TOP 39 mẫu Phân tích nhân vật Thị Nở (2023) SIÊU HAY

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo lớp 11 gồm dàn ý và 39 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 2,195 19/03/2023
Tải về


Phân tích nhân vật Thị Nở - Ngữ văn 11

Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo

I. Mở bài:

- Vài nét về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo

- Khẳng định trong truyện ngắn có một tình yêu nảy sinh giữa Chí Phèo và người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn”, nhưng không thể phủ nhận đó là nhân vật có vị tri quan trọng, it nhất, cũng coi Chí như một “con người” – Thị Nở

II. Thân bài:

30 bài Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo  (ảnh 1)

1. Ngoại hình

- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”

    + Ngẩn ngơ: hành độngt hep bản năng

    + Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người

    + Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:

⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi

2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người

- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở

    + Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:

    + Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”

    + Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại

    +Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một ngườ với sự lương thiện trong căn tính

⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí

3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình

- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng

- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí

- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”

- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối

4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo

    + Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác

    +Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí

    + Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng

⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát

⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo

III. Kết bài:

- Khẳng định những nét nghệ thuật làm nên hình tượng nhân vật Thị Nở

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao trao tấm lòng trân trọng vào con người, đồng thời cũng phơi bày thực tế tàn bạo, khắc nghiệt của xã hội đẩy người nông dân vào bi kịch.

Bài giảng Ngữ Văn 11 Chí Phèo

Dàn ý Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu nhân vật

2. Thân bài

30 bài Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo  (ảnh 1)

2.1. Ngoại hình

- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hớn”

+ Ngẩn ngơ: hành độngt hep bản năng

+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người

+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:

⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi

2.2. Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người

- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở

+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:

+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”

+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại

+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một ngườ với sự lương thiện trong căn tính

⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí

2.3. Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình

- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng

- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí

- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”

- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối

2.4. Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo

+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác

+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí

+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát

⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề.

Top 10 Bài văn phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm "Chí Phèo" của Nam  Cao - Toplist.vn

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 1)

Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.

Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.

Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.

Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.

Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả”.

Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”

“Đã thế Thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.

Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.

Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.

Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.

Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.

Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.

Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.

Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).

Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát cháo hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.

Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng minh cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.

Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.

Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…

Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.

Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.

Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.

Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.

Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ”

 Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (5 mẫu) (ảnh 1)

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 2)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam, có lẽ vì vậy mà Nam Cao không khoác lên mình của những nhân vật của mình màu sắc lãng mạn, lí tưởng mà lại nhìn nhận họ ở những khía cạnh rất con người, ở chiều sâu bản chất và tính cách.

Trong các sáng tác của Nam Cao, độc giả có thể bắt gặp rất nhiều những nhân vật có ngoại hình xấu xí, dở hơi nhưng bên trong cái diện mạo xù xì, xấu xí ấy lại là những giá trị tốt đẹp, đáng trân trọng. Nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo là một trong những nhân vật như vậy.

Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ xấu xí, dở hơi, nhà lại có mả hủi nên giống như Chí Phèo, Thị Nở bị cả làng Vũ Đại xa lánh, sống cô độc, lủi thủi vô cùng đáng thương. Miêu tả về Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã viết “ cái mặt của Thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, …cái mặt hao hao như mặt lợn, cái mũi ngắn to, đỏ vừa sần sùi như quả cam sành”.

Không những thế, Thị Nở lại dở hơi, nghèo khó và nhà có mả hủi, tất cả người dân trong làng Vũ Đại đều ghê sợ và tránh Thị như tránh một con vật “rất tởm”. Đã có không ít những đánh giá cho rằng Nam Cao đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi miệt thị con người. Tuy nhiên, đó lại là dụng ý nghệ thuật đặc biệt của Nam Cao, tác giả đã miêu tả Thị với những nét xấu xí, thô kệch “ma chê quỷ hờn” như vậy nhằm làm nổi bật lên những giá trị đáng trân trọng bên trong.

Một con người xấu xí, dở hơi như Thị Nở nhưng lại là con người giàu tình thương, thấy Chí Phèo ốm đau mà không có người chăm sóc, Thị đã động lòng thương vì biết nếu mình mà bỏ hắn thì không có ai chịu giúp hắn: “ Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc….Phải cho hắn ăn gì cũng được”. Đến đây, ai có thể ngờ được một con người bị cả làng xa lánh, ghê tởm như Thị lại là người ấm áp, biết quan tâm đến đồng loại như vậy. Hành động của Thị cao cả biết mấy, liệu mấy người tự xưng lương thiện, cho mình quyền kì thị, xa lánh người khác kia có thể làm được.

và sự quan tâm người đàn bà xấu xí ấy đã cảm hóa, làm thức tỉnh phần nhân tính bên trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo. Tình thương của Thị Nở đã đưa Chí về với con đường lương thiện, trở về với giấc mơ bình dị khi còn trẻ “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”.

Nếu Thị Nở là người đã mở ra con đường lương thiện, khát khao hạnh phúc cho Chí Phèo thì cũng Chí cũng chính là người trân trọng Thị nhất, nhờ có Chí, Thị Nở lần đầu trải nghiệm hạnh phúc như bao nhiêu người đàn bà khác. Bát cháo hành của Thị có ý nghĩa thật lớn lao, đó không chỉ là biểu hiện của sự yêu thương, giúp đỡ của Thị đối với Chí mà hơi ấm từ bát cháo hành đã lay động đến phần lương thiện sâu thẳm bên trong con người Chí.

Nó khiến Chí nhớ đến những giấc mơ thời trai trẻ và bắt đầu nhận thức được những sai lầm, tội ác mà mình đã làm. Hơn hết Chí muốn quay trở lại làm người lương thiện, Chí muốn làm hòa với mọi người và Thị sẽ là cầu nối để Chí trở về với con đường lương thiện.

Thị cũng muốn cùng Chí xây dựng lên hạnh phúc nhỏ nhưng định kiến xã hội mãi mãi vẫn không thể buông tha cho hai người. Trước những lời mắng chửi cay nghiệt của bà cô, Thị Nở đã về nhà và trút hết những bực dọc và những ganh ghét ích kỉ mà bà cô nói với mình cho Chí Phèo. Tuyệt vọng vì con đường trở về với lương thiện bị chặn đứng, Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến và tự tử.

Hình ảnh Thị Nở chạm tay vào bụng mang đến cho người đọc liên tưởng về một Chí Phèo còn có thể đã định hình trong bụng thị, là dấu hiệu của sự nối tiếp bi kịch.Cuộc đời Thị tiếp theo như thế nào không ai biết vì tác giả cố tình bỏ ngỏ nhưng ta có thể cảm nhận được con đường Thị tiếp tục đi vẫn sẽ còn lắm những khổ đau, cô độc.

Thị Nở là một trong những thành công của Nam Cao khi xây dựng hệ thống nhân vật cho truyện ngắn Chí Phèo. Thị tuy là con người xấu xí, dở hơi bị cả làng ghét bỏ nhưng bên trong con người ấy lại có những vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng.

Bài văn phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao số 2

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 3)

 “Chí Phèo” là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao phản ánh nỗi thống khổ của người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật Chí Phèo nhưng bên cạnh đó nhân vật phụ thị Nở cũng có vai trò quan trọng trong truyện. Bởi thị tuy xấu xí về ngoại hình nhưng đẹp về nhân cách, là người thức tỉnh lương tri bị ngủ quên trong Chí, thị Nở trở thành kiểu nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học.

Nhân vật thị Nở xuất hiện trong hoàn cảnh một đêm trăng thanh ả đi gánh nước rồi ngủ quên bên bụi chuối cạnh nhà Chí. Anh Chí vừa uống rượu say bên nhà tự Lãng vô tình gặp “một người đàn bà ngồi tênh hênh" với bản năng của người đàn ông cùng bát cháo hành tình yêu của thị Nở là cầu nối vô hình để Chí hoàn lương.

Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo không còn ai thân thích ngoài bà cô già cũng không chồng như thị. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre, thị sống bằng nghề lặt vặt ở làng, chủ yếu là gánh nước thuê kiếm ăn. Đã nghèo lại còn xấu và ngẩn ngơ. Có lẽ thị là nhân vật nữ xấu nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà nhà văn miêu tả.

“Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy” nghèo, xấu, ngẩn ngơ tạo thành ba đỉnh tam giác không nhân vật nào có được như thị. Ngòi bút của ông thật tài tình khi miêu tả gương mặt: “Một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” chỉ bốn từ “Ma chê quỷ hờn” ta có thể hình dung ra cái mặt của thị là một sự mỉa mai của hóa công khiến cho người ta sợ hãi và lảng tránh bởi dòng giống con nhà mả hủi.

Không phải Nam Cao bôi nhọ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt, phải chăng đây cũng là một dụng ý nghệ thuật tác giả để thị như vậy mới “sánh” được với Chí Phèo-một thằng lưu manh chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ. Khác với cách miêu tả nhân vật truyền thống là ngoại hình bên ngoài phải ăn nhập với nhân phẩm bên trong nhưng thị đi ngược lại hoàn toàn với điều đó.

Thị Nở - người đàn bà xấu về ngoại hình nhưng lại có nhân cách tốt đẹp, đáng trân trọng. Thị đã dành tình yêu thương chân thành, mộc mạc cho Chí khi đã ngủ cùng hắn trong đêm trăng thanh dưới bụi chuối hai linh hồn cô độc đã tìm về để sưởi ấm cho nhau. Thị đã dìu Chí vào trong túp lều xộc xệch sau trận nôn mửa lúc nửa đêm, tình yêu bắt đầu chớm nở từ bát cháo hành.

Chí ngạc nhiên và cảm động vô cùng bởi đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Chính thị đã khiến Chí tỉnh lại sau bao cơn say triền miên vô tận. Ăn bát cháo bát cháo hành từ tay thị Nở hắn bỗng nhận ra rằng: “cháo hành rất ngon, bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây thù?” bát cháo ấy là hương vị của hạnh phúc của tình thương chân chất những con người nghèo khổ dành cho nhau.

Trong mắt của kẻ say tình lúc này thị Nở bỗng trở nên có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Phải chăng ấy là cái duyên ngầm bấy lâu đã bị xã hội vùi dập nay mới có cơ hội thể hiện ra bên ngoài. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra điều đó qua cái nhìn của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Thị còn là người cho Chí hy vọng được hoàn lương, mong muốn làm người lương thiện, khao khát trở lại với cuộc đời bình thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không được” thị chính là cầu nối giữa hắn với mọi người, thị là người cứu rỗi linh hồn tội lỗi đưa nó trở về với bản chất lương thiện.

Lúc này Chí mong muốn có được hạnh phúc gia đình bình dị như mơ ước khi còn là một anh canh điền hiền lành“Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thị Nở đã đánh thức lương tri làm người bị ngủ quên, bị khuất lấp trong con người Chí để giờ đây trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.

Nhưng thị lại không phải người tỉnh táo bình thường mà lại là đứa ngẩn ngơ, kẻ dở hơi nên hạnh phúc ngắn ngủi trôi qua, tình yêu bị tắt ngấm khi cô ả dở chứng về hỏi ý kiến bà cô. Bà cô già - đại diện cho định kiến xã hội phản đối kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại”. Chí bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội bất công bất lương đẩy đến mức đường cùng phải tự sát sau khi giết Bá Kiến.

Tuy nhân vật thị Nở chỉ xuất hiện ở đoạn cuối tác phẩm nhưng đã cho Chí những phút giây hạnh phúc, những ngày được sống đúng với bản chất lương thiện. Thị Nở là hiện thân của tình người. Và chỉ có tình người, tình yêu mới có thể cảm hóa được con quỷ dữ trong người Chí Phèo. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng thật mong manh dễ vỡ khi con người ta không biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ.

Qua nhân vật thị Nở nhà văn để lại cho độc giả giá trị nhân đạo sâu sắc chỉ có tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim mới có sức mạnh kì diệu cảm hóa được con người tội lỗi. Qua đây ta cũng có được bài học nhận thức đúng đắn đừng “Nhìn mặt mà bắt hình dong” ngoại hình bên ngoài tuy xấu xí nhưng chỉ cần bên trong con người có tình thương yêu, nhân hậu và biết quan tâm đến người khác thì họ cũng rất đẹp, rất đáng được trân trọng và được yêu thương. Ở ngoài kia có biết bao người nhan sắc xinh đẹp nhưng chưa chắc họ đã có được tấm lòng tràn ngập tình thương như thị Nở.

Thị Nở tuy chỉ là nhân vật phụ xuất hiện trong chốc lát nhưng thị là ngọn lửa sưởi ấm và thắp lên ánh sáng lương tri làm người trong Chí, nhân vật mang lại giá trị nhân văn cho tác phẩm “Chí Phèo”. Dù thị xấu xí, nghèo khổ nhưng tràn ngập tình thương đó là phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Gập lại trang sách bấy lâu nhưng hình tượng nhân vật thị Nở cùng mối tình bất hạnh với Chí Phèo vẫn ám ảnh trong suy nghĩ và tâm hồn của độc giả.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 4)

Người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn, nhà thơ của nền văn học Việt Nam, cũng như của thế giới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hiếm có hình tượng người phụ nữ nào lại độc đáo như nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.

Chính bằng sự sắc sảo trong ngòi bút miêu tả về ngoại hình, tính cách cũng như những ý nghĩa nhân văn đằng sau cách xây dựng nhân vật của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành hình tượng độc nhất, để lại ấn tượng hết sức sâu đậm trong lòng độc giả.

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán những năm 1930-1945. Bởi vậy, ngòi bút xuất sắc này đã lột tả những gì “trần truồng” nhất của xã hội hiện tại, dành những chi tiết sống động, độc đáo nhất cho nhân vật của mình – những người nông dân điển hình thời bấy giờ.

Nếu Chí Phèo có “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”, thì Thị Nở lại xuất hiện với cái mặt “ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài”, “cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh”, “hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách”, “cái răng rất to lại chìa ra”….

Đoạn miêu tả ngoại hình của Thị Nở trong truyện ngắn này của Nam Cao quả thật rất xuất sắc. Ông sử dụng những tính từ mạnh, miêu tả chi tiết từ “cái mặt”, “cái mũi”, “cái môi”, “cái răng”, lột tả được ngoại hình “xấu ma chê quỷ hờn”, “sự mỉa mai của hóa công” của Thị Nở.

Không chỉ sở hữu một ngoại hình khiến cho “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm” mà Thị Nở lại còn nghèo, dở hơi và “thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi” và thị không có chồng. Nam Cao đã xây dựng một nhân vật vừa đáng cười, vừa đáng thương, đáng tội nghiệp, đại diện cho số phận của người phụ nữ nông dân của tầng đáy xã hội.

Quả thật, hình tượng Thị Nở trong truyện ngắn này là độc nhất và cách miêu tả, xây dựng nhân vật của Nam Cao cũng độc đáo không kém. Thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”, dở hơi ấy lại tình cờ gặp được Chí Phèo – “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, để rồi hai con người ấy đem lòng yêu nhau, cái tình yêu không kém phần lãng mạn, bi kịch và cũng đầy ắp những ý nghĩa nhân văn.

Có lẽ qua ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở không có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” như Thúy Kiều của Nguyễn Du, hay “vẫn mơn mởn như gái mười tám” như Chị Dậu của Ngô Tất Tố (trong Tắt đèn) nhưng cô lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng, vẻ đẹp đã cứu rỗi, thức tỉnh phần người, thức tỉnh khao khát được hoàn lương trong Chí Phèo.

Thị Nở nghèo, ngớ ngẩn, dở hơi, nhưng thị vẫn là một người phụ nữ chăm chỉ. Thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng, “luật quật đập đất từ trưa tới giờ” để rồi ngủ quên ngay gốc chuối. Thị dở hơi, “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất”.

Nhưng có lẽ, chính vì dở hơi mà Thị ngày nào cũng qua vườn nhà Chí hai ba lần để rồi thành thói quen, thậm chí “vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa” hay “ xin của hắn một ít rượu về để bóp chân” và “lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế”.

Có lẽ cả cái làng Vũ Đại, chỉ mình Thị Nở không sợ Chí Phèo, chỉ thị mới chăm sóc cho hắn khi hắn ốm, chỉ thị mới nấu cháo hành và “làm thành một cặp rất xứng đôi” với Chí mà thôi. Và có lẽ cũng chỉ có Thị mới khiến cho một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ phải sợ già, sợ đói rét, ốm đau và sợ cô độc. Dường như bên trong cái vẻ bề ngoài xấu xí, ngớ ngẩn ấy, người phụ nữ này còn chứa đựng những nét đẹp không nói thành lời.

Vào buổi sáng sau khi gặp Chí ở bờ sông, Thị cắp một cái rổ, trong có một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Các nhà phê bình văn học từ trước đến này vẫn khẳng định rằng chi tiết nồi cháo hành là một chi tiết hết sức đắt giá, đó không chỉ là nồi cháo ăn lúc bị ốm, mà còn là tình thương, tình yêu của người phụ nữ xấu xí nhưng thật thà, chất phác. Chính tình thương, tình yêu ấy đã khiến cho một Chí Phèo cũng biết ước mơ về gia đình, khiến cho kẻ rạch mặt ăn vạ cũng “cười nghe thật hiền” và một Thị Nở “xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”.

Quả thật tình yêu của Chí và Thị Nở không chỉ đơn thuần là tình yêu của hai con người mà nó còn thể hiện cho ước mơ được hạnh phúc, ai cũng xứng đáng yêu và được yêu, kể cả những con người bần cùng nhất trong xã hội. Có lẽ không có Thị Nở, Chí Phèo vẫn mãi ở trong đống bùn lầy của xã hội, không một tia hi vọng, không ánh sáng. Và chỉ khi có được sự chăm sóc, tình yêu của Thị Nở, khát khao được hoàn lương trong Chí mới dữ dội đến như vậy.

Thế nhưng có lẽ trong cái xã hội thời bấy giờ, tình yêu, ước mơ được hạnh phúc ấy vẫn không thể chiến thắng được những định kiến, những bất công. Chỉ vì những định kiến mà Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt bởi “ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, Chí vì bị Thị Nở từ chối mà uống rượu rồi vác dao sang nhà Bá Kiến ăn vạ đòi lương thiện, đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

Màu sắc hiện thực phê phán thể hiện rất rõ ở chi tiết này. Người nông dân lương thiện bị bần cùng hóa, tha hóa, mong muốn được hoàn lương nhưng lại không có lối thoát bởi xã hội quá bất công. Nam Cao quả thật đã rất thành công khi tái hiện xã hội lúc bấy giờ.

Có lẽ Thị Nở không phải là người phụ nữ xinh đẹp, thậm chí xấu ma chê quỷ hờn nhưng đã để lại ấn tượng hết sức sâu sắc cho người đọc. Thị là người phụ nữ hiền lành, chất phác nhưng cũng rất giàu tình thương, với khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt.

Chính cái nét duyên thầm và tình yêu của người phụ nữ này đã cảm hóa, thức tỉnh khao khát hoàn lương mãnh liệt của Chí Phèo. Quả thật, Nam Cao xứng đáng là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học nước nhà khi khắc họa hình tượng Thị Nở sống động và đầy tính nhân văn như vậy.Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo- Nam Cao | Giải bài  tập Văn mẫu lớp 11 | BaiTap.me

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 5)

Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.

Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.

Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.

Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dữ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 6)

“Chí Phèo” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về hoàn cảnh sống và số phận khốn cùng của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật Chí Phèo thì có lẽ Thị Nở cũng là một nhân vật để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm…

Ngay từ những dòng viết đầu khi giới thiệu về nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc.

Về lai lịch, Thị Nở được nhà văn giới thiệu là “không có ai thân thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già”. Thị là một người có diện mạo xấu xí mà theo cách miêu tả của nhà văn là đến mức “ma chê quỷ hờn”. Nhà văn đã dành một đoạn viết khá tỉ mỉ khi miêu tả và ngoại hình của thị: “Cái mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó lại ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật tai hại, nếu như hai má nó phúng phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn […] Đã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu”. Thị được miêu tả chân thực về diện mạo như vậy khiến cho người đọc có cảm tưởng khó có thể tìm đâu một người có thể xấu hơn thị.

 

Phân tích nhân vật Thị Nở, người đọc nhận thấy bản thân việc sở hữu một diện mạo kém sắc đã là một bất hạnh của người phụ nữ, ấy thế mà Thị lại còn dở hơi, gia cảnh nghèo khó và “thị lại là giòng giống của một nhà có mả hủi”. Vì dở hơi nên thị thường hành động hoàn toàn dựa trên bản năng và “có một cái tật không sao chữa được: có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay là đang làm gì”. Vì cái nghèo đeo bám và phải sống qua ngày bằng cái nghề đi gánh nước thuê để kiếm sống nên Thị Nở không được để ý. Thị Nở cũng không có cơ hội được lập gia đình và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”.

Qua những chi tiết miêu tả về diện mạo, tính tình Thị Nở, Nam Cao có thể để lại cho người đọc tiếng cười trào phúng nhưng đằng sau tiếng cười ấy, ta cũng cảm nhận được một chút gì đó về sự đáng thương. Đó là thương cho thân phận bất hạnh của nhân vật chỉ vì những điểm đó mà nhân vật không được đón nhận và chấp nhận.

Nếu như Chí Phèo bị người làng Vũ Đại cự tuyệt bởi tội ác của quỷ thì Thị Nở bị mọi người hắt hủi bởi vì xấu xí, vì tính cách “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” và lại còn có “dòng giống mả hủi”. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy dường như không chỉ có Chí Phèo mà Thị cũng là một người cô đơn chịu sự ghẻ lạnh của xã hội loài người.

Thị Nở vốn là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, giàu lòng thương người, một người luôn mong muốn khát khao hạnh phúc gia đình. Bên cạnh đó, Thị Nở cũng là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm về bi kịch cuộc đời Chí Phèo – Đó cũng là những nét chính khi phân tích nhân vật Thị Nở.

Dù được xây dựng trong hình ảnh của một người xấu xí nhưng Nam Cao không hoàn toàn vì mục đích miệt thị nhân vật mà là muốn làm nổi bật tình người nơi Thị trong mối quan hệ giữa Thị và Chí Phèo.

Khi phân tích nhân vật Thị Nở sẽ thấy Thị xuất hiện ở đoạn truyện Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại và sau khi uống rượu say từ nhà của Tự Lãng, Chí Phèo lảo đảo ra về, nhưng không về về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng. Sau cuộc gặp đó, thị đã sống cuộc sống vợ chồng trong năm ngày với Chí Phèo. Tưởng chừng đó là quyết định của một con người dở hơi như Thị Nở, là một hành động cũng thuộc về bản năng nhưng chính nhờ vào quyết định ấy mà những gì thuộc về phẩm chất tốt đẹp của một con người đã được bộc lộ ở một người phụ nữ xấu đến “ma chê quỷ hờn” như thị.

Nhờ gặp Chí Phèo, Thị có cơ hội được quan tâm, chăm sóc người khác khi Chí Phèo nôn mửa, Thị biết “đặt bàn tay lên ngực hắn” để hỏi han sau đó “quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Hành động của Thị Nở không phải là hành động thể hiện sự đáp trả cho sự việc diễn ra giữa hai người trong đêm mà là hành động của tình người.

Điều đó được thể hiện trong sự xuất hiện của Thị Nở vào buổi sáng hôm sau, khi Chí Phèo suy nghĩ về cuộc đời, về việc “hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau” rồi hắn có thể như sắp khóc được thì thị đã đến như một sự cứu rỗi linh hồn. Khi đến nhà Chí Phèo, Thị Nở lại mang đến một bát cháo hành còn nóng nguyên. Một người ngẩn ngơ, tưởng chừng như không biết quan tâm mọi người như thị lại có thể dành tình sự chăm sóc cho người khác.

Thị mang đến cho Chí Phèo bát cháo hành và đồng thời, thị cũng bắc cho Chí Phèo một nhịp cầu trở về với đời sống của một con người lương thiện. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy hương vị của bát cháo hành đã khiến Chí Phèo thật sự xúc động vì lần đầu tiên trong đời, Chí được người ta cho ăn mà không cần phải rạch mặt ăn vạ. Lần đầu tiên trong đời, Chí được ăn và được chăm sóc bởi bàn tay của người phụ nữ vì từ thuở lọt lòng, Chí đã bị bỏ rơi. Cũng là lần đầu tiên trong đời, Chí Phèo được ăn trong ánh mắt trìu mến của Thị Nở để rồi hắn cảm nhận được hình như mình cũng được xem là một con người.

Thị Nở đã thực sự đánh thức phần người còn lại của Chí Phèo bằng tình yêu thương, giúp cho những ước mơ và khát vọng ngày xưa trong Chí Phèo có cơ hội thức dậy. Trong cái xã hội bị tha hóa và con người thường tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn và định kiến với những người xung quanh, người ta không chấp nhận, mặc kệ sự tồn tại của người lầm lỡ như Chí Phèo, người ta cho Thị Nở là kẻ ngẩn ngơ thì chính thị lại là người đã dùng tình người đã đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong Chí Phèo.

Trong tác phẩm, sau khi sống cuộc sống vợ chồng năm ngày với Chí Phèo, ta còn thể thấy được ở Thị Nở một niềm khát khao chính đáng về hạnh phúc gia đình. Khi phân tích nhân vật Thị Nở sẽ thấy Thị dù có xấu xí như thế nào, dở hơi ra sao thì thị có lẽ thẳm sâu trong người phụ nữ ấy cũng có mong muốn được có niềm hạnh phúc của một mái ấm như biết bao người phụ nữ trên đời.

Đối với Chí Phèo, Thị Nở có cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích” và trong mối quan hệ ấy, thị thật sự nghiêm túc trong việc muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với Chí Phèo nên đã đưa ra quyết định “dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Thị có lẽ cũng muốn cuộc hôn nhân dù có được một cách ngẫu nhiên như thế nhưng cũng cần đến sự đồng thuận của người bề trên chăng?.

Thị có lẽ cũng đã hi vọng, đã tin tưởng rằng mong muốn chính đáng đó của mình sẽ được sự chấp thuận của người cô nhưng đến cuối cùng điều thị ước ao lại không trở thành hiện thực. Thế nên sau khi bị cô chối từ, thị đã giận dữ và tức tối rồi “dẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng”.

Quyết định của bà cô chính là biểu hiện của những định kiến xã hội trong việc chối từ sự trở lại làm người của Chí Phèo nhưng đồng thời cũng tước đoạt đi cái quyền được trở thành một người phụ nữ của gia đình như Thị Nở. Chí Phèo rơi vào bi kịch và Thị Nở cũng trở nên hết sức đáng thương.

Thị Nở đã đến với Chí Phèo như một cái duyên và chính nhờ tình yêu của thị mà Chí Phèo có mong muốn được sống một cuộc đời lương thiện nhưng thị cũng lại chính là người đầu tiên ruồng bỏ Chí Phèo và khiến hắn thật sự phải gánh chịu bi kịch bị cự tuyệt của một con người.

Sau khi hỏi ý kiến người cô, Thị Nở đã quyết định “dừng yêu” và bỏ rơi Chí Phèo. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy quyết định đó của Thị đã khiến Chí Phèo nhận ra một điều là tất cả những ước mơ, khát vọng trong mình đã thực sự đổ vỡ. Kể cả những ước mơ nhỏ bé như được làm bạn với mọi người, được sống một cuộc đời lương thiện hay được xây dựng tương lai với Thị Nở cũng trở nên quá tầm với Chí Phèo.

Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đã chạy theo nắm tay như cố níu kéo cuộc sống được làm một con người. Thế nhưng, Thị Nở đã dứt khoát gạt tay hắn ra và còn xô hắn ngã. Thị đã đẩy Chí Phèo trở về đời sống của một con quỷ. Chí Phèo khóc khi nhận ra bi kịch lớn nhất của cuộc đời mình: bi kịch không thể vượt qua được định kiến xã hội, bi kịch của một con người được sinh ra làm người nhưng không được chấp nhận là người.

Về nội dung, truyện ngắn “Chí Phèo” đã thể hiện tấm lòng thương cảm của mình với số phận bi đát của người nông dân nghèo khi bị đẩy vào con đường lưu manh hóa đến độ bế tắc, cùng đường và phải chịu một kết cục không lối thoát. Đồng thời, tác phẩm cũng đại diện cho tiếng nói phê phán của nhà văn đối với một xã hội quần ngư tranh thực với đầy rẫy những cường hào ác bá khiến người dân không thể ngóc đầu lên được

Về nghệ thuật, Nam Cao đã hết sức thành công trong cách xây dựng nhân vật và tổ chức, sắp xếp cốt truyện hết sức hấp dẫn, giàu kịch tính. Đặc biệt, tác phẩm đã sử dụng hệ thống ngôn từ vừa tinh tế, vừa sống động, nhất là với những đoạn độc thoại nội tâm đã cho tạo nên hiệu quả rất lớn đối với việc phân tích tâm lí nhân vật.

Riêng với việc xây dựng hình ảnh nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã cho thấy tấm lòng trân trọng của mình với những vẻ đẹp khuất lấp nơi một con người dù có dung mạo xấu xí, có tính cách gàn dở. Đồng thời, nhà văn cũng đã lên tiếng tố cáo xã hội với những định kiến tàn nhẫn, những định kiến ấy đến độ nếu không đẩy con người lầm lạc như Chí Phèo đến cái chết bi thảm thì cũng khiến một người phụ nữ như Thị Nở bị tước đoạt niềm khao khát chính đáng về một mái ấm gia đình.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 7)

Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Bên cạnh nhân vật chính Chí Phèo để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, thì ta cũng không thể quên được một Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn, nhưng lại có tấm lòng thương người sâu sắc. Nhân vật là một nét mới, làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

Thị Nở được miêu tả bằng biện pháp cực tả, được Nam Cao nhận xét là xấu ma chê quỷ hờn: Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế Thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.

Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Cái xấu của Thị Nở đã đạt điển hình, có thể coi như một mẫu mực về cái xấu, trong cuộc sống này có lẽ ít ai lại có thể xấu đến như vậy. Chính bởi vẻ ngoài quá xấu xí, tính tình lại dở hơi, sống trong gia đình là mả hủi nên Thị Nở không có cơ hội để tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.

Bản thân Thị Nở cũng là một số phận bất hạnh. Vẻ đẹp của Thị Nở có thể không được phô bày ra bên ngoài, dễ dàng, rõ thấy mà nó là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp bên trong, đó là vẻ đẹp của nhân cách, của lòng yêu thương con người.

Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau ở bờ sông, khi thị Nở nằm cạnh gốc chuối ngủ, còn Chí uống rượu say ở nhà Tự Lãng trở về ra bờ sông tắm. Sự gặp gỡ của họ thật tình cờ. Nhưng sự gặp gỡ đó mở ra cơ hội hạnh phúc cho cả hai người, đặc biệt là với Thị Nở. Sau đêm đó, Thị Nở dìu Chí Phèo về lều do hắn bị cảm, trước khi về Thị Nở không quên đắp manh chiếu cho Chí khỏi lạnh.

Cử chỉ nhỏ bé nhưng cho thấy tình yêu thương, sự quan tâm của Thị với Chí. Thị trở về nhà vẫn luôn quan tâm lo lắng và có trách nhiệm với Chí : “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”.

Ý thức được trách nhiệm của bản thân với Chí, sáng hôm sau Thị Nở nấu cháo và mang sang tận nơi, cử chỉ của Thị nở thấm đẫm tình yêu thương, Thị giục Chí ăn nhanh, trong giọng nói không chỉ là sự quan tâm, lo lắng mà còn đầy tình tứ. Nụ cười của Thị với những người xung quanh thật xấu xí và vô duyên, nhưng với Chí thì Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Dưới con mắt tình nhân mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ hơn, và cũng nhờ sự quan tâm của Thị Nở trong Chí dần dần phần người, phần nhân tính đã trở lại.

Với nhân vật Thị Nở ta không thể quên chi tiết bát cháo hành. Đó không chỉ đơn thuần là bát cháo giúp Chí giải cảm mà đó còn là bát cháo của tình thương, trách nhiệm và bát cháo của sự hồi sinh nhân tính. Bát cháo đã làm Chí vô cùng ngạc nhiên, hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình ươn ướt, vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm từ một người đàn bà, và đây cũng là lần đầu hắn biết cháo hành ngon đến vậy. Bởi có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà".

Không chỉ vậy, Thị Nở còn là người biết khao khát hạnh phúc. Sau đêm ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ lâu. Trước lời đề nghị về sống chung với Chí, Thị Nở đã sẵn sàng vượt qua định kiến, sang ở với Chí năm ngày. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của Thị.

Sau năm ngày chẵn, Thị chợt nhớ ra mình còn có bà cô và Thị trở về nhà hỏi ý kiến của bà cô để hợp thức hóa quan hệ với Chí Phèo, để cũng được hưởng hạnh phúc bình dị như biết bao người phụ nữ khác. Nhưng trước lời đay nghiến, chỉ trích của bà cô: Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hắn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo. Mọi cơ hội hạnh phúc bị dập tắt, tính Thị lại dở hơi nên đem bao nhiêu bực dọc sang đổ lên đầu Chí Phèo và quay trở về không mảy may nghĩ ngợi.

Thị là người đã khơi dậy niềm tin vào tương lai, hi vọng cho Chí, nhưng cũng chính là người đã dập tắt, đã ngăn con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Chi tiết cuối tác phẩm, khi Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát, sau đó Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng thấy cái lò gạch cũ, như một dự báo về một Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ảnh, nó cũng như ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị Nở.

Nhân vật Thị Nở chỉ là nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng với nhân vật này Nam Cao cũng bộc lộ niềm thương yêu và cảm thông sâu sắc đến số phận bất hạnh của họ. Nhân vật có ý nghĩa quan trọng đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thúc đẩy câu chuyện phát triển.

Bằng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở, cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp nhân cách sáng ngời đằng sau lớp vỏ xù xì, xấu xí. Nhân vật đã góp phần hoàn chỉnh chủ đề và thúc đẩy truyện phát triển hợp lí.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 8)

Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.

Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.

Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.

Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phác thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.

Tuy chỉ là nhân vật rất phũ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.

Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.

Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.

Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật này đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 9)

Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, Thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đáng nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình Thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế là cả một công trình đô thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 10)

Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.

Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.

Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là "xấu ma chê quỷ hờn". Với diện mạo được tác giả miêu tả "Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.

Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví " xấu như Thị Nở", chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.

Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.

Ngay trong đêm trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.

Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.

Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xây dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 11)

Được biết đến là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao dường như không hề tô vẽ những cuộc đời, hay tô hồng những số phận của người nông dân. Có lẽ những nhân vật của Nam Cao luôn luôn là những con người bình dị, chân quê và rất đỗi chất phác nhưng thật dễ dàng có thể nhận ra rằng các nhân vật của ông thường có tướng mạo xấu xí và thô kệch. Và có thể nói rằng nhân vật Thị Nở là một nhân vật cũng đã thể hiện được những đặc tính này của nhà văn Nam Cao.

Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở thật xấu xí, và phải khẳng định rằng Nam Cao không phải nhà văn muốn bôi nhọ người phụ nữ Việt Nam, mà dường như là ngược lại, tác giả như đã muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tận sâu tâm hồn của họ.Cho dù là hình hài của họ có phần xấu xí đến nỗi "ma chê quỷ hờn". Mà ở nhân vật Thị Nở thì xấu thật. Ta có thể thấy Nam Cao miêu tả Thị Nở "Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công, nó dường như đã ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn... Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành...". Chỉ với những dòng miêu tả thật đầy chân thực như thế này, ó lẽ người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì dường như không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. Hay thêm một câu văn nữa "đã thế thị lại dở hơi... Và thị lại nghèo... Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, nhân vật Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà nhân vật Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo. Chí Phèo được ví như một con quỷ của làng Vũ Đại mà bất cứ ai cũng phải xa lánh. Dường như ta thấy đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi đã để cho một kẻ có diện mạo, hình hài dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đã được đến với nhau và yêu nhau. Có lẽ chính câu chuyện tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người. Và cho hai con người này đến với nhau như là một dụng ý nghệ thuật, chẳng phải ngẫu nhiên mà có thời kỳ tác phẩm "Chí Phèo" lại có tên là "Đôi lứa xứng đôi".

Thị Nở từ một người đàn bà xấu xí đến cùng cực lại còn dở hơi đã trở thành một người phụ nữ đã thật biết quan tâm và lo lắng cho người khác đó là câu "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng.... Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Nhà văn Nam Cao thật tinh tế khi đã phát hiện ra nhiều điều hay ở con người xấu xí này. Và khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị Nở dường như cũng đã coi đó là người đàn ông của đời mình, và cũng vì vậy mà Thị đã hết sức lo lắng và thương yêu. Thật dễ có thể cảm nhận được ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị lúc đó tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên biết bao nhiêu.

Người đọc không thể nào quên chi tiết bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những sự quan tâm tận tình mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn lúc này đây thực sự xúc động. Và lúc đó hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn có lẽ đã ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì tình yêu thương, quan tâm chăm sóc của người đàn bà này mà Chí Phèo như đã muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời thật bình dị và có biết bao hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói rằng trong tình yêu của người đàn bà dù xấu xí như Thị nhưng dường như vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không một ai, ngay cả làng Vũ Đại ngoài thị Nở ra thì không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo. Vậy mà thật ngạc nhiên chỉ một người phụ nữ xấu xí lại còn dở hơi bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi của mình lại có thể làm được.

Quả thật nhà văn Nam Cao đã rất thành công khi ông đã xây dựng hình ảnh con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng điều đó còn thật đáng nể khi thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí đến nỗi ma phải chê, quỷ phải hờn. Dường như chính con người phụ nữ đầy tình thương yêu cũng như tấm lòng bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Ta có thể thấy chính tình yêu của người đàn bà xấu xí đó chính là một tình yêu chân thành, và thứ tình cảm đó xuất phát từ trái tim, và chính từ lòng cảm thông sâu sắc điều đó thật rất đáng trân trọng biết bao nhiêu. Với nhân vật Thị Nở thì đó chính là tia sáng, là niềm hy vọng, còn là một cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, và giúp cho Chí Phèo sống với cộng đồng. Cho dù sau này như thế nào đi chăng nữa, cho dù Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì đối với nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành dường như vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, đối với một số phận. Có lẽ điều đó để cho ngay cả những kẻ cùng đường, hay lạc lối thì dường như ở họ vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, họ như vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm đặc sắc "Chí Phèo" thì dường như người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Ta có thể thấy những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng ở họ dường như lại có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như nhân vật Thị Nở cũng đã khiến cho không ít người đọc nhớ mãi. Và cho dù xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm kia người đã như làm cảm hóa được một "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại. Ở người phụ nữ đó như đã thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Và đó dường như là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Chí Phèo - nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thực dân, bị chúng đẩy vào bước đường cùng, trở nên lưu manh hóa mất hết nhân dạng, nhân tính, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, chỉ đến khi gặp được Thị Nở - một con người bất hạnh không kém đã khơi dậy bản tính lương thiện vốn đã ẩn khuất trong con người Chí từ lâu, cùng phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để cảm nhận rõ hơn giây phút thức tỉnh, niềm khát khao làm người mãnh liệt của Chí Phèo.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 12)

Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.

Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.

Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.

Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.

Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả”.

Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”

“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.

Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.

Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.

Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.

Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.

Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.

Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.

Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).

Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát chào hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.

Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.

Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.

Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…

Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.

Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.

Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.

Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.

Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrangxoa Cope)

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 13)

Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.

Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.

Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.

Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 14)

Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.

Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.

Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.

Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.

Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.

Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.

Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.

Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 15)

Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 16)

Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.

Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.

Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là "xấu ma chê quỷ hờn". Với diện mạo được tác giả miêu tả "Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.

Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví " xấu như Thị Nở", chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.

Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.

Ngay trong đem trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.

Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.

Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xâu dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 17)

Được biết đến là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao dường như không hề tô vẽ những cuộc đời, hay tô hồng những số phận của người nông dân. Có lẽ những nhân vật của Nam Cao luôn luôn là những con người bình dị, chân quê và rất đỗi chất phác nhưng thật dễ dàng có thể nhận ra rằng các nhân vật của ông thường có tướng mạo xấu xí và thô kệch. Và có thể nói rằng nhân vật Thị Nở là một nhân vật cũng đã thể hiện được những đặc tính này của nhà văn Nam Cao.

Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở thật xấu xí, và phải khẳng định rằng Nam Cao không phải nhà văn muốn bôi nhọ người phụ nữ Việt Nam, mà dường như là ngược lại, tác giả như đã muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tận sâu tâm hồn của họ.Cho dù là hình hài của họ có phần xấu xí đến nỗi "ma chê quỷ hờn". Mà ở nhân vật Thị Nở thì xấu thật. Ta có thể thấy Nam Cao miêu tả Thị Nở "Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công, nó dường như đã ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn... Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành...". Chỉ với những dòng miêu tả thật đầy chân thực như thế này, ó lẽ người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì dường như không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. Hay thêm một câu văn nữa "đã thế thị lại dở hơi... Và thị lại nghèo... Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, nhân vật Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà nhân vật Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo. Chí Phèo được ví như một con quỷ của làng Vũ Đại mà bất cứ ai cũng phải xa lánh. Dường như ta thấy đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi đã để cho một kẻ có diện mạo, hình hài dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đã được đến với nhau và yêu nhau. Có lẽ chính câu chuyện tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người. Và cho hai con người này đến với nhau như là một dụng ý nghệ thuật, chẳng phải ngẫu nhiên mà có thời kỳ tác phẩm "Chí Phèo" lại có tên là "Đôi lứa xứng đôi".

Thị Nở từ một người đàn bà xấu xí đến cùng cực lại còn dở hơi đã trở thành một người phụ nữ đã thật biết quan tâm và lo lắng cho người khác đó là câu "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng.... Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Nhà văn Nam Cao thật tinh tế khi đã phát hiện ra nhiều điều hay ở con người xấu xí này. Và khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị Nở dường như cũng đã coi đó là người đàn ông của đời mình, và cũng vì vậy mà Thị đã hết sức lo lắng và thương yêu. Thật dễ có thể cảm nhận được ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị lúc đó tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên biết bao nhiêu.

Người đọc không thể nào quên chi tiết bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những sự quan tâm tận tình mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn lúc này đây thực sự xúc động. Và lúc đó hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn có lẽ đã ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì tình yêu thương, quan tâm chăm soc của người đàn bà này mà Chí Phèo như đã muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời thật bình dị và có biết bao hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói rằng trong tình yêu của người đàn bà dù xấu xí như Thị nhưng dường như vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không một ai, ngay cả làng Vũ Đại ngoài thị Nở ra thì không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo. Vậy mà thật ngạc nhiên chỉ một người phụ nữ xấu xí lại còn dở hơi bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi của mình lại có thể làm được.

Quả thật nhà văn Nam Cao đã rất thành công khi ông đã xây dựng hình ảnh con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng điều đó còn thật đáng nể khi thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí đến nỗi ma phải chê, quỷ phải hờn. Dường như chính con người phụ nữ đầy tình thương yêu cũng như tấm lòng bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Ta có thể thấy chính tình yêu của người đàn bà xấu xí đó chính là một tình yêu chân thành, và thứ tình cảm đó xuất phát tự trái tim, và chính từ lòng cảm thông sâu sắc điều đó thật rất đáng trân trọng biết bao nhiêu. Vớinh â nvật Thị Nở thì đó chính là tia sáng, là niềm hy vọng, còn là một cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, và giúp cho Chí Phèo sống với cộng đồng. Cho dù sau này như thế nào đi chăng nữa, cho dù Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì đối với nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành dường như vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, đối với một số phận. Có lẽ điều đó để cho ngay cả những kẻ cùng đường, hay lạc lối thì dường như ở họ vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, họ như vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm đặc sắc "Chí Phèo" thì dường như người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Ta có thể thấy những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng ở họ dường như lại có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như nhân vật Thị Nở cũng đã khiến cho không ít người đọc nhớ mãi. Và cho dù xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm kia người đã như làm cảm hóa được một "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại. Ở người phụ nữ đó như đã thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Và đó dường như là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Chí Phèo - nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thực dân, bị chúng đẩy vào bước đường cùng, trở nên lưu manh hóa mất hết nhân dạng, nhân tính, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, chỉ đến khi gặp được Thị Nở - một con người bất hạnh không kém đã khơi dậy bản tính lương thiện vốn đã ẩn khuất trong con người Chí từ lâu, cùng phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để cảm nhận rõ hơn giây phút thức tỉnh, niềm khát khao làm người mãnh liệt của Chí Phèo.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 18)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam, có lẽ vì vậy mà Nam Cao không khoác lên mình của những nhân vật của mình màu sắc lãng mạn, lí tưởng mà lại nhìn nhận họ ở những khía cạnh rất con người, ở chiều sâu bản chất và tính cách.

Trong các sáng tác của Nam Cao, độc giả có thể bắt gặp rất nhiều những nhân vật có ngoại hình xấu xí, dở hơi nhưng bên trong cái diện mạo xù xì, xấu xí ấy lại là những giá trị tốt đẹp, đáng trân trọng.Nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo là một trong những nhân vật như vậy.

Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ xấu xí, dở hơi, nhà lại có mả hủi nên giống như Chí Phèo, Thị Nở bị cả làng Vũ Đại xa lánh, sống cô độc, lủi thủi vô cùng đáng thương. Miêu tả về Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã viết “ cái mặt của Thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, …cái mặt hao hao như mặt lợn, cái mũi ngắn to, đỏ vừa sần sùi như quả cam sành”.

Không những thế, Thị Nở lại dở hơi, nghèo khó và nhà có mả hủi, tất cả người dân trong làng Vũ Đại đều ghê sợ và tránh Thị như tránh một con vật “rất tởm”. Đã có không ít những đánh giá cho rằng Nam Cao đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi miệt thị con người. Tuy nhiên, đó lại là dụng ý nghệ thuật đặc biệt của Nam Cao, tác giả đã miêu tả Thị với những nét xấu xí, thô kệch “ma chê quỷ hờn” như vậy nhằm làm nổi bật lên những giá trị đáng trân trọng bên trong.

Một con người xấu xí, dở hơi như Thị Nở nhưng lại là con người giàu tình thương, thấy Chí Phèo ốm đau mà không có người chăm sóc, Thị đã động lòng thương vì biết nếu mình mà bỏ hắn thì không có ai chịu giúp hắn: “ Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc….Phải cho hắn ăn gì cũng được”. Đến đây, ai có thể ngờ được một con người bị cả làng xa lánh, ghê tởm như Thị lại là người ấm áp, biết quan tâm đến đồng loại như vậy. Hành động của Thị cao cả biết mấy, liệu mấy người tự xưng lương thiện, cho mình quyền kì thị, xa lánh người khác kia có thể làm được.

và sự quan tâm người đàn bà xấu xí ấy đã cảm hóa, làm thức tỉnh phần nhân tính bên trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo. Tình thương của Thị Nở đã đưa Chí về với con đường lương thiện, trở về với giấc mơ bình dị khi còn trẻ “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”.

Nếu Thị Nở là người đã mở ra con đường lương thiện, khát khao hạnh phúc cho Chí Phèo thì cũng Chí cũng chính là người trân trọng Thị nhất, nhờ có Chí, Thị Nở lần đầu trải nghiệm hạnh phúc như bao nhiêu người đàn bà khác. Bát cháo hành của Thị có ý nghĩa thật lớn lao, đó không chỉ là biểu hiện của sự yêu thương, giúp đỡ của Thị đối với Chí mà hơi ấm từ bát cháo hành đã lay động đến phần lương thiện sâu thẳm bên trong con người Chí.

Nó khiến Chí nhớ đến những giấc mơ thời trai trẻ và bắt đầu nhận thức được những sai lầm, tội ác mà mình đã làm. Hơn hết Chí muốn quay trở lại làm người lương thiện, Chí muốn làm hòa với mọi người và Thị sẽ là cầu nối để Chí trở về với con đường lương thiện.

Thị cũng muốn cùng Chí xây dựng lên hạnh phúc nhỏ nhưng định kiến xã hội mãi mãi vẫn không thể buông tha cho hai người. Trước những lời mắng chửi cay nghiệt của bà cô, Thị Nở đã về nhà và trút hết những bực dọc và những ganh ghét ích kỉ mà bà cô nói với mình cho Chí Phèo. Tuyệt vọng vì con đường trở về với lương thiện bị chặn đứng, Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến và tự tử.

Hình ảnh Thị Nở chạm tay vào bụng mang đến cho người đọc liên tưởng về một Chí Phèo con có thể đã định hình trong bụng thị, là dấu hiệu của sự nối tiếp bi kịch.Cuộc đời Thị tiếp theo như thế nào không ai biết vì tác giả cố tình bỏ ngỏ nhưng ta có thể cảm nhận được con đường Thị tiếp tục đi vẫn sẽ còn lắm những khổ đau, cô độc.

Thị Nở là một trong những thành công của Nam Cao khi xây dựng hệ thống nhân vật cho truyện ngắn Chí Phèo. Thị tuy là con người xấu xí, dở hơi bị cả làng ghét bỏ nhưng bên trong con người ấy lại có những vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 19)

“Chí Phèo” là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao phản ánh nỗi thống khổ của người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật Chí Phèo nhưng bên cạnh đó nhân vật phụ thị Nở cũng có vai trò quan trọng trong truyện. Bởi thị tuy xấu xí về ngoại hình nhưng đẹp về nhân cách, là người thức tỉnh lương tri bị ngủ quên trong Chí, thị Nở trở thành kiểu nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học.

Nhân vật thị Nở xuất hiện trong hoàn cảnh một đêm trăng thanh ả đi gánh nước rồi ngủ quên bên bụi chuối cạnh nhà Chí. Anh Chí vừa uống rượu say bên nhà tự Lãng vô tình gặp “một người đàn bà ngồi tênh hênh" với bản năng của người đàn ông cùng bát cháo hành tình yêu của thị Nở là cầu nối vô hình để Chí hoàn lương.

Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo không còn ai thân thích ngoài bà cô già cũng không chồng như thị. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre, thị sống bằng nghề lặt vặt ở làng, chủ yếu là gánh nước thuê kiếm ăn. Đã nghèo lại còn xấu và ngẩn ngơ. Có lẽ thị là nhân vật nữ xấu nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà nhà văn miêu tả.

“Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy” nghèo, xấu, ngẩn ngơ tạo thành ba đỉnh tam giác không nhân vật nào có được như thị. Ngòi bút của ông thật tài tình khi miêu tả gương mặt: “Một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” chỉ bốn từ “Ma chê quỷ hờn” ta có thể hình dung ra cái mặt của thị là một sự mỉa mai của hóa công khiến cho người ta sợ hãi và lảng tránh bởi dòng giống con nhà mả hủi.

Không phải Nam Cao bôi nhọ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt, phải chăng đây cũng là một dụng ý nghệ thuật tác giả để thị như vậy mới “sánh” được với Chí Phèo-một thằng lưu manh chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ. Khác với cách miêu tả nhân vật truyền thống là ngoại hình bên ngoài phải ăn nhập với nhân phẩm bên trong nhưng thị đi ngược lại hoàn toàn với điều đó.

Thị Nở - người đàn bà xấu về ngoại hình nhưng lại có nhân cách tốt đẹp, đáng trân trọng. Thị đã dành tình yêu thương chân thành, mộc mạc cho Chí khi đã ngủ cùng hắn trong đêm trăng thanh dưới bụi chuối hai linh hồn cô độc đã tìm về để sưởi ấm cho nhau. Thị đã dìu Chí vào trong túp lều xộc xệch sau trận nôn mửa lúc nửa đêm, tình yêu bắt đầu chớm nở từ bát cháo hành.

Chí ngạc nhiên và cảm động vô cùng bởi đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Chính thị đã khiến Chí tỉnh lại sau bao cơn say triền miên vô tận. Ăn bát cháo bát cháo hành từ tay thị Nở hắn bỗng nhận ra rằng: “cháo hành rất ngon, bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây thù?” bát cháo ấy là hương vị của hạnh phúc của tình thương chân chất những con người nghèo khổ dành cho nhau.

Trong mắt của kẻ say tình lúc này thị Nở bỗng trở nên có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Phải chăng ấy là cái duyên ngầm bấy lâu đã bị xã hội vùi dập nay mới có cơ hội thể hiện ra bên ngoài. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra điều đó qua cái nhìn của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Thị còn là người cho Chí hy vọng được hoàn lương, mong muốn làm người lương thiện, khao khát trở lại với cuộc đời bình thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không được” thị chính là cầu nối giữa hắn với mọi người, thị là người cứu rỗi linh hồn tội lỗi đưa nó trở về với bản chất lương thiện.

Lúc này Chí mong muốn có được hạnh phúc gia đình bình dị như mơ ước khi còn là một anh canh điền hiền lành“Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thị Nở đã đánh thức lương tri làm người bị ngủ quên, bị khuất lấp trong con người Chí để giờ đây trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.

Nhưng thị lại không phải người tỉnh táo bình thường mà lại là đứa ngẩn ngơ, kẻ dở hơi nên hạnh phúc ngắn ngủi trôi qua, tình yêu bị tắt ngấm khi cô ả dở chứng về hỏi ý kiến bà cô. Bà cô già - đại diện cho định kiến xã hội phản đối kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại”. Chí bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội bất công bất lương đẩy đến mức đường cùng phải tự sát sau khi giết Bá Kiến.

Tuy nhân vật thị Nở chỉ xuất hiện ở đoạn cuối tác phẩm nhưng đã cho Chí những phút giây hạnh phúc, những ngày được sống đúng với bản chất lương thiện. Thị Nở là hiện thân của tình người. Và chỉ có tình người, tình yêu mới có thể cảm hóa được con quỷ dữ trong người Chí Phèo. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng thật mong manh dễ vỡ khi con người ta không biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ.

Qua nhân vật thị Nở nhà văn để lại cho độc giả giá trị nhân đạo sâu sắc chỉ có tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim mới có sức mạnh kì diệu cảm hóa được con người tội lỗi. Qua đây ta cũng có được bài học nhận thức đúng đắn đừng “Nhìn mặt mà bắt hình dong” ngoại hình bên ngoài tuy xấu xí nhưng chỉ cần bên trong con người có tình thương yêu, nhân hậu và biết quan tâm đến người khác thì họ cũng rất đẹp, rất đáng được trân trọng và được yêu thương. Ở ngoài kia có biết bao người nhan sắc xinh đẹp nhưng chưa chắc họ đã có được tấm lòng tràn ngập tình thương như thị Nở.

Thị Nở tuy chỉ là nhân vật phụ xuất hiện trong chốc lát nhưng thị là ngọn lửa sưởi ấm và thắp lên ánh sáng lương tri làm người trong Chí, nhân vật mang lại giá trị nhân văn cho tác phẩm “Chí Phèo”. Dù thị xấu xí, nghèo khổ nhưng tràn ngập tình thương đó là phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Gập lại trang sách bấy lâu nhưng hình tượng nhân vật thị Nở cùng mối tình bất hạnh với Chí Phèo vẫn ám ảnh trong suy nghĩ và tâm hồn của độc giả.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 20)

Người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn, nhà thơ của nền văn học Việt Nam, cũng như của thế giới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hiếm có hình tượng người phụ nữ nào lại độc đáo như nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.

Chính bằng sự sắc sảo trong ngòi bút miêu tả về ngoại hình, tính cách cũng như những ý nghĩa nhân văn đằng sau cách xây dựng nhân vật của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành hình tượng độc nhất, để lại ấn tượng hết sức sâu đậm trong lòng độc giả.

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán những năm 1930-1945. Bởi vậy, ngòi bút xuất sắc này đã lột tả những gì “trần truồng” nhất của xã hội hiện tại, dành những chi tiết sống động, độc đáo nhất cho nhân vật của mình – những người nông dân điển hình thời bấy giờ.

Nếu Chí Phèo có “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”, thì Thị Nở lại xuất hiện với cái mặt “ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài”, “cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh”, “hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách”, “cái răng rất to lại chìa ra”….

Đoạn miêu tả ngoại hình của Thị Nở trong truyện ngắn này của Nam Cao quả thật rất xuất sắc. Ông sử dụng những tính từ mạnh, miêu tả chi tiết từ “cái mặt”, “cái mũi”, “cái môi”, “cái răng”, lột tả được ngoại hình “xấu ma chê quỷ hờn”, “sự mỉa mai của hóa công” của Thị Nở.

Không chỉ sở hữu một ngoại hình khiến cho “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm” mà Thị Nở lại còn nghèo, dở hơi và “thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi” và thị không có chồng. Nam Cao đã xây dựng một nhân vật vừa đáng cười, vừa đáng thương, đáng tội nghiệp, đại diện cho số phận của người phụ nữ nông dân của tầng đáy xã hội.

Quả thật, hình tượng Thị Nở trong truyện ngắn này là độc nhất và cách miêu tả, xây dựng nhân vật của Nam Cao cũng độc đáo không kém. Thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”, dở hơi ấy lại tình cờ gặp được Chí Phèo – “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, để rồi hai con người ấy đem lòng yêu nhau, cái tình yêu không kém phần lãng mạn, bi kịch và cũng đầy ắp những ý nghĩa nhân văn.

Có lẽ qua ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở không có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” như Thúy Kiều của Nguyễn Du, hay “vẫn mơn mởn như gái mười tám” như Chị Dậu của Ngô Tất Tố (trong Tắt đèn) nhưng cô lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng, vẻ đẹp đã cứu rỗi, thức tỉnh phần người, thức tỉnh khao khát được hoàn lương trong Chí Phèo.

Thị Nở nghèo, ngớ ngẩn, dở hơi, nhưng thị vẫn là một người phụ nữ chăm chỉ. Thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng, “luật quật đập đất từ trưa tới giờ” để rồi ngủ quên ngay gốc chuối. Thị dở hơi, “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất”.

Nhưng có lẽ, chính vì dở hơi mà Thị ngày nào cũng qua vườn nhà Chí hai ba lần để rồi thành thói quen, thậm chí “vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa” hay “ xin của hắn một ít rượu về để bóp chân” và “lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế”.

Có lẽ cả cái làng Vũ Đại, chỉ mình Thị Nở không sợ Chí Phèo, chỉ thị mới chăm sóc cho hắn khi hắn ốm, chỉ thị mới nấu cháo hành và “làm thành một cặp rất xứng đôi” với Chí mà thôi. Và có lẽ cũng chỉ có Thị mới khiến cho một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ phải sợ già, sợ đói rét, ốm đau và sợ cô độc. Dường như bên trong cái vẻ bề ngoài xấu xí, ngớ ngẩn ấy, người phụ nữ này còn chứa đựng những nét đẹp không nói thành lời.

Vào buổi sáng sau khi gặp Chí ở bờ sông, Thị cắp một cái rổ, trong có một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Các nhà phê bình văn học từ trước đến này vẫn khẳng định rằng chi tiết nồi cháo hành là một chi tiết hết sức đắt giá, đó không chỉ là nồi cháo ăn lúc bị ốm, mà còn là tình thương, tình yêu của người phụ nữ xấu xí nhưng thật thà, chất phác. Chính tình thương, tình yêu ấy đã khiến cho một Chí Phèo cũng biết ước mơ về gia đình, khiến cho kẻ rạch mặt ăn vạ cũng “cười nghe thật hiền” và một Thị Nở “xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”.

Quả thật tình yêu của Chí và Thị Nở không chỉ đơn thuần là tình yêu của hai con người mà nó còn thể hiện cho ước mơ được hạnh phúc, ai cũng xứng đáng yêu và được yêu, kể cả những con người bần cùng nhất trong xã hội. Có lẽ không có Thị Nở, Chí Phèo vẫn mãi ở trong đống bùn lầy của xã hội, không một tia hi vọng, không ánh sáng. Và chỉ khi có được sự chăm sóc, tình yêu của Thị Nở, khát khao được hoàn lương trong Chí mới dữ dội đến như vậy.

Thế nhưng có lẽ trong cái xã hội thời bấy giờ, tình yêu, ước mơ được hạnh phúc ấy vẫn không thể chiến thắng được những định kiến, những bất công. Chỉ vì những định kiến mà Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt bởi “ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, Chí vì bị Thị Nở từ chối mà uống rượu rồi vác dao sang nhà Bá Kiến ăn vạ đòi lương thiện, đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

Màu sắc hiện thực phê phán thể hiện rất rõ ở chi tiết này. Người nông dân lương thiện bị bần cùng hóa, tha hóa, mong muốn được hoàn lương nhưng lại không có lối thoát bởi xã hội quá bất công. Nam Cao quả thật đã rất thành công khi tái hiện xã hội lúc bấy giờ.

Có lẽ Thị Nở không phải là người phụ nữ xinh đẹp, thậm chí xấu ma chê quỷ hờn nhưng đã để lại ấn tượng hết sức sâu sắc cho người đọc. Thị là người phụ nữ hiền lành, chất phác nhưng cũng rất giàu tình thương, với khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt.

Chính cái nét duyên thầm và tình yêu của người phụ nữ này đã cảm hóa, thức tỉnh khao khát hoàn lương mãnh liệt của Chí Phèo. Quả thật, Nam Cao xứng đáng là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học nước nhà khi khắc họa hình tượng Thị Nở sống động và đầy tính nhân văn như vậy.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 21)

Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Bên cạnh nhân vật chính Chí Phèo để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, thì ta cũng không thể quên được một Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn, nhưng lại có tấm lòng thương người sâu sắc. Nhân vật là một nét mới, làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

Thị Nở được miêu tả bằng biện pháp cực tả, được Nam Cao nhận xét là xấu ma chê quỷ hờn: Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế Thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.

Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Cái xấu của Thị Nở đã đạt điển hình, có thể coi như một mẫu mực về cái xấu, trong cuộc sống này có lẽ ít ai lại có thể xấu đến như vậy. Chính bởi vẻ ngoài quá xấu xí, tính tình lại dở hơi, sống trong gia đình là mả hủi nên Thị Nở không có cơ hội để tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.

Bản thân Thị Nở cũng là một số phận bất hạnh. Vẻ đẹp của Thị Nở có thể không được phô bày ra bên ngoài, dễ dàng, rõ thấy mà nó là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp bên trong, đó là vẻ đẹp của nhân cách, của lòng yêu thương con người.

Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau ở bờ sông, khi thị Nở nằm cạnh gốc chuối ngủ, còn Chí uống rượu say ở nhà Tự Lãng trở về ra bờ sông tắm. Sự gặp gỡ của họ thật tình cờ. Nhưng sự gặp gỡ đó mở ra cơ hội hạnh phúc cho cả hai người, đặc biệt là với Thị Nở. Sau đêm đó, Thị Nở dìu Chí Phèo về lều do hắn bị cảm, trước khi về Thị Nở không quên đắp manh chiếu cho Chí khỏi lạnh.

Cử chỉ nhỏ bé nhưng cho thấy tình yêu thương, sự quan tâm của Thị với Chí. Thị trở về nhà vẫn luôn quan tâm lo lắng và có trách nhiệm với Chí : “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”.

Ý thức được trách nhiệm của bản thân với Chí, sáng hôm sau Thị Nở nấu cháo và mang sang tận nợi, cử chỉ của Thị nở thấm đẫm tình yêu thương, Thị giục Chí ăn nhanh, trong giọng nói không chỉ là sự quan tâm, lo lắng mà còn đầy tình tứ. Nụ cười của Thị với những người xung quanh thật xấu xí và vô duyên, nhưng với Chí thì Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Dưới con mắt tình nhân mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ hơn, và cũng nhờ sự quan tâm của Thị Nở trong Chí dần dần phần người, phần nhân tính đã trở lại.

Với nhân vật Thị Nở ta không thể quên chi tiết bao cháo hành. Đó không chỉ đơn thuần là bát cháo giúp Chí giải cảm mà đó còn là bát cháo của tình thương, trách nhiệm và bát cháo của sự hồi sinh nhân tính. Bát cháo đã làm Chí vô cùng ngạc nhiên, hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình ươn ướt, vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm từ một người đàn bà, và đây cũng là lần đầu hắn biết cháo hành ngon đến vậy. Bởi có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà".

Không chỉ vậy, Thị Nở còn là người biết khao khát hạnh phúc. Sau đêm ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ lâu. Trước lời đề nghị về sống chung với Chí, Thị Nở đã sẵn sàng vượt qua định kiến, sang ở với Chí năm ngày. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của Thị.

Sau năm ngày chẵn, Thị chợt nhớ ra mình còn có bà cô và Thị trở về nhà hỏi ý kiến của bà cô để hợp thức hóa quan hệ với Chí Phèo, để cũng được hưởng hạnh phúc bình dị như biết bao người phụ nữ khác. Nhưng trước lời đay nghiến, chỉ trích của bà cô: Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hắn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo. Mọi cơ hội hạnh phúc bị dập tắt, tính Thị lại dở hơi nên đem bao nhiêu bực dọc sang đổ lên đầu Chí Phèo và quay trở về không mảy may nghĩ ngợi.

Thị là người đã khơi dậy niềm tin vào tương lai, hi vọng cho Chí, nhưng cũng chính là người đã dập tắt, đã ngăn con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Chi tiết cuối tác phẩm, khi Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát, sau đó Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng thấy cái lò gạch cũ, như một dự báo về một Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ảnh, nó cũng như ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị Nở.

Nhân vật Thị Nở chỉ là nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng với nhân vật này Nam Cao cũng bộc lộ niềm thương yêu và cảm thông sâu sắc đến số phận bất hạnh của họ. Nhân vật có ý nghĩa quan trọng đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thúc đẩy câu chuyện phát triển.

Bằng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở, cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp nhân cách sáng ngời đằng sau lớp vỏ xù xì, xấu xí. Nhân vật đã góp phần hoàn chỉnh chủ đề và thúc đẩy truyện phát triển hợp lí.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 22)

Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác trong nền văn học hiện thực Việt Nam. Tác giả đã xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình là Chí Phèo. Qua nhân vật này ông gửi gắm khát vọng rất đỗi bình dị của con người nhưng lại đi vào bế tắc. Nếu Chí Phèo vừa đáng trách, vừa đáng thương thì Thị Nở lại là nhân vật để lại nhiều ám ảnh đối với người đọc.

Thị Nở trong từng trang viết của Nam Cao là người con gái xấu xí, ngẩn ngơ đến nỗi “ma chê quỷ hờn”. Không phải Thị Nở nghiễm nhiên bước vào trang truyện của Nam Cao, đó chính là dụng ý nghệ thuật cũng là dụng ý nhân văn mang ý nghĩa sâu xa. Đó cũng chính là tấm lòng của Nam Cao dành cho Chí Phèo. Hắn sinh ra không có ai thân thiết, bị người đời gạt bỏ; chỉ có Thị Nở đối với hắn tốt như vậy. Thị Nở chính là người có thể kéo Chí Phèo ra khỏi vũng bùn tăm tối

Thị Nở được Nam Cao xây dựng rất kì công từ hình thức đến tâm hồn. Đó là một người đàn bà có ngoại hình xấu xí, vừa xấu vừa ngớ ngẩn. Cái xấu của Thị Nở được Nam Cao gói gọn trong 4 từ “ma chê quỷ hờn”. Chỉ 4 chữ đó đã có thể khiến người đọc hình dung ra “dung mạo” người phụ nữ làng Vũ Đại này. Người ta vẫn bảo ở đời ít người vừa xấu xí, vừa nghèo, vừa ngớ ngẩn. Nhưng thực ra Thị Nở lại mang trong mình cả 3 điều đó.

Không phải Nam Cao không yêu thương nhân mình của mình, chỉ là ông yêu họ theo một cách khác, đặc biệt hơn, như chính con người của họ. Chỉ có như thế Thị Nở mới có thể sánh với CHí Phèo, những người cùng cảnh ngộ. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại hình thô kệch và nghèo. Thị đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương.

Có lẽ đây chính là dụng ý của Nam Cao khi để Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau. Những kẻ cùng đường trong xã hội đến với nhau, yêu thương nhau, có thể chỉ trong phút chốc nhưng cũng gọi là có được tình yêu. Thị Nở là người đàn bà nghèo, xấu xí, tính tình ngẩn ngơ nhưng lại có một tấm lòng trong, rất sáng, là tình yêu thương người. Có lẽ đây chính là điều mà Nam Cao muốn gửi gắm, nhắn nhủ đến mọi người.

Nhân vật thị nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu, đoạn văn đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội. Thị Nở thương Chí Phèo, một tình thương xuất phát từ trái tim, lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi, không cá nhân. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Hắn cần Thị, cả cuộc đời hắn cần thị như thế.

Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau trong cái đêm hôm ấy, đêm Chí Phèo say rượu, họ sống như vợ chồng suốt mấy ngày. Bát cháo hành là động lực, là sợi dây kết nối tình cảm giữa Thị Nở và Chí Phèo. Có thể nói Thị Nở và bát cháo hành là cứu cánh cho cuộc đời của Chí Phèo về sau.

Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Thị Nở giữa những trang truyện chỉ toàn đau thương và oán hận của Chí Phèo. Thị Nở chính là tia sáng, đánh thức và khơi gợi lương tâm của Chí Phèo những ngày cuối cùng của cuộc đời. Chí ít dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì Chí cũng đã cảm nhận được như thế nào là tình yêu, là tình người. Thị Nở là hiện thân của sự khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt, không vụ lợi. Đó là tình cảm mà Chí Phèo luôn khát khao nhưng lại không có được.

Nam Cao đã để lại trong lòng người đọc nhiều ám ảnh về nhân vật Thị Nở. Là người có thể làm thay đổi Chí Phèo, cũng là người mang lại yêu thương nhỏ nhoi, ít ỏi cho Chí. Đây chính là giá trị nhân văn của truyện ngắn Chí Phèo.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 23)

Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã hạ bút những dòng này: “Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”. Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thì chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Thế mới biết Nam Cao thương nhân vật của mình biết mấy!

Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không xấu tí nào cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện mạo lẫn tâm hồn?

Thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: Ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ… Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì… Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành ngược hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn…), hoặc chỉ nội một phương diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ – các nhân vật trí thức)… Ông đã nhận thức con người với tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên – loại nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt để đi theo nguyên tắc này.

Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua và chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển hình xã hội với tư cách là đại diện tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị biệt (nhiều khi oái oăm, trái khoáy) của cuộc đời. Những thứ ấy không phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình ảnh, tình huống truyện… và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão Hạc, Bá Kiến, Thứ, Điền… có nhiều trong thực tại, chứ còn Lang Rận, Mụ Lợi, Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị Nở cũng là một mảnh vụn dị biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ ra đầy nhiệt hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm, nham nhở của cõi người.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một hình ảnh đàn bà nào như Thị Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng đã có lần chê bai những người đàn bà thuần xấu xí: “Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần”, hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: “Lỗ mũi mười tám gánh lông…”. Ta còn có thể tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác “kể xấu” về người đàn bà nữa. Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngôn ngữ bùn đất quê kiểng như Nam Cao không thể không biết đến những bài ca “ngoa ngoắt” kiểu ấy.

Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định, có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng nhân vật của mình. Ông đã nhất quán từ đầu đến cuối để cho nhân vật Thị Nở của mình thậm xấu như vậy.

Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng kích thước có tầm khái quát cho hình tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa tác phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều tầng nghĩa thú vị…

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 24)

Mỗi một tác phẩm truyện đều nổi bật lên một nhân vật chính nhất, mỗi nhà văn cũng chỉ xây dựng cho mình một nhân vật điểm hình nhất trong tác phẩm thế nhưng để nổi bật lên nhân vật trung tâm ấy thì chúng ta còn phải biết đến những nhân vật xung quanh nhân vật đó. Dù là phụ nhưng nhân vật ấy vẫn hiện lên đầy ý đồ nghệ thuật của tác giả. Nếu như nhân vật người đàn ông đánh vợ tỏng chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu tuy là phụ nhưng cũng chất chứa những phản ánh của tác giả về cuộc sống thì Nam Cao cũng xây dựng thành công nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo để thể hiện những cái nhìn chủ quan của mình về những con người xấu xí.

Nhân vật Thị Nở là nhân vật được nhà văn xây dựng cho nhân vật Chí Phèo của mình, tuy rằng Thị giở hơi mả hủi nhưng lại mang đến cho nhân vật chính của nhà văn Nam Cao những khoảng thời gian hạnh phúc. Nói tóm lại trong những cái giở nhất của Thị Nở nhà văn Nam Cao đã cho ta thấy được những cái đẹp nhất của Thị.

Trước hết Thị Nở hiện lên với ngoại hình vô cùng xấu xí và có nguồn gốc mả hủi, giở hơi. Nói chung nhìn toàn thể Thị không có gì có thể mê nổi. Cũng giống với những nhà văn khác Nam Cao không che giấu những cái xấu cái giở của nhân vật mình mà nói hẳn ra và dùng những lời lẽ thật nhất thậm chí là thô thiển nhất để nói về nhân vật của mình. Nói như thế không phải nhà văn không yêu nhân vật của mình mà làm như thế để qua đó bạn đọc có một cái nhìn chân thật nhất về những con người như thế trong xã hội. Thị Nở ở đây cũng được nhà văn dùng những lời chân thật nhất để miêu tả độ xấu của cô. Theo như Nam Cao thì Thị có cái vẻ bề ngoài vô cùng xấu xí “ cái môi thì dày như hai con đỉa trâu” đã thế thì lại còn lại còn bĩu môi nữa thì không hiểu là Thị xấu như thế nào. Bề ngoài của Thị được nhà văn tóm lại trong bốn từ “ma chê quỷ hờn”. Nhà Thị ngoài Thị con có bà cô già mãi cũng không lấy được chồng và đến đời Thị cũng không hề hơn cũng xấu xí và mả hủi. Đã thế Thị còn ngẩn ngơ giở tính nữa, tính tình như thế thì làm sao có thể có chồng được cơ chứ.

Không những thế Thị Nở còn là một cô gái nghèo. Thị là một cô gái ở làng Vũ Đại vì xấu cho nên ai cũng biết đến thị như biết đến Chí Phèo vậy. Thị không có việc làm ngày ngày thị thường đi gánh nước thuê cho những nhà có việc. Công việc ấy tuy không giàu có gì nhưng ít ra Thị cũng biết lao động và có công việc đàng hoàng chứ không như chàng Chí.

Như vậy đấy, Nam Cao xây dựng nhân vật của mình qua xuất thân, bề ngoài và nghèo đói ấy đấy. ta có thể thấy rằng Thị như một người bị bao vậy giam hãm trong cái tam giác ba cạnh của nghèo đói, xấu xỉ và mả hủi. Thế nhưng trong cái con người hội tụ tất cả những cái xấu ấy lại có một tâm hồn lòng tốt thương người.

Có thể nói Nam Cao xây dựng nhân vật này cho Chí Phèo như một nhân ái mà nhà văn cho nhân vật mình. Thị tuy xấu nhưng đúng là chỉ có người xấu như thế mới yêu Chí Phèo mà thôi. Có thể nói người phụ nữ ấy tuy xấu nhưng lại có một tấm lòng của con người mà những con người trong làng Vũ Đại không có và không thể đem đến cho Chí.

Thứ nhất Thị là người có tấm lòng thương người, lòng thương ấy xuất phát từ những gì sâu thẳm trong lòng Thị. Thị thương Chí Phèo- một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo say rượu và cái đêm mà Thị cùng Chí trao cho nhau những khoảnh khắc của vợ chồng. Thế nhưng cái đêm ấy cũng khiến cho Chí bị cảm lạnh vì gió. Sáng hôm sau Chí tỉnh dậy toàn thân mệt mỏi dã dời thế nhưng Thị đã đã mang bát cháo hành đến để giải cảm cho Chí.

Có thể nói điều đó xuất phát từ lòng tốt của một con người dành cho một con người. Chính bát cháo hành tưởng chừng nhỏ nhoi ấy đã khiến cho Chí mủi lòng và bừng tỉnh. Chính vì lẽ ấy mà bát cháo hành trở thành một chi tiết nghệ thuật trong truyện ngăn của nhà văn Nam Cao. Bát cháo hành như thay lời muốn nói của Thị, chính hành động ấy mà Chí bừng tỉnh mà mong muốn làm người lương thiện.

Thứ hai, trong Thị Nở còn toát lên một vẻ đẹp của tình yêu đôi lứa. Thị yêu Chí phèo xuất phát từ lòng thương người của Thị. Chính tình cảm ấy đã khiến cho Chí nhớ đến ước muốn nho nhỏ của mình ngày xưa và cũng chính tình cảm ấy mà Chí thấy cảm động ươn ướt. Thị giống như mẹ của Chí và hắn muốn sà vào lòng Thị mà nũng nịu như một đứa trẻ. Chí muốn làm người lương thiện, muốn có một mái ấm gia đình với cô gái xấu xí ấy qua câu “ Hay mình chuyển sang đây với tớ một nhà cho vui”.

Qua đây ta thấy được nhà văn Nam Cao không chỉ xây dựng thành công nhân vật chính mà xây dựng nhân vật phụ như Thị Nở cũng để lại nhiều ấn tượng cho bạn đọc. Nó đề cao quan niệm “cái nết đánh chết cái đẹp” của ông cha ta xưa nay. Thị tuy xấu, tuy nghèo nhưng Thị đã làm nên một việc mà không một ai trong làng Vũ Đại có thể làm được đó chính đánh thức phần người trong Chí và đưa anh lại con đường của những con người lương thiện.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 25)

“Chí Phèo“ là một trong những sáng tác sớm nhất của Nam Cao về đề tài làng quê Việt Nam và người nông dân. Các nhân vật trong tác phẩm của ông đều hướng về số phận bi đát của những người nghèo khổ, bị bần cùng hóa. Chí Phèo qua ngòi bút của Nam Cao hiện lên là một con quỷ dữ chứ không phải là con người nữa. Đã là quỷ thì làm gì có ai dám động chạm, làm gì có ai dám gần gũi nữa. Ấy vậy mà Thị Nở đã dám và làm được. Người phụ nữ bất hạnh, hiện ra với biết bao chuẩn mực của cái xấu ấy đã cảm hóa được con quỷ dữ của làng Vũ Đại, cảm hóa được những cơn say triền miên và kéo dài của hắn, chính thị đã khơi dậy lại bản tính lương thiện, hiền lành vốn có của hắn.

Con người ta trước khi trở thành kẻ xấu thì ai cũng là người tốt, chỉ khi bị dồn ép vào nước đường cùng, không còn sự lựa chọn nào khác, con người ta mới thay đổi và trở nên độc ác hơn để chống chọi với thời cuộc mà thôi. Thị Nở đã làm được điều mà không ai dám chợt nghĩ đến chứ đừng nói là làm, có nên gọi thị là thiên thần? Vì chỉ có thiên thần mới cảm hóa được quỷ dữ mà thôi. Thị Nở – một nhân vật xuất hiện trong truyện của nhà văn Nam Cao, xuất hiện và mang lại biết bao cảm nhận riêng cho người đọc. Có người đọc sẽ thấu hiểu và thương xót, đau đớn thay cho thị nhưng cũng có những người cười nhạt và coi đó như một câu chuyện cười châm biếm.

Qua ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở hiện lên như một chuẩn mực của cái xấu, “xấu như thị nở”, “nhìn xa cứ tưởng Thúy Kiều, nhìn gần mới biết người yêu chí phèo” – những câu nói truyền miệng được lưu truyền từ tác phẩm. Thị xấu ma chê quỷ hờn, mặt chiều ngang dài hơn chiều dọc, mũi to bành bạch, môi thịt trâu xám ngoách, răng vổ, mặt lỗ chỗ như tổ ong. Rồi thị còn là con của nhà có dòng giống mả hủi, quanh năm nghèo đói, bệnh tật. Giá mà thị minh mẫn, đầu óc có bình thường như người khác thì chắc thị cũng phát điên, phát rồ lên mới sống được. Một người phụ nữ đã xấu còn vô duyên như thị thì còn ai muốn kết bạn qua lại cho được. Nếu không bị dở hơi, ngớ ngẩn thì đúng là ông trời bất công với thị thật. Mà có khi vậy lại là một điều hay vì đã dở người thì người ta còn biết đến hay phân biệt được xấu đẹp là như thế nào đâu. Như nhau tất! Cũng may có được ân huệ ấy của ông trời ban chi mà thị sống vô tư, thoải mái, bất cần lo nghĩ sự đời. Vô tư đến nỗi vô duyên, vô dáng “ thị cởi áo ra ngồi tựa vào gốc chuối ’’, thị nghĩ “ về nhà thì cũng ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy”. Đấy, người phụ nữ vô tư đến nỗi vô duyên, vì trước nay chưa ai phạm vào thị bao giờ nên thị vững tâm, thị yên tâm mà tựa vào gốc chuối tận hưởng ánh trăng dát vàng cùng gợn gió mát như quạt hầu mà ngủ, mà ngáy ngon lành.

Thị làm những việc mà không ai dám làm, thị thích khác người hay là không biết sợ là gì? Vườn chuối là nơi bà con trong làng đi tắt qua sông gánh nước nhưng từ ngày Chí Phèo về ở thì dân làng đều tìm lối khác mà đi cả. Duy chỉ có thị là vẫn tiếp tục đi lối cũ, thị không thấy sợ như mọi người. Thị thấy đôi lúc Chí Phèo hiền đến lạ lùng. Tại sao chỉ có thị mới mới nhìn thấy phần hiền lành, lương thiện bên trong con người hắn, phải chăng chỉ có những người cùng cảnh ngộ mới thấu hiểu và đồng cảm cho nhau. Ai cũng tránh Chí Phèo như tránh quỷ dữ, không ai muốn gần thì làm sao có thể nhận ra bản chất của Chí được. “Thị cứ đi qua ngõ”, “trong lúc hắn ngủ thị còn vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa”, “ có lần thị xin của hắn một tí rượu về bóp chân, hắn càu nhàu bảo thị ở xó nhà ấy, muốn rót bao nhiêu thì rót, để yên cho hắn ngủ”. Qua những lần tiếp xúc, thị thấy ngỡ ngàng rằng sao mọi người lại sợ hắn đến vậy?

Thị đồng lòng cùng chia sẻ niềm vui thể xác với Chí, “ thị bỗng nhiên bật cười, vừa rủa vừa đập tay lên lưng hắn” rồi “ cái tay ấy lại dúi lung hắn xuống”. Thị cũng là đàn bà mà, thị cũng có những ham muốn cho riêng mình. Thị cũng ngại ngùng, e thẹn khi nhớ lại “ thị lên giường định đi ngủ. Nhưng thị nhớ lại việc lạ lùng tối qua. Thị cười, thị thấy không buồn ngủ và thị cứ lăn ra, lăn vào”. Những cảm xúc lần đầu tiên người đàn bà đó có được, chính những giây phút ấy thị đã đánh thức chấm dứt cơn say triền miên kéo dài trong cuộc đời chí Phèo. Thị làm cho Chí tỉnh táo mà nhìn thấy ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, làm Chí ngẩn người mà suy nghĩ rằng hắn đã già mà vẫn cô độc, lần đầu tiên hắn tỉnh táo mà ngẫm nghĩ về cuộc đời. Thị như người mở đường cho hắn quay về làm người lương thiện, thị có thể chung sống với hắn thì sao người khác lại không được?

Người đàn bà vô duyên, vô dáng ấy đôi lúc lại làm được những chuyện tưởng chừng như không thể. Thị cũng muốn yêu, cũng muốn quan tâm, săn sóc cho nhân ngãi của mình như bao người phụ nữ khác. Khi con người ta vướng vào tình yêu thì tính thay đổi hẳn. “ Thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm”, thị săn sóc, lo lắng cho Chí “ thị để hắn nằm lên và đi nhặt tất cả các manh chiếu rách đắp lên người hắn”. Thị cũng muốn làm một cô vợ đảm đang, vun vén “ dẫu sao thì cũng ăn nằm với nhau như vợ chồng rồi”. Thị nấu cháo hành cho nhân ngãi ăn giải cảm, thị đưa mắt nhìn trộm tình tứ, thị giục hắn ăn nhanh cho nóng. “ Thị phát khẽ hắn một cái, làm vẻ không ưa đùa, sao mà e lệ đến thế”, một người thật xấu khi yêu cũng khác, cũng e lệ, ngượng ngùng. Đáng ra những cảm xúc ấy thị xứng đáng được hưởng sớm hơn chứ không phải là lúc ngoài 30 tuổi này. Thị lấy làm bằng lòng lắm, bằng lòng vì thị làm cho hắn yêu thị, vì thị mà hắn cố uống thật ít rượu, vì thị mà hắn cố tỉnh táo để yêu. Những việc như này làm gì có ai làm lại được, thị làm cho một con quỷ dữ phải ngẩn ngơ, cảm kích mà rung rung chực khóc. Chưa một ai cho hắn thứ gì ngoài thị, thị cho hắn tình yêu, cho hắn sự quan tâm tình tứ, cho hắn bát cháo hành, cho hắn con đường về với người lương thiện. Thị như một ân nhân cứu giúp đời Chí. Đằng này thị dở người nên hành động cao cả của người đàn bà có duyên trong mắt Chí Phèo ấy nhanh chóng vụt tắt. Sống chung với nhau năm ngày, năm ngày đôi lứa hạnh phúc thì đến ngày thứ sáu thị chợt nhớ ra còn bà cô trên đời “ hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”, thi bỏ lại Chí Phèo một mình, thị tức lắm, thị bực mình lắm khi bị bà cô chửi, nhiếc những lí lẽ ngoa ngoắt. Thị trút hết bực dọc vào mặt hắn rồi ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Đáng thương thay cho thị, thói đời chưa trót “ ngoài ba tuổi ai còn đi lấy chồng?”, xót xa khi cả đời không có được hạnh phúc trọn vẹn. Chỉ vì già, vì xấu, vì dở hơi mà không được phép hưởng hạnh phúc hay sao?

Nhưng không, dẫu sao thị cũng có được những giây phút hạnh phúc của đời mình. Khép lại câu chuyện bằng hình ảnh mang lại nhiều suy nghĩ cho người đọc. Hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng rồi thoáng hiện ra trong trí óc cái lò gạch cũ. Xã hội phong kiến lạc hậu đã làm thị thoáng nghĩ đã ngẩn ngơ “nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào”. Bằng nghệ thuật tạo dựng hình ảnh và sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, khéo léo Nam Cao đã xây dựng lên nhân vật Thị Nở cùng với Chí Phèo cho xứng lứa vừa đôi. Một cặp đôi đã trở thành biểu tượng của nhân dân ta sau này, biểu tượng của đôi lứa xứng đôi ngồi cười hạnh phúc bên chén rượu.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 26)

Chí Phèo là kiệt tác nghệ thuật của văn học Việt Nam hiện đại. Người ta nhớ đến Chí Phèo không chỉ vì sự đặc sắc về nội dung và nghệ thuật mà còn là bởi những nhân vật điển hình trong đó có thị Nở.

Thị Nở không phải là nhân vật trung tâm trong tác phẩm nhưng ở nhân vật này lại chứa đầy đủ quan niệm về người phụ nữ nói riêng, về con người nói chung của Nam Cao. Thị Nở là hiện thân của người phụ nữ trong văn chương Nam Cao: dù số phận bất hạnh vẫn ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn, một con người ẩn sau bề ngoài xấu xí là những phẩm chất đáng quý: hồn nhiên, nhạy cảm, khao khát yêu đương, thương người và bao dung.

Nếu như nhân vật nữ trong các truyện thơ Nôm khuyết danh, hay như chị Dậu trong Tắt Đèn(Ngô Tất Tố) thường có sự thống nhất giữa tính cách và ngoại hình thì phần nhiều nhân vật của Nam Cao lại ngược lại. Dường như, Nam Cao cố tình tạo nên sự trái ngược giữa hình thức bề ngoài và phẩm chất bên trong của nhân vật. Ở đây, chúng tôi muốn nói tới cái xấu, cái nghèo, dở hơi của thị Nở để nhấn mạnh tư tưởng của tác giả. Nam Cao không quan niệm đã là nhân vật chính diện thì tất cả đều phải đẹp, nhân vật phản diện thì phải xấu về ngoại hình. Khi miêu tả thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”… “má phinh phính thì mặt Thị còn hao hao mặt lợn…cái mũi vừa ngắn vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…hai môi dày…màu thịt trâu xám ngoách…” Nam Cao muốn khẳng định dù họ xấu như thế nhưng tâm hồn họ đẹp. Ông trân trọng bênh vực họ, quan niệm của ông gần với mơ ước trong văn học dân gian: ngoại hình xấu xí nhưng lại có những phẩm chất đáng trân trọng.

Tác giả Ngô Gia Võ trong bài viết của mình đã khẳng định: “thị Nở là người nhân hậu, dịu hiền, nêu cao đạo lí cha ông, lại vừa thông minh tinh tế nhất làng Vũ Đại chính là bất ngờ nhất trong kiệt tác Chí Phèo mà hết truyện mới bộc lộ ra”. Nhưng chúng tôi lại nghĩ rằng những phẩm chất ấy được bộc lộ ngay từ khi thị Nở bắt đầu xuất hiện trong thiên truyện.

Thị Nở là người hồn nhiên “thông minh nhất làng Vũ Đại”. Khi cả làng tìm một lối đi xa hơn để không phải qua lều của Chí Phèo, Thị lại phân tích cặn kẽ: Chí Phèo đi vắng suốt ngày, khi về thì hắn đã say lả còn gì mà sợ. “Chí Phèo ít khi có nhà, mà ở nhà thì hắn lại hiền lành, ai có thể ác trong khi ngủ. Hắn chỉ về nhà để ngủ”. Thị còn hồn nhiên vào nhà hắn xin rượu bóp chân và ngạc nhiên “sao người ta ghê hắn thế ?”. Thị Nở là cầu nối duy nhất để Chí Phèo nhích dần về phía con người. Con người ấy cần được thông cảm và chia sẻ.

Không chỉ “thông minh” mà thị Nở còn là người phụ nữ rất nhạy cảm với thiên nhiên. Đó là một nét đẹp trong sáng của tâm hồn con người. “Chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều trăng tỏa trên sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Gió lại mát như quạt hầu”. Thị Nở đã nhận ra vẻ thơ mộng và gợi cảm của thiên nhiên để  rồi hồn nhiên ngủ lại bên bờ sông một cách dễ dàng. Như chúng ta đã biết : “Nam Cao ít tả cảnh vì cảnh trước hết cũng để soi sáng nội tâm nhân vật”. Điều đó chứng tỏ tâm hồn thị Nở trong sáng và đẹp như thiên nhiên đêm trăng hôm ấy. Như thế ai bảo thị Nở là dở hơi, liệu có đúng không? Chính sự nhạy cảm với thiên nhiên đã đưa đến biến đổi trong cuộc đời thị Nở.

Trong con người ấy còn chứa đựng lòng thương người, Một trái tim phụ nữ biết khao khát yêu và muốn yêu mà bình thường người phụ nữ không dám nói ra. Trước hành động bất ngờ của Chí, thị ngạc nhiên, hốt hoảng kêu la, sau thì “thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị vừa rủa vừa đập lên lưng hắn nhưng đó là cái đập yêu, bởi đập xong cái tay ấy lại dúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau”. Đó là cái cười mãn nguyện. Sau khi được hưởng hương đời- niềm khát khao bình dị của con người, thị Nở như tinh tế hơn, dịu dàng và thật đáng yêu. Xây dựng mối tình Chí Phèo- thị Nở- hai con người bên lề xã hội bắt đầu bằng một đêm chung đụng xác thịt, đó là thử thách của nhà văn. Nam Cao đã thật tinh tế khi xây dựng nên một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, gợi cảm: “khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt ẹo, cuộn theo nhau thành làn…và những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng thanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫm lên đành đạch như là hứng tình”. Thiên nhiên đã đập theo nhịp đập của trái tim trai gái một cuộc tình đẹp đẽ và thật thanh thản. “Bây giờ chúng ngủ bên nhau…Chúng ngủ như chưa bao giờ được ngủ…” Giấc ngủ ấy sẽ là một mốc lớn đánh dấu một giai đoạn những con người sống khổ cực giờ đây sẽ có một cuộc sống hạnh phúc với những tấm lòng khao khát yêu thương. Sau đêm ấy Chí Phèo đã tỉnh ngộ, đã từ bỏ những cơn say triền miên để trở lại làm người. Chí Phèo đã nhận ra cuộc sống xung quanh. “Tiếng chim hót ngoài bãi vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ…” và “chao ôi hắn buồn”. Hắn buồn vì bấy lâu nay con người hắn bị xã hội chôn vùi. Hắn nhớ lại “Hình như một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê…” “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn cô độc”. Chính tình yêu của thị Nở đã giúp Chí Phèo trở lại làm người.

Nếu như đêm hôm ấy chỉ giúp Chí nhận ra mình “già nua vẫn cô độc”, nhận ra mình còn là người thì chính bát cháo hành của Thị Nở- biểu hiện của tình thương đã giúp Chí lại muốn sống, hắn nghĩ về tương lai. Nếu như không có bát cháo và tình cảm chăm sóc ấy mà hắn mới muốn trở lại làm người, một con người chân chính. Câu nói ngô nghê nhưng thật thà của Chí “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” Hay “mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”- đó là khát khao muốn lương thiện, Chí muốn làm lại từ đầu, muốn chuộc lỗi lầm tội ác của mình và “thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Thị Nở chăm sóc hắn như tình thương của mẹ dành cho con. Từ khi nhận được sự chăm sóc của thị Nở Chí thấy “lòng mình thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng thị như mẹ” “mắt hình như ươn ướt”, thị giục hắn ăn cháo “Trời ơi cháo mới thơm làm sao…Sao đến bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo”. Hắn như nâng niu, dè sẻn những giây phút quý hóa bên Thị. Hắn thực sự xúc động bởi từ trước đến giới không ai cho không hắn cái gì, tất cả đều có từ dọa nạt, cướp giật…Những biểu hiện khát khao cuộc sống của Chí là minh chứng cho tình yêu thương và nét đẹp cảm háo ở thị Nở. Cái chết của Chí không phải do thị Nở vô tâm mà chính bởi chế độ phong kiến “mà một biểu hiện là bà cô thị Nở” đã ngăn cản họ đến với nhau. Thị Nở vô tội.

Ở Thị Nở còn một phẩm chất đẹp nữa là lòng bao dung. Sau khi yêu nhau được năm ngày, thị tỉnh táo nhận ra mình phải báo cáo với bà cô. Thị Nở biết nghĩ trước sau, thị biết việc trọng đại của một đời người nên phải báo cáo với người lớn. Nhưng thật bất hạnh là bà cô của thị không đồng ý. Chính việc này đã đẩy Chí Phèo đến đường cùng giết Bá Kiến và kết liễu luôn đời mình. Trước cái chết của hai người ấy “Cả làng Vũ Đại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều về vụ án bất ngờ ấy”. Đa số mọi người đều tỏ ra hài lòng, mỗi người một lời bình. Đội Tảo thì thích ra mặt vì từ bây giờ không bị Bá Kiến ức hiếp. Bọn đàn em lấy làm mừng “Thằng mọi già ấy chết anh em mình nên ăn mừng”. Thị Nở lại là người duy nhất ở làng Vũ Đại chứng kiến cảnh ấy mà không vui mừng trước cái chết của hai người. Và khi bà cô nói với giọng chì chiết “Phúc đời nhà mày con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo”, thị Nở đã đủ thông minh để lảng sang chuyện khác và trong lời nói đó còn chứa đựng lòng thương người, sự bao dung. Chỉ mỗi thị Nở thương cho Lí Cường- Bá Kiến “thiệt người hại của”. Trước cái chết của Chí thị không khóc vô nghĩa, không trách cứ Chí Phèo bỏ mình thị với đứa con trong bụng, cái gì đã mất làm sao lấy lại được. Thị Nở nhớ lại những kỉ niệm ngày xưa và bằng linh tính của người phụ nữ thị nhìn nhanh xuống bụng, chuẩn bị tình huống xấu để sẵn sàng vượt qua. Thị không hối hận vì đã ăn ở với Chí Phèo mà thị còn ‘tiếc” quãng thời gian ấy. Hóa ra thị Nở không đáng chê, đáng cười như người ta vẫn nghĩ mà ở thị Nở, những người phụ nữ có thể học hỏi rất nhiều điều để để hoàn thiện mình. Hóa ra ẩn sau một hình dáng xấu xí ấy thị Nở mang trong mình bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam.

Có thể nói qua tác phẩm Chí phèo, Nam Cao đã xây dựng một hình tượng người phụ nữ khá tiêu biểu. Thông qua hình tượng này tác giả muốn ngợi ca phẩm chất tốt đẹp cuả người phụ nữ. Hình tượng thị Nở trong kiệt tác Chí Phèo của Nam Cao sẽ còn sống mãi với chúng ta như một minh chứng cho tài năng của tác giả.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 27)

Không biết sau này, truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao có trụ vững được trước sự sàng lọc nghiệt ngã của thời gian không nhưng hiện tại, tác phẩm này vẫn được coi là kiệt tác. Từ khi được đưa vào nhà trường phổ thông đến nay, vị trí của tác phẩm trong văn học hiện đại đã được khẳng định trên rất nhiều phương diện. Từ góc nhìn văn hóa, tác phẩm không chỉ hé mở tiếp những giá trị đặc sắc mà theo tôi, còn có thể giải đáp được phần nào vai trò và ý nghĩa của nhân vật Thị Nở – một kiểu nhân vật ngẩn ngơ, xấu xí quen thuộc trong văn Nam Cao.

Thị Nở chắc chắn là sự tái sinh của một kiểu nhân vật cổ tích. Để khẳng định điều này có cơ sở trước hết cần điểm lại một đặc điểm của nhân vật cổ tích. Đó là sự phân cực đến tuyệt đối. Phần lớn các nhân vật cổ tích nếu đã ác thì ác đến không còn tính người, đã nghèo thì tài sản duy nhất chỉ là manh khố, đã thật thà thì hết lần này đến lần khác đều bị lừa, đã xấu thì xấu đến độ dị dạng, … Nghĩa là điểm nào cũng được thể hiện ở mức tận cùng. Nam Cao tuy ảnh hưởng của Tây học nhưng cái nền tảng đầu tiên tạo nên “con người văn hóa” trong nhà văn vẫn là môi trường của nông thôn Việt Nam xưa với những tích chèo, những câu chuyện cổ,… đi vào tâm thức văn hóa dân tộc từ hàng ngàn đời nay. Hẳn không lạ gì với kiểu nhân vật như Quadimodo của V. Hugo nhưng cái nguồn văn hóa chủ yếu chi phối nhà văn xây dựng nhân vật Thị Nở phải là dấu ấn của các câu chuyện cổ tích. Chính nhà văn đã ví Thị Nở là “một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”. Thị Nở chính là sự tái sinh của nhân vật người mang lốt trong cổ tích. Đó là một kiểu của nhân vật phù trợ. Những nhân vật này thường mang lốt cóc, lốt sọ dừa, lốt rắn, hoặc những người xấu xí, dị dạng,… Và thường thử thách phẩm chất của các nhân vật khác để trừng phạt kẻ ác, cứu vớt người lương thiện. Thị Nở cũng vậy, mang bề ngoài xấu xí, đần độn nhưng chính Thị Nở lại cứu vớt lương tri của Chí phèo. Trong truyện Sọ Dừa, cả hai người chị nhà phú ông xa lánh chàng trai mang lốt sọ còn cô út nhân hậu thì chấp nhận lấy chàng và được hạnh phúc. Trong Chí Phèo, cả làng Vũ Đại tránh Thị Nở “như tránh con vật lạ” song Chí Phèo bất ngờ “tiếp cận” được với Thị, thế là nhân tính được cứu rỗi (Điều này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần sau). Nhưng khác với cổ tích, cô út nhà phú ông dù có gặp tai biến cuối cùng vẫn đoàn viên còn ở Chí Phèo, Thị Nở chỉ có thể cứu được nhân tính chứ không thể cứu được số phận của Chí. Ở một khía cạnh khác, khi miêu tả Thị Nở “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” thì nhân vật này cũng là tái sinh của kiểu nhân vật ngốc thuộc lớp người “thấp cổ bé họng”. Và nếu trong cổ tích, nhân vật ngốc dù bị lừa gạt thì vẫn được lực lượng thần kỳ che chở, cuối cùng vẫn được giàu có hoặc lấy được công chúa,… nhưng trong Chí Phèo, Thị Nở là nhân vật bị cô lập, bị bỏ rơi bởi định kiến xã hội. Mặc dù kết thúc tác phẩm chưa phải là kết thúc số phận của Thị Nở nhưng người đọc vẫn hình dung được kết cục của nhân vật trong hoàn cảnh xã hội còn đầy những định kiến hà khắc về người phụ nữ “không chồng mà chửa”. Như vậy, là tái sinh của nhân vật phù trợ “người mang lốt”, Thị Nở không cứu vớt được số phận của Chí Phèo, là tái sinh của nhân vật “thấp cổ bé họng”, Thị Nở không được ai che chở, bênh vực. Nếu cổ tích là “những giấc mơ đẹp” thì đến Nam Cao, giấc mơ ấy bị đổ bể. Hiểu như vậy thì tác phẩm hiện thực phê phán này không chỉ là sự đổ vỡ của “lí tưởng lãng mạn” như bản chất của Chủ nghĩa hiện thực nói chung mà còn là sự đổ vỡ của những giấc mơ đẹp có từ cổ tích. Đó là sự thức tỉnh để nhìn rõ vào bản chất của hiện thực xã hội. Ở thời cổ tích, con người dù chịu bất công vẫn có thể vin vào triết lí “ở hiền gặp lành” làm đức tin còn trong tác phẩm này thông điệp mà Nam Cao muốn chuyển tải là sự cảnh báo về một thời kỳ con người không biết tin vào đâu để sống. Nếu như cách lí giải về nhân vật Thị Nở theo hướng này có lí thì liệu cái lí ấy có liên quan gì đến tư tưởng nghệ thuật và phương thức phản ánh hiện thực của Nam Cao, cái lí ấy liệu có liên quan gì đến những suy tư của nhà văn về con người, xã hội đương thời?

Xung quanh nhân vật Thị Nở, tác phẩm còn tạo nên một lối kết cấu riêng: kết cấu đối xứng. Nếu Thị Nở là sự tái sinh của nhân vật cổ tích thì kết cấu đối xứng là sự tái sinh của một kiểu tư duy có tính bác học thời trung đại – tư duy quan hệ. Lối tư duy này dựa trên nền tảng là triết học  m dương. Đó là cách dùng mặt nọ nói mặt kia trên cơ sở hai mặt đối lập. Chẳng hạn, dùng ánh sáng nói bóng tối hoặc dùng mộng nói thực,… Đành rằng đây không phải là phương thức tư duy của riêng phương Đông nhưng chỉ ở phương Đông, tư duy quan hệ mới được ý thức một cách sâu sắc, triệt để. Trên nền tảng lối tư duy ấy, tác giả dựng lên những cặp nhân vật, sự kiện đối xứng để làm nổi bật nhau như Chí phèo – Thị Nở, Chí Phèo – Tự Lãng, Chí Phèo – Bá Kiến, hoặc như hai câu nói của Chí ở cuối tác phẩm “tao muốn làm người lương thiện” – “ai cho tao lương thiện?” … Đó là những cặp đối xứng dễ thấy và dễ nhận ra tác dụng nhất. Xung quanh nhân vật Thị Nở, tư duy quan hệ còn tạo ra sự đối xứng ở mức độ sâu sắc hơn.

Cặp đối xứng thứ nhất là mối quan hệ giữa hai người đàn bà đi qua cuộc đời Chí Phèo: Thị Nở và bà ba Bà Kiến. Đây không phải là sự suy diễn vì không phải ngẫu nhiên mà tác giả để cho Chí Phèo hồi tưởng lại những ký ức về bà ba khi sống bên Thị Nở. Cả hai người đàn bà này đều tạo nên những bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí phèo. Nếu bà ba xinh đẹp thì Thị Nở lại là “con vật lạ”, là một sự “mỉa mai của hóa công”. Bà ba lẳng lơ một cách ranh mãnh còn Thị Nở thì vô tâm “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích”, đến mức không biết thế nào là lẳng lơ, là xấu. Bà ba chủ động tìm cách “tiếp cận” Chí Phèo còn Thị Nở lúc đầu hoàn toàn bị động trong cuộc gặp gỡ với Chí. Cùng phát khởi từ vấn đề tính dục nhưng sự “ưu ái” của bà ba dành cho Chí chỉ để thỏa mãn nhục dục còn sự chăm chút của Thị Nở là hoàn toàn tự nguyện. Với bà ba, Chí tuy “không phải là đá” nhưng chỉ cảm thấy nhục vì phải phục dịch còn khi được Thị Nở chăm chút, Chí chỉ mong “giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ”. Việc buộc phải quan hệ với bà ba, Chí Phèo trở thành cái gai trong mắt Bá Kiến và đó chính là nguyên nhân trực tiếp đầu tiên để Chí trở thành con quỷ dữ sau này. Sự kiện gặp gỡ với Thị Nở lại là nguyên nhân quan trọng để Chí Phèo dần thức tỉnh ý thức làm người. Mặc dù không hề có một so sánh trực tiếp nào ví Thị Nở như một “thiên thần mang lốt kẻ dị dạng” nhưng tư duy quan hệ vẫn cho phép người đọc hiểu dụng ý của Nam Cao. Khi đã ví bà ba như “con quỷ cái”, người đọc có quyền hiểu rằng hình tượng đối lập với “yêu quỷ” phải là “thiên thần”. Nếu không phải với chức năng ấy, Thị Nở làm sao có thể cứu rỗi linh hồn của Chí một cách kì diệu đến thế. Chỉ khi liên tưởng đến Thị Nở trong chức năng của thiên thần cứu rỗi mà không cứu vớt được số phận của Chí Phèo, ta mới cảm thấy thấm thía những suy tư của Nam Cao về thân phận, số phận con người trong một thời đại “không còn chúa” – thời đại mà triết lí “ở hiền gặp lành” thành ra viển vông. Viển vông vì ở cái làng Vũ Đại này càng hiền càng bị đè nén đến “không ngóc đầu dậy được”.

Cặp đối xứng thứ hai là mối quan hệ giữa hai bữa ăn mà Chí được “chiêu đãi”. Một bữa ăn do Bá Kiến mời và một bữa ăn do Thị Nở nấu cho. Đây cũng là hai dấu ấn quan trọng với Chí.

Bữa ăn nhà Bá Kiến là sự kiện xảy ra khi Chí Phèo vừa ở tù về. Tuy đã biến thành tên lưu manh tha hóa nhưng Chí vẫn nhớ mối thù vì bị đẩy vào tù. Chí uống rượu và đến gây gổ nhà Bá Kiến, xô xát với Lí Cường. Hành động ấy tuy có khiến dân làng hả hê đôi chút vì cái gia đình cụ bá thường ngày xem người như rác mà nay bị một thằng “cùng hơn cả dân cùng” đến mạt sát. Nhưng Bá Kiến đã xuất hiện kịp thời, đuổi khéo dân làng tản đi để Chí bị cô lập và lại “trịnh trọng” mời Chí Phèo vào nhà. Chí Phèo sau một thoáng lo sợ hão đã cảm thấy hả hê vì cái lão Bá “thét ra lửa” kia không chỉ hạ mình thành ngang hàng với Chí mà còn “cung kính” thết đãi cơm rượu. Bữa ăn ấy có đầy đủ rượu thịt, lại được mời mọc bằng những lời ngon ngọt mà thực chất là một thứ “độc dược” để đầu độc linh hồn của Chí Phèo. Gọi là “độc dược” là hợp lí bởi làng Vũ Đại vốn chỉ toàn gắn với những ký ức buồn của Chí. Sau bảy, tám năm ở tù, Chí trở về làng chắc không phải vì người thân, cũng chẳng phải vì mảnh ruộng hay túp lều nào cả bởi Chí vốn không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi. Một cảnh ngộ như thế lại mang tiếng là từng có một án tù, nếu chẳng còn gì vương vấn chắc Chí sẽ đi biệt tích như cô Đào trong truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải. Chí về làng chỉ với mục đích duy nhất là trả thù. “Hắn về hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa cho đến xế chiều” rồi “ngật ngưỡng” đến nhà Bá Kiến. Điều đó chứng tỏ, bảy, tám năm qua, Chí đã từng nung nấu mối thù với lão Bá. Thế mà chỉ bằng một bữa ăn với vài lời ngon ngọt, Chí đã bị đầu độc đến mức không chỉ quên đi mối thù mà còn trở thành tay chân của lão.

Bữa ăn được Thị Nở “thết đãi” là sự kiện diễn ra sau đêm “đôi lứa xứng đôi” bất ngờ gặp nhau. Nếu Bá Kiến thết đãi Chí Phèo với động cơ nham hiểm là thu phục và lợi dụng thì Thị Nở chăm chút Chí phèo bằng một tình cảm yêu thương hồn nhiên, vô tư. Nếu bữa ăn nhà Bá Kiến có đủ rượu thịt thì bữa ăn của Thị Nở chỉ vẻn vẹn một nồi cháo hành. Sau bữa ăn nhà Bá Kiến, Chí Phèo lại được thêm tiền và hả hê ra về còn sau bữa ăn của Thị Nở, Chí vừa có cảm giác cay đắng khi nghĩ lại đời mình lại vừa có nỗi khát thèm hạnh phúc đời thường. Và điều quan trọng nhất, nếu bữa ăn nhà Bá Kiến là thứ “độc dược” nhằm hoàn tất công việc của nhà tù thực dân, đầu độc nhân tính của Chí Phèo thì bát cháo hành của Thị Nở lại là thứ “linh dược” làm hồi sinh nhân tính trong Chí. Sau bữa ăn nhà Bá Kiến, Chí bắt đầu những chuỗi ngày đâm thuê, chém mướn, rạch mặt ăn vạ, “triền miên trong những cơn say”. Sau khi ăn cháo hành, cái sức mạnh quỷ dữ bị gạt bỏ, bị tiêu trừ dần, khiến Chí cảm thấy yếu đuối, sợ ốm đau, tuổi già và sự cô độc, nhất là sự cô độc, “cái này còn đáng sợ hơn đói rét, ốm đau”.

Hai cặp đối xứng vừa kể trên có tác dụng đặc biệt trong dụng ý đặt ra vấn đề quen thuộc ở các sáng tác của Nam Cao – vấn đề “đôi mắt”. Nghĩa là nhà văn cho rằng muốn nhìn cuộc sống một cách đúng đắn thì phải “cảnh giác” với những biểu hiện bên ngoài. Nếu chỉ nhìn bề ngoài, ta sẽ chỉ thấy bà ba xinh đẹp, Thị Nở xấu xí, chỉ thấy bữa ăn nhà Bá kiến đầy đủ rượu thịt còn bát cháo hành xoàng xĩnh. Nhưng trong thực tế, cái giá trị nhân văn đích thực của cuộc sống nhiều khi lại núp sau cái vẻ ngoài xấu xí, xoàng xĩnh. Đó là một trong những ý nghĩa triết lí sâu sắc của tác phẩm, là tiếng nói thường đau đáu trong văn Nam Cao.

Xét đến những tác động của hoàn cảnh đến tâm tính của Chí Phèo, có thể kể đến sự đối xứng giữa Thị Nở và nhà tù thực dân. Nếu nhà tù thực dân tiếp tay cho Bá Kiến biến một người lương thiện thành một kẻ lưu manh, tha hóa thì Thị Nở lại biến con quỷ dữ của làng Vũ Đại trở lại làm một con người. Nhà tù tác động đến Chí Phèo một cách có chủ ý còn Thị Nở lại vô tình. Vô tình vì Thị Nở cùng lắm chỉ biết rằng mình vừa cứu sống một con người khỏi chết vì bị cảm chứ đâu có ý thức về sự cứu rỗi. Vô tình vậy mà sức tác động đến Chí Phèo lại vô cùng bất ngờ. Chí Phèo trở lại ý thức người đột ngột đến mức mà bộ óc Tào Tháo của Bá Kiến cũng không ngờ tới. Nội dung nhân đạo toát ra từ cặp đối xứng này chính là sự đề cao sức mạnh của tình người. Tình người có sức mạnh hơn bất cứ thứ bạo lực nhà tù nào. Để nhào nặn nên con quỷ dữ Chí Phèo, nhà tù thực dân phải mất bảy, tám năm trời nhưng để biến Chí thành một con người Thị Nở chỉ cần có vài ngày ngắn ngủi.

Lâu nay, tác phẩm của Nam cao thường được nhìn nhận trong những ảnh hưởng phức tạp của các trào lưu văn học lớn từ phương Tây, thậm chí kể cả Chủ nghĩa tự nhiên. Đó là điều không ai có quyền nghi ngờ nhưng ở mỗi nhà văn lớn thường có sự kế thừa những tinh hoa truyền thống kết hợp với hiện đại. Nếu nhìn từ truyền thống, từ góc độ văn hóa, có thể tầm vóc của nhà văn sẽ được tôn vinh thêm rất nhiều? Với ý tưởng ấy, bài viết này đã mạnh dạn nêu lên vài suy nghĩ xung quanh nhân vật Thị Nở.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 28)

   Khi xây dựng nhân vật Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã hạ bút những dòng này: “Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy”. Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như ba mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thì chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai “dự án thiết kế ban đầu” này?

   Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi… lúc nào cũng cứ “vô tâm” như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

   Thì đây, sau lần “ăn nằm” với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thảy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi “ngoay ngoáy cái mông đít” ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở – Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo – tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao”. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo – chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi… Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

   Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một – đi ở tù, lần hai – tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

   Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất “nhân chi sơ, tính bản thiện” của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng – lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Thế mới biết Nam Cao thương nhân vật của mình biết mấy!

   Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không xấu tí nào cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả diện mạo lẫn tâm hồn?

   Thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: Ngoại hình và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ… Cô Tấm đã đẹp là đẹp hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan phụ mẫu trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì… Nhưng đến Nam Cao, ông tiến hành ngược hẳn, và phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi mã ngoài khá đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn…), hoặc chỉ nội một phương diện tâm hồn thôi cũng vừa có đẹp, vừa có xấu (Điền, Hộ, Thứ – các nhân vật trí thức)… Ông đã nhận thức con người với tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả chúng theo nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên – loại nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam Cao đã triệt để đi theo nguyên tắc này.

   Thêm nữa, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua và chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển hình xã hội với tư cách là đại diện tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ, dị biệt (nhiều khi oái oăm, trái khoáy) của cuộc đời. Những thứ ấy không phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ chi tiết, hình ảnh, tình huống truyện… và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu thân phận Lão Hạc, Bá Kiến, Thứ, Điền… có nhiều trong thực tại, chứ còn Lang Rận, Mụ Lợi, Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị Nở cũng là một mảnh vụn dị biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người không ngại, và nhiều khi tỏ ra đầy nhiệt hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm, nham nhở của cõi người.

   Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một hình ảnh đàn bà nào như Thị Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, dân gian cũng đã có lần chê bai những người đàn bà thuần xấu xí: “Con gái Sơn Tây yếm thủng tày dần”, hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: “Lỗ mũi mười tám gánh lông…”. Ta còn có thể tìm thấy thêm những câu tục ngữ ca dao khác “kể xấu” về người đàn bà nữa. Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngôn ngữ bùn đất quê kiểng như Nam Cao không thể không biết đến những bài ca “ngoa ngoắt” kiểu ấy.

   Đến đây, câu hỏi trên kia có phần sáng tỏ. Rõ ràng, Nam Cao có chủ định, có quan niệm hẳn hoi khi xây dựng nhân vật của mình. Ông đã nhất quán từ đầu đến cuối để cho nhân vật Thị Nở của mình thậm xấu như vậy.

   Hiểu được đúng và trả lại ý nghĩa cùng kích thước có tầm khái quát cho hình tượng nhân vật Thị Nở, một lần nữa tác phẩm Chí Phèo sẽ sống dậy với nhiều tầng nghĩa thú vị…

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 29)

“Chí Phèo” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về hoàn cảnh sống và số phận khốn cùng của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật Chí Phèo thì có lẽ Thị Nở cũng là một nhân vật để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm…

Ngay từ những dòng viết đầu khi giới thiệu về nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã để lại ấn tượng trong lòng người đọc.

Về lai lịch, Thị Nở được nhà văn giới thiệu là “không có ai thân thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già”. Thị là một người có diện mạo xấu xí mà theo cách miêu tả của nhà văn là đến mức “ma chê quỷ hờn”. Nhà văn đã dành một đoạn viết khá tỉ mỉ khi miêu tả và ngoại hình của thị: “Cái mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó lại ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật tai hại, nếu như hai má nó phúng phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn […] Đã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu”. Thị được miêu tả chân thực về diện mạo như vậy khiến cho người đọc có cảm tưởng khó có thể tìm đâu một người có thể xấu hơn thị.

Phân tích nhân vật Thị Nở, người đọc nhận thấy bản thân việc sở hữu một diện mạo kém sắc đã là một bất hạnh của người phụ nữ, ấy thế mà Thị lại còn dở hơi, gia cảnh nghèo khó và “thị lại là giòng giống của một nhà có mả hủi”. Vì dở hơi nên thị thường hành động hoàn toàn dựa trên bản năng và “có một cái tật không sao chữa được: có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay là đang làm gì”. Vì cái nghèo đeo bám và phải sống qua ngày bằng cái nghề đi gánh nước thuê để kiếm sống nên Thị Nở không được để ý. Thị Nở cũng không có cơ hội được lập gia đình và “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm”.

Qua những chi tiết miêu tả về diện mạo, tính tình Thị Nở, Nam Cao có thể để lại cho người đọc tiếng cười trào phúng nhưng đằng sau tiếng cười ấy, ta cũng cảm nhận được một chút gì đó về sự đáng thương. Đó là thương cho thân phận bất hạnh của nhân vật chỉ vì những điểm đó mà nhân vật không được đón nhận và chấp nhận.

Nếu như Chí Phèo bị người làng Vũ Đại cự tuyệt bởi tội ác của quỷ thì Thị Nở bị mọi người hắt hủi bởi vì xấu xí, vì tính cách “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” và lại còn có “dòng giống mả hủi”. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy dường như không chỉ có Chí Phèo mà Thị cũng là một người cô đơn chịu sự ghẻ lạnh của xã hội loài người.

Thị Nở vốn là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, giàu lòng thương người, một người luôn mong muốn khát khao hạnh phúc gia đình. Bên cạnh đó, Thị Nở cũng là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề của tác phẩm về bi kịch cuộc đời Chí Phèo – Đó cũng là những nét chính khi phân tích nhân vật Thị Nở.

Dù được xây dựng trong hình ảnh của một người xấu xí nhưng Nam Cao không hoàn toàn vì mục đích miệt thị nhân vật mà là muốn làm nổi bật tình người nơi Thị trong mối quan hệ giữa Thị và Chí Phèo.

Khi phân tích nhân vật Thị Nở sẽ thấy Thị xuất hiện ở đoạn truyện Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại và sau khi uống rượu say từ nhà của Tự Lãng, Chí Phèo lảo đảo ra về, nhưng không về về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng. Sau cuộc gặp đó, thị đã sống cuộc sống vợ chồng trong năm ngày với Chí Phèo. Tưởng chừng đó là quyết định của một con người dở hơi như Thị Nở, là một hành động cũng thuộc về bản năng nhưng chính nhờ vào quyết định ấy mà những gì thuộc về phẩm chất tốt đẹp của một con người đã được bộc lộ ở một người phụ nữ xấu đến “ma chê quỷ hờn” như thị.

Nhờ gặp Chí Phèo, Thị có cơ hội được quan tâm, chăm sóc người khác khi Chí Phèo nôn mửa, Thị biết “đặt bàn tay lên ngực hắn” để hỏi han sau đó “quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Hành động của Thị Nở không phải là hành động thể hiện sự đáp trả cho sự việc diễn ra giữa hai người trong đêm mà là hành động của tình người.

Điều đó được thể hiện trong sự xuất hiện của Thị Nở vào buổi sáng hôm sau, khi Chí Phèo suy nghĩ về cuộc đời, về việc “hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau” rồi hắn có thể như sắp khóc được thì thị đã đến như một sự cứu rỗi linh hồn. Khi đến nhà Chí Phèo, Thị Nở lại mang đến một bát cháo hành còn nóng nguyên. Một người ngẩn ngơ, tưởng chừng như không biết quan tâm mọi người như thị lại có thể dành tình sự chăm sóc cho người khác.

Thị mang đến cho Chí Phèo bát cháo hành và đồng thời, thị cũng bắc cho Chí Phèo một nhịp cầu trở về với đời sống của một con người lương thiện. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy hương vị của bát cháo hành đã khiến Chí Phèo thật sự xúc động vì lần đầu tiên trong đời, Chí được người ta cho ăn mà không cần phải rạch mặt ăn vạ. Lần đầu tiên trong đời, Chí được ăn và được chăm sóc bởi bàn tay của người phụ nữ vì từ thuở lọt lòng, Chí đã bị bỏ rơi. Cũng là lần đầu tiên trong đời, Chí Phèo được ăn trong ánh mắt trìu mến của Thị Nở để rồi hắn cảm nhận được hình như mình cũng được xem là một con người.

Thị Nở đã thực sự đánh thức phần người còn lại của Chí Phèo bằng tình yêu thương, giúp cho những ước mơ và khát vọng ngày xưa trong Chí Phèo có cơ hội thức dậy. Trong cái xã hội bị tha hóa và con người thường tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn và định kiến với những người xung quanh, người ta không chấp nhận, mặc kệ sự tồn tại của người lầm lỡ như Chí Phèo, người ta cho Thị Nở là kẻ ngẩn ngơ thì chính thị lại là người đã dùng tình người đã đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong Chí Phèo.

Trong tác phẩm, sau khi sống cuộc sống vợ chồng năm ngày với Chí Phèo, ta còn thể thấy được ở Thị Nở một niềm khát khao chính đáng về hạnh phúc gia đình. Khi phân tích nhân vật Thị Nở sẽ thấy Thị dù có xấu xí như thế nào, dở hơi ra sao thì thị có lẽ thẳm sâu trong người phụ nữ ấy cũng có mong muốn được có niềm hạnh phúc của một mái ấm như biết bao người phụ nữ trên đời.

Đối với Chí Phèo, Thị Nở có cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích” và trong mối quan hệ ấy, thị thật sự nghiêm túc trong việc muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với Chí Phèo nên đã đưa ra quyết định “dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Thị có lẽ cũng muốn cuộc hôn nhân dù có được một cách ngẫu nhiên như thế nhưng cũng cần đến sự đồng thuận của người bề trên chăng?.

Thị có lẽ cũng đã hi vọng, đã tin tưởng rằng mong muốn chính đáng đó của mình sẽ được sự chấp thuận của người cô nhưng đến cuối cùng điều thị ước ao lại không trở thành hiện thực. Thế nên sau khi bị cô chối từ, thị đã giận dữ và tức tối rồi “dẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng”.

Quyết định của bà cô chính là biểu hiện của những định kiến xã hội trong việc chối từ sự trở lại làm người của Chí Phèo nhưng đồng thời cũng tước đoạt đi cái quyền được trở thành một người phụ nữ của gia đình như Thị Nở. Chí Phèo rơi vào bi kịch và Thị Nở cũng trở nên hết sức đáng thương.

Thị Nở đã đến với Chí Phèo như một cái duyên và chính nhờ tình yêu của thị mà Chí Phèo có mong muốn được sống một cuộc đời lương thiện nhưng thị cũng lại chính là người đầu tiên ruồng bỏ Chí Phèo và khiến hắn thật sự phải gánh chịu bi kịch bị cự tuyệt của một con người.

Sau khi hỏi ý kiến người cô, Thị Nở đã quyết định “dừng yêu” và bỏ rơi Chí Phèo. Khi phân tích nhân vật Thị Nở, ta thấy quyết định đó của Thị đã khiến Chí Phèo nhận ra một điều là tất cả những ước mơ, khát vọng trong mình đã thực sự đổ vỡ. Kể cả những ước mơ nhỏ bé như được làm bạn với mọi người, được sống một cuộc đời lương thiện hay được xây dựng tương lai với Thị Nở cũng trở nên quá tầm với Chí Phèo.

Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đã chạy theo nắm tay như cố níu kéo cuộc sống được làm một con người. Thế nhưng, Thị Nở đã dứt khoát gạt tay hắn ra và còn xô hắn ngã. Thị đã đẩy Chí Phèo trở về đời sống của một con quỷ. Chí Phèo khóc khi nhận ra bi kịch lớn nhất của cuộc đời mình: bi kịch không thể vượt qua được định kiến xã hội, bi kịch của một con người được sinh ra làm người nhưng không được chấp nhận là người.

Về nội dung, truyện ngắn “Chí Phèo” đã thể hiện tấm lòng thương cảm của mình với số phận bi đát của người nông dân nghèo khi bị đẩy vào con đường lưu manh hóa đến độ bế tắc, cùng đường và phải chịu một kết cục không lối thoát. Đồng thời, tác phẩm cũng đại diện cho tiếng nói phê phán của nhà văn đối với một xã hội quần ngư tranh thực với đầy rẫy những cường hào ác bá khiến người dân không thể ngóc đầu lên được

Về nghệ thuật, Nam Cao đã hết sức thành công trong cách xây dựng nhân vật và tổ chức, sắp xếp cốt truyện hết sức hấp dẫn, giàu kịch tính. Đặc biệt, tác phẩm đã sử dụng hệ thống ngôn từ vừa tinh tế, vừa sống động, nhất là với những đoạn độc thoại nội tâm đã cho tạo nên hiệu quả rất lớn đối với việc phân tích tâm lí nhân vật.

Riêng với việc xây dựng hình ảnh nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã cho thấy tấm lòng trân trọng của mình với những vẻ đẹp khuất lấp nơi một con người dù có dung mạo xấu xí, có tính cách gàn dở. Đồng thời, nhà văn cũng đã lên tiếng tố cáo xã hội với những định kiến tàn nhẫn, những định kiến ấy đến độ nếu không đẩy con người lầm lạc như Chí Phèo đến cái chết bi thảm thì cũng khiến một người phụ nữ như Thị Nở bị tước đoạt niềm khao khát chính đáng về một mái ấm gia đình.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 30)

Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao khi viết về đề tài người nông dân. Bên cạnh nhân vật chính Chí Phèo để lại những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc, thì ta cũng không thể quên được một Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn, nhưng lại có tấm lòng thương người sâu sắc. Nhân vật là một nét mới, làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

Thị Nở được miêu tả bằng biện pháp cực tả, được Nam Cao nhận xét là xấu ma chê quỷ hờn: Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế Thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.

Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu. Cái xấu của Thị Nở đã đạt điển hình, có thể coi như một mẫu mực về cái xấu, trong cuộc sống này có lẽ ít ai lại có thể xấu đến như vậy. Chính bởi vẻ ngoài quá xấu xí, tính tình lại dở hơi, sống trong gia đình là mả hủi nên Thị Nở không có cơ hội để tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.

Bản thân Thị Nở cũng là một số phận bất hạnh. Vẻ đẹp của Thị Nở có thể không được phô bày ra bên ngoài, dễ dàng, rõ thấy mà nó là vẻ đẹp ẩn chìm, khuất lấp bên trong, đó là vẻ đẹp của nhân cách, của lòng yêu thương con người.

Thị Nở và Chí Phèo gặp nhau ở bờ sông, khi thị Nở nằm cạnh gốc chuối ngủ, còn Chí uống rượu say ở nhà Tự Lãng trở về ra bờ sông tắm. Sự gặp gỡ của họ thật tình cờ. Nhưng sự gặp gỡ đó mở ra cơ hội hạnh phúc cho cả hai người, đặc biệt là với Thị Nở. Sau đêm đó, Thị Nở dìu Chí Phèo về lều do hắn bị cảm, trước khi về Thị Nở không quên đắp manh chiếu cho Chí khỏi lạnh.

Cử chỉ nhỏ bé nhưng cho thấy tình yêu thương, sự quan tâm của Thị với Chí. Thị trở về nhà vẫn luôn quan tâm lo lắng và có trách nhiệm với Chí : “Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà…”.

Ý thức được trách nhiệm của bản thân với Chí, sáng hôm sau Thị Nở nấu cháo và mang sang tận nơi, cử chỉ của Thị nở thấm đẫm tình yêu thương, Thị giục Chí ăn nhanh, trong giọng nói không chỉ là sự quan tâm, lo lắng mà còn đầy tình tứ. Nụ cười của Thị với những người xung quanh thật xấu xí và vô duyên, nhưng với Chí thì Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Dưới con mắt tình nhân mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ hơn, và cũng nhờ sự quan tâm của Thị Nở trong Chí dần dần phần người, phần nhân tính đã trở lại.

Với nhân vật Thị Nở ta không thể quên chi tiết bát cháo hành. Đó không chỉ đơn thuần là bát cháo giúp Chí giải cảm mà đó còn là bát cháo của tình thương, trách nhiệm và bát cháo của sự hồi sinh nhân tính. Bát cháo đã làm Chí vô cùng ngạc nhiên, hết ngạc nhiên hắn thấy mắt mình ươn ướt, vì đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm từ một người đàn bà, và đây cũng là lần đầu hắn biết cháo hành ngon đến vậy. Bởi có ai nấu cho mà ăn đâu ? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa ! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà".

Không chỉ vậy, Thị Nở còn là người biết khao khát hạnh phúc. Sau đêm ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở về nhà và lăn lộn không ngủ được, nghĩ đến những chuyện đã qua, nghĩ đến hai chữ “vợ chồng” và thức dậy cho mình bản năng, khát vọng hạnh phúc đã ấp ủ từ lâu. Trước lời đề nghị về sống chung với Chí, Thị Nở đã sẵn sàng vượt qua định kiến, sang ở với Chí năm ngày. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ và hạnh phúc nhất của Thị.

Sau năm ngày chẵn, Thị chợt nhớ ra mình còn có bà cô và Thị trở về nhà hỏi ý kiến của bà cô để hợp thức hóa quan hệ với Chí Phèo, để cũng được hưởng hạnh phúc bình dị như biết bao người phụ nữ khác. Nhưng trước lời đay nghiến, chỉ trích của bà cô: Đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hắn: ai lại đi lấy thằng Chí Phèo. Mọi cơ hội hạnh phúc bị dập tắt, tính Thị lại dở hơi nên đem bao nhiêu bực dọc sang đổ lên đầu Chí Phèo và quay trở về không mảy may nghĩ ngợi.

Thị là người đã khơi dậy niềm tin vào tương lai, hi vọng cho Chí, nhưng cũng chính là người đã dập tắt, đã ngăn con đường trở về làm người lương thiện của Chí Phèo. Chi tiết cuối tác phẩm, khi Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát, sau đó Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng thấy cái lò gạch cũ, như một dự báo về một Chí Phèo con ra đời. Cái kết đầy ám ảnh, nó cũng như ngầm dự báo về tương lai mờ mịt của Thị Nở.

Nhân vật Thị Nở chỉ là nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng với nhân vật này Nam Cao cũng bộc lộ niềm thương yêu và cảm thông sâu sắc đến số phận bất hạnh của họ. Nhân vật có ý nghĩa quan trọng đối với việc thể hiện chủ đề tác phẩm và góp phần thúc đẩy câu chuyện phát triển.

Bằng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật Thị Nở, cho thấy số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng. Đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp nhân cách sáng ngời đằng sau lớp vỏ xù xì, xấu xí. Nhân vật đã góp phần hoàn chỉnh chủ đề và thúc đẩy truyện phát triển hợp lí.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 31)

Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.

Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.

Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.

Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phác thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.

Tuy chỉ là nhân vật rất phũ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.

Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ – xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.

Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.

Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật này đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 32)

Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, Thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đáng nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình Thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế là cả một công trình đô thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 33)

Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.

Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.

Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là "xấu ma chê quỷ hờn". Với diện mạo được tác giả miêu tả "Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn da. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.

Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví " xấu như Thị Nở", chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.

Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.

Ngay trong đêm trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.

Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.

Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xây dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 34)

Được biết đến là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao dường như không hề tô vẽ những cuộc đời, hay tô hồng những số phận của người nông dân. Có lẽ những nhân vật của Nam Cao luôn luôn là những con người bình dị, chân quê và rất đỗi chất phác nhưng thật dễ dàng có thể nhận ra rằng các nhân vật của ông thường có tướng mạo xấu xí và thô kệch. Và có thể nói rằng nhân vật Thị Nở là một nhân vật cũng đã thể hiện được những đặc tính này của nhà văn Nam Cao.

Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở thật xấu xí, và phải khẳng định rằng Nam Cao không phải nhà văn muốn bôi nhọ người phụ nữ Việt Nam, mà dường như là ngược lại, tác giả như đã muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tận sâu tâm hồn của họ.Cho dù là hình hài của họ có phần xấu xí đến nỗi "ma chê quỷ hờn". Mà ở nhân vật Thị Nở thì xấu thật. Ta có thể thấy Nam Cao miêu tả Thị Nở "Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công, nó dường như đã ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn... Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành...". Chỉ với những dòng miêu tả thật đầy chân thực như thế này, ó lẽ người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì dường như không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. Hay thêm một câu văn nữa "đã thế thị lại dở hơi... Và thị lại nghèo... Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, nhân vật Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà nhân vật Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo. Chí Phèo được ví như một con quỷ của làng Vũ Đại mà bất cứ ai cũng phải xa lánh. Dường như ta thấy đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi đã để cho một kẻ có diện mạo, hình hài dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đã được đến với nhau và yêu nhau. Có lẽ chính câu chuyện tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người. Và cho hai con người này đến với nhau như là một dụng ý nghệ thuật, chẳng phải ngẫu nhiên mà có thời kỳ tác phẩm "Chí Phèo" lại có tên là "Đôi lứa xứng đôi".

Thị Nở từ một người đàn bà xấu xí đến cùng cực lại còn dở hơi đã trở thành một người phụ nữ đã thật biết quan tâm và lo lắng cho người khác đó là câu "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng.... Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Nhà văn Nam Cao thật tinh tế khi đã phát hiện ra nhiều điều hay ở con người xấu xí này. Và khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị Nở dường như cũng đã coi đó là người đàn ông của đời mình, và cũng vì vậy mà Thị đã hết sức lo lắng và thương yêu. Thật dễ có thể cảm nhận được ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị lúc đó tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên biết bao nhiêu.

Người đọc không thể nào quên chi tiết bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những sự quan tâm tận tình mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn lúc này đây thực sự xúc động. Và lúc đó hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn có lẽ đã ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì tình yêu thương, quan tâm chăm sóc của người đàn bà này mà Chí Phèo như đã muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời thật bình dị và có biết bao hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói rằng trong tình yêu của người đàn bà dù xấu xí như Thị nhưng dường như vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không một ai, ngay cả làng Vũ Đại ngoài thị Nở ra thì không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo. Vậy mà thật ngạc nhiên chỉ một người phụ nữ xấu xí lại còn dở hơi bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi của mình lại có thể làm được.

Quả thật nhà văn Nam Cao đã rất thành công khi ông đã xây dựng hình ảnh con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng điều đó còn thật đáng nể khi thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí đến nỗi ma phải chê, quỷ phải hờn. Dường như chính con người phụ nữ đầy tình thương yêu cũng như tấm lòng bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Ta có thể thấy chính tình yêu của người đàn bà xấu xí đó chính là một tình yêu chân thành, và thứ tình cảm đó xuất phát từ trái tim, và chính từ lòng cảm thông sâu sắc điều đó thật rất đáng trân trọng biết bao nhiêu. Với nhân vật Thị Nở thì đó chính là tia sáng, là niềm hy vọng, còn là một cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, và giúp cho Chí Phèo sống với cộng đồng. Cho dù sau này như thế nào đi chăng nữa, cho dù Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì đối với nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành dường như vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, đối với một số phận. Có lẽ điều đó để cho ngay cả những kẻ cùng đường, hay lạc lối thì dường như ở họ vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, họ như vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm đặc sắc "Chí Phèo" thì dường như người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Ta có thể thấy những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng ở họ dường như lại có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như nhân vật Thị Nở cũng đã khiến cho không ít người đọc nhớ mãi. Và cho dù xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm kia người đã như làm cảm hóa được một "con quỷ dữ" của làng Vũ Đại. Ở người phụ nữ đó như đã thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Và đó dường như là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Chí Phèo - nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thực dân, bị chúng đẩy vào bước đường cùng, trở nên lưu manh hóa mất hết nhân dạng, nhân tính, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại, chỉ đến khi gặp được Thị Nở - một con người bất hạnh không kém đã khơi dậy bản tính lương thiện vốn đã ẩn khuất trong con người Chí từ lâu, cùng phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để cảm nhận rõ hơn giây phút thức tỉnh, niềm khát khao làm người mãnh liệt của Chí Phèo.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 35)

Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam, có lẽ vì vậy mà Nam Cao không khoác lên mình của những nhân vật của mình màu sắc lãng mạn, lí tưởng mà lại nhìn nhận họ ở những khía cạnh rất con người, ở chiều sâu bản chất và tính cách.

Trong các sáng tác của Nam Cao, độc giả có thể bắt gặp rất nhiều những nhân vật có ngoại hình xấu xí, dở hơi nhưng bên trong cái diện mạo xù xì, xấu xí ấy lại là những giá trị tốt đẹp, đáng trân trọng. Nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo là một trong những nhân vật như vậy.

Dưới ngòi bút của Nam Cao, nhân vật Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ xấu xí, dở hơi, nhà lại có mả hủi nên giống như Chí Phèo, Thị Nở bị cả làng Vũ Đại xa lánh, sống cô độc, lủi thủi vô cùng đáng thương. Miêu tả về Thị Nở, nhà văn Nam Cao đã viết “ cái mặt của Thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, …cái mặt hao hao như mặt lợn, cái mũi ngắn to, đỏ vừa sần sùi như quả cam sành”.

Không những thế, Thị Nở lại dở hơi, nghèo khó và nhà có mả hủi, tất cả người dân trong làng Vũ Đại đều ghê sợ và tránh Thị như tránh một con vật “rất tởm”. Đã có không ít những đánh giá cho rằng Nam Cao đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi miệt thị con người. Tuy nhiên, đó lại là dụng ý nghệ thuật đặc biệt của Nam Cao, tác giả đã miêu tả Thị với những nét xấu xí, thô kệch “ma chê quỷ hờn” như vậy nhằm làm nổi bật lên những giá trị đáng trân trọng bên trong.

Một con người xấu xí, dở hơi như Thị Nở nhưng lại là con người giàu tình thương, thấy Chí Phèo ốm đau mà không có người chăm sóc, Thị đã động lòng thương vì biết nếu mình mà bỏ hắn thì không có ai chịu giúp hắn: “ Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc….Phải cho hắn ăn gì cũng được”. Đến đây, ai có thể ngờ được một con người bị cả làng xa lánh, ghê tởm như Thị lại là người ấm áp, biết quan tâm đến đồng loại như vậy. Hành động của Thị cao cả biết mấy, liệu mấy người tự xưng lương thiện, cho mình quyền kì thị, xa lánh người khác kia có thể làm được.

và sự quan tâm người đàn bà xấu xí ấy đã cảm hóa, làm thức tỉnh phần nhân tính bên trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo. Tình thương của Thị Nở đã đưa Chí về với con đường lương thiện, trở về với giấc mơ bình dị khi còn trẻ “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”.

Nếu Thị Nở là người đã mở ra con đường lương thiện, khát khao hạnh phúc cho Chí Phèo thì cũng Chí cũng chính là người trân trọng Thị nhất, nhờ có Chí, Thị Nở lần đầu trải nghiệm hạnh phúc như bao nhiêu người đàn bà khác. Bát cháo hành của Thị có ý nghĩa thật lớn lao, đó không chỉ là biểu hiện của sự yêu thương, giúp đỡ của Thị đối với Chí mà hơi ấm từ bát cháo hành đã lay động đến phần lương thiện sâu thẳm bên trong con người Chí.

Nó khiến Chí nhớ đến những giấc mơ thời trai trẻ và bắt đầu nhận thức được những sai lầm, tội ác mà mình đã làm. Hơn hết Chí muốn quay trở lại làm người lương thiện, Chí muốn làm hòa với mọi người và Thị sẽ là cầu nối để Chí trở về với con đường lương thiện.

Thị cũng muốn cùng Chí xây dựng lên hạnh phúc nhỏ nhưng định kiến xã hội mãi mãi vẫn không thể buông tha cho hai người. Trước những lời mắng chửi cay nghiệt của bà cô, Thị Nở đã về nhà và trút hết những bực dọc và những ganh ghét ích kỉ mà bà cô nói với mình cho Chí Phèo. Tuyệt vọng vì con đường trở về với lương thiện bị chặn đứng, Chí Phèo đã quyết định giết chết Bá Kiến và tự tử.

Hình ảnh Thị Nở chạm tay vào bụng mang đến cho người đọc liên tưởng về một Chí Phèo còn có thể đã định hình trong bụng thị, là dấu hiệu của sự nối tiếp bi kịch.Cuộc đời Thị tiếp theo như thế nào không ai biết vì tác giả cố tình bỏ ngỏ nhưng ta có thể cảm nhận được con đường Thị tiếp tục đi vẫn sẽ còn lắm những khổ đau, cô độc.

Thị Nở là một trong những thành công của Nam Cao khi xây dựng hệ thống nhân vật cho truyện ngắn Chí Phèo. Thị tuy là con người xấu xí, dở hơi bị cả làng ghét bỏ nhưng bên trong con người ấy lại có những vẻ đẹp đáng quý, đáng trân trọng.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 36)

“Chí Phèo” là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao phản ánh nỗi thống khổ của người nông dân dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm thành công với việc khắc họa hình tượng nhân vật Chí Phèo nhưng bên cạnh đó nhân vật phụ thị Nở cũng có vai trò quan trọng trong truyện. Bởi thị tuy xấu xí về ngoại hình nhưng đẹp về nhân cách, là người thức tỉnh lương tri bị ngủ quên trong Chí, thị Nở trở thành kiểu nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học.

Nhân vật thị Nở xuất hiện trong hoàn cảnh một đêm trăng thanh ả đi gánh nước rồi ngủ quên bên bụi chuối cạnh nhà Chí. Anh Chí vừa uống rượu say bên nhà tự Lãng vô tình gặp “một người đàn bà ngồi tênh hênh" với bản năng của người đàn ông cùng bát cháo hành tình yêu của thị Nở là cầu nối vô hình để Chí hoàn lương.

Thị Nở xuất thân là con nhà nghèo không còn ai thân thích ngoài bà cô già cũng không chồng như thị. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre, thị sống bằng nghề lặt vặt ở làng, chủ yếu là gánh nước thuê kiếm ăn. Đã nghèo lại còn xấu và ngẩn ngơ. Có lẽ thị là nhân vật nữ xấu nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà nhà văn miêu tả.

“Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu, cái nghèo cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy” nghèo, xấu, ngẩn ngơ tạo thành ba đỉnh tam giác không nhân vật nào có được như thị. Ngòi bút của ông thật tài tình khi miêu tả gương mặt: “Một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” chỉ bốn từ “Ma chê quỷ hờn” ta có thể hình dung ra cái mặt của thị là một sự mỉa mai của hóa công khiến cho người ta sợ hãi và lảng tránh bởi dòng giống con nhà mả hủi.

Không phải Nam Cao bôi nhọ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt, phải chăng đây cũng là một dụng ý nghệ thuật tác giả để thị như vậy mới “sánh” được với Chí Phèo-một thằng lưu manh chuyên hành nghề rạch mặt ăn vạ. Khác với cách miêu tả nhân vật truyền thống là ngoại hình bên ngoài phải ăn nhập với nhân phẩm bên trong nhưng thị đi ngược lại hoàn toàn với điều đó.

Thị Nở - người đàn bà xấu về ngoại hình nhưng lại có nhân cách tốt đẹp, đáng trân trọng. Thị đã dành tình yêu thương chân thành, mộc mạc cho Chí khi đã ngủ cùng hắn trong đêm trăng thanh dưới bụi chuối hai linh hồn cô độc đã tìm về để sưởi ấm cho nhau. Thị đã dìu Chí vào trong túp lều xộc xệch sau trận nôn mửa lúc nửa đêm, tình yêu bắt đầu chớm nở từ bát cháo hành.

Chí ngạc nhiên và cảm động vô cùng bởi đây là lần đầu tiên hắn được săn sóc bởi tay một người đàn bà. Chính thị đã khiến Chí tỉnh lại sau bao cơn say triền miên vô tận. Ăn bát cháo bát cháo hành từ tay thị Nở hắn bỗng nhận ra rằng: “cháo hành rất ngon, bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được sao lại chỉ gây thù?” bát cháo ấy là hương vị của hạnh phúc của tình thương chân chất những con người nghèo khổ dành cho nhau.

Trong mắt của kẻ say tình lúc này thị Nở bỗng trở nên có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Phải chăng ấy là cái duyên ngầm bấy lâu đã bị xã hội vùi dập nay mới có cơ hội thể hiện ra bên ngoài. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện ra điều đó qua cái nhìn của một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Thị còn là người cho Chí hy vọng được hoàn lương, mong muốn làm người lương thiện, khao khát trở lại với cuộc đời bình thường: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao… thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không được” thị chính là cầu nối giữa hắn với mọi người, thị là người cứu rỗi linh hồn tội lỗi đưa nó trở về với bản chất lương thiện.

Lúc này Chí mong muốn có được hạnh phúc gia đình bình dị như mơ ước khi còn là một anh canh điền hiền lành“Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ ở nhà dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thị Nở đã đánh thức lương tri làm người bị ngủ quên, bị khuất lấp trong con người Chí để giờ đây trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt.

Nhưng thị lại không phải người tỉnh táo bình thường mà lại là đứa ngẩn ngơ, kẻ dở hơi nên hạnh phúc ngắn ngủi trôi qua, tình yêu bị tắt ngấm khi cô ả dở chứng về hỏi ý kiến bà cô. Bà cô già - đại diện cho định kiến xã hội phản đối kịch liệt chuyện tình đôi lứa Chí Phèo và Thị Nở đồng nghĩa với việc “Con đường làm người của Chí vừa được hé mở ra thì đã bị đóng sầm lại”. Chí bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội bất công bất lương đẩy đến mức đường cùng phải tự sát sau khi giết Bá Kiến.

Tuy nhân vật thị Nở chỉ xuất hiện ở đoạn cuối tác phẩm nhưng đã cho Chí những phút giây hạnh phúc, những ngày được sống đúng với bản chất lương thiện. Thị Nở là hiện thân của tình người. Và chỉ có tình người, tình yêu mới có thể cảm hóa được con quỷ dữ trong người Chí Phèo. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cũng thật mong manh dễ vỡ khi con người ta không biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ.

Qua nhân vật thị Nở nhà văn để lại cho độc giả giá trị nhân đạo sâu sắc chỉ có tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim mới có sức mạnh kì diệu cảm hóa được con người tội lỗi. Qua đây ta cũng có được bài học nhận thức đúng đắn đừng “Nhìn mặt mà bắt hình dong” ngoại hình bên ngoài tuy xấu xí nhưng chỉ cần bên trong con người có tình thương yêu, nhân hậu và biết quan tâm đến người khác thì họ cũng rất đẹp, rất đáng được trân trọng và được yêu thương. Ở ngoài kia có biết bao người nhan sắc xinh đẹp nhưng chưa chắc họ đã có được tấm lòng tràn ngập tình thương như thị Nở.

Thị Nở tuy chỉ là nhân vật phụ xuất hiện trong chốc lát nhưng thị là ngọn lửa sưởi ấm và thắp lên ánh sáng lương tri làm người trong Chí, nhân vật mang lại giá trị nhân văn cho tác phẩm “Chí Phèo”. Dù thị xấu xí, nghèo khổ nhưng tràn ngập tình thương đó là phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Gập lại trang sách bấy lâu nhưng hình tượng nhân vật thị Nở cùng mối tình bất hạnh với Chí Phèo vẫn ám ảnh trong suy nghĩ và tâm hồn của độc giả.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 37)

Người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn, nhà thơ của nền văn học Việt Nam, cũng như của thế giới. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, hiếm có hình tượng người phụ nữ nào lại độc đáo như nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.

Chính bằng sự sắc sảo trong ngòi bút miêu tả về ngoại hình, tính cách cũng như những ý nghĩa nhân văn đằng sau cách xây dựng nhân vật của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành hình tượng độc nhất, để lại ấn tượng hết sức sâu đậm trong lòng độc giả.

Nam Cao là nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán những năm 1930-1945. Bởi vậy, ngòi bút xuất sắc này đã lột tả những gì “trần truồng” nhất của xã hội hiện tại, dành những chi tiết sống động, độc đáo nhất cho nhân vật của mình – những người nông dân điển hình thời bấy giờ.

Nếu Chí Phèo có “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”, thì Thị Nở lại xuất hiện với cái mặt “ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài”, “cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh”, “hai môi dày được bồi cho dày thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách”, “cái răng rất to lại chìa ra”….

Đoạn miêu tả ngoại hình của Thị Nở trong truyện ngắn này của Nam Cao quả thật rất xuất sắc. Ông sử dụng những tính từ mạnh, miêu tả chi tiết từ “cái mặt”, “cái mũi”, “cái môi”, “cái răng”, lột tả được ngoại hình “xấu ma chê quỷ hờn”, “sự mỉa mai của hóa công” của Thị Nở.

Không chỉ sở hữu một ngoại hình khiến cho “người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm” mà Thị Nở lại còn nghèo, dở hơi và “thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi” và thị không có chồng. Nam Cao đã xây dựng một nhân vật vừa đáng cười, vừa đáng thương, đáng tội nghiệp, đại diện cho số phận của người phụ nữ nông dân của tầng đáy xã hội.

Quả thật, hình tượng Thị Nở trong truyện ngắn này là độc nhất và cách miêu tả, xây dựng nhân vật của Nam Cao cũng độc đáo không kém. Thị Nở xấu “ma chê quỷ hờn”, dở hơi ấy lại tình cờ gặp được Chí Phèo – “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, để rồi hai con người ấy đem lòng yêu nhau, cái tình yêu không kém phần lãng mạn, bi kịch và cũng đầy ắp những ý nghĩa nhân văn.

Có lẽ qua ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở không có vẻ đẹp “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” như Thúy Kiều của Nguyễn Du, hay “vẫn mơn mởn như gái mười tám” như Chị Dậu của Ngô Tất Tố (trong Tắt đèn) nhưng cô lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng, vẻ đẹp đã cứu rỗi, thức tỉnh phần người, thức tỉnh khao khát được hoàn lương trong Chí Phèo.

Thị Nở nghèo, ngớ ngẩn, dở hơi, nhưng thị vẫn là một người phụ nữ chăm chỉ. Thị sống bằng những nghề lặt vặt ở làng, “luật quật đập đất từ trưa tới giờ” để rồi ngủ quên ngay gốc chuối. Thị dở hơi, “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất”.

Nhưng có lẽ, chính vì dở hơi mà Thị ngày nào cũng qua vườn nhà Chí hai ba lần để rồi thành thói quen, thậm chí “vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa” hay “ xin của hắn một ít rượu về để bóp chân” và “lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê hắn thế”.

Có lẽ cả cái làng Vũ Đại, chỉ mình Thị Nở không sợ Chí Phèo, chỉ thị mới chăm sóc cho hắn khi hắn ốm, chỉ thị mới nấu cháo hành và “làm thành một cặp rất xứng đôi” với Chí mà thôi. Và có lẽ cũng chỉ có Thị mới khiến cho một kẻ chuyên đi rạch mặt ăn vạ phải sợ già, sợ đói rét, ốm đau và sợ cô độc. Dường như bên trong cái vẻ bề ngoài xấu xí, ngớ ngẩn ấy, người phụ nữ này còn chứa đựng những nét đẹp không nói thành lời.

Vào buổi sáng sau khi gặp Chí ở bờ sông, Thị cắp một cái rổ, trong có một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Các nhà phê bình văn học từ trước đến này vẫn khẳng định rằng chi tiết nồi cháo hành là một chi tiết hết sức đắt giá, đó không chỉ là nồi cháo ăn lúc bị ốm, mà còn là tình thương, tình yêu của người phụ nữ xấu xí nhưng thật thà, chất phác. Chính tình thương, tình yêu ấy đã khiến cho một Chí Phèo cũng biết ước mơ về gia đình, khiến cho kẻ rạch mặt ăn vạ cũng “cười nghe thật hiền” và một Thị Nở “xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu”.

Quả thật tình yêu của Chí và Thị Nở không chỉ đơn thuần là tình yêu của hai con người mà nó còn thể hiện cho ước mơ được hạnh phúc, ai cũng xứng đáng yêu và được yêu, kể cả những con người bần cùng nhất trong xã hội. Có lẽ không có Thị Nở, Chí Phèo vẫn mãi ở trong đống bùn lầy của xã hội, không một tia hi vọng, không ánh sáng. Và chỉ khi có được sự chăm sóc, tình yêu của Thị Nở, khát khao được hoàn lương trong Chí mới dữ dội đến như vậy.

Thế nhưng có lẽ trong cái xã hội thời bấy giờ, tình yêu, ước mơ được hạnh phúc ấy vẫn không thể chiến thắng được những định kiến, những bất công. Chỉ vì những định kiến mà Thị Nở bị bà cô xỉa xói vào mặt bởi “ai lại đi lấy thằng Chí Phèo”, Chí vì bị Thị Nở từ chối mà uống rượu rồi vác dao sang nhà Bá Kiến ăn vạ đòi lương thiện, đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

Màu sắc hiện thực phê phán thể hiện rất rõ ở chi tiết này. Người nông dân lương thiện bị bần cùng hóa, tha hóa, mong muốn được hoàn lương nhưng lại không có lối thoát bởi xã hội quá bất công. Nam Cao quả thật đã rất thành công khi tái hiện xã hội lúc bấy giờ.

Có lẽ Thị Nở không phải là người phụ nữ xinh đẹp, thậm chí xấu ma chê quỷ hờn nhưng đã để lại ấn tượng hết sức sâu sắc cho người đọc. Thị là người phụ nữ hiền lành, chất phác nhưng cũng rất giàu tình thương, với khao khát tình yêu lứa đôi bình dị, chân thành, mãnh liệt.

Chính cái nét duyên thầm và tình yêu của người phụ nữ này đã cảm hóa, thức tỉnh khao khát hoàn lương mãnh liệt của Chí Phèo. Quả thật, Nam Cao xứng đáng là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn học nước nhà khi khắc họa hình tượng Thị Nở sống động và đầy tính nhân văn như vậy.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 38)

Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.

Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo – con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.

Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.

Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dữ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở – người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Phân tích nhân vật Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo (mẫu 39)

Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.

Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc.

Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người. Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo.

Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.

Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả”.

Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”

“Đã thế Thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị. Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.

Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”.

Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra.

Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người.

Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện.

Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”.

Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần.

Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh.

Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992).

Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát cháo hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình.

Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng minh cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.

Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”.

Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng…

Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.

Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.

Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện.

Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng.

Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ” (Phrang Xoa Cope).

Xem thêm các văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù

Phân tích nhân vật viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù

Cảm nhận về cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

Phân tích truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam

1 2,195 19/03/2023
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: