảnh bóng tối. Bóng tối đã tạo thành một bầu khí quyển riêng. Trong truyện có không dưới 30 lần tác giả trở đi trở lại với hình ảnh đêm tối, bóng tối. Mở đầu truyện là cái thế lụi tắt của ngày tàn và sự xâm chiếm của bóng tối khi “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Khi “các nhà đã lên đèn” cũng là lúc bóng tối được cảm nhận rõ rệt nhất bởi những hòn đá nhỏ cùng “một bên sáng, một bên tối”. Bóng tối không ập đến bất ngờ mà cứ lặng lẽ, âm thầm từng khoảnh khắc một vây bọc lấy tất cả mọi cảnh vật. Bà cụ Thi sau khi ngửa cổ dốc tọt cút rượu to đã “đi lẫn vào bóng tối” và bóng tối đả nuốt dần tiếng cười khanh khách nửa điên nửa dại của cụ. Sau tiếng cười của cụ Thi, đêm mới thực sự là đêm “một đêm mùa hạ êm như nhung” với những con người “từ từ đi trong đêm”. Cái chấm lửa vàng lơ lửng như ma trơi của gánh phở bác Siêu “đi trong đêm tối” càng tô đậm thâm cái tối của đêm phố huyện. Cảnh đêm tối ở phố huyện được Thạch Lam nói đến đây không phải là một đêm do mất điện hoặc không trăng mà “đêm tối đối với Liên đã quen lắm” quen đến nỗi trong cái tối của đêm Liên nhìn xuyên qua nó để thấy được “con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà” mặc dù cứ mỗi lúc “càng sẫm đen hơn trước”. Ngay cả tiếng trống cầm canh cũng bị cái tối của đêm làm cho quánh lại “khô khan không vang động ra xa” mà “chìm ngay vào bóng tối”. Đoàn tàu đêm đi qua, cả phố huyện bừng sáng lên chốc lát rồi lại bị bóng tối vây bọc. Kết thúc tác phẩm, ngọn đèn hạt đỗ trong gian hàng tồi tàn của chị em Liên được vặn nhỏ hơn nữa và Liên sau khi “nhìn quanh đêm tối” đã chìm trong giấc ngủ “tịch mịch và đầy bóng tối”.

Có thể nói, hình tượng đêm tối không chỉ tạo nên một bầu không khí riêng cho câu chuyện mà hình tượng ấy đã tạo nên một sức ám ảnh mạnh mẽ, gây nên cảm giác phập phồng, lo lâu, hồi hộp, mong đợi, hi vọng để rồi thờ dài ở người đọc. Bóng tối trở thành một thế lực thống trị phố huyện, nó len lỏi, thâm nhập vào mọi sự vật. Nó như một con quái vật khổng lồ nuốt chừng cả cảnh và người phố huyện. Bóng tối không chỉ là cái nền của bức tranh phố huyện mà còn là không gian xã hội, không gian nghệ thuật của tác phẩm. Bóng tối chính là biểu tượng cho cuộc sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc không lối thoát của những kiếp người nơi phố huyện. Bóng tối cứ đè nặng lên số phận khiến cho họ đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé, đã tội nghiệp, hầm hiu càng hẩm hiu tội nghiệp.

Đối lập với bóng tối là ánh sáng. Thực chất nhà văn đã sử dụng thành công một cách xuất, sắc nghệ thuật tương phản. Sự tồn tại của những chấm sáng sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có bóng tối, ngược lại, tả bóng tối cũng là đã chứng minh sự tồn tại của những chấm sáng, những chấm sáng lắt lay mà bóng tối có thể nuốt chưng bất cứ lúc nào. Nhưng như một quy luật của sự sinh tồn, ánh sáng dù lắt lay vẫn cứ tồn tại. Dường như suốt thiên truyện là sự giao tranh gay gắt. mà lặng lẽ giữa bóng tối và ánh sáng.

Ánh sáng tự nhiên không chỉ có ánh mặt trời “đỏ rực” mà còn có ánh sáng lấp lánh” của vòm trời bởi những vì sao đêm. Dưới mặt đất còn có ánh sáng của “những con đom đóm bay là là”.

Ánh sáng nhân tạo gồm ngọn đèn chị Tí; ngọn đèn dầu vặn nhỏ của chị em Liên mà “từng hột ánh sáng lọt qua phên nứa”; bếp lửa của bác phở Siêu chỉ chiếu sáng một vùng đất cát: ánh sáng của “cái thau sắt trắng” mà gia đình bác Xẩm mù để trước mặt được ánh sáng của xung quanh hắt vào; ánh sáng của tàn nhang rụng xuống đường ray; ánh sáng của “hai ba người cầm đèn lồng lung lay cái bóng dài”. Ngoại trừ ánh sáng mà đoàn tàu mang đến và ánh sáng hiện lên trong tâm tướng của Liên về Hà Nội còn lại tất cả đều ở thế lụi tàn, leo lét, rơi rụng, mờ dần.

Ánh sáng ngọn đèn của ngọn đèn chị Tí và cả cái bếp lửa của bác Siêu chỉ đù chiếu sáng một vùng đất cát” và dường như đêm càng về khuya càng yếu ớt. Ngọn đèn của chị em Liên thì vặn nhỏ tối đa chỉ vừa đù cho “từng hột sáng lọt qua phên nứa”. Những ngọn đèn lồng di động lung lay có thể tát bất cứ lúc nào. Những vì sao trên trời và những con đom đóm dưới đất chỉ “nhấp nháy” lúc sáng lúc tắt. Thảm hại nhất và cũng là chi tiết tuy bâng quơ mà giàu ý nghĩa nhất là chiếc thau sắt trắng của gia đình bác xẩm. Mỗi gia đình đều có một chút ánh sáng dù leo lét, gia đình bác xẩm với công việc “đặc trưng” của mình nên không dùng đèn nhưng vẫn còn có một chút ánh sáng - đó là sự chia sẻ của những người xung quanh dù vô cùng ít ỏi. Chiếc thau sắt trắng đã hắt lên thứ ánh sáng dược “hứng” từ ánh sáng của mọi người xung quanh.

Ánh sáng của phố huyện là thứ ánh sáng yếu ớt và trong phạm vi rất hẹp. Nó chỉ như những viên sỏi ném vào “cái ao lớn” của bóng tối. Ánh sáng không làm cho phố huyện sáng lên mà thậm chí còn gợi cho người ta cảm nhận rõ hơn về bóng tối. Ánh sáng phải chăng chỉ là một sự cầm cự kéo dài, một sự vật lộn với bóng tối để tồn tại. Cũng như những cư dân phố huyện, ánh sáng của phố huyện là biểu tượng cho kiếp sống lắt lay, mòn mỏi, thảm hại, những kiếp người cũng như những kiếp đèn bé nhỏ kia, có thể vụt tắt bất cứ lúc nào. Dường như Thạch Lam, bằng cách này, đã âm thầm chứng minh cho một câu ngạn ngữ của phương Tây: “Đời người như ngọn nến”. Đời người nói chung đã vô cùng mong manh. Đời người của những cư dần phố huyện nơi đây lại càng mong manh gấp vạn lần. Họ chỉ là những đốm sáng yếu ớt bị bỏ quên giữa hoang mạc tăm tối của cuộc đời. Điều đáng nói hơn cả là Thạch Lam đã tạo nên sự đối chọi gay gắt giữa hai mảng tối - sáng, đặc biệt là ngọn đền dầu leo lét chị Tí.

Bức tranh đời sống phố huyện được mở đầu bằng cảnh chợ tàn. Cảnh chợ tàn của bức tranh phố huyện được Thạch Lam miêu tả bằng những nét vẽ hiện thực khiến cho phố huyện lộ rõ thực chất nghèo đói, thảm hại của nó. Đó là những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, và lá mía” - chợ nghèo nên “rác thải” của chợ cũng chẳng có gì. Ấy thế mà vẫn có “mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom đi lại tìm tòi” rồi thì “nhặt thanh nứa, thanh tre”. Có gì đây mà nhặt. Chi tiết này thường xuất hiện trong truyện của Thạch Lam như một nỗi ám ảnh từ thời thơ ấu hằn vào tâm hồn nhà vãn “duy cảm” để trở thành một tình thương mến day dứt, ngậm ngùi.

Khi bóng tối xuất hiện, những cư dân kiếm sống ban ngày vừa ngập vào bóng tối thì những cư dân kiếm sông ban đêm quanh ga xép lại từ bóng tối kéo ra. Bằng một chút ánh sáng yếu ớt, những con người này bị vây hãm bởi bóng tối. Họ là những cuộc đời tàn, bên cạnh những đồ vật tàn trong một khung cảnh tàn lụi héo úa.

Bắt đầu cho sự chuyển giao giữa chiều và tối là cảnh mấy đứa trẻ lom khom... đi lại... nhặt nhanh., tìm tòi.. Và để tô thêm những bóng dáng xiêu vẹo đó, tác giả tả tỉ mỉ những thứ “rác thải” của một phiên chợ nghèo và cái mùi ẩm mốc bốc lên cùng vài người về muộn còn nói rốn với nhau thêm vài câu chuyện rời rạc.

Mẹ con chị Tí có lẽ là nhân vật điển hình nhất cho cuộc sông lay lắt, ngoi ngóp của hố huyện này. Gánh hàng của mẹ con chị là tâm điểm trong bức tranh sinh hoạt nơi phố huyện khi đêm xuống. Ngày thì mò cua bắt tép, cứ đêm đến lại đội cái chõng tre ra ga bày bán hàng nước. Đã biết, là không bán được  gì mà vẫn cứ đi, đi vì biết đâu kiếm thêm được vài xu ít ỏi. Đó đâu phải là sống, đó chẳng qua là sự cầm cự, cầm chừng trong vô vọng, không phải ngẫu nhiên mà tác giả trở đi trở lại với ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Ngọn đèn lắt lay cố chống chọi với bóng tối cũng giống như cuộc đời của chị lay lắt chống chọi với đói nghèo, ảm đạm và buồn tẻ. Đây là hình ảnh không chỉ có sức ám ảnh đôi với Liên mà đôi với cả tác giả và người đọc. Thạch Lam đã dồn không biết bao nhiêu thương mến xót xa vào đấy để rồi đọc những trang viết của ông, hình ảnh ngọn đèn cùng số phận chị Tí cứ len lỏi cả vào giấc ngủ.

Bác phở Siêu có vẻ khá hơn bởi ở cái đất nghèo này phở là một thứ xa xỉ. Tiếng đòn gánh kĩu kịt cùng với mùi thơm ngầy ngậy và chấm lửa vàng lơ lửng vừa đem lại cho phố huyện một chút sinh khí chưa đủ ấm đã lại rơi vào một tiếng thở dài cho sự ế ẩm.

Gia đình bác xẩm ngồi đấy tự lúc nào bởi đối với bác ta ngày và đêm đều có nghĩa gì đâu. Cả nhà sinh sống, chơi đùa, “làm ăn” trên một manh chiếu rách với một chiếc thau sắt dùng để đựng của bố thí. Bác xẩm góp chuvện bằng mấy tiếng đàn bần bật trong yên lặng và thằng con phụ họa bằng cách bò ra đất nhặt những rác bẩn để nghịch.

Tưởng như thế đã là thê thảm và đáng sợ nhưng có một con người còn đáng sợ hơn, đấy là bà cụ Thi điên. Bà xuất hiện như một cái bóng nhưng ám ảnh mãi bởi tiếng cười nửa điên nửa dại và hình ảnh người đàn bà cầm một cút rượu to dốc một hơi cạn sạch khiến người ta cảm thấy đắng chát cho kiếp người tím tạ, héo mòn, lay lắt. Ai? Cái gì khiến bà cụ Thi ra nông nổi ấy? Thạch Lam không luận bàn mà lặng lẽ đặt vào lòng trắc ẩn của người đời cái câu hỏi ấy. Cuộc sống cứ tiếp diễn theo cái đà này thì có lẽ tất cả cũng sẽ nửa điên nửa dại mất thôi. Thật thê thảm khi một người đàn bà uống rượu để tìm quên trong men đắng, càng thê thảm khi người đàn bà ấy không đủ tiền mua hẳn một chai rượu để uống cho đủ say mà quên. Một cút rượu to dốc tọt vào họng là một chi tiết rất Thạch Lam - vừa tinh tế, vừa sâu sắc mà tưởng như vụn vặt, vu vơ.

Gian hàng của chị em Liên có vẻ bình yên đứng giữa phố huyện. Mặc dù được coi là khá giả hơn nhưng cũng thật buồn tẻ, ảm đạm. Một gian hàng nhỏ xíu, xiêu vẹo, với tấm phên nửa dán giấy nhật trình, vài phong thuốc lào, cái chõng sắp gãy... Và hai đứa trẻ vừa ngây thơ vừa già nua đêu tội nghiệp. Nếu đi sâu tìm hiểu gia cảnh và hoàn cảnh hiện tại của hai đứa trẻ, ta sẽ thấy cả một sự “xuống cấp”, sa sút ghê gớm: thầy mất việc... từ Hà Nội chuyển về... thuê quán bán hàng...

Những câu chuyện tẻ nhạt, đơn điệu dường như hôm nào cũng lặp lại một cách bâng quơ, chậm rãi. Những con người hôm nào cũng hiện ra rồi khuất đi như những cái bóng lặng lẽ, âm thầm.

Bao quanh họ là những đồ vật tồi tàn: ngôi quán ọp ẹp, chõng gãy, chiếu rách, đàn còm, bát sứt... Những con người, những đồ vật, cảnh vật đó tạo nên gương mặt âm u, ảm đạm, buồn thiu của phố huyện. Cuộc sống cứ diễn ra theo hướng tàn tạ mòn mỏi với những con người không nguồn gốc xuất thân, không số phận thậm chí tác giả cũng không miêu tả chi tiết dáng vẻ, nét mặt... Nhưng có lẽ vì thế mà số phận họ hiện lên càng bé nhỏ, côi cút, tội nghiệp. Ai cùng nhẫn nhục, âm thầm với cái kiếp của mình như nó vốn sinh ra đã thế, lặp lại nhiều thành quen. Thật đáng sợ khi những hình ảnh lay lắt ấy cứ diễn ra trước mất hai đứa trẻ như một vòng đời quẩn quanh không lối thoát của phố huyện. Nếu cuộc sống không có kì đổi thay thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố thì đó sẽ là những hình ảnh chờ đợi hai đứa trẻ ở phía trước. Hiện tại của cư dân phố huyện sẽ là tương lai của những thế hệ như Liên, An, con chị Tí... Liên sợ không dám nhìn bà Thi điên một phần bởi vì bà ta điên nhưng một phần vì Liên sợ cho cái tương lai của chính mình. Rồi dây Liên sẽ thành chị Tí? Bác phở Siêu? Cụ Thi điên?... Vẽ ra sự tương quan giữa hai đứa trẻ với phố huyện này, Thạch Lam đã đặt ra sự tương quan giữa những mầm cây với một thế giới già nua tàn tạ, héo mòn. Những mầm cây ấy đã mọc lên trên một mảnh đất khô cằn, bạc phếch. Chúng sẽ lên thế nào đây? Hãy cứu lấy chúng, những đứa trẻ vô tội! Đó là điều Thạch

Thạch Lam âm thầm gửi gắm vào những trang viết của mình khi miêu tả bức tranh phố huyện. Và có lẽ cũng vì thế mà truyện cứ gợi lên những xót thương day dứt mãi không thôi.

Không phải những con người phố huyện không có những mong ước, hi vọng. Không có hi vọng thì loài người chắc đã bị hủy diệt lâu rồi. Nhưng hi vọng điều gì? “Chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự mong đợi cũng thật tội nghiệp - “Một cái gì tươi sáng” - thật mong manh, thật mơ hồ. Cái nghèo đói, lam lũ, cơ cực đã mài mòn đến cả ước mơ và hi vọng khiến cho những con người nơi đây không ngẩng đầu lên được. Ngay cả cái khả năng tự lừa dối mình để bám trụ cuộc sống dường như họ cũng không còn được là bao. Có thể nói, tấm lòng yêu thương của Thạch Lam đã nghiêng xuống những kiếp người nhỏ bé ấy đã mà lắng nghe, để mà chia sẻ, để mà an ủi. Cứ như thế, nhà văn trân trọng từng hột ánh sáng bằng những lời lẽ tâm tình nhỏ nhẹ mà đầy sâu sắc thấm thìa. Phố huyện và những con người phố huyện đã được bao bọc bởi một trái tim dung dị mà ấm áp của một nhà văn suốt đời mong muốn cho cuộc đời “có nhiều công bằng và yêu thương hơn”.

Trên cái nền của bức tranh phố huyện hiện lên hình ảnh hai đứa trẻ, đặc biệt là Liên. Phố huyện luôn được đặt trong tầm mắt của Liên, cô bé ngây thơ mà vô cùng nhạy cảm. Thạch Lam đã mượn cái nhìn, diễn biến tâm trạng của Liên để thể hiện cảm nhận của mình trong kí ức cũng như hiện tại đối với thế giới xung quanh, từ đó tư tưởng của tác phẩm được phát biểu một cách nhẹ nhàng, kín đáo mà sâu sắc, thấm thía.

Bắt đầu là nỗi buồn của Liên trước một buổi chiều tàn. Liên đã “ngồi yên lặng” để cho tất cả buổi chiều lặng trầm và u uất thấm thía vào tận tâm hồn để rồi “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần. Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác”. Đoạn văn giống như một câu thơ trữ tình mang âm hưởng trầm buồn ngọt ngào thấm thía và man mác bâng khuâng. Trong tâm hồn Liên có một chút, ngày thơ của trẻ con và một chút già dặn của người lớn cộng với một chút cái tôi lãng mạn khó cắt nghĩa. Liên chính là hiện thân của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của Thạch Lam.

Liên không chỉ buồn trước cảnh chiều tàn, Liên còn buồn trước những kiếp người tàn và cuộc sống cứ như một tiếng thở dài, nhẹ mà sâu. Nhìn những đứa trẻ nhà nghèo bới rác “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền đế mà cho chúng nó”. Một niềm thương cảm vừa bùi ngùi, vừa xót xa cứ dâng lên trong hồn Liên giống như cái cậu bé Sơn hồi nào trong Gió lạnh đầu mùa lặng nhìn những đứa trẻ nghèo tím tái vì rét.

“Bóng tối cứ ngập đầy dần” trong đôi mắt Liên và cũng ở khang cửa sổ tâm hồn ấy, những chấm sáng cùng với những con người hiện ra trong tình thương mến. Tình thương mến ấy được thể hiện qua những câu chào hỏi ân cần với chị Tí, qua cái cử chỉ “lẳng lặng rót rượu” cho cụ Thi rồi tuy có hơi run sợ vẫn “đứng sững nhìn theo cụ đi lẫn vào bóng tối”. Tình thương ấy không chỉ tụ lại nơi ngọn đèn chị Tí, chiếc thau sắt của gia đình bác xẩm, đóm lửa nhỏ của gánh phở bác Siêu, mà dường như trùm phủ lên toàn cảnh phố huyện, thậm chi đến cả những hòn đá nhỏ “một bên sáng, một bên tối” khi mà đêm buông xuống, trăng về khuya, tâm trạng của Liên càng u uất, xao xác đến tội nghiệp.

Cũng có lúc, Liên lặng ngắm “vũ trụ thăm thẳm bao la”. Những cái “bí mật” và xa lạ” của nó đã làm “mỏi trí nghĩ” của Liên và Liên lại “chúi nhìn về mặt đất, về vầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Như vậy, cũng như Thạch Lam, tâm hồn Liên dù có lãng mạn tới đâu cũng không thoát li”, không “lãng quên” mà luôn gán với cuộc đời, với con người.

Cái nhạy cảm của Liên với cuộc đời còn thể hiện ở chi tiết: từ gánh phở của bác Siêu mà Liên sống lại với những kí ức tuổi ấu thơ khi gia đinh còn ờ Hà Nội. Tuy “những kỉ niệm còn nhớ lại không rõ rệt gì, chỉ là “một vùng sáng rực lấp lánh” nhưng đó chính là khởi nguồn sâu thẳm cho tâm trạng thấp thỏm đợi tàu của Liên ở cuối truyện. Đêm nào Liên cũng đợi, và đêm nào cũng háo hức như lần đầu để rồi sau đó lại chìm và cuộc đời đầy bóng tối. Tâm trạng đợi MU của Liên cùng là tâm trạng mòn mỏi đến xót xa, hi vọng đến tội nghiệp. Nếu tinh ý sẽ thấy một tiếng thở dài rất nhẹ của chị em Liên qua chi tiết: “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?” (câu hỏi của An). “Liên không đáp, chuyến tàu đêm nay thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Niềm vui chưa trọn thì một chút lo âu mơ hồ xuất hiện. Rồi từ đêm mai... đêm mai nữa... rất có thể sẽ không còn chuyến tàu đêm ấy nữa. Cuộc sống sẽ ra sao khi con người ta không còn niềm tin và hi vọng?.

Kết thúc tác phẩm là tiếng vang động nhỏ dần “mất dần trong bóng tối, lắng tai nghe cũng không thấy nữa” chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác Siêu đi vào làng, “vợ chồng bác Xâm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ”. Và Liên, Liên “gối đầu lên tay nhắm mát lại”, “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”. Đúng là “một đêm mùa hè êm như nhung” giấu đi những tiếng thở dài cố nén của biết bao kiếp người. Giấc ngủ của Liên là giấc ngủ yên tĩnh mà thực ra đầy xao động và có gì nằng nặng, buồn buồn, thương thương, tồi tội khiến đọc xong những dòng cuối cùng, gấp trang sách lại mà bao nhiêu nỗi niềm day dứt, trăn trờ khiến ta thao thức mãi không thôi.

Tác giả đã mượn tâm trạng nhân vật để tạo nên nỗi ám ảnh nơi người đọc rất nhiều lần Thạch Lam như muốn nhấn mạnh tới cái ngây thơ của chị em Liên: “Không hiểu sao”, Liên “tưởng là”, Liên “mơ hồ”, Liên “không hiểu”, Liên "thấy” mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi”, ... Có thể Liên không hiểu, không biết thật nhưng chính cái từ “không” ấy đã “bẫy” người đọc khiến người ta sa vào những bất định mông lung. Người đọc đã trôi theo dòng tâm trạng của nhà văn là “lây nhiễm” cái cảm giác chập chờn bất định của nhân vật. Người ta sống với nhân vật, buồn nỗi buồn mơ hồ của nhân vật tự lúc nào không hay biết. Đó chính là ma lực của truyện ngắn Thạch Lam.

Liên vừa giống những con người phố huyện vừa rất khác họ. Giống vì cùng với họ cô là một nét trong bức tranh u buồn đầy bóng tối: cũng dọn hàng, cũng góp vài lời đứt quãng, cũng có một ngọn đèn leo lét, với một gian hàng còm gồm: thuốc lào, xà phòng, diêm... Và cùng với những con người nơi đây, những con người trong bóng tối ảm đạm âm thầm mơ hồ “mong đợi một cái gì tươi sáng” ...

Nhưng Liên lại rất khác với những cư dân phố huyện. Cô tách ra làm thành một điểm nhìn của “cái tôi chú thể” không chịu đánh mất mình trong cái tổng thể có nguy cơ biến mất vì đang ở quá trình nhạt nhòa, leo lét. Liên không phải là một cô gái quê nhưng cũng không hẳn là một cô gái thị thành. Trong Liên có cả nét giản dị, mộc mạc lẫn sự phức tạp, khó hiểu đầy lãng mạn. Cô không chỉ biết chúi đầu nhìn những quầng sáng trên mặt đất, cô còn biết thả hồn theo những vì sao lấp lánh đế tìm sông Ngân Hà. Cô không chỉ quen nhìn con đường tối từ làng ra bờ sông mà còn biết mơ tưởng về một thế giới đầy ánh sáng dù mơ tường ấy rất đổi mong manh và có lúc vụt biến mất. Liên là một đứa trẻ, dù có lớn hơn An nhưng vẫn chỉ là một đứa trẻ với tất cả những gì ngây thơ của một đứa trẻ. Nhưng trong Liên lại có cả sự trưởng thành thậm chí có cả cái già nua của một người lớn. Chính sự nhập nhoạng giữa hai vùng sáng — tối ấy đã có sức tự khen lên những giai điệu buồn trong một tâm hồn buồn khiến người đọc bị xâm chiếm, bị ám ảnh và cứ rưng rưng một niềm thương cảm.

Mỗi điểm khác biệt nữa của Liên với những cư dân phố huyện là niềm khao khát hướng tới ánh sáng. Cái nghèo nàn đơn điệu nơi phố huyện tuy khiến Liên không giấu được một tiếng thở dài nhưng cũng không ngăn được ở cô những ước mơ, những khao khát về một sự đổi thay, một thế giới tươi sáng. Nhà văn đã lắng nghe, đã thấu hiểu và đã trân trọng những tia hi vọng nhỏ bé ấy của con người. Đó chính là giá trị nhân đạo nhẹ nhàng mà sâu sắc thấm thía của tác phẩm.

Nỗi xót thương của Liên, tâm trạng của Liên, cảm xúc của Liên thật ra là cảm xúc, tâm trạng, nỗi xót thương của Thạch Lam. Thạch Lam đã hóa thân vào nhân vật và bằng lối văn duy cảm, ông đã đưa người đọc nhập vào thế giới tâm hồn nhân vật, người đọc sẽ liên tưởng, hình dung tới điều tác giả muốn đặt ra.

Điều mà tác giả muốn đặt ra trong Hai đứa trẻ mặc dù giản dị và nhẹ nhàng nhưng luôn luôn có ý nghĩa đối với con người ở mọi thời đại. Hãy biết, lắng nghe cuộc sống xung quanh và chắt chiu những gì tốt đẹp nhất. Điều đó tưởng dễ nhưng chỉ cần một chút vô tình ta sẽ bỏ qua. Thạch Lam đã kéo con người xích lại gần nhau hơn từ những điều hết sức bình thường ấy.

Phân tích nhân vật Liên trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (mẫu 5)

Thạch Lam (1910-1942) là thành viên của Tự Lực văn đoàn. Gần mười năm cầm bút, ông để lại một văn nghiệp khiêm tốn: 3 tập truyện ngắn (Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc) một truyện dài "Ngày mới", một tập kí "Hà Nội 36 phố phường". Ngoài ra, ông còn có tập tiểu luận "Theo dòng" và hai truyện thiếu nhi ("Quyển sách" và "Hạt ngọc").

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: "Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học". Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự Lực văn đoàn. Nguyễn Tuân đã khẳng định tính thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. "Dưới bóng hoàng lan", "Nhà mẹ Lê", "Cô hàng xén", "Hai đứa trẻ" đây là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.

Truyện "Hai đứa trẻ" in trong tập ”Nắng trong vườn", Nhà xuất bản “Đời nay", Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẩu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.

Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và vô thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.

Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông"... cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê, "phương Tây đỏ rực như trời cháy...", "Một chiều êm ả như ru" có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo vo trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, cho thấy một tấm lòng sâu nặng gằn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.

Nhưng "Hai đứa trẻ" không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiều tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm của hai đứa trẻ - hai chị em Liên và An.

Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen, cô thấy "lòng buồn man mác", đôi mắt "bóng tối ngập đầy dần" và cái buồn của buổi chiều quê thâm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: "Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dãy sáng xanh trong hiệu khách...". Cát trên phố "lấp lánh từng chỗ", đường "mấp mô thêm" trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ "vãn từ lâu" là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi "nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thế dùng được cửa các người bán hàng để lại". Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương, nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng. Cái nghèo là cảnh đời chung của mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là "mùi riêng của đất, của quê hương". Đó chính là mùi vị của cái "Ao đời", của lầm than và nghèo khổ.

Bóng tối như phủ đầy thiên truyện, phủ mờ cảnh vật và đè nặng lên cuộc đời của những con người "bé nhỏ" nơi phố huyện nghèo xác xơ. Cửa hàng bé xíu phên nứa dán giấy nhật trình, chiếc chõng tre nơi chị em Liên ngập đầy bóng tối. Càng về đêm "đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối". Con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Tiếng trống cầm canh, tiếng ếch nhái kêu ran từ đồng xa vọng đến, tiếng động khẽ của hoa hàng rụng xuống vai Liên, tiếng đòn gánh kĩu kịt của người bán quà rong, tiếng cười “giòn giã” của bà cụ Thi... tất cả mọi âm thanh ấy "chìm ngay vào bóng tối". Phố huyện càng về đêm càng tịnh mịch và đầy bóng tối.

Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. "Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra". Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau "đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc...". Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng "từ chập tối cho đến đêm" mà "chả kiếm được bao nhiêu!". Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong “Gió lạnh đầu mùa”, mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương!

Bà cụ Thi hơi điên, tiếng cười “khanh khách", tay cầm cút rượu soi lên rồi cười “giòn giã, "vừa đi vừa ngửa cổ dốc cút rượu uống một hơi cạn sạch, chép miệng "lảo đảo” lẫn trong bóng tối... cũng gợi cho ta nhiều thứ, xót xa về một cuộc đời xế bóng nơi phố huyện nghèo.

Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật. Vợ chồng ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con bò lê la trên đất "nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác Siêu, bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không hao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu! “kĩu kịt", bóng bác "mênh mang ngả xuống đất . Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn lạ và cơ cực.

Có thể nói, hai chị em Liên là hình ảnh trung tâm của bức tranh đời sống của phố huyện nghèo. Cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quê, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo lèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu. Liên là một cô gái mới lớn, biết làm dáng, cô hãnh diện với cái dây xà tích bạc ở thắt lưng. Từ ngày xa Hà Nội "một vùng sáng rực và lấp lánh, Hà Nội nhiều đèn quá", Liên quen dần với bóng tối nơi phố huyện nghèo. Ngọn đèn của Liên... "từng hột sáng lọt qua phên nứa", đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, quầng sáng ngọn đèn “lay động trên chõng hàng chị Tí", chấm lửa nhỏ và vàng "lơ lửng" nơi gánh phở bác Siêu... từ đêm này qua đêm khác, Liên vẫn ngồi trên chõng ngắm nhìn. Càng về khuya, "tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu".

Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa "ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi... Đoàn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng", rồi nó "đi mò đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt". Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng..." với nhiều man mác bâng khuâng. Chuyến tàu đêm như một niềm an ủi, một nỗi khao khát mơ hồ, một ước mơ không bao giờ tắt, một chút tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày. Chuyến tàu đêm "như đã đem một chút thế giới khác đi qua". Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát, bừng sáng lên khoảnh khắc, để rồi sau đó, "từ phía xa, bóng đêm lồng với bóng người đi về". Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: "Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ còn đêm khuya, "tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn". Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh "tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố huyện nghèo:

Cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời quanh quẩn và lầm than, nghèo khổ và tối tăm. Chị em Liên, mẹ con chị Tí, bà cụ Thi hơi điên, bác Siêu bán phở rong, vợ chồng bác xẩm héo hon, những phu gạo, phu xe ngồi hút thuốc lào,... bấy nhiêu con người nhỏ bé đáng thương. Thạch Lam đã miêu tả bức tranh phố huyện nghèo bằng những cảnh, những người, những chi tiết rất chân thật và cảm động. Ông đã dành cho con người quê hương, những con người nghèo khổ, tăm tối một sự cảm thông và xót thương nồng hậu, cảnh phố huyện nghèo vừa hiện thực vừa chứa chan tinh thần nhân đạo. Trong "Thay lời bụt" - Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, nhà văn Nguyễn Tuân viết: "Truyện "Hai đứa trẻ" có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng gióng lên một cái gì đó ở trong tương lai... Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và cái ước vọng. Đọc "Hai đứa trẻ", thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín".

Bức tranh phố huyện và tâm trạng nhân vật Liên (mẫu 6)

Thạch Lam là một thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, là con người có tính cách đôn hậu, điềm đạm và tinh tế thế nên các tác phẩm của ông cũng mang cái vẻ trong sáng, giản dị, thâm trầm và sâu sắc. Ông là nhà văn có biệt tài về truyện ngắn, với nội dung thường khai thác những vẻ đẹp của cuộc sống đời thường bình dị ở không gian phố huyện ven đô ngoại thành, vốn là không gian sống quen thuộc của nhà văn trong thời thơ ấu cơ cực, vất vả tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Những ngày tháng ấy đã trở thành dấu ấn không thể phai mờ, trở thành một không gian nghệ thuật thường xuyên trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Thạch Lam. Hai đứa trẻ nằm trong tập truyện Nắng trong vườn (1938), là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất mang đầy đủ phong vị sáng tác truyện ngắn theo cách riêng biệt của Thạch Lam. Nội dung chính của tác phẩm là khung cảnh phố huyện và bức tranh tâm hồn của nhân vật Liên với những xúc cảm đặc biệt, sâu sắc nổi bật lên trên cái nền tàn tạ, tối tăm của phố huyện lúc chiều tàn và khi đêm xuống.

Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chắng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve… những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua… và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ.

Chuyện hầu như chỉ có thế. Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.

Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.

Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại… như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối…

Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”… Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi…

Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận… nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.

Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ: Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.

Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy Hai đứa trẻ để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị” và “chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của “ngày tàn””. Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi “chị” là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.

Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của “hai đứa trẻ”, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: “Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố…” Liên trông thấy “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” nhưng “chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó…”. Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra… Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo bà cụ Thi đi lẫn vào bóng tối… “Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm”… “Từ khi nhà Liên dọn về đây… đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh”… Đêm tối đối với Liên “quen lắm, chị không sợ nó nữa”. “Không sợ nó nữa” nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ “không sợ nó nữa” mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã “quen lắm”. Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ “quen lắm” mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. Ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí… Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc.

Sống mãi trong bóng tối, “quen lắm” với bóng tối, nhưng càng như hế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ “ngàn sao lấp lánh trên trời”, đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về “Hà Nội xa xăm”, “Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo” đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với “các toa đèn sáng trưng”; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi…

Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh.

Không thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.

Đọc Hai đứa trẻ, ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỷ niệm sáng tươi…

Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.

Đọc Hai đứa trẻ ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người sống nơi đây. Nhưng Hai đứa trẻ cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê vào một “chiều mùa hạ êm như ru” và “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”… Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm “êm mát và sâu kín”.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

TOP 30 bài Cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong "Bài ca ngất ngưởng" (2022)

TOP 30 Phân tích hình ảnh “con tàu” trong "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam (2022)

TOP 30 bài Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (2022)

TOP 30 bài Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người ở phố huyện nghèo lúc chiều trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam (2022)

TOP 30 bài Chất hiện thực và lãng mạn trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam (2022) 

1 727 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: