TOP 30 mẫu Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (2023) SIÊU HAY
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước lớp 11 gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước - Ngữ văn 11
Bài giảng Ngữ Văn 11 Chiếu cần hiền
Dàn ý Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước
I. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Việt Nam là một quốc gia với trình độ phát triển kinh tế chưa bằng nhiều nước trên thế giới
- Nếu vấn đề: Vì vậy trong hiện tại và tương lai rất cần những hiền tài để đưa đất nước ngày một phát triển. Vai trò của hiền tài là vô cùng quan trọng
II. Thân bài
1. Giải thích
- Hiền tài: Là bề tôi tài giỏi, hiền đức trên mọi lĩnh vực của đời sống. Là những người có năng lực có thể cống hiến cho đất nước
- Những hiền tài là những hạt giống quý đưa đất nước sánh ngang các cường quốc năm châu
2. Tại sao những người hiền tài lại có vai trò quan trọng với đất nước?
- Hiền tài là những người thực sự có năng lực, tài giỏi có thể dùng năng lực cống hiến cho sự nghiệp chung của nước nhà
- Không có hiền tài đất nước sẽ nghèo nàn, lạc hậu
- Người tài cống hiến năng lực, đức hạnh cho đất nước về mọi mặt của cuộc sống đưa đất nước phát triển trên mọi lĩnh vực đưa đất nước đi lên trên mọi mặt
3. Những hiền tài đóng góp cho đất nước
- Trong lịch sử dân tộc:
+ Trần Quốc Tuấn bằng tài năng của mình lãnh đạo nhân dân ba lần đánh tan quân Mông Nguyên
+ Nhà bác học Lương Đình Của đã tốn rất nhiều thời gian và công sức để lai tạo ra giống lúa mang lại năng suất cao cho ngành nông nghiệp
- Trong hiện tại:
+ Nhà Toán học Ngô Bảo Châu đã nhận được giải thưởng Toán học đưa nước Việt Nam tự hào với bạn bè thế giới
+ Bên cạnh đó ở một số lĩnh vực khác như thể thao chúng ta không thể không kể đến đội tuyến U23 Việt Nam đã đakt huy chương Bạc tại giải vô địch U23
4. Làm sao để có nhiều hiền tài cho đất nước?
- Trước hết bản thân mỗi người cần học tập chăm chỉ dderr trở thành hiền tài
- Mỗi người cần ý thức được trách nhiệm của mình là cống hiến trọn đời cho đất nước
- Nhà nước cần có chính sách chiêu mộ hiền tài để có thêm nhiều hiền tài
- Liên hệ bản thân: Là học sinh cần học tập chăm chỉ cố gắng trở thành hiền tài để phát triển đất nước
III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề:Mỗi dân tộc nếu muốn phát triển một cách vững chắc thì rất cần những hiền tài
- Lời nhắn: Hãy không ngừng cố gắng lấy sự phát triển của đất nước làm mục tiêu để phấn đấu trở thành một hiền tài
Dàn ý Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước
I. Mở bài:
- Đôi nét về tác giả Ngô Thì Nhậm: Một Nho sĩ toàn tài có đóng góp to lớn, tích cực cho triều đại Tây Sơn
- Chiếu cầu hiền là tác phẩm được sáng tác nằm mục đích kêu gọi các hiền tài khắp mọi nơi cởi bỏ tị hiềm, gắng đem hết tài sức của bản thân ra giúp vua trong sự nghiệp chấn hưng đất nước
II. Thân bài:
1. Quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
- Mở đầu là một hình ảnh so sánh: “Người hiền như sao sáng trên trời”: nhấn mạnh, đề cao vai trò của người hiền
- “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần”: quy luật tự nhiên ⇒ khẳng định người hiền phụng sự cho thiên tử là một cách xử thế đúng, là lẽ tất yếu, hợp với ý trời.
- Khẳng định:“Nếu như che mất … người hiền vậy”: Người hiền có tài mà đi ẩn dật, lánh đời như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị giấu đi
⇒ Hiền tài như sao sáng, cần phải ra sức giúp thiên tử trị vì, nếu không là trái quy luật, đạo trời
⇒ Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục, cách đặt vấn đề hấp dẫn, có sức thuyết phục
2. Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước
a.Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà:
- Khi thời thế suy vi:
+ Mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng
+ Ra làm quan: sợ hãi, im lặng như bù nhìn hoặc làm việc cầm chừng
+ Một số “ra biển vào sông”: ẩn đi mỗi người một phương
⇒ Sử dụng hình ảnh lấy từ kinh điển Nho gia hoặc mang ý nghĩa tượng trưng: Tạo cách nói tế nhị, châm biếm nhẹ nhàng; thể hiện kiến thức sâu rộng của người cầu hiền
- Khi thời thế đã ổn định: “chưa thấy có ai tìm đến” ⇒ Tâm trạng của vua Quang Trung, niềm khắc khoải mong chờ người hiền ra giúp nước
- Hai câu hỏi tu từ liên tiếp “Hay trẫm ít đức…vương hầu chăng”: Thôi thúc, khiến người nghe tự suy ngẫm
⇒ Cách nói khiêm tốn nhưng thuyết phục, tác động vào nhận thức của các hiền tài buộc người nghe phải thay đổi cách ứng xử
b. Thực trạng và nhu cầu của thời đại
- Tình hình đất nước hiện tại:
+ Buổi đầu dựng nghiệp nên triều chính chưa ổn định
+ Biên ải chưa yên
+ Dân chưa hồi sức sau chiến tranh
+ Đức của vua chưa nhuần thấm khắp nơi
⇒ Cái nhìn toàn diện sâu sắc: triều đại mới tạo lập, mọi việc đang bắt đầu nên còn nhiều khó khăn
- Nhu cầu thời đại: hiền tài phải ra trợ giúp nhà vua
+ Sử dụng hình ảnh cụ thể “Một cái cột…trị bình”: Đề cao và khẳng định vai trò của hiền tài
+ Dẫn lời Khổng Tử “Suy đi tính lại…hay sao”: Khẳng định sự tồn tại của nhân tài trong nước
⇒ Đưa ra kết luận người hiền tài phải ra phục vụ hết mình cho triều đại mới
⇒ Quang Trung là vị vua yêu nước thương dân, có tấm lòng chiêu hiền đãi sĩ. Lời lẽ: khiêm nhường, chân thành, tha thiết nhưng cũng kiên quyết, có sức thuyết phục cao
3. Con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước:
- Cách tiến cử những người hiền tài:
+ Mọi tầng lớp đều được dâng thư bày tỏ việc nước
+ Các quan được phép tiến cử người có tài nghệ.
+ Những người ở ẩn được phép dâng sớ tự tiến cử.
⇒ Biện pháp cầu hiền đúng đắn, thiết thực và dễ thực hiện
- “Những ai … tôn vinh”: lời kêu gọi, động viên mọi người tài đức ra giúp nước:
⇒ Quang Trung là vị vua có tư tưởng tiến bộ
4. Nghệ thuật
- Cách nói sùng cổ
- Lời văn ngắn gọn, súc tích, tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ, khúc chiết đủ lí đủ tình
III. Kết bài:
- Khái quát lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của văn bản
- Tác phẩm thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung và triều đình Tây Sơn trong việc cầu hiền tài phục vụ cho sự nghiệp dựng nước
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 1)
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 2)
Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc. Qua đó ta có thể thấy được vai trò quan trọng của người hiền tài đối với vận mệnh dân tộc của bất kì quốc gia nào. Trong công cuộc phát triển đất nước ngày nay vai trò ấy càng được đề cao bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Hiền tài là những người như thế nào? Theo quan niệm của Khổng Tử cũng là ý kiến của Ngô Thì Nhậm “Người hiền xuất hiện ở đời như ngôi sao sáng trên trời cao” theo đó họ là tinh anh của đất trời, hội tụ tài đức vẹn toàn, những con người vừa có trí tuệ trong đầu và đạo đức trong tim. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Quan trọng hơn cả là tâm đức con người bởi “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Trong lịch sử dân tộc ta đã có biết bao tấm gương hiền tài làm sáng ngời giá trị đạo đức và có đóng góp cho vận mệnh đất nước. Đó là Lí Thường Kiệt, là Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…hay trong thời hiện đại có Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già của dân tộc, “Người không con mà có triệu con” cùng với biết bao danh tướng lỗi lạc như Võ Nguyên Giáp_ Những con người chí lớn, tài cao lại đức độ, sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích dân tộc. Thử hỏi nếu không có những con người ấy thì dải đất chữ S này sẽ ra sao, hồn nước có còn hay đã mất?
Như vậy ta có thể thấy vai trò của người hiền tài vô cùng quan trọng. Họ có đóng góp to lớn cho dân tộc dù là ở thời đại nào. Trong thời chiến bảo vệ đất nước, người hiền tài là những tướng lĩnh giỏi như Quang Trung “Phù Lê diệt Trịnh” thừa thắng đánh tan quân Thanh xâm lược, thống nhất non sông quy về một mối. Với công cuộc phát triển đất nước trong thời bình người hiền tài có những đóng góp cho sự văn minh tiến bộ trên nhiều lĩnh vực: Về chính trị họ là những người cán bộ Đảng viên hết lòng vì dân phục vụ, là những người chiến sĩ nơi biên thùy gìn giữ biên cương Tổ quốc. Về khoa học có nhà toán học tài giỏi như Giáo sư Ngô Bảo Châu đưa nền toán học nước nhà phát triển lên một tầm cao mới, các kĩ sư, bác sĩ có tài có tâm với nghề hay nhà giáo nhân dân ưu tú đào tạo thế hệ trẻ đất nước rồi đến nhà nông học Lương Định trăn trở nghiên cứu cải tạo giống lúa mới năng suất cao…Tuy mỗi người tài giỏi ở một chuyên môn nhưng họ đã cùng nhau đưa đất nước đi lên phát triển vững mạnh. Muốn đất nước phát triển thì “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình” mà cần trăm họ và muôn dân cùng có ý thức và trách nhiệm để Việt Nam ngày càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”. Người hiền tài nắm trong tay vận mệnh dân tộc là vậy.
Một số ít tài năng thiên bẩm như Bill Gate thì người hiền tài không phải tự nhiên mà có. Muốn có được người tài cống hiến tài năng cho đất nước bên cạnh lời chiêu hiền cần có chính sách, điều kiện “Đào tạo nhân tài, bồi dưỡng nhân lực”. Nhật Bản là một quốc gia luôn luôn chú trọng đầu tư cho con người, họ đề ra khẩu hiệu “Giáo dục 80 năm trong cuộc đời”, họ coi “Nhân tài là tiền vạn năng”. Việt Nam cũng vậy, học tập sự văn minh tiến bộ của nước ngoài bên cạnh chăm lo cho đời sống chính trị, phát triển kinh tế thì giáo dục là ngành được dư luận luôn quan tâm, đầu tư bởi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, chìa khóa của tương lai đất nước. Để có được người hiền tài nhà nước phải có chính sách thu hút nhân tài, có môi trường đào tạo, rèn luyện thật tốt để họ có cơ hội phát triển bản thân và cống hiến cho quốc gia.
Tuy nhiên ngày nay nền kinh tế thị trường bên cạnh những ảnh hưởng tích cực còn có những tác động tiêu cực. Hiền tài không quá hiếm hoi nhưng ít nhiều người tài đã bị vùi dập bởi thế lực và xã hội đồng tiền dần lấn lướt, cướp trắng trợn cơ hội học tập, phát triển của họ chỉ bởi không phải là con ông cháu cha, chỉ bởi là không có tiền điều đó được minh chứng bởi những bất cập trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018 với nạn gian lận, nâng điểm khống trong thi cử tiêu biểu là ở Hà Giang, Sơn La. Hi vọng rằng Bộ giáo dục, Đảng và nhà nước có biện pháp xử lí và hình phạt thích đáng để người tài có cơ hội được cống hiến cho quê hương, đất nước.
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 3)
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Bài “Chiếu cầu hiền” thể hiện cái tâm, cái tài của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng của mình Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến cho muôn dân phải thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này dân tộc ta đã có một thời gian được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 4)
Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc. Qua đó ta có thể thấy được vai trò quan trọng của người hiền tài đối với vận mệnh dân tộc của bất kì quốc gia nào. Trong công cuộc phát triển đất nước ngày nay vai trò ấy càng được đề cao bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Hiền tài là những người như thế nào? Theo quan niệm của Khổng Tử cũng là ý kiến của Ngô Thì Nhậm “Người hiền xuất hiện ở đời như ngôi sao sáng trên trời cao” theo đó họ là tinh anh của đất trời, hội tụ tài đức vẹn toàn, những con người vừa có trí tuệ trong đầu và đạo đức trong tim. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Quan trọng hơn cả là tâm đức con người bởi “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Trong lịch sử dân tộc ta đã có biết bao tấm gương hiền tài làm sáng ngời giá trị đạo đức và có đóng góp cho vận mệnh đất nước. Đó là Lí Thường Kiệt, là Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…hay trong thời hiện đại có Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị cha già của dân tộc, “Người không con mà có triệu con” cùng với biết bao danh tướng lỗi lạc như Võ Nguyên Giáp_ Những con người chí lớn, tài cao lại đức độ, sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích dân tộc. Thử hỏi nếu không có những con người ấy thì dải đất chữ S này sẽ ra sao, hồn nước có còn hay đã mất?
Như vậy ta có thể thấy vai trò của người hiền tài vô cùng quan trọng. Họ có đóng góp to lớn cho dân tộc dù là ở thời đại nào. Trong thời chiến bảo vệ đất nước, người hiền tài là những tướng lĩnh giỏi như Quang Trung “Phù Lê diệt Trịnh” thừa thắng đánh tan quân Thanh xâm lược, thống nhất non sông quy về một mối. Với công cuộc phát triển đất nước trong thời bình người hiền tài có những đóng góp cho sự văn minh tiến bộ trên nhiều lĩnh vực: Về chính trị họ là những người cán bộ Đảng viên hết lòng vì dân phục vụ, là những người chiến sĩ nơi biên thùy gìn giữ biên cương Tổ quốc. Về khoa học có nhà toán học tài giỏi như Giáo sư Ngô Bảo Châu đưa nền toán học nước nhà phát triển lên một tầm cao mới, các kĩ sư, bác sĩ có tài có tâm với nghề hay nhà giáo nhân dân ưu tú đào tạo thế hệ trẻ đất nước rồi đến nhà nông học Lương Định trăn trở nghiên cứu cải tạo giống lúa mới năng suất cao…Tuy mỗi người tài giỏi ở một chuyên môn nhưng họ đã cùng nhau đưa đất nước đi lên phát triển vững mạnh. Muốn đất nước phát triển thì “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình” mà cần trăm họ và muôn dân cùng có ý thức và trách nhiệm để Việt Nam ngày càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”. Người hiền tài nắm trong tay vận mệnh dân tộc là vậy.
Một số ít tài năng thiên bẩm như Bill Gate thì người hiền tài không phải tự nhiên mà có. Muốn có được người tài cống hiến tài năng cho đất nước bên cạnh lời chiêu hiền cần có chính sách, điều kiện “Đào tạo nhân tài, bồi dưỡng nhân lực”. Nhật Bản là một quốc gia luôn luôn chú trọng đầu tư cho con người, họ đề ra khẩu hiệu “Giáo dục 80 năm trong cuộc đời”, họ coi “Nhân tài là tiền vạn năng”. Việt Nam cũng vậy, học tập sự văn minh tiến bộ của nước ngoài bên cạnh chăm lo cho đời sống chính trị, phát triển kinh tế thì giáo dục là ngành được dư luận luôn quan tâm, đầu tư bởi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, chìa khóa của tương lai đất nước. Để có được người hiền tài nhà nước phải có chính sách thu hút nhân tài, có môi trường đào tạo, rèn luyện thật tốt để họ có cơ hội phát triển bản thân và cống hiến cho quốc gia.
Tuy nhiên ngày nay nền kinh tế thị trường bên cạnh những ảnh hưởng tích cực còn có những tác động tiêu cực. Hiền tài không quá hiếm hoi nhưng ít nhiều người tài đã bị vùi dập bởi thế lực và xã hội đồng tiền dần lấn lướt, cướp trắng trợn cơ hội học tập, phát triển của họ chỉ bởi không phải là con ông cháu cha, chỉ bởi là không có tiền điều đó được minh chứng bởi những bất cập trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018 với nạn gian lận, nâng điểm khống trong thi cử tiêu biểu là ở Hà Giang, Sơn La. Hi vọng rằng Bộ giáo dục, Đảng và nhà nước có biện pháp xử lí và hình phạt thích đáng để người tài có cơ hội được cống hiến cho quê hương, đất nước.
Ra đời với tư cách là một văn bản hành chính của nhà nước, “Chiếu cầu hiền” vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân của Ngô Thì Nhậm - người thảo ra nó. Dấu ấn này không chí thể hiện ở lối tư duy sáng rõ, lối lập luận khúc chiết, chặt chẽ mà còn ở sự nồng nàn của cảm xúc được chưng cất từ niềm tin vào chính sách đúng đắn của tân vương, tân triều và niềm biết ơn đối với "tấm lòng" đã không nhìn nhận mình chỉ như một bề tôi, một công cụ mà như một tri kỉ. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 5)
Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc.
“Chiếu cầu hiền” đã được viết khi mà vua Lê Chiêu Thống đã “mời” quân Thanh vào xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ đã lên ngôi vua và đã lấy hiệu là Quang Trung. Quang Trung đã đem quân ra Bắc để quét sạch hết 20 vạn quân Thanh và cả bọn tay sai và bè lũ bán nước. Khi đã thua trận Lê Chiêu Thống cùng như đã cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị. Và lúc này thì triều Lê sụp đổ, thay thế vào đó là triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Có thể thấy rằng trước sự kiện trên đã có một quan thần trong triều Lê khả năng là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê. Và dường như hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên dường như tất cả đều trốn tránh ẩn nấp và cũng đã không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước. Và khi đã đoán biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung cũng như đã liền phái Ngô Thì Nhậm để có thể thay mình viết chiếu cầu hiền dùng làm để kêu gọi những người tài giỏi ra cứu dân, giúp nước.
Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ ra kế sách này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài trong thiên hạ. Ngô Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì ông là người tài giỏi cũng là bậc bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệnh cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không phải ban bố những mệnh lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là phải tìm được người hiền tài ra giúp dân giúp nước.
Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như là sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói rằng đó chính là nhan đề mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó là “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng và quan trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến là do trời sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như cũng đã muốn cho sĩ phu hiền tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của những bậc hiền tài. Và ta như thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây là một tính rất quan trọng cho chiếu cầu hiền.
Có thể thấy khi đến đoạn văn tiếp theo dường như cũng đã nói về nguyện vọng của nhà vua khi mà ông đã mong muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả dường như đã đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và cả chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Có lẽ ta như thấy được cách trình bày thẳng thắn cho thấy được ra những sự trung thực thật thà cũng như là một sự quang minh chính địa của vua Quang Trung. Cũng như thông qua đó ta thấy được sự chân thành và đó còn chính là tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của vua Quang Trung ở đây được ví như “trời còn tăm tối”hay là “đương ở buổi đầu của nền đại định” và cả “công việc vừa mới mở ra” đó như cũng chính là những khó khăn bức thiết của triều đại nhà Nguyễn, hơn hết đó là đất nước như cũng đang rơi vào tình thế khó khăn. Ta cũng như đã thấy được chính hình ảnh đất nước được hiện ra qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó chính là một đất nước mà dường như ở đời đầu mới ở buổi rất khó khăn, hơn nữa là tương lai còn chưa sáng rõ. Ở buổi đầu khó khăn như vậy thì việc thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được cơ chứ, và cũng chính vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về để có thể được phụng sự giúp đỡ vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Trong buổi đầu đó thì dường như cả “kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, hay ngay cả việc biên ải chưa chưa yên, và nhân dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với đó chính là “một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”. Khi nhìn vào thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Và cũng chính vì thế mà ta như thấy được vua Quang Trung như thật sáng suốt biết bao khi đã biết được tầm quan trọng của người hiền tài.
Cho đến cuối cùng thì bài chiếu như đã nêu ra đó là chính sách cầu tài của vua Quang Trung. Dường như ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong những đường lối chính sách của vua mà thôi. Và chúng ta có thể đánh giá đó là những chính sách công bằng cho tất cả mọi người, và cho thấy được vua Quang Trung là một vị vua anh minh, thương yêu nhân dân
Thêm vào đó nữa chính là cách tiến cử hết sức rộng mở đó chính là việc tự mình dâng sớ tâu bày tất cả các sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Thông qua bài chiếu ta thấy được tài năng biết trọng người tài, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Và đây quả thực là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa chính trị vừa lại là một tác phẩm văn học có giá trị.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 6)
“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung- Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân, giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của đức vua.
Yêu cầu đối với một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, đòi hỏi người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những nhu cầu của đất nước lúc bấy giờ, phải dùng được những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi có trình độ uyên tâm lỗi lạc, là người rất có tài thuyết phục lòng người. Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” chúng ta đã thấy được tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
“Từng nghe người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Tác giả đã thay mặt nhà vua khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quý giá của đất nước, giống như “sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng đáng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã tăng thêm tính thuyết phục của bài chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với đất nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phí hoài. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để đất nước được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là báu vật mà ông trời đã ban cho đất nước, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc rất quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn sớm hôm mong mỏi. Vua Quang Trung là vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp tan giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chống nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không đựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của nhà vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ tới cuộc sống của nhân dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua một lòng vì dân vì nước, dâng hiến cả cuộc đời cho dân tộc. Có một vị vua và lý tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Qua đó ta thấy được tình yêu nước, thương dân nồng nàn của một đức minh quân tài ba. Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước, cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, để thấy được tương lai sau này của đất nước. Vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân ấm no, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng là mơ ước của nhà vua nhằm canh tân đất nước.
Bài “Chiếu cầu hiền” thể hiện cái tâm, cái tài của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng của mình Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến cho muôn dân phải thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này dân tộc ta đã có một thời gian được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 7)
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê - Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang Trung trọng dụng. Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền được viết theo yêu cầu của Vua Quang Trung, nhằm cổ vũ động viên tinh thần cho các chiến sĩ cũng như kêu gọi người tài giúp dân cứu nước.
Khi đọc tác phẩm chắc ai cũng biết là một người bình thường không thể nào có những lời văn hay, rõ ràng và có sức thuyết phục như vậy, chứng tỏ Quang Trung là một vị vua tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất. Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Mở đầu bài Chiếu tác giả đã đưa được giả thuyết của bậc hiền tài rất đơn giản mà lại có sức thuyết phục cao.
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
Ở đây ý tác giả muốn khẳng định người hiền tài là một người có đức lẫn tài, được so sánh ví như ngôi sao sáng trên trời. Và các nhân tài đó sinh ra để giúp vua cứu nước. Cách dùng hình ảnh để nói lên một cách đơn giản mà dễ hiểu là: Hiền tài là tinh hoa của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.
Tiếp theo tác giả lại đưa ra những chi tiết về việc phân chia Nước làm hai Đàng là Đàng trong và Đàng ngoài thì đất nước trở nên khó khăn trong việc quản lý cũng như là sự đảm bảo hòa bình cho đất nước. Ngô Thì Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.
Tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng khác để nói lên sự nhút nhát của các nhân tài, cũng như việc lẩn tránh trách nhiệm với đất nước như: Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
Tiếp theo đó là những lời của Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ: mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng. Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng, hoặc làm việc cầm chừng. Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Đây là những Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới.
Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thỏa đáng của mình.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Tác phẩm Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận có tính mẫu mực, thể hiện ở sự chặt chẽ và tính logic của các luận điểm, ở tài thuyết phục khéo léo và thái độ khiêm tốn, chân thành của người viết. Các điển cố được sử dụng trong bài Chiếu cho thấy nhận thức tinh tế của người viết về đối tượng cần thuyết phục là tầng lớp trí thức. Người viết tỏ ra có trình độ hiểu biết sâu rộng, đủ khả năng thuyết phục một đối tượng như thế. Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức về vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 8)
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi". Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 9)
Ra chiếu cầu hiền là một việc làm quen thuộc của các bậc đế vương lúc mới lên ngôi và lúc đang ra tay xếp đặt lại chính sự. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy văn học trung đại còn để lại nhiều "tờ" chiếu cầu hiền, được viết bởi những tác giả khác nhau, thừa lệnh những ông vua khác nhau. Số lượng tuy nhiều nhưng không phải chiếu cầu hiền nào cũng được hậu thế thưởng thức như một áng văn có giá trị, được các nhà sử học quan tâm tìm hiểu kĩ càng để có thể nhận ra được thực chất của một triều đại và tầm nhìn của một đấng quân vương. Điều này có liên quan đến văn tài của người viết cùng tình huống lịch sử buổi chiếu cầu hiền được ban bố (với loại hình tác phẩm như chiếu cầu hiền, việc tìm hiểu kĩ càng những yếu tố ngoài văn bản có ý nghĩa rất quan trọng).
Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt vua Quang Trung là một "tờ" chiếu nổi tiếng. Nổi tiếng bởi nó gắn với tên tuổi của một người có công nghiệp rõ ràng, hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, nhưng chưa được một số tầng lớp nhất định trong xã hội (nhất là giới sĩ phu Bắc Hà) tuyệt đối ngưỡng phục, do ông xuất thân không phải từ thành phần quý tộc, lại khởi nghiệp từ một miền đất mới và do vài nguyên nhân khác nữa. Nổi tiếng bởi nó ra đời vào điểm cuối của một thời loạn lạc triền miên (kéo dài trong suốt gần hai trăm năm), khi nhân tâm li tán cùng cực, từ kẻ sĩ đến thứ dân, không mấy người tin và dám tin vào một cái gì chắc chắn. Đặc biệt, nổi tiếng do nó được viết bởi một trí thức hàng đầu của đất nước thời đó là Ngô Thì Nhậm - người đã biết vượt lên mọi dị nghị, hăng hái đứng ra phục vụ tân triều,...
Khi đảm trách việc viết Chiếu cầu hiền cho vua mới, Ngô Thì Nhậm có được những thuận lợi lớn: quan hệ giữa ông và Quang Trung là rất tốt đẹp. Quang Trung hiểu ông, trọng dụng ông và ông không chỉ phục mà còn biết ơn sâu xa người anh hùng này. Nhưng ông không phải chỉ gặp toàn thuận lợi. Tiếng gì ông cũng là bề tôi cũ của chúa Trịnh, giờ nói về đức sáng của Nguyễn Huệ, không dễ gì thuyết phục được những người cố chấp. Thêm nữa, ông hiểu những khó khăn riêng của vị vua "áo vải cờ đào" này (mà ở trên đã đề cập). Ông không có được sự thoải mái hoàn toàn như Nguyễn Trãi ngày xưa khi cũng thảo Chiếu cầu hiền (thay mặt Lê Lợi, lúc cuộc bình Ngô đã thành công trọn vẹn). Ban Chiếu cầu hiền, Lê Lợi hoàn toàn có lí do để không phải tỏ thái độ quá khiêm nhường. Nguyễn Trãi hiểu điều đó nên đã thể hiện lời của Lê Lợi như một mệnh lệnh nghiêm khắc: "Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại phu, từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã...". Nguyễn Trãi cũng biết rõ uy lực của một bậc đế vương vừa hoàn thành đại nghiệp, rất quyết đoán trong việc thưởng phạt, nên đã viết:
"Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng"...
Những điều vừa được trình bày cho thấy: dù chiếu là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước, nó có những đinh lệ riêng, nhưng không phải vì thế mà viết nó chỉ là việc mỏ phỏng theo công thức. Tính cách, tư tưởng, tầm nhìn của các vị vua là khác nhau. Tình hình đất nước trong mỗi thời lại có những nét đặc thù. Bởi vậy, mức độ nhạy cảm về chính trị, khả năng luận thuyết, tài văn chương,... của người lĩnh mệnh thảo chiếu luôn có đất để thể hiện. Đọc Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt Quang Trung, độc già ngày nay có thể hiểu được rất nhiều điều về hai nhân vật xuất chúng này của đất nước - riêng từng người và cả mối quan hệ vua - tôi đầy đồng cảm, đầy tâm đắc giữa họ nữa.
Chiếu cầu hiền ta đang nói có ba phần lớn, liên kết với nhau theo một logic chặt chẽ.
Phần đầu của văn bản tập trung luận về người hiền và chức năng của họ. Người hiền được tác giả ví "như ngôi sao sáng trên trời cao" và chức năng của họ được xác định là "làm sứ giả cho thiên tử". Mối liên hệ giữa hai vấn đề này là gì ? Tại sao không ví người hiền với đối tượng nào khác ? Tất cả những điều này đều đã được tác giả ý thức. Người hiền như sao sáng - riêng so sánh này đã toát lên ý tôn vinh và trân trọng rất mực. Nhưng trong mạch lập luận của mình, tác giả nói đến nhiều ngôi sao là để dẫn chúng ta tới một ngôi sao chính: sao Bắc Thần (tức là Bắc Đẩu). Bắc Thần trước hết là sao - một ngôi sao có vị trí đặc biệt trên bầu trời, không ai không biết. Quan trọng hơn, Bắc Thần còn là hình ảnh tượng trưng cho hoàng đế, theo cách hình dung của đức Khổng Tử. Thì ra mấu chốt của mối liên hệ là ở chỗ này. Mọi sao trên trời đều chầu về sao Bắc Thần nằm ở vị trí trục quay của trái đất (nói theo kiến thức thiên văn của người ngày nay), vậy sao - hiền - tài từ các miền không chầu về sao - Bắc - Thần - thiên - tử thì còn chầu về đâu nữa!
Đó thực là một lẽ tất yếu. Đạo người, luật người phải tương hợp, phải thuận theo đạo trời, luật trời, không thể khác được. Từ một so sánh tưởng chừng ngẫu hứng và nặng về tình cảm, tác giả dẫn người đọc tới một kết luận nghiêm túc và hết sức lô-gíc. Như vậy, ngay từ mấy câu đầu, cái hay trong cách lập luận của áng văn đã được thể hiện. Hiệu quả của cách lập luận đó là vừa thuyết phục được người ta về lí, vừa thuyết phục được người ta về mặt tâm linh. Tất nhiên, còn có thể nói thêm: việc tác giả vận dụng một ý trong sách Luận ngữ là rất giàu ý nghĩa. Đưa lời Khổng Tử ra từ đầu, tác giả đã tạo nên được tính chính danh cho Chiếu cầu hiền. Đối với nhà nho xưa, lời đức Khổng Tử chính là chân lí, nào ai dám không nghe theo. Và phải đâu vua mới là kẻ võ biền ít học, không biết lễ nghĩa !
Sau khi đã đặt được "viên đá tảng" cho toàn bộ hệ thống lập luận của áng văn, cũng ngay trong phần đầu, tác giả viết: "Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy". Ý thì đòi hỏi mà giọng lại thấm đẫm nhân tình và chứa chan khích lệ. Vẫn là một thái độ chân thành yêu quý hiền tài, xem hiền tài như của báu trời sinh. Nếu hiền tài không được biết đến, không cho người ta biết đến thì thật phí hoài. Và cũng là có tội với đấng Tạo hoá đã có công sinh ra mình, vun đắp cho mình nữa ! Chưa kể việc hiền tài mà không được sử dụng thì đâu còn là hiền tài. Hiền tài không phải là cái danh suông. Giá trị của nó phải được xác định trong quan hệ và qua hành động.
Trọng điểm của phần thứ hai trong Chiếu cầu hiền là làm rõ tâm nguyện của Quang Trung mong có bậc hiền tài giúp mình trị nước. Đầu tiên tác giả nói tới sự trốn tránh việc đời của các kẻ sĩ giữa thời rối ren, loạn lạc mới đi qua: "Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời". Đây là đoạn văn chứa đựng nhiều tầng ý khác nhau. Trên bề nổi thì đó là sự thông cảm. Nhưng ở bề sâu thì đó là sự trách cứ, dù không gay gắt. Phải là người từng trải nghiệm tình thế cay đắng bắt buộc phải ngậm lời như hàng trượng mã, lại bao quát được đại cuộc mới viết nổi những câu như thế. Sự khái quát ở đây đạt tới mức độ rất cao. Những kiểu trốn tránh việc đời rất đa dạng, những màu vẻ khác nhau của bi kịch kẻ sĩ đều được điểm tới (điều này phải đọc qua nguyên tác hay bản dịch sát ý mới cảm nhận hết được).
Cũng cần phải thấy rằng lời lẽ trình bày vấn đề trong đoạn văn khá tế nhị, vì nó đụng tới một chuyện nhạy cảm: khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh, nho sĩ Bắc Hà phần lớn tỏ thái độ bất hợp tác. Chuyện trước không thể không nhắc lại, nhưng quan trọng là nhắc với giọng điệu nào. Quang Trung, theo những gì biểu lộ trong đoạn văn, là một con người đại lượng. Ông chỉ nói về các sự kiện xảy ra cách đó chưa lâu bằng mấy từ biến cố, thời thế khá chung chung (theo bản dịch). Thì cũng coi như một sự xí xoá, dù không hẳn là xí xoá. Điển xưa được dùng rất nhiều (da bò bền, hàng trượng mã, ra bể vào sông,...) có tác dụng làm mờ bớt tính "khó chịu" của các sự việc đã xảy ra, khiến người đọc Chiếu cầu hiền thuở ấy có thể bớt phần mặc cảm với tân vương. Phải nói rằng ở đây, với tư cách là người lĩnh mệnh soạn chiếu, Ngô Thì Nhậm đã thực hiện được một sự "hoà giải" khéo léo, trên cơ sở hiểu lòng ông vua tri kỉ.
Và cũng từ đó, tác giả mới khơi được mạch văn chảy tới những lời bộc lộ thiết tha này: "Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng ? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng ?". Hai câu hỏi được đặt ra liên tiếp vừa thể hiện được sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện được sự đòi hỏi và thậm chí cả chút thách thức nữa của nhà vua. Đúng là những câu hỏi không thể lảng tránh trả lời !
Đoạn văn tiếp theo của phần hai bàn sâu vào tình thế lịch sử trước mắt và sự cấp thiết của việc cầu hiền. Lời văn từ mềm mỏng, tế nhị chuyển sang bộc trực, thẳng thắn. Toát lên từ đây là nỗi lo lắng thật sự của tân vương đối với vận nước khi nhìn thấy phía trước bộn bề những công việc cần xử lý, sắp đặt: "Kỷ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh...". Ở đâu, với ai, việc ra chiếu cầu hiền có khi chỉ là một thủ đoạn nhằm thu phục nhân tâm, còn ở đây thì hoàn toàn không phải thế. Ta cảm nhận được nhịp tim đập mạnh, hơi thở nồng nàn của một con người cụ thể đang hành động, kiên quyết hành động vì một hoài bão lớn, đang hết sức cần một lực lượng giúp rập, phò tá, thể hiện qua nhịp điệu các câu văn:
"Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. [...] trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao ?".
Sự cao giọng trong câu hỏi vừa trích còn phản ánh cái gì khác ngoài nỗi sốt ruột rất thật, niềm tin tưởng nhiệt thành vào "trữ lượng" hiền tài của đất nước? Đúng là giọng của một con người đầy cá tính, không chịu lùi bước trước các trở ngại trên con đường gây dựng nghiệp lớn của mình. Chắc chắn khi viết những câu này, tác giả Chiếu cầu hiền đang ở trong trạng thái thăng hoa. Ngô Thì Nhậm nói giùm ước nguyện của quân vương hay nói chính nỗi lòng mình ? Quả thật rất khó phân biệt. Có thể nói ở đây có một sự cộng hưởng khát vọng giữa hai con người, và giữa hai con người ấy với cả dân tộc.
Phần thứ ba, cũng là phần cuối của "tờ" chiếu nói rõ chính sách cầu hiền của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nội dung của chính sách đó có mấy điểm nổi bật: cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách; cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi; cho phép người tài tự tiến cử; sẵn sàng cất nhắc người xứng đáng, không kể thứ bậc; "tùy tài lục dụng" những kẻ được tiến cử; không trị tội người có lời sơ suất,... Đứng là một chính sách rộng mở, có nhiều "điều khoản" chi tiết và giàu tính "khả thi" (nói theo cách của bây giờ). Rõ ràng, trước khi ra Chiếu cầu hiền, mọi việc đã được đấng quân vương trù liệu khá kĩ. Ông đã tự chứng tỏ được tầm nhìn xa rộng cũng như khả năng tổ chức, xếp đặt chính sự của mình. Ông cũng đã biết giải toả những băn khoăn có thể có (trong đó có băn khoăn tế nhị về danh dự) cho mọi thần dân, khiến họ cảm thấy an tâm khi tham gia bàn việc nước... Từ những lời đã được nói ra, ta thấy toát lên một giọng khoan hòa, điềm tĩnh rất dễ lọt tai, giàu tính thuyết phục.
Ra đời với tư cách là một văn bản hành chính của nhà nước, Chiếu cầu hiền vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân của Ngô Thì Nhậm - người thảo ra nó. Dấu ấn này không chí thể hiện ở lối tư duy sáng rõ, lối lập luận khúc chiết, chặt chẽ mà còn ở sự nồng nàn của cảm xúc được chưng cất từ niềm tin vào chính sách đúng đắn của tân vương, tân triều và niềm biết ơn đối với "tấm lòng" đã không nhìn nhận mình chỉ như một bề tôi, một công cụ mà như một tri kỉ. Có thể nói Chiếu cầu hiền đã hội tụ được đầy đủ những điều kiện để trở thành một áng văn chính luận mẫu mực của muôn đời.
Vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 10)
Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi".
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 11)
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh. Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 12)
Nếu như ở Trung Hoa có Cao đế với cầu hiền chiếu thì Việt Nam cũng có “Chiếu cầu hiền” dưới triều đại vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm theo lệnh vua viết. Qua đó ta có thể thấy được vai trò quan trọng của người hiền tài đối với vận mệnh dân tộc của bất kì quốc gia nào. Trong công cuộc phát triển đất nước ngày nay vai trò ấy càng được đề cao bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”.
Hiền tài là những người như thế nào? Theo quan niệm của Khổng Tử cũng là ý kiến của Ngô Thì Nhậm “Người hiền xuất hiện ở đời như ngôi sao sáng trên trời cao” theo đó họ là tinh anh của đất trời, hội tụ tài đức vẹn toàn, những con người vừa có trí tuệ trong đầu và đạo đức trong tim. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Quan trọng hơn cả là tâm đức con người bởi “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Trong lịch sử dân tộc ta đã có biết bao tấm gương hiền tài làm sáng ngời giá trị đạo đức và có đóng góp cho vận mệnh đất nước. Đó là Lí Thường Kiệt, là Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…hay trong thời hiện đại có Chủ tịch Hồ Chí Minh_vị cha già của dân tộc, “Người không con mà có triệu con” cùng với biết bao danh tướng lỗi lạc như Võ Nguyên Giáp_ Những con người chí lớn, tài cao lại đức độ, sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích dân tộc. Thử hỏi nếu không có những con người ấy thì dải đất chữ S này sẽ ra sao, hồn nước có còn hay đã mất?
Như vậy ta có thể thấy vai trò của người hiền tài vô cùng quan trọng. Họ có đóng góp to lớn cho dân tộc dù là ở thời đại nào. Trong thời chiến bảo vệ đất nước, người hiền tài là những tướng lĩnh giỏi như Quang Trung “Phù Lê diệt Trịnh” thừa thắng đánh tan quân Thanh xâm lược, thống nhất non sông quy về một mối. Với công cuộc phát triển đất nước trong thời bình người hiền tài có những đóng góp cho sự văn minh tiến bộ trên nhiều lĩnh vực: Về chính trị họ là những người cán bộ Đảng viên hết lòng vì dân phục vụ, là những người chiến sĩ nơi biên thùy gìn giữ biên cương Tổ quốc. Về khoa học có nhà toán học tài giỏi như Giáo sư Ngô Bảo Châu đưa nền toán học nước nhà phát triển lên một tầm cao mới, các kĩ sư, bác sĩ có tài có tâm với nghề hay nhà giáo nhân dân ưu tú đào tạo thế hệ trẻ đất nước rồi đến nhà nông học Lương Định trăn trở nghiên cứu cải tạo giống lúa mới năng suất cao…Tuy mỗi người tài giỏi ở một chuyên môn nhưng họ đã cùng nhau đưa đất nước đi lên phát triển vững mạnh. Muốn đất nước phát triển thì “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình” mà cần trăm họ và muôn dân cùng có ý thức và trách nhiệm để Việt Nam ngày càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”. Người hiền tài nắm trong tay vận mệnh dân tộc là vậy.
Một số ít tài năng thiên bẩm như Bill Gate thì người hiền tài không phải tự nhiên mà có. Muốn có được người tài cống hiến tài năng cho đất nước bên cạnh lời chiêu hiền cần có chính sách, điều kiện “Đào tạo nhân tài, bồi dưỡng nhân lực”. Nhật Bản là một quốc gia luôn luôn chú trọng đầu tư cho con người, họ đề ra khẩu hiệu “Giáo dục 80 năm trong cuộc đời”, họ coi “Nhân tài là tiền vạn năng”. Việt Nam cũng vậy, học tập sự văn minh tiến bộ của nước ngoài bên cạnh chăm lo cho đời sống chính trị, phát triển kinh tế thì giáo dục là ngành được dư luận luôn quan tâm, đầu tư bởi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, chìa khóa của tương lai đất nước. Để có được người hiền tài nhà nước phải có chính sách thu hút nhân tài, có môi trường đào tạo, rèn luyện thật tốt để họ có cơ hội phát triển bản thân và cống hiến cho quốc gia.
Tuy nhiên ngày nay nền kinh tế thị trường bên cạnh những ảnh hưởng tích cực còn có những tác động tiêu cực. Hiền tài không quá hiếm hoi nhưng ít nhiều người tài đã bị vùi dập bởi thế lực và xã hội đồng tiền dần lấn lướt, cướp trắng trợn cơ hội học tập, phát triển của họ chỉ bởi không phải là con ông cháu cha, chỉ bởi là không có tiền điều đó được minh chứng bởi những bất cập trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018 với nạn gian lận, nâng điểm khống trong thi cử tiêu biểu là ở Hà Giang, Sơn La. Hi vọng rằng Bộ giáo dục, Đảng và nhà nước có biện pháp xử lí và hình phạt thích đáng để người tài có cơ hội được cống hiến cho quê hương, đất nước.
Là một học sinh ý thức được vai trò sứ mệnh của hiền tài đối với sự nghiệp của đất nước, em nhận thấy nhiệm vụ học tập, rèn luyện và trau dồi tri thức cho mình là vô cùng quan trọng, cố gắng học tập mong rằng có thể đóng góp chút công sức để Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 13)
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 14)
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 15)
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 16)
“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung – Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân, giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của đức vua.
Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ ra kế sách này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài trong thiên hạ. Ngô Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì ông là người tài giỏi cũng là bậc bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệnh cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không phải ban bố những mệnh lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là phải tìm được người hiền tài ra giúp dân giúp nước.
Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như là sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói rằng đó chính là nhan đề mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó là “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng và quan trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến là do trời sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như cũng đã muốn cho sĩ phu hiền tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của những bậc hiền tài. Và ta như thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây là một tính rất quan trọng cho chiếu cầu hiền.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với đất nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phí hoài. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để đất nước được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Sự cao giọng trong câu hỏi vừa trích còn phản ánh cái gì khác ngoài nỗi sốt ruột rất thật, niềm tin tưởng nhiệt thành vào “trữ lượng” hiền tài của đất nước? Đúng là giọng của một con người đầy cá tính, không chịu lùi bước trước các trở ngại trên con đường gây dựng nghiệp lớn của mình. Chắc chắn khi viết những câu này, tác giả Chiếu cầu hiền đang ở trong trạng thái thăng hoa. Ngô Thì Nhậm nói giùm ước nguyện của quân vương hay nói chính nỗi lòng mình? Quả thật rất khó phân biệt. Có thể nói ở đây có một sự cộng hưởng khát vọng giữa hai con người, và giữa hai con người ấy với cả dân tộc.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 17)
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”. Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt vua Quang Trung là một “tờ” chiếu nổi tiếng. Nổi tiếng bởi nó gắn với tên tuổi của một người có công nghiệp rõ ràng, hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, nhưng chưa được một số tầng lớp nhất định trong xã hội (nhất là giới sĩ phu Bắc Hà) tuyệt đối ngưỡng phục, do ông xuất thân không phải từ thành phần quý tộc, lại khởi nghiệp từ một miền đất mới và do vài nguyên nhân khác nữa. Nổi tiếng bởi nó ra đời vào điểm cuối của một thời loạn lạc triền miên (kéo dài trong suốt gần hai trăm năm), khi nhân tâm li tán cùng cực, từ kẻ sĩ đến thứ dân, không mấy người tin và dám tin vào một cái gì chắc chắn. Đặc biệt, nổi tiếng do nó được viết bởi một trí thức hàng đầu của đất nước thời đó là Ngô Thì Nhậm – người đã biết vượt lên mọi dị nghị, hăng hái đứng ra phục vụ tân triều,…
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 18)
Có thể nói rằng trong kho tàng văn học nước ta thì không chỉ có những bài thơ ngôn từ hay và mượt mà, hay là những áng văn xuôi đậm chất trữ tình. Mà còn có những thể loại riêng nhưng lại có thể góp phần đa dạng và phong phú cho nền văn học chung của nước ta. “Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được xem là một tác phẩm đặc sắc nó là một bản chiếu vua ban và có sức mạnh to lớn của một quốc gia dân tộc.
“Chiếu cầu hiền” đã được viết khi mà vua Lê Chiêu Thống đã “mời” quân Thanh vào xâm lược nước ta. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ đã lên ngôi vua và đã lấy hiệu là Quang Trung. Quang Trung đã đem quân ra Bắc để quét sạch hết 20 vạn quân Thanh và cả bọn tay sai và bè lũ bán nước. Khi đã thua trận Lê Chiêu Thống cùng như đã cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị. Và lúc này thì triều Lê sụp đổ, thay thế vào đó là triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Có thể thấy rằng trước sự kiện trên đã có một quan thần trong triều Lê khả năng là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê. Và dường như hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên dường như tất cả đều trốn tránh ẩn nấp và cũng đã không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước. Và khi đã đoán biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung cũng như đã liền phái Ngô Thì Nhậm để có thể thay mình viết chiếu cầu hiền dùng làm để kêu gọi những người tài giỏi ra cứu dân, giúp nước.
Qua hành động này ta như thấy được vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi đã nghĩ ra kế sách này. Đồng thời cũng đã thể hiện được việc nhà vua rất trọng người hiền tài trong thiên hạ. Ngô Thì Nhậm được thay vua Quang Trung viết “Chiếu cầu hiền” vì ông là người tài giỏi cũng là bậc bề tôi trung thành với vua. Thể “chiếu” được xem là văn thu mà vua chúa ban bố một mệnh lệnh cho dân chúng. Thật dễ thấy được vua Quang Trung đã đưa ra việc tìm người hiền tài chứ không phải ban bố những mệnh lệnh điều này cũng như đã thấy được vai trò to lớn và cấp thiết nhất là phải tìm được người hiền tài ra giúp dân giúp nước.
Trong bài chiếu có thể thấy được đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò cũng như là sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà dường như ta thấy ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên được tất cả những vai trò to lớn của các bậc hiền tài. Và có thể nói rằng đó chính là nhan đề mà ta đã thấy được Thân Nhân Trung trước cũng đã viết đó là “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Và có thể chính vì thế tác giả cũng như đã nêu cao vai trò của người hiền tài trong cả sự nghiệp để có thể phát triển đất nước. Tác giả dường như cũng đã so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng và quan trọng, rực rỡ của thiên nhiên. Đây chính là một sự tôn vinh như được khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà ta như thấy được rằng dường như ở những bậc hiền tài ấy cũng như sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài được biết đến là do trời sinh ra và dường như ở người tài ấy phải có phận là biết sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Và đây cũng là cách mà tác giả Ngô Thì Nhậm như cũng đã muốn cho sĩ phu hiền tài thấy được vua Quang Trung như thật đã biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó như cũng đã góp phần như có thể xóa đi những nghi ngờ những nỗi sợ hãi của những bậc hiền tài. Và ta như thấy được nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh và đây là một tính rất quan trọng cho chiếu cầu hiền.
Có thể thấy khi đến đoạn văn tiếp theo dường như cũng đã nói về nguyện vọng của nhà vua khi mà ông đã mong muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả dường như đã đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và cả chính tình hình ấy phải cần đến sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Có lẽ ta như thấy được cách trình bày thẳng thắn cho thấy được ra những sự trung thực thật thà cũng như là một sự quang minh chính địa của vua Quang Trung. Cũng như thông qua đó ta thấy được sự chân thành và đó còn chính là tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của vua Quang Trung ở đây được ví như “trời còn tăm tối”hay là “đương ở buổi đầu của nền đại định” và cả “công việc vừa mới mở ra” đó như cũng chính là những khó khăn bức thiết của triều đại nhà Nguyễn, hơn hết đó là đất nước như cũng đang rơi vào tình thế khó khăn. Ta cũng như đã thấy được chính hình ảnh đất nước được hiện ra qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó chính là một đất nước mà dường như ở đời đầu mới ở buổi rất khó khăn, hơn nữa là tương lai còn chưa sáng rõ. Ở buổi đầu khó khăn như vậy thì việc thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được cơ chứ, và cũng chính vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về để có thể được phụng sự giúp đỡ vua xây dựng đất nước thái bình thịnh trị. Trong buổi đầu đó thì dường như cả “kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, hay ngay cả việc biên ải chưa chưa yên, và nhân dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với đó chính là “một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”. Khi nhìn vào thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Và cũng chính vì thế mà ta như thấy được vua Quang Trung như thật sáng suốt biết bao khi đã biết được tầm quan trọng của người hiền tài.
Cho đến cuối cùng thì bài chiếu như đã nêu ra đó là chính sách cầu tài của vua Quang Trung. Dường như ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong những đường lối chính sách của vua mà thôi. Và chúng ta có thể đánh giá đó là những chính sách công bằng cho tất cả mọi người, và cho thấy được vua Quang Trung là một vị vua anh minh, thương yêu nhân dân
Thêm vào đó nữa chính là cách tiến cử hết sức rộng mở đó chính là việc tự mình dâng sớ tâu bày tất cả các sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Thông qua bài chiếu ta thấy được tài năng biết trọng người tài, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Và đây quả thực là một tác phẩm vừa mang ý nghĩa chính trị vừa lại là một tác phẩm văn học có giá trị.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 19)
“Chiếu cầu hiền” là bài chiếu mà vua Quang Trung- Nguyễn Huệ giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức, có tài ra phục vụ triều đình giúp dân, giúp nước. Thay tâm nguyện của đức vua Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân, vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của đức vua.
Yêu cầu đối với một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, đòi hỏi người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những nhu cầu của đất nước lúc bấy giờ, phải dùng được những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi có trình độ uyên tâm lỗi lạc, là người rất có tài thuyết phục lòng người. Qua tác phẩm “Chiếu cầu hiền” chúng ta đã thấy được tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
“Từng nghe người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Tác giả đã thay mặt nhà vua khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quý giá của đất nước, giống như “sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng đáng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã tăng thêm tính thuyết phục của bài chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với đất nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phí hoài. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để đất nước được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là báu vật mà ông trời đã ban cho đất nước, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc rất quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn sớm hôm mong mỏi. Vua Quang Trung là vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp tan giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chống nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không đựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của nhà vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ tới cuộc sống của nhân dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua một lòng vì dân vì nước, dâng hiến cả cuộc đời cho dân tộc. Có một vị vua và lý tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Qua đó ta thấy được tình yêu nước, thương dân nồng nàn của một đức minh quân tài ba. Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước, cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, để thấy được tương lai sau này của đất nước. Vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân ấm no, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng là mơ ước của nhà vua nhằm canh tân đất nước.
Bài “Chiếu cầu hiền” thể hiện cái tâm, cái tài của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng của mình Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến cho muôn dân phải thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này dân tộc ta đã có một thời gian được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 20)
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê – Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang Trung trọng dụng. Tác Phẩm Chiếu Cầu Hiền được viết theo yêu cầu của Vua Quang Trung, nhằm cổ vũ động viên tinh thần cho các chiến sĩ cũng như kêu gọi người tài giúp dân cứu nước.
Khi đọc tác phẩm chắc ai cũng biết là một người bình thường không thể nào có những lời văn hay, rõ ràng và có sức thuyết phục như vậy, chứng tỏ Quang Trung là một vị vua tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất. Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Mở đầu bài Chiếu tác giả đã đưa được giả thuyết của bậc hiền tài rất đơn giản mà lại có sức thuyết phục cao.
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
Ở đây ý tác giả muốn khẳng định người hiền tài là một người có đức lẫn tài, được so sánh ví như ngôi sao sáng trên trời. Và các nhân tài đó sinh ra để giúp vua cứu nước. Cách dùng hình ảnh để nói lên một cách đơn giản mà dễ hiểu là: Hiền tài là tinh hoa của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.
Tiếp theo tác giả lại đưa ra những chi tiết về việc phân chia Nước làm hai Đàng là Đàng trong và Đàng ngoài thì đất nước trở nên khó khăn trong việc quản lý cũng như là sự đảm bảo hòa bình cho đất nước. Ngô Thì Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.
Tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng khác để nói lên sự nhút nhát của các nhân tài, cũng như việc lẩn tránh trách nhiệm với đất nước như: Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
Tiếp theo đó là những lời của Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ: mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng. Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng, hoặc làm việc cầm chừng. Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy. Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Đây là những Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới.
Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thỏa đáng của mình.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Tác phẩm Chiếu cầu hiền là một bài văn nghị luận có tính mẫu mực, thể hiện ở sự chặt chẽ và tính logic của các luận điểm, ở tài thuyết phục khéo léo và thái độ khiêm tốn, chân thành của người viết. Các điển cố được sử dụng trong bài Chiếu cho thấy nhận thức tinh tế của người viết về đối tượng cần thuyết phục là tầng lớp trí thức. Người viết tỏ ra có trình độ hiểu biết sâu rộng, đủ khả năng thuyết phục một đối tượng như thế. Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức về vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khí quốc gia.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 21)
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
“Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống “như sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: “Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn “sớm hôm mong mỏi”. Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.
Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 22)
Ra chiếu cầu hiền là một việc làm quen thuộc của các bậc đế vương lúc mới lên ngôi và lúc đang ra tay xếp đặt lại chính sự. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy văn học trung đại còn để lại nhiều “tờ” chiếu cầu hiền, được viết bởi những tác giả khác nhau, thừa lệnh những ông vua khác nhau. Số lượng tuy nhiều nhưng không phải chiếu cầu hiền nào cũng được hậu thế thưởng thức như một áng văn có giá trị, được các nhà sử học quan tâm tìm hiểu kĩ càng để có thể nhận ra được thực chất của một triều đại và tầm nhìn của một đấng quân vương. Điều này có liên quan đến văn tài của người viết cùng tình huống lịch sử buổi chiếu cầu hiền được ban bố (với loại hình tác phẩm như chiếu cầu hiền, việc tìm hiểu kĩ càng những yếu tố ngoài văn bản có ý nghĩa rất quan trọng).
Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt vua Quang Trung là một “tờ” chiếu nổi tiếng. Nổi tiếng bởi nó gắn với tên tuổi của một người có công nghiệp rõ ràng, hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, nhưng chưa được một số tầng lớp nhất định trong xã hội (nhất là giới sĩ phu Bắc Hà) tuyệt đối ngưỡng phục, do ông xuất thân không phải từ thành phần quý tộc, lại khởi nghiệp từ một miền đất mới và do vài nguyên nhân khác nữa. Nổi tiếng bởi nó ra đời vào điểm cuối của một thời loạn lạc triền miên (kéo dài trong suốt gần hai trăm năm), khi nhân tâm li tán cùng cực, từ kẻ sĩ đến thứ dân, không mấy người tin và dám tin vào một cái gì chắc chắn. Đặc biệt, nổi tiếng do nó được viết bởi một trí thức hàng đầu của đất nước thời đó là Ngô Thì Nhậm – người đã biết vượt lên mọi dị nghị, hăng hái đứng ra phục vụ tân triều,…
Khi đảm trách việc viết Chiếu cầu hiền cho vua mới, Ngô Thì Nhậm có được những thuận lợi lớn: quan hệ giữa ông và Quang Trung là rất tốt đẹp. Quang Trung hiểu ông, trọng dụng ông và ông không chỉ phục mà còn biết ơn sâu xa người anh hùng này. Nhưng ông không phải chỉ gặp toàn thuận lợi. Tiếng gì ông cũng là bề tôi cũ của chúa Trịnh, giờ nói về đức sáng của Nguyễn Huệ, không dễ gì thuyết phục được những người cố chấp. Thêm nữa, ông hiểu những khó khăn riêng của vị vua “áo vải cờ đào” này (mà ở trên đã đề cập). Ông không có được sự thoải mái hoàn toàn như Nguyễn Trãi ngày xưa khi cũng thảo Chiếu cầu hiền (thay mặt Lê Lợi, lúc cuộc bình Ngô đã thành công trọn vẹn). Ban Chiếu cầu hiền, Lê Lợi hoàn toàn có lí do để không phải tỏ thái độ quá khiêm nhường. Nguyễn Trãi hiểu điều đó nên đã thể hiện lời của Lê Lợi như một mệnh lệnh nghiêm khắc: “Vậy hạ lệnh cho các văn võ đại thần, công hầu, đại phu, từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã…”. Nguyễn Trãi cũng biết rõ uy lực của một bậc đế vương vừa hoàn thành đại nghiệp, rất quyết đoán trong việc thưởng phạt, nên đã viết:
“Nếu cử được người trung tài thì thăng chức hai bực, nếu cử được người tài đức đều hơn người tột bực, tất được trọng thưởng”…
Những điều vừa được trình bày cho thấy: dù chiếu là một thể loại văn bản hành chính của nhà nước, nó có những đinh lệ riêng, nhưng không phải vì thế mà viết nó chỉ là việc mỏ phỏng theo công thức. Tính cách, tư tưởng, tầm nhìn của các vị vua là khác nhau. Tình hình đất nước trong mỗi thời lại có những nét đặc thù. Bởi vậy, mức độ nhạy cảm về chính trị, khả năng luận thuyết, tài văn chương,… của người lĩnh mệnh thảo chiếu luôn có đất để thể hiện. Đọc Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay mặt Quang Trung, độc già ngày nay có thể hiểu được rất nhiều điều về hai nhân vật xuất chúng này của đất nước – riêng từng người và cả mối quan hệ vua – tôi đầy đồng cảm, đầy tâm đắc giữa họ nữa.
Chiếu cầu hiền ta đang nói có ba phần lớn, liên kết với nhau theo một logic chặt chẽ.
Phần đầu của văn bản tập trung luận về người hiền và chức năng của họ. Người hiền được tác giả ví “như ngôi sao sáng trên trời cao” và chức năng của họ được xác định là “làm sứ giả cho thiên tử”. Mối liên hệ giữa hai vấn đề này là gì ? Tại sao không ví người hiền với đối tượng nào khác ? Tất cả những điều này đều đã được tác giả ý thức. Người hiền như sao sáng – riêng so sánh này đã toát lên ý tôn vinh và trân trọng rất mực. Nhưng trong mạch lập luận của mình, tác giả nói đến nhiều ngôi sao là để dẫn chúng ta tới một ngôi sao chính: sao Bắc Thần (tức là Bắc Đẩu). Bắc Thần trước hết là sao – một ngôi sao có vị trí đặc biệt trên bầu trời, không ai không biết. Quan trọng hơn, Bắc Thần còn là hình ảnh tượng trưng cho hoàng đế, theo cách hình dung của đức Khổng Tử. Thì ra mấu chốt của mối liên hệ là ở chỗ này. Mọi sao trên trời đều chầu về sao Bắc Thần nằm ở vị trí trục quay của trái đất (nói theo kiến thức thiên văn của người ngày nay), vậy sao – hiền – tài từ các miền không chầu về sao – Bắc – Thần – thiên – tử thì còn chầu về đâu nữa!
Đó thực là một lẽ tất yếu. Đạo người, luật người phải tương hợp, phải thuận theo đạo trời, luật trời, không thể khác được. Từ một so sánh tưởng chừng ngẫu hứng và nặng về tình cảm, tác giả dẫn người đọc tới một kết luận nghiêm túc và hết sức lô-gíc. Như vậy, ngay từ mấy câu đầu, cái hay trong cách lập luận của áng văn đã được thể hiện. Hiệu quả của cách lập luận đó là vừa thuyết phục được người ta về lí, vừa thuyết phục được người ta về mặt tâm linh. Tất nhiên, còn có thể nói thêm: việc tác giả vận dụng một ý trong sách Luận ngữ là rất giàu ý nghĩa. Đưa lời Khổng Tử ra từ đầu, tác giả đã tạo nên được tính chính danh cho Chiếu cầu hiền. Đối với nhà nho xưa, lời đức Khổng Tử chính là chân lí, nào ai dám không nghe theo. Và phải đâu vua mới là kẻ võ biền ít học, không biết lễ nghĩa !
Sau khi đã đặt được “viên đá tảng” cho toàn bộ hệ thống lập luận của áng văn, cũng ngay trong phần đầu, tác giả viết: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Ý thì đòi hỏi mà giọng lại thấm đẫm nhân tình và chứa chan khích lệ. Vẫn là một thái độ chân thành yêu quý hiền tài, xem hiền tài như của báu trời sinh. Nếu hiền tài không được biết đến, không cho người ta biết đến thì thật phí hoài. Và cũng là có tội với đấng Tạo hoá đã có công sinh ra mình, vun đắp cho mình nữa ! Chưa kể việc hiền tài mà không được sử dụng thì đâu còn là hiền tài. Hiền tài không phải là cái danh suông. Giá trị của nó phải được xác định trong quan hệ và qua hành động.
Trọng điểm của phần thứ hai trong Chiếu cầu hiền là làm rõ tâm nguyện của Quang Trung mong có bậc hiền tài giúp mình trị nước. Đầu tiên tác giả nói tới sự trốn tránh việc đời của các kẻ sĩ giữa thời rối ren, loạn lạc mới đi qua: “Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Đây là đoạn văn chứa đựng nhiều tầng ý khác nhau. Trên bề nổi thì đó là sự thông cảm. Nhưng ở bề sâu thì đó là sự trách cứ, dù không gay gắt. Phải là người từng trải nghiệm tình thế cay đắng bắt buộc phải ngậm lời như hàng trượng mã, lại bao quát được đại cuộc mới viết nổi những câu như thế. Sự khái quát ở đây đạt tới mức độ rất cao. Những kiểu trốn tránh việc đời rất đa dạng, những màu vẻ khác nhau của bi kịch kẻ sĩ đều được điểm tới (điều này phải đọc qua nguyên tác hay bản dịch sát ý mới cảm nhận hết được).
Cũng cần phải thấy rằng lời lẽ trình bày vấn đề trong đoạn văn khá tế nhị, vì nó đụng tới một chuyện nhạy cảm: khi Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc diệt Trịnh, nho sĩ Bắc Hà phần lớn tỏ thái độ bất hợp tác. Chuyện trước không thể không nhắc lại, nhưng quan trọng là nhắc với giọng điệu nào. Quang Trung, theo những gì biểu lộ trong đoạn văn, là một con người đại lượng. Ông chỉ nói về các sự kiện xảy ra cách đó chưa lâu bằng mấy từ biến cố, thời thế khá chung chung (theo bản dịch). Thì cũng coi như một sự xí xoá, dù không hẳn là xí xoá. Điển xưa được dùng rất nhiều (da bò bền, hàng trượng mã, ra bể vào sông,…) có tác dụng làm mờ bớt tính “khó chịu” của các sự việc đã xảy ra, khiến người đọc Chiếu cầu hiền thuở ấy có thể bớt phần mặc cảm với tân vương. Phải nói rằng ở đây, với tư cách là người lĩnh mệnh soạn chiếu, Ngô Thì Nhậm đã thực hiện được một sự “hoà giải” khéo léo, trên cơ sở hiểu lòng ông vua tri kỉ.
Và cũng từ đó, tác giả mới khơi được mạch văn chảy tới những lời bộc lộ thiết tha này: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng ? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng ?”. Hai câu hỏi được đặt ra liên tiếp vừa thể hiện được sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện được sự đòi hỏi và thậm chí cả chút thách thức nữa của nhà vua. Đúng là những câu hỏi không thể lảng tránh trả lời !
Đoạn văn tiếp theo của phần hai bàn sâu vào tình thế lịch sử trước mắt và sự cấp thiết của việc cầu hiền. Lời văn từ mềm mỏng, tế nhị chuyển sang bộc trực, thẳng thắn. Toát lên từ đây là nỗi lo lắng thật sự của tân vương đối với vận nước khi nhìn thấy phía trước bộn bề những công việc cần xử lý, sắp đặt: “Kỷ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh…”. Ở đâu, với ai, việc ra chiếu cầu hiền có khi chỉ là một thủ đoạn nhằm thu phục nhân tâm, còn ở đây thì hoàn toàn không phải thế. Ta cảm nhận được nhịp tim đập mạnh, hơi thở nồng nàn của một con người cụ thể đang hành động, kiên quyết hành động vì một hoài bão lớn, đang hết sức cần một lực lượng giúp rập, phò tá, thể hiện qua nhịp điệu các câu văn:
“Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. […] trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao ?”.
Sự cao giọng trong câu hỏi vừa trích còn phản ánh cái gì khác ngoài nỗi sốt ruột rất thật, niềm tin tưởng nhiệt thành vào “trữ lượng” hiền tài của đất nước? Đúng là giọng của một con người đầy cá tính, không chịu lùi bước trước các trở ngại trên con đường gây dựng nghiệp lớn của mình. Chắc chắn khi viết những câu này, tác giả Chiếu cầu hiền đang ở trong trạng thái thăng hoa. Ngô Thì Nhậm nói giùm ước nguyện của quân vương hay nói chính nỗi lòng mình ? Quả thật rất khó phân biệt. Có thể nói ở đây có một sự cộng hưởng khát vọng giữa hai con người, và giữa hai con người ấy với cả dân tộc.
Phần thứ ba, cũng là phần cuối của “tờ” chiếu nói rõ chính sách cầu hiền của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nội dung của chính sách đó có mấy điểm nổi bật: cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách; cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi; cho phép người tài tự tiến cử; sẵn sàng cất nhắc người xứng đáng, không kể thứ bậc; “tùy tài lục dụng” những kẻ được tiến cử; không trị tội người có lời sơ suất,… Đứng là một chính sách rộng mở, có nhiều “điều khoản” chi tiết và giàu tính “khả thi” (nói theo cách của bây giờ). Rõ ràng, trước khi ra Chiếu cầu hiền, mọi việc đã được đấng quân vương trù liệu khá kĩ. Ông đã tự chứng tỏ được tầm nhìn xa rộng cũng như khả năng tổ chức, xếp đặt chính sự của mình. Ông cũng đã biết giải toả những băn khoăn có thể có (trong đó có băn khoăn tế nhị về danh dự) cho mọi thần dân, khiến họ cảm thấy an tâm khi tham gia bàn việc nước… Từ những lời đã được nói ra, ta thấy toát lên một giọng khoan hòa, điềm tĩnh rất dễ lọt tai, giàu tính thuyết phục.
Ra đời với tư cách là một văn bản hành chính của nhà nước, Chiếu cầu hiền vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân của Ngô Thì Nhậm – người thảo ra nó. Dấu ấn này không chí thể hiện ở lối tư duy sáng rõ, lối lập luận khúc chiết, chặt chẽ mà còn ở sự nồng nàn của cảm xúc được chưng cất từ niềm tin vào chính sách đúng đắn của tân vương, tân triều và niềm biết ơn đối với “tấm lòng” đã không nhìn nhận mình chỉ như một bề tôi, một công cụ mà như một tri kỉ. Có thể nói Chiếu cầu hiền đã hội tụ được đầy đủ những điều kiện để trở thành một áng văn chính luận mẫu mực của muôn đời.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 23)
Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:
“Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống “như sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: “Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn “sớm hôm mong mỏi”.
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 24)
Ngô Thì Nhậm là một người hiền tài, được vua Quang Trung hết lòng trọng dụng. Viết chiếu cầu hiền là một nét văn hóa đặc biệt của phương Đông. Trong buổi đầu dựng nước, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Ngô Thì Nhậm đã viết Chiếu cầu hiền dưới sự yêu cầu của vua Quang Trung. Tác phẩm vừa thể hiện chiến lược đứng đắn vừa là một áng văn xuất sắc.
Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền vào khoảng năm 1788 – 1789, bài chiếu được viết nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ – nhà Lê ra giúp sức cho triều đại mới – nhà Tây Sơn. Tác phẩm có bố cục mạch lạc, liên kết chặt chẽ với nhau: phần 1 nêu lên vai trò, sứ mệnh của người hiền tài đối với vận mệnh đất nước; phần 2 đưa ra những trăn trở của vua Quang Trung nhằm kêu gọi người tài ra giúp nước; phần còn lại đưa ra hình thức, con đường để người hiền tài ra giúp đỡ đất nước. Với bố cục mạch lạc, chặt chẽ Ngô Thì Nhậm đã thực hiện thành công mục đích viết chiếu của mình.
Điều đầu tiên tác giả đề cập đến chính là vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự hưng thịnh, suy vong của một đất nước. Ông sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc và hết sức chính xác: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao” câu văn đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người hiền đối với quốc gia dân tộc, đây đồng thời cũng như sự tôn vinh, khen ngợi đối với họ. Không dừng lại ở đó, Ngô Thì Nhậm tiếp tục khẳng định: “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Với cách so sánh đầy sáng tạo, tác giả khẳng định sự trân trọng người hiền tài khi so sánh họ như những vì tinh tú trên trời, họ là kết tinh của sự tinh anh và tài hoa bởi vậy phải đem tài năng của mình ra phục vụ đất nước. Với lập luận hết sức chặt chẽ, tác giả đã bước đầu thuyết phục được người hiền tài.
Nhưng để bài chiếu có sức thuyết phục cao hơn nữa, phần tiếp theo của tác phẩm, Ngô Thì Nhậm nêu lên những khó khăn trong hành trình thu phục người hiền tài ra giúp nước. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nếu như trong buổi suy vi, những nhà Nho thường lánh đời, bỏ chỗ đục tìm về chỗ trong để giữ trọn khí tiết thanh cao của mình là điều dễ hiểu, nhưng nay đã sang một thời đại mới vì sao vẫn mãi “lẩn tránh” câu văn như một lời trách cứ vừa nhẹ nhàng vừa đanh thép với kẻ sĩ lúc bấy giờ. “Nay trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng”. Câu văn vừa thể hiện sở nguyện tha thiết, chân thành, “ghé chiếu” để mời người hiền tài ra giúp nước. Nhưng đồng thời thể hiện sự phê phán nhẹ nhàng mà thâm thúy qua hai câu hỏi tu từ ở phía sau. Đánh động vào suy nghĩ, nhận thức của những kẻ hiền tài vẫn chưa chịu ra giúp đời, giúp triều đại mới.
Buổi đầu dựng nước gặp phải biết bao khó khăn: “kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan” không chỉ vậy, đời sống người dân chưa ổn định “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” sau những năm dài chinh chiến. Bởi vậy, càng nhận thấy rõ hơn sự góp sức của người tài có ý nghĩa quan trọng nhường nào đối với đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Câu văn thể hiện thái độ trân thành của vua Quang Trung, ông một lòng muốn mời người hiền ra giúp nước cũng là bởi lo cho đời sống nhân dân, lo cho sự an nguy, độc lập của đất nước. Đó là những lời tâm huyết và chân thành xuất phát từ trái tim yêu nước thương dân mãnh liệt. Tấm lòng đó quả đáng trân trọng và đáng tự hào biết bao.
Đoạn văn tiếp theo cho thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Để hợp sức toàn dân, đồng lòng xây dựng triều đại mới ông ban chiếu để mời gọi người hiền ra giúp nước. Hình thức vô cùng đa dạng: “cất nhắc không kể thức bậc”, “không vì lời nói sơ suất mà vu khoát, bắt tội”, “được tiến cử” “tự tiến cử”,… cốt sao để người hiền tài có được những điều kiện thuận lợi nhất để họ có thể đem sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của nước nhà.
Với những lời lẽ chân thành, tha thiết ta có thể thấy tầm nhìn xa trông rộng của Quang Trung trong tiến trình tái tạo và xây dựng một triều đại mới. Triều đại đó nếu chỉ hùng cường về quân sự thôi chưa đủ mà còn phải hùng mạnh về người tài, bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vua Quang Trung là một người lãnh đạo có trí tuệ, khiêm tốn, chân thành và một lòng lo lắng cho sự nghiệp dựng nước. Trong toàn bộ bài chiếu ta không hề thấy ông một lần nhắc đến những sĩ phu Bắc Hà không cộng tác với nhà Tây Sơn. Điều đó cho thấy lối ứng xử khéo léo, khiêm nhường và chỉ duy nhất hướng đến mục đích kêu gọi sự hợp tác của người hiền tài.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 25)
Với thể loại chiếu nếu như ở chương trình Ngữ văn lớp 8 ta được biết đến với tác phẩm “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn thì sang lớp 11 tìm hiểu tác phẩm cùng thể loại là “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm. Ông đã từng làm quan dưới triều Lê- Trịnh, sau phục vụ cho triều đại Tây Sơn có nhiều đóng góp và được trọng dụng. Ông được vua Quang Trung giao nhiệm vụ viết bài “Chiếu cầu hiền” trong hoàn cảnh triều đại mới được gây dựng, đất nước gặp nhiều khó khăn, người tài còn vắng bóng với mục đích nhằm động viên sĩ phu Bắc Hà và những người hiền tài ra phò vua giúp nước. Văn kiện thể hiện chủ trương đúng đắn và tầm nhìn ra trông rộng của một vị vua anh minh, lỗi lạc.
Chiếu là văn kiện chính trị thuộc loại văn học chức năng, còn có tên gọi khác là “Chiếu thư”, “Chiếu chỉ”, “Chiếu bản”. Đó là văn cáo mà thiên tử hạ đạt mệnh lệnh xuống cho thần thuộc. Dù là trực tiếp nhà vua viết hay do người khác vâng theo mệnh lệnh mà viết thì cũng đều phải thể hiện được tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng lâu dài đến vận mệnh của đất nước.
Theo như lời khuyên của chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các nhà báo: “Trước khi cầm bút mỗi người cần trả lời ba câu hỏi: Ta viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?” Chỉ với mười hai từ ngắn gọn đã thâu tóm được quan điểm và nội dung của bài viết. Đối với bài văn nghị luận sâu sắc như “Chiếu cầu hiền”, khi phân tích tôi chọn cho mình điểm nhìn đứng ở vị thế của người viết. Chúng ta giải đáp từng câu hỏi để làm sáng tỏ cái hay cái đẹp của tác phẩm.
Trước tiên “Ta viết cho ai?” tức đối tượng bài chiếu hướng đến là ai? Trước tình hình chúa Trịnh ngày càng lộng quyền lấn át vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra Bắc “Phù Lê diệt Trịnh”, thừa thắng đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, thù trong giặc ngoài được loại bỏ, thống nhất non sông về một mối, lập nên triều đại mới – triều đại Tây Sơn của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Một số người với quan niệm bảo thủ không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh của vị vua mới đã có thái độ bất hợp tác, thậm chí nổi dậy chống lại triều đình Tây Sơn. Nhà vua đã cho viết bài chiếu trước là để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà có thái độ đúng đắn, hiểu được vận mệnh dân tộc và mở rộng ra là hiền tài còn ẩn mình hãy đem tài năng ra giúp nước. Chính sách chiêu hiền không giới hạn phạm vi đối tượng “các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng thứ dân trăm họ” tất cả mọi người ai cũng có quyền, có trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Viết để làm gì? Đúng như tên nhan đề là cầu hiền và cũng như phân tích ở trên để chiêu mộ nhân tài, những con người vừa có đức vừa có tài có tâm ra phụng sự cho dân cho nước. Mục đích ấy cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ và vai trò to lớn của người hiền tài đối với vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa qua lời dạy nhi đồng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Bởi các em chính là thế hệ tương lai của đất nước, nắm trong tay vận mệnh dân tộc Việt. Ngày nay chủ trương chiêu mộ nhân tài luôn luôn được chính quyền Trung ương Đảng đề ra và thực hiện bằng các chính sách cụ thể thiết thực về “Đào tạo nhân tài và bồi dưỡng nhân lực”.
Sau khi xác định rõ được đối tượng và mục đích điều quan trọng là phải viết như thế nào để thể hiện được mong muốn của tác giả. Ngô Thì Nhậm là người dùi mài kinh sử học rộng tài cao nên ông am hiểu tâm lí của các sĩ phu. Bởi theo quan niệm chính thống của tầng lớp Nho sĩ người xuất thân từ dòng dõi đế vương hoặc quý tộc mới xứng nối nghiệp tiên vương, mới có khả năng làm Thiên tử. Nguyễn Huệ lại xuất thân là nông dân nên ít nhiều Nho sĩ Bắc Hà không những không phục mà con tỏ vẻ khinh miệt, coi thường. Ông nắm được suy nghĩ ấy nên mở đầu tác phẩm đã dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử thuyết phục đối với Nho sĩ Bắc Hà. Ông chỉ ra quy luật xuất xử của các bậc hiền tài: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Tác giả chỉ ra quy luật của vũ trụ “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” để khẳng định người hiền tài phải phụng sự cho dân cho nước, phải có trách nhiệm với vận mệnh dân tộc mà trước tiên là “làm sứ giả cho thiên tử” tức phục vụ cho vua là lẽ tất yếu. Nếu làm trái là không theo ý trời. Hình ảnh so sánh rất tiêu biểu, cụ thể phù hợp với tâm lí của những con người xuất thân nơi “Cửa Khổng sân Trình”.
Tiếp đó tác giả nói đến tình cảm của kẻ sĩ dành cho triều đại mới bấy giờ: một số người tài đức thì “ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời”, những người tinh anh thì sợ hãi im lặng “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc nửa chừng thì bỏ dở “gõ mõ canh cửa” hay người bị chết đuối trên cạn, thậm chí có cả những người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê_cái tôi trung thành đến mù quáng. Tác giả không nói thẳng mà dùng lối nói hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng vừa đả kích nhẹ nhàng, vừa tế nhị sâu kín lại tỏ ra là người có học thức uyên thâm, hiểu biết sâu rộng, có tài văn chương khiến cho người nghe không những không chạnh lòng, tự ái mà hiểu ra vấn đề, tự cười tự trách bản thân mình vì có thái độ chưa đúng đắn.
Sau khi chỉ ra những thái độ tiêu cực của sĩ phu Bắc Hà, vua Quang Trung bày tỏ tâm sự, lòng chân thành của mình bằng cách đặt ra các câu hỏi khiến cho người đọc, người nghe phải suy ngẫm, trăn trở: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” Nhà vua tha thiết mong mỏi những người hiền tài có thể ra giúp vua giúp nước nhưng vì lí do gì mà vẫn vắng bóng. Phải chăng Quang Trung đang tự trách mình “Ít đức”, hay vì họ viện cớ cho thời đại đổ nát. Thực sự những điều đó không đúng với hoàn cảnh thực tế bấy giờ. Nếu ít đức sao ông có thể làm nên nghiệp lớn xây dựng cơ đồ, thời đại đổ nát chẳng phải vì giặc giã phương Bắc đã dẹp, non sông quy về một mối, triều đại mới vừa được tạo dựng… và còn biết bao điều cần hơn nữa người tài giúp nước.
Thái độ chiêu hiền của nhà vua rất chân thành, ông luôn khiêm tốn, nhún nhường. Nhà vua chỉ ra tính chất của thời đại, nhu cầu của đất nước và không ngần ngại nhận khiếm khuyết bản thân và sự bất cập của triều đình mới đồng thời khẳng định sự cần của người tài với đất nước. Công việc ngày càng nhiều, trọng trách ngày càng lớn một người không thể gánh vác mà cần sự chung tay góp sức của mọi người. Hình ảnh “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn và mưu lược của một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Điều đó cho thấy quan điểm “lấy dân làm gốc” thật đúng đắn thể hiện một tầm nhìn chiến lược của Quang Trung. Tư tưởng ấy bao đời này vẫn được gìn giữ và tiếp nối bởi “nước có thể chở thuyền cũng có thể lật thuyền…lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” là vậy. Kết thúc đoạn văn tác giả dùng lối viết trích dẫn lại lời Khổng Tử để khẳng định người hiền tài trong nước ta còn rất nhiều, vậy “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?” câu hỏi đó khiến cho biết bao người tài còn ở ẩn phải trăn trở, phải suy ngẫm về thái độ của mình.
Tác phẩm là bài văn nghị luận mẫu mực, từng câu chữ, lí lẽ, dẫn chứng đều rất khéo léo và có tính thuyết phục cao. Các điển cố được sử dụng tài tình cho thấy sự am hiểu về văn học, kiến thức sâu rộng của tác giả.
Tác phẩm “Chiếu cầu hiền” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, cái tâm, cái tài của một vị vua tài ba, lỗi lạc. Chính sách cầu hiền luôn là một điều tất yếu cần có của mỗi triều đại dù trong bất kì hoàn cảnh, thời gian nào bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, đất nước càng phát triển càng cần có nhiều nhân tài cống hiến tài năng. Ngô Thì Nhậm đã thể hiện quan điểm, tư tưởng, chủ trương của vua Quang Trung về chính sách chiêu hiền thật xuất sắc trong tác phẩm. Những chính sách đó luôn được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp nối và không ngừng đổi mới để Việt Nam ngày càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế.
Với thể loại chiếu nếu như ở chương trình Ngữ văn lớp 8 ta được biết đến với tác phẩm “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn thì sang lớp 11 tìm hiểu tác phẩm cùng thể loại là “Chiếu cầu hiền” của Ngô Thì Nhậm. Ông đã từng làm quan dưới triều Lê- Trịnh, sau phục vụ cho triều đại Tây Sơn có nhiều đóng góp và được trọng dụng. Ông được vua Quang Trung giao nhiệm vụ viết bài “Chiếu cầu hiền” trong hoàn cảnh triều đại mới được gây dựng, đất nước gặp nhiều khó khăn, người tài còn vắng bóng với mục đích nhằm động viên sĩ phu Bắc Hà và những người hiền tài ra phò vua giúp nước. Văn kiện thể hiện chủ trương đúng đắn và tầm nhìn ra trông rộng của một vị vua anh minh, lỗi lạc.
Chiếu là văn kiện chính trị thuộc loại văn học chức năng, còn có tên gọi khác là “Chiếu thư”, “Chiếu chỉ”, “Chiếu bản”. Đó là văn cáo mà thiên tử hạ đạt mệnh lệnh xuống cho thần thuộc. Dù là trực tiếp nhà vua viết hay do người khác vâng theo mệnh lệnh mà viết thì cũng đều phải thể hiện được tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng lâu dài đến vận mệnh của đất nước.
Theo như lời khuyên của chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho các nhà báo: “Trước khi cầm bút mỗi người cần trả lời ba câu hỏi: Ta viết cho ai? Viết để làm gì? Viết như thế nào?” Chỉ với mười hai từ ngắn gọn đã thâu tóm được quan điểm và nội dung của bài viết. Đối với bài văn nghị luận sâu sắc như “Chiếu cầu hiền”, khi phân tích tôi chọn cho mình điểm nhìn đứng ở vị thế của người viết. Chúng ta giải đáp từng câu hỏi để làm sáng tỏ cái hay cái đẹp của tác phẩm.
Trước tiên “Ta viết cho ai?” tức đối tượng bài chiếu hướng đến là ai? Trước tình hình chúa Trịnh ngày càng lộng quyền lấn át vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra Bắc “Phù Lê diệt Trịnh”, thừa thắng đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược, thù trong giặc ngoài được loại bỏ, thống nhất non sông về một mối, lập nên triều đại mới – triều đại Tây Sơn của vua Quang Trung Nguyễn Huệ. Một số người với quan niệm bảo thủ không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh của vị vua mới đã có thái độ bất hợp tác, thậm chí nổi dậy chống lại triều đình Tây Sơn. Nhà vua đã cho viết bài chiếu trước là để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà có thái độ đúng đắn, hiểu được vận mệnh dân tộc và mở rộng ra là hiền tài còn ẩn mình hãy đem tài năng ra giúp nước. Chính sách chiêu hiền không giới hạn phạm vi đối tượng “các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng thứ dân trăm họ” tất cả mọi người ai cũng có quyền, có trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Viết để làm gì? Đúng như tên nhan đề là cầu hiền và cũng như phân tích ở trên để chiêu mộ nhân tài, những con người vừa có đức vừa có tài có tâm ra phụng sự cho dân cho nước. Mục đích ấy cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Nguyễn Huệ và vai trò to lớn của người hiền tài đối với vận mệnh của dân tộc. Tư tưởng đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa qua lời dạy nhi đồng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.” Bởi các em chính là thế hệ tương lai của đất nước, nắm trong tay vận mệnh dân tộc Việt. Ngày nay chủ trương chiêu mộ nhân tài luôn luôn được chính quyền Trung ương Đảng đề ra và thực hiện bằng các chính sách cụ thể thiết thực về “Đào tạo nhân tài và bồi dưỡng nhân lực”.
Sau khi xác định rõ được đối tượng và mục đích điều quan trọng là phải viết như thế nào để thể hiện được mong muốn của tác giả. Ngô Thì Nhậm là người dùi mài kinh sử học rộng tài cao nên ông am hiểu tâm lí của các sĩ phu. Bởi theo quan niệm chính thống của tầng lớp Nho sĩ người xuất thân từ dòng dõi đế vương hoặc quý tộc mới xứng nối nghiệp tiên vương, mới có khả năng làm Thiên tử. Nguyễn Huệ lại xuất thân là nông dân nên ít nhiều Nho sĩ Bắc Hà không những không phục mà con tỏ vẻ khinh miệt, coi thường. Ông nắm được suy nghĩ ấy nên mở đầu tác phẩm đã dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử thuyết phục đối với Nho sĩ Bắc Hà. Ông chỉ ra quy luật xuất xử của các bậc hiền tài: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Tác giả chỉ ra quy luật của vũ trụ “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần” để khẳng định người hiền tài phải phụng sự cho dân cho nước, phải có trách nhiệm với vận mệnh dân tộc mà trước tiên là “làm sứ giả cho thiên tử” tức phục vụ cho vua là lẽ tất yếu. Nếu làm trái là không theo ý trời. Hình ảnh so sánh rất tiêu biểu, cụ thể phù hợp với tâm lí của những con người xuất thân nơi “Cửa Khổng sân Trình”.
Tiếp đó tác giả nói đến tình cảm của kẻ sĩ dành cho triều đại mới bấy giờ: một số người tài đức thì “ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời”, những người tinh anh thì sợ hãi im lặng “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc nửa chừng thì bỏ dở “gõ mõ canh cửa” hay người bị chết đuối trên cạn, thậm chí có cả những người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê_cái tôi trung thành đến mù quáng. Tác giả không nói thẳng mà dùng lối nói hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng vừa đả kích nhẹ nhàng, vừa tế nhị sâu kín lại tỏ ra là người có học thức uyên thâm, hiểu biết sâu rộng, có tài văn chương khiến cho người nghe không những không chạnh lòng, tự ái mà hiểu ra vấn đề, tự cười tự trách bản thân mình vì có thái độ chưa đúng đắn.
Sau khi chỉ ra những thái độ tiêu cực của sĩ phu Bắc Hà, vua Quang Trung bày tỏ tâm sự, lòng chân thành của mình bằng cách đặt ra các câu hỏi khiến cho người đọc, người nghe phải suy ngẫm, trăn trở: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?” Nhà vua tha thiết mong mỏi những người hiền tài có thể ra giúp vua giúp nước nhưng vì lí do gì mà vẫn vắng bóng. Phải chăng Quang Trung đang tự trách mình “Ít đức”, hay vì họ viện cớ cho thời đại đổ nát. Thực sự những điều đó không đúng với hoàn cảnh thực tế bấy giờ. Nếu ít đức sao ông có thể làm nên nghiệp lớn xây dựng cơ đồ, thời đại đổ nát chẳng phải vì giặc giã phương Bắc đã dẹp, non sông quy về một mối, triều đại mới vừa được tạo dựng… và còn biết bao điều cần hơn nữa người tài giúp nước.
Thái độ chiêu hiền của nhà vua rất chân thành, ông luôn khiêm tốn, nhún nhường. Nhà vua chỉ ra tính chất của thời đại, nhu cầu của đất nước và không ngần ngại nhận khiếm khuyết bản thân và sự bất cập của triều đình mới đồng thời khẳng định sự cần của người tài với đất nước. Công việc ngày càng nhiều, trọng trách ngày càng lớn một người không thể gánh vác mà cần sự chung tay góp sức của mọi người. Hình ảnh “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn và mưu lược của một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Điều đó cho thấy quan điểm “lấy dân làm gốc” thật đúng đắn thể hiện một tầm nhìn chiến lược của Quang Trung. Tư tưởng ấy bao đời này vẫn được gìn giữ và tiếp nối bởi “nước có thể chở thuyền cũng có thể lật thuyền…lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước” là vậy. Kết thúc đoạn văn tác giả dùng lối viết trích dẫn lại lời Khổng Tử để khẳng định người hiền tài trong nước ta còn rất nhiều, vậy “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?” câu hỏi đó khiến cho biết bao người tài còn ở ẩn phải trăn trở, phải suy ngẫm về thái độ của mình.
Tác phẩm là bài văn nghị luận mẫu mực, từng câu chữ, lí lẽ, dẫn chứng đều rất khéo léo và có tính thuyết phục cao. Các điển cố được sử dụng tài tình cho thấy sự am hiểu về văn học, kiến thức sâu rộng của tác giả.
Tác phẩm “Chiếu cầu hiền” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, cái tâm, cái tài của một vị vua tài ba, lỗi lạc. Chính sách cầu hiền luôn là một điều tất yếu cần có của mỗi triều đại dù trong bất kì hoàn cảnh, thời gian nào bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, đất nước càng phát triển càng cần có nhiều nhân tài cống hiến tài năng. Ngô Thì Nhậm đã thể hiện quan điểm, tư tưởng, chủ trương của vua Quang Trung về chính sách chiêu hiền thật xuất sắc trong tác phẩm. Những chính sách đó luôn được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp nối và không ngừng đổi mới để Việt Nam ngày càng tiến xa hơn nữa trên con đường hội nhập quốc tế.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 26)
Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có con mắt nhìn xa trông rộng, được Nguyễn Huệ tin cẩn giao cho việc soạn thảo công văn, giấy tờ quan trọng. Chiếu cầu hiền là một trong những văn bản như vậy. Tác phẩm đã cho thấy ý nghĩa vai trò quan trọng của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Chiếu cầu hiền ra đời trong hoàn cảnh, quân Thanh xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung dẹp tan quân xâm lược. Buổi đầu dựng nước còn nhiều khó khăn, thiếu người hiền tài. Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm soạn thảo văn bản này kêu gọi những người có tài ra giúp đất nước.
Mở đầu bài chiếu nêu lên lời dạy của Khổng Tử và trách nhiệm của người hiền đối với đất nước: “Người hiền xuất hiện ở đời thì như sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt về chầu ngôi Bắc Thân, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử”. Lập luận của tác giả hết sức chặt chẽ, một mặt ông vừa đề cao vai trò của kẻ sĩ, vừa thức tỉnh ý thức trách nhiệm của họ đối với đất nước. Để nhấn mạnh hơn nữa, vế sau Ngô Thì Nhậm một lần nữa khẳng định: “Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải ý trời sinh ra người hiền tài vậy”. Như vậy, với lập luận này Ngô Thì Nhậm đã bước đầu đánh trúng tâm lí của những người hiền tài.
Sau khi nói lên trách nhiệm của người hiền tài, ông đã chỉ rõ thực trạng thái độ của họ đối với triều đại Tây Sơn. Ông tỏ ra là người hiểu rõ lẽ xuất xử của người xưa: khi đời thuận thì ra làm việc, khi đời suy vi thì lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Ông hết sức thông cảm với những nhà nho như vậy. Nhưng mặt khác ông lại chỉ rõ: có những kẻ ra làm việc cho triều đình mới những vẫn “kiêng dè không dám lên tiếng” hoặc làm việc hết sức cầm chừng, không có sự hăng hái. Với cách diễn đạt hình ảnh, lấy trong sách kinh điển nho gia một mặt vừa thể hiện sự uyên bác của tác giả, mặt khác khiến cho các sĩ phu Bắc Hà nể trọng, tự phải xem lại thái độ của bản thân với triều đại mới. Tiếp đến, ông thể hiện những lời mong mỏi chân thành, tha thiết của nhà vua: “Trẫm đang ghét chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức khong đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”. Lời lẽ đã đánh trúng tâm lí sĩ phu Bắc Hà khiến họ không khỏi phải suy nghĩ.
Sau đó, tác giả nói lên yêu cầu bức thiết cần người hiền tài của triều đại mới: công việc triều chính còn bộn bề lo toan, do đây là một triều đại mới. Nhà vua cũng ý thức được rằng, công việc thì nhiều, một người không thể giải quyết hết, cần đến những người hiền tài ra giúp sức xây dựng đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi tòa nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có một người trung thành tín nghĩa”. Lời lẽ vô cùng chân thành, thể hiện thiện tâm của nhà vua đối với những người hiền tài. Không chỉ vậy lời nói ấy còn hết sức khiêm nhường, tha thiết đã thức tỉnh lương tri của người hiền tài, khiến họ không thể không ra hợp tác với triều đại mới.
Đường lối kêu gọi người hiền tài của Quang Trung hết sức rộng mở, bất cứ ai có tài năng đều có thể giới thiệu, tiến cử, tự tiến cử,… để phục vụ cho đất nước. Cuối bài chiếu một lần nữa tỏ ra thông cảm, bao dung với sự bất hợp tác với những sĩ phu Bắc Hà trước đây và nêu lên lời kêu gọi, hứa hẹn, kích lệ đối với họ.
Qua văn bản Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm người đọc càng ý thức được rõ hơn vai trò của người hiền tài đối với việc xây dựng đất nước. Người hiền tài quả là nguyên khí của quốc gia đúng như Thân Nhân Trung đã từng nói. Đất nước là một bộ máy vô cùng cồng kềnh, không thể chỉ có một người cai quản, lo liệu là xong mà cần phải có sự giúp sức của nhiều người tải giỏi. Chỉ như vậy mới có thể điều hành đất nước một cách thuận lợi. Khi người hiền tài nhiều, đem hết sức mình ra cống hiến cho đất khi ấy đất nước sẽ hưng thịnh, ngược lại với triều đại rối ren, là do không có người hiền tài ra giúp sức, thế nước tất yếu suy vi và dẫn đến bại vong. Để có được người hiền tài ra giúp sức cũng cần phải có những chính sách phù, hợp đúng đắn để thu hút nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ đem tài năng phục vụ đất nước. Khi ấy một vị vua sáng sẽ là vô cùng quan trọng. Chỉ khi kết hợp đầy đủ hai yếu tố vua sáng tôi hiền thì khi ấy đất nước mới phát triển hưng thịnh.
Chiếu cầu hiền là bài văn nghị luận mẫu mực, với logic lập luận chặt chẽ đã cho thấy ý nghĩa vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự phát triển của đất nước. Trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì yếu tố người hiền tài càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 27)
“Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được viết bởi Ngô Thì Nhậm không chỉ mang giá trị của một bài chiếu mà đó còn là tác phẩm có giá trị văn học. Tác phẩm được viết ra nhằm kêu gọi, thuyết phục người hiền, sĩ phu Bắc Hà ra phụ giúp vua cùng xây dựng đất nước ấm no giàu mạnh. Qua bài chiếu, ta thấy được tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của đức minh quân Quang Trung.
Chiếu cầu hiền ra đời là một lời kêu gọi tha thiết người hiền tài ra giúp nước, ngay phần mở đầu, ta đã thấy được quan điểm về người hiền – kẻ sĩ đời xưa của vua Quang Trung: “Người hiền ở trên đời như sao sáng ở trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”, nhà vua nhận thức được và khẳng định tầm quan trọng của người hiền đối với vận mệnh đất nước. Nhưng cũng thấy được thực trạng những khó khăn khi thu phục người hiền, những kẻ lúc đất nước có nhiều biến cố vẫn giữ vững khí tiết, như “ngựa đứng trong hàng nghi lễ”, hay như “bậc cao ẩn giấu kín danh tiếng không xuất hiện suốt đời”.
Tuy không phê phán cũng không ngợi ca nhưng đã khẳng định rằng “nếu giấu mình ẩn tiếng, có tài mà không để cho đời dùng thì không đúng với ý trời sinh ra người hiền”. Đối với nhà vua, người có hiền tài là phải đem tài đó ra giúp đời, giúp người, phục vụ tổ quốc. Vua Quang Trung sớm hôm mong mỏi người hiền tài “trẫm hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi”, nhà vua không ngồi ở chính giữa mà chỉ ngồi ở “mép chiếu” để mong đợi người hiền tài, chăm chú lắng nghe những lời của người hiền. Đoạn văn đã cho thấy sự mong mỏi tha thiết cháy lòng của vua Quang Trung đối với những kẻ sĩ. Nhà vua coi trọng người hiền tài như vậy bởi vì ông biết đất nước có thịnh được hay không là nhờ vào họ, nhà vua biết nhìn xa trông rộng, mang một tấm lòng của bậc minh quân đêm ngày một nỗi lo vì nước vì dân. Câu hỏi của vua Quang Trung: “Hay trẫm là người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá hay chăng?”, mang một nỗi tha thiết, khiến cho người đọc xúc động mà thiêng liêng, nhà vua đã tự phán xét mình, suy ngẫm về chính mình, câu hỏi ấy như rút ruột giãy bày một cách chân thành đáng để người đời ngợi ca.
Lo cho đất nước khi còn đang trẻ tuổi “mọi sự đang bắt đầu”, “kỉ cương triều đình còn nhiều điều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan” và nhân dân thì đang “khốn khổ còn chưa hồi sức, việc giáo hóa đạo đức chưa thấm nhuần”. Bài chiếu đi sâu vào tấm lòng con người bởi chính tấm lòng chân thành của nhà vua, khiến cho người nghe xúc động, tự chất vấn lại mình và khơi dậy lòng quyết tâm đem tài mình ra góp sức chung xây dựng non sông đất nước. Những câu hỏi ấy của vua Quang Trung còn thể hiện niềm tin vào dân “Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây, xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ”. Nhà vua coi trọng sự đoàn kết của toàn dân tộc, tinh thần chung sức đồng lòng của nhân dân, cũng như khẳng định có những người tài kiệt xuất hơn ông “trong một ấp mười nhà cũng có người trung tín, huống chi một đất nước rộng lớn có truyền thống văn chương như thế”. Điều đáng ngợi ca trong bài chiếu đó là sự công bằng trong việc trổ tài của mọi người: “Ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc”. Ông cho rằng, nhân tài là ở khắp nơi, phải biết lắng nghe và khuyến khích họ, bài chiếu cũng là lời trấn an để những người sĩ phu đang đứng giữa ngã ba đường kia có thể đặt niềm tin vào vị vua mới. “Người có lời lẽ có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, người có lời lẽ không dùng được thì để đây, chứ không bắt tội nói viển vông, không thiết thực”. Ông còn cho phép các quan được tiến cử người tài “tùy tài mà bổ dụng”. Tất cả đã cho thấy tình cảm của Quang Trung không chỉ tha thiết kêu gọi người tài mà còn làm ấm lòng dân bởi những chính sách công bằng nghiêm minh.
Bài “Chiếu cầu hiền” là một tác phẩm chứa đựng tấm lòng cao cả đáng khâm phục và ngợi ca của vua Quang Trung, một tư tưởng tiến bộ, đúng đắn và trung thực, tâm huyết, sự chân thành và nhân cách cao đẹp của vua Quang Trung trong việc kêu gọi người hiền tài ra giúp nước.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 28)
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”
Lời tuyên bố trong chiếu xuất quân ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1988) của Quang Trung đến hôm nay vẫn còn vang lên dõng dạc như một lời thề, sôi sục ý chí quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ chủ quyền đất nước; một lời thề trang nghiêm và thiêng liêng. Ta có thể thấy được tinh thần dân tộc mạnh mẽ, quật cường như một dòng máu nóng tuôn trào thôi thúc mỗi người dân dũng cảm tiến về phía trước để chiến đấu cho đại nghĩa. Người anh hùng áo vải ấy, trong suốt thời gian hơn hai mươi năm (1771- 1792) chinh chiến và trị quốc, đã làm nên những chiến công lẫy lừng, có những đóng góp vô cùng to lớn cho lịch sử dân tộc. Ông được đánh giá là “một trong những nhà lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại lần nào”, “đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn”.
Sau chiến thắng Ngọc Hồi năm Kỷ Dậu (1789), để củng cố và xây dựng, phát triển đất nước, vua Quang Trung đã rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ nhà Lê. Ông chọn Ngô Thì Nhậm trong việc soạn thảo “Cầu hiền chiếu”. Ngô Thì Nhậm là một danh sĩ từng ở ẩn dưới triều Lê, được Quang Trung trọng dụng, đã chấp bút bằng cả tài năng và tâm huyết của người trong cuộc khiến cho bài chiếu trở nên đầy thuyết phục.
Bài chiếu ra đời trong hoàn cảnh đất nước vừa qua cơn binh lửa chưa yên. Cuộc nội chiến kéo dài và cuộc chống ngoại xâm làm sức dân kiệt quệ. Quang Trung vừa mới lên ngôi, chưa trải qua thực tiễn trị nước trong thời bình. Giới quan lại, sĩ phu của triều đại cũ từ chối ra làm việc, bất hợp tác với triều đại Tây Sơn. Nhu cầu cần có người hiền tài, đặc biệt là những người vừa có năng lực, kinh nghiệm và uy tín đang được đặt ra hết sức bức thiết. Do đó, bài chiếu vừa phản ánh không khí của thời đại, đồng thời cho thấy chủ trương cầu hiền đúng đắn, tầm nhìn chiến lược sâu rộng và tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung.
Coi trọng người hiền tài vốn là một cách xử thế sáng suốt, là nghệ thuật chính trị của các nhà lãnh đạo. “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (Thân Nhân Trung). Nhà vua đã ý thức sâu sắc về điều đó và có một chủ trương sáng suốt: kêu gọi người hiền tài ra giúp nước.
Trong phần mở đầu bài chiếu, Ngô Thì Nhậm đã nêu lên nguyên tắc xuất xử hay trách nhiệm của người hiền tài. Ông chỉ rõ: trời sinh ra người tài là để cho thiên tử sử dụng; đó vừa là quyền lợi, vinh dự đồng thời cũng là trọng trách của người hiền đối với quốc gia. Nếu không ra giúp vua, giúp nước, tự giấu mình, cố tình lẩn tránh là đi ngược lại với đạo trời; cũng là trái với đạo người, đặc biệt là kẻ sĩ. Hình tượng vua Quang Trung ở đây hiện lên như ngôi Bắc thần, quang minh chính đại và rực rỡ, để cho người hiền tài như sao sáng về chầu.
Ngô Thì Nhậm chỉ ra thực trạng của kẻ sĩ Bắc Hà trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Những ngày “thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố”, người hiền tài như những ngôi sao bị che khuất, không được thể hiện tài năng và khát vọng của mình. Họ lánh mình ở ẩn giữ gìn khí tiết; họ làm việc cầm chừng, dè dặt ở chốn quan trường… Đó là những cách ứng xử bất đắc dĩ bởi không phải họ tự vùi lấp mình mà bởi họ “sinh bất phùng thời”. Ngô Thì Nhậm cũng chỉ ra nỗi niềm canh cánh chờ mong người hiền của vua Quang Trung: “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi…”. Cùng với đó là sự băn khoăn day dứt của nhà vua: “Hay trẫm ít đức…?”, “Hay đương thời đổ nát…?”. Cách nói khiêm nhường mà đầy ràng buộc khiến cho người nghe không thể không suy nghĩ về thái độ của họ thời gian qua, đồng thời cũng thấy được tấm lòng coi trọng người hiền của nhà vua đang mở ra một không gian mới: họ sẽ không còn sợ bị lãng quên, bỏ rơi, bạc đãi, che lấp như thời buổi suy vi. Kẻ sĩ Bắc Hà còn có cơ hội thể hiện tài năng, tâm huyết và khát vọng lập công, lập danh khi đất nước “đang ở buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra”, “ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh”… Đường lối cầu hiền cũng thật rộng mở để họ mạnh dạn bước lên phía trước.
Vua Quang Trung đã đề cao vai trò của người hiền tài trong việc trị nước, thành tâm khuyến khích, động viên họ ra làm việc, nói ra những trăn trở, bức xúc, âu lo của mình về vận mệnh đất nước… Những điều đó cho ta thấy một tầm nhìn sâu rộng, tài năng chính trị của một con người luôn hết lòng vì giang sơn với một ý thức dân tộc quật cường.
“Chiếu cầu hiền là một tác phẩm nghị luận chính trị – xã hội độc đáo, có ý nghĩa chính trị, có sức lay động chí, chuyển tâm ý của hiền tài trong thiên hạ; có đóng góp đáng kể trong quá trình thuyết phục, sử dụng người hiền tài góp sức lực, trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước thời vua Quang Trung. Sức thuyết phục của nó đã vượt ra khỏi giới hạn của một thời đại lịch sử”. Đó là một nhận xét xác đáng của Nguyễn Thị Quế Anh trong bài viết “Tìm hiểu chiếu cầu hiền từ góc độ văn hóa giáo dục”.
Chiếu cầu hiền còn cho thấy hình tượng người anh hùng dân tộc giản dị mà vĩ đại Quang Trung – Nguyễn Huệ như một đỉnh cao của lòng yêu nước mãnh liệt ở thế kỉ XVIII. Người Việt Nam ghi nhận, biết ơn, trân trọng những công lao đóng góp của ông và tôn vinh ông là một trong những vị hoàng đế vĩ đại nhất của lịch sử nước nhà.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 29)
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), hiệu là Hi Doãn, quê ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (cũ), nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775, từng làm quan dưới triều Lê – Trịnh; sau đi theo Tây Sơn và có nhiều đóng góp nên được Quang Trung trọng dụng. Nhiều văn kiện giấy tờ quan trọng của nhà Tây Sơn đều do ông biên soạn. Vâng lệnh vua Quang Trung, ông đã viết bài Chiếu cầu hiền. Đây là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên tầng lớp trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước; đồng thời phản ánh tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng vì dân, vì nước của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Bài Chiếu gồm ba phần:
Phần 1: Từng nghe… đến người hiền vậy: Phận sự (do Trời định) của người hiền tài là phải đem tài năng phục vụ cho vua, cho nước.
Phần 2: Trước đây… đến buổi ban đầu của trẫm hay sao ? Phê phán nhẹ nhàng các cách ứng xử có phắn tiêu cực của một số sĩ phu Bắc Hà và nêu lên nhu cầu sử dụng hiền tài rất cấp thiết của triều đình Tây Sơn.
Phần 3: Chiếu này… đến đều biết. Con đường rộng mở để người hiền tài cống hiến cho đất nước.
Trước tình hình chúa Trịnh ngày càng lộng quyền lấn át vua Lê, Nguyễn Huệ đã thần tốc kéo quân ra Bắc “phù Lê diệt Trịnh” (1786); thừa thắng đánh tan hai mươi vạn giặc Thanh, dẹp yên thù trong giặc ngoài, thống nhất đất nước, lập ra triều đại Tây Sơn. Trong giới sĩ phu Bắc Hà có nhiều nhà Nho sáng suốt đã ủng hộ Tây Sơn. Tuy vậy, một số người do quan niệm đạo đức bảo thủ, không nhận thấy chính nghĩa và sứ mệnh lịch sử to lớn của phong trào Tây Sơn nên đã có thái độ bất hợp tác, thậm chí chống lại. Một nhiệm vụ chiến lược đối với vua Quang Trung là phải thuyết phục tầng lớp trí thức Bắc Hà hiểu đúng vai trò và những dự kiến xây dựng đất nước của triều đình Tây Sơn, để từ đó tự nguyện cộng tác, đem tài đức phục vụ cho triều đại mới.
Mở đầu bài Chiếu, tác giả chi ra quy luật xuất xử của các bậc hiền tài:
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
Tác giả khẳng định, người hiền (người có đức có tài) phải phục vụ đắc lực cho nhà vua (thiên tử). Nếu không làm như vậy là trái với ý trời. Quy luật của thiên nhiên là sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần (tức sao Bắc Đẩu). Hiền tài là tinh hoa của trời đất nên lẽ đương nhiên là tài đức của họ phải được cống hiến cho dân, cho nước.
Từ khi nước ta chia thành Đàng Trong và Đàng Ngoài thì người Đàng Ngoài (Bắc) cho rằng Đàng Trong (Nam) thuộc triều đại khác. Hơn nữa, theo quan niệm chính thống của tầng lớp Nho sĩ thì chi những người xuất thân từ dòng dõi đế vương hoặc quý tộc mới xứng đáng và có khả năng làm vua. Nguyễn Huệ lại xuất thân từ tầng lớp bình dân, vì thế không ít Nho sĩ Bắc Hà không những không phục mà còn tỏ vẻ coi thường, cho rằng ông ít hiểu biết về lễ nghi cũng như chữ nghĩa thánh hiền. Nắm được tâm lí này, nên khi thể hiện tư tưởng cầu hiền của Nguyễn Huệ, Ngô Thi Nhậm đã dùng nhiều điển tích rút từ các sách kinh điển Nho gia, dùng lời dạy của Khổng Tử để đặt vấn đề và đưa ra cách ứng xử có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với trí thức Bắc Hà. Cách diễn đạt đó đã tạo ra ấn tượng sâu sắc, đánh trúng vào tâm lí của tầng lớp trí thức, cho nên có sức thuyết phục lớn, khiến họ không thể không mang tài đức ra giúp triều đình Tây Sơn.
Khi Quang Trung kéo quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, tầng lớp sĩ phu Bắc Hà có nhiều phản ứng khác nhau nhưng phần lớn giống nhau ở chỗ là không nhiệt tình với triệu đại mới:
Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
Sau khi dẫn lời Khổng Tử và nêu lên quy luật của đất trời là những người tài đức phải giúp vua dựng nước, tác giả nói đến tình cảnh của kẻ sĩ lúc bấy giờ: mệt số người tài đức thì đi ở ẩn trong khe núi, trốn tránh việc đời, bỏ phí tài năng. Những người ra làm quan với triều Tây Sơn thì hoặc sợ hãi im lặng (kiêng dè không dám lên tiếng), hoặc làm việc cầm chừng (gõ mõ canh cửa). Một số khác ở ẩn, khác chi như người bị chết đuối trên cạn. Thậm chí một số người tự tử để giữ lòng trung với vua Lê.
Tác giả không nói thẳng mà dùng hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng lấy trong kinh điển Nho gia. Làm như vậy vừa tế nhị, vừa có tính chất phê phán nhẹ nhàng, lại tỏ ra người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương, khiến người nghe nể trọng, không những không tự ái mà còn tự cười, tự trách về thái độ ứng xử chưa thoả đáng của mình.
Sau khi chi ra mấy cách ứng xử có phần tiêu cực của một số sĩ phu Bắc Hà, vua Quang Trung bày tỏ tâm sự của mình và đặt ra những câu hỏi buộc người nghe phải suy ngẫm rồi tự trả lời:
Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trâm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
Những người hiền đến lúc này mà vẫn chưa chịu hợp tác với triều đình mới thì hoặc là coi vua Quang Trung it đức, không xứng để phò tá; hoặc viện cớ tình hình xã hội đang thời đổ nát cả hai điều ấy đều không đúng với hoàn cảnh hiện tại. Vậy thì chi còn cách là phải đem tài đức ra phục vụ và phục vụ hết lòng cho triều đại mới.
Sự nghiệp đại định của đất nước đòi hỏi các bậc hiển tài phải cống hiến tài năng, nhiệt huyết. Thái độ chiêu hiền đãi sĩ của vua Quang Trung là rất chân thành. Nhà vua tỏ rõ sự khiêm tốn, thực lòng mong muốn có sự cộng tác của các bậc hiền tài để xây dựng một triều đại mới vững mạnh:
Kìa như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này, cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao ?
Lập luận trong đoạn văn này rất chặt chẽ, có lí có tình. Nhà vua chi rõ tính chất của thời đại và nhu cầu trước mắt của đất nước, đồng thời cũng thẳng thắn tự nhận những điều bất cập của triều đại mới do mình đứng đầu như chính sách cai trị còn nhiều thiếu sót, việc biên ải chưa yên, dân chưa hồi sức sau chiến tranh, đức hoá của vua chứa thấm nhuần,… Trong khi đó, công việc ngày càng nhiều và trách nhiệm của triều đình ngày càng nặng nề, đòi hỏi phải có sự trợ giúp của các bậc hiền tài. Hình ảnh: Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn và mưu lược của một người không thể dựng nghiệp trị bình là nhận xét khách quan, đúng đắn, thể hiện tư tưởng lấy dân làm gốc và tầm nhìn chiến lược sáng suốt của vua Quang Trung ồ thời điểm ấy.
Kết thúc đoạn văn, tác giả lại dẫn lời Khổng Tử trong sách Luận ngữ để khẳng định rằng hiện nay nhân tài không những có, mà còn có nhiều. Vậy tại sao trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao ? Câu hỏi tha thiết đó buộc giới sĩ phu Bắc Hà phải suy nghĩ và thay đổi cách ứng xử.
Lời nói khiêm nhường, chân thành và lập luận có lí có tình cùng chính sách sử dụng hiền tài rộng rãi của nhà vua khiến các bậc hiền tài không thể không đem tài đức ra giúp triều đại mới:
Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được, thì cất nhắc không kể thứ bậc; chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà bắt tội. Còn người có nghề hay nghiệp giỏi, có thể cống hiến cho đời, thì cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tuỳ tài lục dụng. Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín, chưa được người đời biết đến, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao.
Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung đúng đắn và rộng mở. Trước hết, tất cả mọi tầng lớp nhân dân từ quan viên lớn nhỏ đến dân chúng trăm họ đều được phép dâng sớ bày tỏ ý kiến về việc nước, nghĩa là ai cũng có quyền tham gia đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Cách tiến cử cũng đa dạng, gồm hai cách: do các quan tiến cử hoặc bản thân dâng sớ tự tiến cử. Cuối cùng, nhà vua kêu gọi người có tài đức hãy cùng triều đình chung vai gánh vác việc nước để cùng nhau hưởng phúc lâu dài:
… Trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên như thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chỉnh là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung trong việc nhận thức vể vai trò quan trọng của hiền tài đối với đất nước. Hiền tài là nguyên khi quốc gia. Cầu hiền gần như là một quy luật tất yếu đối với các triều đại tiến bộ khi mới ra đời. Ngô Thì Nhậm nắm vững chiến lược cầu hiền của vua Quang Trung và đã thể hiện một cách xuất sắc tư tưởng chiến lược đó qua bài Chiếu cầu hiền ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục.
Qua bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm em hãy nêu rõ vai trò của người hiền tài đối với công cuộc phát triển đất nước (mẫu 30)
Kho tàng văn học Việt Nam không chỉ hay bởi những bài thơ hay những bài văn có nghĩa mà còn có những thể loại khác cũng góp phần làm đa dạng và phong phú nền văn học nước mình. Trong những thể loại ấy phải kể đến tác phẩm chiếu cầu hiền của vua Quang Trung. Tác phẩm không chỉ đơn giản là một tác phẩm văn học mà còn là một bản chiếu vua ban có tác dụng đến vận mệnh của quốc gai và sự phát triển của đất nước. Có thể nói chiếu cầu hiền là một văn bản giàu ý nghĩa và thiết thực cho lịch sử nước ta lúc bấy giờ.
Chiếu cầu hiền được viết khi vua Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào xâm lược nước ta, Nguyễn Huệ lên ngôi vua lấy hiệu là Quang Trung rồi đem quân ra Bắc để quét sạch 20 vạn quân Thanh cùng bọn tay sai bán nước. Thua trận Lê Chiêu Thống cùng bọn quân Thanh đi theo Tôn Sĩ Nghị, triều Lê sụp đổ, triều Nguyễn được vua Quang Trung lập lên. Trước sự kiện trên một quan thần trong triều Lê có thể là do theo trung quân ái quốc lỗi thời với thời Lê, hai là có thể do sợ hãi triều đại mới nên tất cả đều trốn tránh ẩn nấp không ra phò tá giúp đỡ vua Quang Trung phát triển đất nước. Biết tình hình đất nước nhà như vậy Quang Trung đã liền phái Ngô Thì Nhậm thay mình viết chiếu cầu hiền để kêu gọi những người tài giỏi ra giúp nước.
Có thể nói vua Quang Trung rất đỗi khôn ngoan khi nghĩ ra kế sách này. Qua đó thể hiện niềm khát khao cầu hiền của nhà vua trẻ tài đức. Mặt khác thấy được sự uyên bác của Ngô Thì Nhậm khi viết ra một bức chiếu có sức thuyết phục như vậy.
Về phần Ngô Thì Nhậm, khi triều Trịnh – Lê sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo phong trào Tây Sơn và được cử làm Lại Bộ Tả Thị lang. Ông trở thành một quan thần tín nhiệm của vua Quang Trung.
Trước hết ta đi tìm hiểu về thể loại chiếu, chiếu được hiểu là một thể loại văn thư do nhà vua để ban bố mệnh lệnh đến dân chúng. Công văn hành chính ngày xưa gồm hai loại đó là do cấp dưới đệ trình lên nhà vua, hai là do nhà vua ban bố xuống dưới. chúng ta có thể thấy được nhiều bài chiếu trong kho tàng văn học Việt Nam. Đó là bài chiếu dời đô, hoàng lê nhất thống chí, hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Và chính những bài chiếu tiêu biểu đó đã khẳng định sức thuyết phục của thể loại chiếu. Chiếu nói chung và chiếu cầu hiền nói riêng thuộc loại văn nghị luận chính trị xã hội. Mặc dù chiếu thuộc công văn nhà nước nhưng lại viết cho những bậc hiền tài, hơn nữa đây là cầu là vua Quang Trung cầu hiền tài chứ không phải mệnh lệnh.
Đi vào bài chiếu điều đầu tiên mà tác giả nói đến chính là vai trò và sức mạnh của hiền tài cho quốc gia. Chẳng thế mà ngay tên bài chiếu nọ đã nói lên tất cả những vai trò to lớn của hiền tài, đó là nhan đề hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Và chính vì thế tác giả nêu cao vai trò của hiền tài trong sự nghiệp phát triển đất nước. Tác giả so sánh hiền tài như một “ sao sáng trên trời cao”. So sánh như vậy để thấy được tầm vóc của những hiền tài giống như những gì vĩnh hằng của thiên nhiên. Đó là một sự tôn vinh khen ngợi đối với những bậc hiền tài. Mà những bậc hiền tài ấy sẽ phải theo Bắc thần đó là một quy luật hiển nhiên. Người tài so trời sinh ra và người tài ấy phải có phận sự sử dụng tài năng của mình cống hiến cho đất nước. phải chăng đó cũng là cách mà tác giả muốn cho sĩ phu hiền tài thấy được vua Quang Trung biết trọng người tài và rất mực cầu hiền để cùng vua giúp nước. Từ đó góp phần xóa đi những nghi ngờ sợ hãi của những bậc hiền tài. Nó rất hợp lý khi đã tạo ra chính tính chính danh cho chiếu cầu hiền. Hơn nữa qua những lời khen ngợi hay cũng chính là lời mời gọi của tác gải đã góp phần làm cho bài chiếu thêm phần thuyết phục người nghe.
Tiếp đến là đoạn văn tiếp theo nói về nguyện vọng của nhà vua khi muốn những hiền tài của quốc gia ra mặt góp sức góp tài cho công cuộc xây dựng đất nước. Tác giả đi sâu vào phân tích tình hình khó khăn của đất nước và chính tình hình ấy phải cần đên sự giúp đỡ của hiền tài quốc gia. Cách trình bày thẳng thắn cho thấy được sự trung thực thật thà cũng như quang minh chính địa của vua Quang Trung. Chính qua đó ta thấy được sự chân thành và tình cảm của nhà vua dành cho những hiền tài. Đồng thời đó còn là tâm trạng lo lắng của Quang Trung “ trời còn tăm tối”, “ đương ở buổi đầu của nền đại định”, “ công việc vừa mới mở ra” đó là những khó khăn bức thiết của triều địa nhà Nguyễn cũng như đất nước đang rơi vào tình thế khó khăn. Hình ảnh đất nước qua những câu văn của Ngô Thì Nhậm hiện lên thật rõ nét. Đó la f một đất nước đời đầu mới ở buổi đại định, tương lai còn chưa sáng rõ, thiếu nhân tài thì làm sao có thể sáng được vì thế mà vua khẩn thiết cầu hay mời hiền tài về phụng sự giúp đỡ vua. Thế rồi “ kỉ cương còn nhiều khiếm khuyết, việc biên ải chưa chưa yên, dân còn nhọc mệt, đức hóa của chúng chưa nhuần thấm” cùng với “một cái cột không thể đỡ nỗi một căn nhà lớn”. và thực tế thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Như vậy có thể thấy vua quang trung vô cùng minh bạch, biết trọng người tài, biết xem thời thế không cậy thắng mà ngông cuồng. Đó là điều dĩ nhiên và hiển nhiên về đức và tài của ông. Điều đó cho thấy nhà vua thiết tha đầy nhiệt huyết kêu gọi hiền tài vì nước vì dân mà cùng vua xây dựng một đất nước với triều đại mới. Cuối cùng tác giả để một cau hỏi: “ Huống nay trên mảnh đất văn hiến rộng lớn như thế này…buổi ban đầu của trẫm hay sao?”. Như vậy nhà vua không chỉ kiên quyết, thẳng thắn mà cũng rất tha thiết để thuyết phục những hiền tài những vị tinh tú, sáng soi lấy bầu trời tăm tối của đất nước thời bấy giờ.
Cuối cùng là chính sách cầu tài của vua Quang Trung, ở phần này tác giả chỉ ra những điểm nổi bật trong đường lối chính sách của vua. Đó là một chính sách công bằng cho tất cả mọi người từ quan viên cho đến dân chúng. Từ đó cho thấy Nguyễn Huệ hẳn là một người con rất đỗi yêu thương dân chúng, chăm lo cho cuộc sống của tất cả mọi người.
Đường lối chính sách thứ nhất của vua Quang Trung là các bậc quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ tất thảy đều có thể dâng sớ tâu bày sự việc, không sợ lời nói sơ suất mà bắt tội. qua chính sách ấy ta nhận thấy được vua Quang Trung có điểm khác so với những vị vua thời trước. Ông luôn yêu thương dân chúng, phải chăng chính xuất thân là một anh hùng áo vải cho nên vua thấu hiếu được nỗi khốn khổ và thấp cổ bé họng của nhân dân. Qua chính sách ấy thì mọi người có thể thấy sự công bằng cho tất cả những bậc dưới vua. Nếu như ngày xưa dân chúng sống trong cảnh thấp cổ bé họng, thường xuyên bị bắt nạt áp bức bóc lột của tham quan một cách thậm tệ thì đến thời vua Quang Trung những thứ dân ai ai cũng được tâu trình những bất bình mà mình muốn giải quyết.
Thêm nữa là cách tiến cử hết sức rộng mở: tự mình dâng sớ tâu bày sự việc, do các quan văn quan võ tiến cử, cho phép đang sớ tự tiến cử. Qua đây ta thấy đây là một đường lối mở rộng và đúng đắn. Nó có thể coi là một tính dân chủ của thời phong kiến. Vì không chỉ có các quan mà chính những người nhân dân cũng có quyền bày tỏ ý kiến cá nhân cũng như mọi điều ngang tai trái mắt mình nhìn thấy. dẫu có lỡ lời thì cũng không bị bắt tội. Đó chẳng phải là một chính sách đường lối công bằng và dan chủ hay sao, ai cũng có quyền lợi và nghĩa vụ góp sức và tài năng của mình để xây dựng đất nước. Một chính sách thấu tình đạt lý như thế thì làm sao không khiến mọi người nghe theo.
Như vậy có thể thấy dường lối của vua Quang Trung rất rộng mở, dễ hiểu, đúng đắn, cụ thể và dễ thực hiện. đồng thời qua chính sách ấy ta thấy được vua Quan Trung đúng là một đấng minh quân đầy bản lĩnh, tư tưởng tiến bộ, giàu lòng thương người và có khả năng thu phục lòng người. Cuối cùng tác giả cỗ vũ những người có đức có tài hãy cùng chung tay xây dựng đất nước cùng nhà vua. Lời khích lệ khép lại bài chiếu như một lời kêu gọi vui vẻ, lời mời mọc đầy hấp dẫn và giàu sức thuyết phục trong thời đại mới của tác giả: “ Nay trơi trong sáng đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây…”
Như vậy với kết cấu ba phần rõ ràng cùng với những nghệ thuật so sánh cùng những hình ảnh mang đầy tính chất tượng trưng cùng với những đức tài của nhà vua đã giúp cho bài chiếu giàu sức thuyết phục và đậm chất tư tưởng tiến bộ dân chủ. Có thể nói với chính sách và đường lối của mình vua Quang Trung xứng đáng là một bậc minh quân đời đời nhớ đến. chính lòng thiết tha, thẳng thắn, kiên quyết cầu người tài đã làm nên sức thuyết phục cho bài viết. Và tác phẩm chiếu cầu hiền cho đến ngày nay vẫn sáng mãi với thời gian, nó không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang giá tri văn học.
Xem thêm các văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11