TOP 30 mẫu Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (2023) SIÊU HAY
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh lớp 11 gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác - Ngữ văn 11
Bài giảng Ngữ Văn 11 Vào phủ chúa Trịnh
Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác
I. Mở bài
- Giới thiệu những nét tiêu biểu nhất về tác giả Lê Hữu Trác và đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh: Một con người toàn tài với quan niệm: “ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người”, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông
- Đoạn trích đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác
II. Thân bài
1. Là con người coi thường danh lợi
- Ban đầu, khi đứng trước khung cảnh xa hoa, lộng lẫy của phủ chúa:
+ Cảm thán: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn với người thường!”
+ Vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng vương giả trong phủ với “gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngọc” có hoa thơm, chim biết nói…
- Tuy nhiên, đằng sau đó, tác giả cũng gián tiếp phê phán cuộc sống sa hoa nhưng thiếu sinh khí trong phủ chúa thông qua:
+ Sự miêu tả tỉ mỉ sự sa hoa giàu sang
+ Khi được mời dùng cơm: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia” ⇒ giọng điệu mỉa mai
+ Cảm nhận về con đường vào nội cung của thế tử: Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả, “Vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi” ⇒ Không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do
+ Ẩn chứa trong bài thơ là giọng điệu mỉa mai phê phán: “Cả trời Nam sáng nhất là đây!” (phơi bày hiện thực về sự sa hoa của chúa Trịnh)
⇒ Con người coi thường danh lợi
2. Là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
- Tâm trạng của Lê Hữu Trác khi kê đơn cho thế tử có sự mâu thuẫn, giằng co:
+ Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật
+ Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông.
- Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã chiến thắng. Ông chữa bệnh tận tình bằng tài năng của mình, thẳng thắn đưa ra những cách chữa bênh hợp lí
⇒ Cách lí giải về bệnh tình thế tử Trịnh Cán cho thấy Lê Hữu Trác là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
3. Là con người có cốt cách thanh cao
- Luôn coi việc nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình làm tôn chỉ để hành động đúng đắn
- Xem thường danh lợi, yêu thích tự do, mong muốn được sống thanh đạm nơi quê mùa: Suy nghĩ của Lê Hữu Trác khi ông chữa bệnh cho thế tử
⇒ Sự coi thường danh lợi của Lê Hữu Trác, mong muốn sống cuộc đời tự do, chữa bệnh cứu người của ông cho thấy một cốt ách thánh cao của một danh y
III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét đẹp tâm hồn và nhân cách của tác giả Lê Hữu Trác thể hiện qua đoạn trích và nêu những nét nghệ thuật thể hiện thành công điều đó
- Bày tỏ quan điểm cá nhân về vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác và liên hệ bản thân
Bài giảng Ngữ Văn 11 Vào phủ chúa Trịnh
Dàn ý Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác
1. Mở bài
– Giới thiệu về Lê Hữu Trác và trích đoạn Vào phủ chúa Trịnh.
– Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.
2. Thân bài
a. Lê Hữu Trác – một danh y là người giản dị, thanh sạch, coi thường danh lợi:
– Bước vào phủ chúa với lầu son, gác tía, tác giả không bày tỏ sự thán phục mà thể hiện thái độ ngỡ ngàng, coi khinh của mình.
– Ông bộc lộ rõ thái độ phê phán lối sống xa hoa trong phủ qua cách miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách đầy tỉ mỉ, chi tiết.
– Khi chữa bệnh cho thế tử Cán, ông cũng đã đấu tranh rất nhiều trước hai sự lựa chọn. Bởi ông sợ công danh trói buộc, không được trở về với cuộc sống ẩn dật, bình yên chốn núi rừng.
b. Lê Hữu Trác – người thầy thuốc tận tâm, tài năng:
– Khi căn bệnh của thế tử rất nhiều người thầy thuốc không tìm ra phương cách, chấp nhận bó tay thì Lê Hữu Trác lại biết rất rõ nguyên căn bệnh.
– Gác lại những suy tính của bản thân, ông làm việc bằng lương tâm với nghề, bằng trách nhiệm của một trung thần với chúa.
– Lê Hữu Trác đã đưa ra phương thuốc hữu hiệu, cách thức chữa trị chính xác nhất để chữa bệnh cho thế tử.
-Tài năng, kinh nghiệm và đức độ của ông trong nghề thầy thuốc được mọi người thán phục, ngay cả vị quan chánh đường cũng phải thốt lên: “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
3. Kết bài:
Khẳng định vẻ đẹp tài năng và nhân cách của lê Hữu Trác.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 1)
Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) là một danh y nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông không chỉ là một nhà y học tài năng mà còn là một nhà văn, nhà thơ rất đáng trân trọng của dân tộc ta. Ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ; bên cạnh đó ông còn có những tác phẩm văn chương rất quý giá.
“Thượng kinh kí sự” là tập ký viết bằng chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh) - nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà Chúa, và cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh. Đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích bắt đầu từ lúc tác giả đã đến Thăng Long, hiện ở đỉnh Trung Kiên trong phủ Chúa được triệu vào khám bệnh cho Thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày “mồng một tháng hai”, “sáng tinh mơ”; và nói rõ nguyên có sự việc “có Thánh chỉ triệu vào cung” - đó là đặc điểm của thể kí sự. Khi ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang và xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại quang cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ Chúa hiện lên như một thiên đường: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng”... Tâm hồn tác giả vốn nhạy cảm, lại giàu tình yêu thiên nhiên. Nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ Chúa, Hải Thượng Lãn Ông dường như thờ ơ. Ông viết:
“Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành minh cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa... mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi tác giả làm thơ miêu ta nói là “để ghi nhớ” cảnh này:
“Lính nghìn cửa vác đông nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ chân mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ảnh vào…
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Lời thơ mới đầu tưởng như là lời ngợi ca cảnh đẹp nơi phồn hoa. Nhưng nghĩ cho kĩ thì tâm hồn tác giả rung cảm với vẻ đẹp thiên nhiên chỉ có một phần. Toàn bộ nội dung của bài thơ như có chất trào lộng, tuy Hải Thượng Lãn Ông không thể bộc bạch ra được.
Cảnh cung đình hiện lên như ở cõi tiên với những “lầu son, gác tía”, “hiên ngọc, rèm châu”. Tác giả nói mình là “ngư phủ” lạc vào chốn “đào nguyên” theo tích trong Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: “Điếm làm bên cái hồ, có những cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”.
Trong lối diễn đạt ấy, tác giả đã khéo léo ngụ ý phê phán. Ông lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.
Là một người coi trọng chữ “đức”, lánh xa danh lợi, Hải Thượng Lãn Ông không coi trọng lối sống xa hoa. Hơn nữa, trên quan điểm vì con người, vì dân, ông thấy rõ nơi phủ chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
Tài năng của ông được người đời truyền tụng là làm thuốc hay, nổi tiếng như “sấm động bên tai”... Và việc ông được tiến cử chữa bệnh cho Thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, “quan thái y” có lẽ là tước vị sẽ đến với ông chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông, tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Quan niệm của các Nho gia, Đạo gia xưa kia đều không màng danh lợi. Đó là vì họ ham mê lý tưởng cao đẹp hơn, và quan trọng là phải giữ cho tâm hồn, cốt cách của mình được trong sạch. Cho nên, khi xem bệnh cho Thế tử, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng đã tìm cách để “hoà hoãn”, sao cho vừa giữ được mình khỏi tiếng “bất trung”, lại vừa tránh được việc phải ở lại làm quan. Cũng đã có sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh giữa cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo “trung” của kẻ bề tôi với lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng, ta thấy lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thanh cao đã thắng. Ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một Thế tử ốm yếu và bệnh hoạn...
Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y và làm cho bọn họ phải kính nể. Tuy nhiên, tài năng của Hải Thượng Lãn Ông không được sử dụng để phục vụ bọn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích cho riêng mình, mà là để phục vụ nhân dân.
Bằng ngòi bút kí sự chân thực sắc sảo, Lê Hữu Trác đã phản ánh được cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông. Đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và đạo đức. Tác phẩm “Thượng kinh kí sự” hay cụ thể là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 2)
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong “Thượng kinh kí sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực. Đồng thời qua việc miêu tả đó, ta cũng thấy được một nhân cách lớn.
Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước chân vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã bắt đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”
Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Sau khi khắc họa toàn cảnh phủ chúa, Lê Hữu Trác đã đưa ra lời đánh giá về phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Lời đánh giá cho thấy một thái độ không đồng tình với cuộc sống cũng như sự dửng dưng với những cám dỗ vật chất xa hoa nơi phủ chúa, một con người không màng đến vật chất phù phiếm.
Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kỹ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe chỉ để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổ dưỡng tỳ và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”. Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khai của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: “Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tỳ âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tỳ thổ thì yên…”. Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Lê Hữu Trác cũng cảm thấy đầy mâu thuẫn khi chữa bệnh cho Thế tử. Nếu chữa khỏi bệnh cho Thế tử, ông sẽ được giữ lại trong triều - với chức quan to và bổng lộc cao. Một bên là y đức của người thầy thuốc một bên là tấm lòng không màng danh lợi, chỉ vui thú sống “ẩn dật qua ngày” - lựa chọn cái nào mới là đúng đắn?
Qua phân tích trên, có thể thấy nét đẹp trong con người của Lê Hữu Trác - một vị danh y đáng được người đời nể phục.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 3)
Nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là nhắc đến một nhà y giàu y đức, ông cũng là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc. Trong suốt cuộc đời, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm, những cống hiến to lớn cho đất nước, và một trong số đó phải kể đến là cuốn “Thượng kinh kí sự” được viết năm 1782, là thành quả của chuyến đi đến kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, ta thấy được cuộc sống xa hoa của bọn chúa phong kiến và nổi bật hơn hết là tâm hồn, nhân cách sáng ngời của một nhà y có tâm đức không ham tiền tài danh vọng.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã ghi lại chân thực toàn bộ những điều mà ông chính mắt thấy, tai nghe. Khi được tận mắt chứng kiến mọi thứ trong phủ chúa, ông lại không khỏi sững sờ, kinh ngạc bởi các vẻ quyền quý, cao sang. Mọi thứ còn hơn cả lời đồn mà ông đã nghe được ở bên ngoài.
Mở đầu tác phẩm ông đã lấy ngòi bút của mình để phác lại bức tranh rực rỡ ở phủ chúa. Từ ngoài vào trong không biết bao nhiêu kẻ hầu người hạ, những hàng cây um tùm nối đuôi nhau tít tắp, rồi có chỗ lại có những hòn đá hình thù kì lạ, nơi có những chiếc cột được dát vàng. Nghe tác giả kể mà ta như đi lạc vào một thế giới cổ tích nào đó, một thế giới sặc sỡ sắc màu và uy quyền không tưởng. Nhà y được đưa vào trong phủ bằng cửa sau, đi hết hành lang này đến hành lang kia rồi lại qua cửa lớn cửa nhỏ, bắt gặp những cung điện đài các nguy nga đến ngộp thở, đứng trước khung cảnh kiêu sa thế khiến cho ông trầm trồ nhưng cũng chỉ ngẩng đầu lên liếc vài cái rồi lại cúi gằm xuống đất. Dường như ngay từ khi bước chân vào trong phủ ông đã nhận ra đây không phải là thế giới dành cho mình, đó là cuộc sống đối nghịch với thực tại của hàng nghìn hàng vạn con người ngoài kia đang đầu sấp mặt tối chỉ mong có đủ cơm ăn, áo mặc. Có lẽ ông nhận ra đây là cái cao sang bất nhân, bất nghĩa có được bằng cách bóc lột, tước đoạt công sức của người khác.
Và con người nhân đức ấy cũng ngạc nhiên bởi cung cách sinh hoạt của phủ chúa. Trong phủ người hầu kẻ hạ tấp nập, lại thêm bữa ăn đầy sơn hào hải vị, của ngon vật lạ ở trên đời khiến ông ấn tượng không sao quên nổi. Đó là khi ông được mời một bữa cơm trong phủ, dù chỉ là cơm sẻ của quan nhưng với ông nó cũng quá xa xỉ, mâm vàng, chén bạc và mọi thứ tươm tất đến không tưởng. Đây chẳng còn là thế giới của con người mà là một thế giới thần tiên nào đó được tạo ra dành cho chúa trời.
Thật vậy, nhân cách sáng ngời của ông cũng bộc lộ rõ nét khi chuẩn bệnh cho thế tử. Đó là một đứa bé tầm năm, sáu tuổi bị mắc một căn bệnh mà nguyên nhân lại rất đơn giản. Đó là vì không vận động lại được ăn sung mặc sướng lâu ngày dẫn đến hại thân và mang bệnh. Sự phục vụ chu đáo của kẻ hầu người hạ khiến cho nó không phải động tay chân, mắc bệnh lâu ngày mà chưa khỏi khiến sinh khí khô héo, gầy guộc, gân xanh nổi lên khắp người. Chỉ cần nhìn sơ qua thôi, nhà y thông thái ấy cũng đã có thể chuẩn đoán ra được bệnh tình của đứa trẻ mang danh con trời kia nhưng rồi ông lại đắn đo, dằn vặt, đấu tranh tìm ra cách tốt nhất cho lựa chọn của mình. Và cuối cùng sau bao trăn trở ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn để chữa bệnh cho thế tử mặc dù có khả năng chữa khỏi ngay lập tức. Ông trăn trở vì sợ tiền tài danh vọng sẽ cướp mất tự do, tự tại của cuộc đời, sợ chữa bệnh khỏi nhanh quá sẽ bị giữ lại. Qua chi tiết trên, có thể thấy Lê Hữu Trác là người không ham mê danh vọng, điều ông coi trọng hơn ca là cái y đức, cái đạo đức lẽ sống của mình. Không có gì quý giá hơn tự do tự tại của cuộc đời, và ông đã quyết định tránh xa nơi thị phi ganh đua để sống an nhàn. Ông thà làm lang y bình thường chứ nhất định không trở thành con chim quý trong lồng lúc nào cũng phải khom lưng quỳ gối trước kẻ lãnh chúa tàn bạo.
Kẻ có tài luôn là người có tâm. Thật vậy từ xưa đến nay, đã có biết bao nhân tài chọn cách buông bỏ triều chính vì nhận ra được cái bản chất, cái bộ mặt thật sự của triều đình. Luật lệ được đặt ra để đàn áp con người nghèo khổ, nó là công cụ để cướp bóc một cách hợp pháp. Cả một đất nước rộng lớn bị bao phủ bởi bóng tối đặc kịt, những tiếng khóc, tiếng kêu van thảm thiết. Con người cứ chìm trong đau khổ còn bọn thống trị thì cứ nhởn nhơ hưởng thụ. Một xã hội thối nát và vô nhân đạo làm sao. Thế nhưng sau tất cả ta vẫn còn hy vọng, niềm tin vẫn được tiếp nối bởi xã hội vẫn còn những người có tâm có đức như Lê Hữu Trác, ông là một người có tài, có tâm và mang trong mình nhân cách cao đẹp.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 4)
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác được biết đến là một vị danh y nổi tiếng của đất nước ta. Nhưng không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tác phẩm nổi tiếng “Thượng kinh kí sự” mà đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đem đến những giá trị sâu sắc, đồng thời phản ảnh những vẻ đẹp trong con người của chính nhà văn.
Với điểm nhìn trần thuật là ngôi thứ nhất - tác giả xưng tôi để thuật lại những điều mắt thấy, tai nghe khi có dịp được chúa triệu vào xem bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
Một người luôn coi trọng chữ “đức” và luôn muốn tránh xa khỏi vòng danh lợi, Lê Hữu Trác không coi trọng lối sống xa hoa. Ông thấy rõ nơi phủ Chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
Khi bước chân vào phủ chúa phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi cửa đều có lính canh gác và có điếm “Hậu mã túc trực”. Trong phủ chúa, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, tiếng chim kêu ríu rít, các loài hoa đua nhau khoe sắc thắm và gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong lại càng lộng lẫy hơn cả. Nào là những đồ đạc mà có lẽ giai nhân trong nhà chưa từng thấy hết, nào là các đồ đồ nghị trượng đều được sơn son thếp vàng. Sau trong nội cung của các thê tử phải qua năm sáu lần trướng gấm, các đồ đạc cùng đều được sơn son thếp vàng, trên bày nệm gấm và hương hoa thơm ngào ngạt. Có thể thấy, quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng xa hoa, giàu sang và thâm nghiêm. Đây có lẽ là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước.
Không chỉ là quan sát tỉ mỉ quang cảnh nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác còn được tận mắt chứng kiến cung cách sinh hoạt hằng ngày của chúa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. Đến khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép. Lối sống xa hoa này, được ông nhận xét một cách đúng đắn: “phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
Đặc biệt nhất là khi xem bệnh cho thế tử. Nhiều người coi đó như một cơ hội trời ban để đạt có được tiền tài, danh lợi. Nhưng Lê Hữu Trác thì từ chối điều ấy. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người và cái phận làm bề tôi. Ông thuật lại những suy nghĩ của mình: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được…”. Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Ông chẳng ham chuộng danh lợi, bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Nhưng rồi, là một người thầy thuốc có đức độ, ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, vì lương tâm không cho phép”. Dù thế nào, ông cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn.
Qua phân tích trên, ta thấy được một nhân cách lớn của vị danh y Lê Hữu Trác. Ông chính là tấm gương sáng để cho thế hệ sau học tập và làm theo.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 5)
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII (thời vua Lê - chúa Trịnh). Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự” (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” cũng như tập “Thượng kinh kí sự” đã khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: Đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chốn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi trượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được…”. Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản.
Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ. Ông hoàn toàn coi thường tiền tài, danh lợi.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 6)
Lê Hữu Trác là một trong những danh y tài đức, sống vào thời vua Lê-chúa Trịnh. Không chỉ là một danh y tận tâm, ông còn là một văn với nhiều tác phẩm nổi bật. Tiêu biểu có thể kế đến cuốn “Thượng kinh kí sự” được ra đời vào năm 1782. Qua tác phẩm, một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa cùng những thế lực, quyền uy trong phủ chúa Trịnh được tái hiện đầy chân thực. “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những trích đoạn hay nhất tác phẩm, qua đó Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của mình.
Trước hết, có thể thấy Hữu Trác là một danh y là người giản dị, thanh sạch, coi thường danh lợi. Bước vào phủ chúa với lầu son, gác tía, tác giả không bày tỏ sự thán phục mà thể hiện thái độ ngỡ ngàng trước sự giàu sang, lộng lẫy của nơi đây: “Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.” Ngoài ra, ông cũng bộc lộ rõ thái độ phê phán lối sống xa hoa trong phủ qua cách miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách đầy tỉ mỉ, chi tiết. Ngắm cảnh xa hoa đến đâu tác giả miêu tả chi tiết đến đấy, từ trong ra ngoài, từ xa tới gần, tất cả quang cảnh rất mực “thừa thãi” ấy khiến ông phải thốt lên tiếng xuýt xoa đầy ái ngại:
“Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Trong từng câu văn, ngôn từ, hình ảnh, thậm chí là cả giọng điệu đều toát lên sự giễu cợt, mỉa mai của Lê Hữu Trác đối với “những đứa con tinh thần” đầy mùi vật chất và khoe khoang nơi phủ chúa: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Nhìn tất cả những vật chất ấy, tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Có thể thấy, cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ Trịnh không làm Lê Hữu Trác chìm đắm trong u mê, xuýt xoa khen ngợi, thán phục mà càng khiến ông thêm phần khinh khi, buồn nản, hẳn là một người coi thường vật chất, phú quý. Hơn thế nữa, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán, ông cũng đã đấu tranh rất nhiều trước hai sự lựa chọn. Bởi ông sợ công danh trói buộc, không được trở về với cuộc sống ẩn dật, bình yên chốn núi rừng. Có thể thấy chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào” không dành cho kẻ tâm hồn thanh sạch, cao quý như ông.
Ở Lê Hữu Trác ta còn thấy được sự tận tâm, tài năng của một người thầy thuốc. Khi căn bệnh của thế tử rất nhiều người thầy thuốc không tìm ra phương cách, chấp nhận bó tay thì Lê Hữu Trác lại biết rất rõ nguyên căn bệnh. Trước những trăn trở, nghĩ suy giữa vòng danh lợi trói buộc và cuộc sống thanh bình chốn an yên thì ông đã chọn lòng trung thành, trượng nghĩa. Gác lại những suy tính của bản thân, ông làm việc bằng lương tâm với nghề, bằng trách nhiệm của một trung thần với chúa Điều đó được thể hiện rõ qua việc Lê Hữu Trác đã đưa ra phương thuốc hữu hiệu, cách thức chữa trị chính xác nhất để chữa bệnh cho thế tử .”Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Tài năng, kinh nghiệm và đức độ của ông trong nghề thầy thuốc được mọi người thán phục, ngay cả vị Quan chánh đường cũng phải thốt lên: “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
Qua đoạn trích ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một người có tâm hồn và nhân cách cao đẹp – yêu tự do, ghét ràng buộc, sống bình dị, xem thường công danh phú quý và tận tâm với nghề. Vẻ đẹp về tâm hồn và nhân cách của danh y Lê Hữu Trác mãi là tấm gương sáng cho bao thế hệ học tập, noi theo.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 7)
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một nhà y giàu y đức, ông cũng là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc. Trong suốt cuộc đời, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm, những cống hiến to lớn cho đất nước, và một trong số đó phải kể đến là cuốn “Thượng kinh kí sự” được viết năm 1782, là thành quả của chuyến đi đến kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, ta thấy được cuộc sống xa hoa của bọn chúa phong kiến và nổi bật hơn hết là tâm hồn, nhân cách sáng ngời của một nhà y có tâm đức không ham tiền tài danh vọng.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã ghi lại chân thực toàn bộ những điều mà ông chính mắt thấy, tai nghe. Khi được tận mắt chứng kiến mọi thứ trong phủ chúa, ông lại không khỏi sững sờ, kinh ngạc bởi các vẻ quyền quý, cao sang. Mọi thứ còn hơn cả lời đồn mà ông đã nghe được ở bên ngoài.
Mở đầu tác phẩm ông đã lấy ngòi bút của mình để phác lại bức tranh rực rỡ ở phủ chúa. Từ ngoài vào trong không biết bao nhiêu kẻ hầu người hạ, những hàng cây um tùm nối đuôi nhau tít tắp, rồi có chỗ lại có những hòn đá hình thù kì lạ, nơi có những chiếc cột được dát vàng. Nghe tác giả kể mà ta như đi lạc vào một thế giới cổ tích nào đó, một thế giới sặc sỡ sắc màu và uy quyền không tưởng. Nhà y được đưa vào trong phủ bằng cửa sau, đi hết hành lang này đến hành lang kia rồi lại qua cửa lớn cửa nhỏ, bắt gặp những cung điện đài các nguy nga đến ngộp thở, đứng trước khung cảnh kiêu sa thế khiến cho ông trầm trồ nhưng cũng chỉ ngẩng đầu lên liếc vài cái rồi lại cúi gằm xuống đất. Dường như ngay từ khi bước chân vào trong phủ ông đã nhận ra đây không phải là thế giới dành cho mình, đó là cuộc sống đối nghịch với thực tại của hàng nghìn hàng vạn con người ngoài kia đang đầu sấp mặt tối chỉ mong có đủ cơm ăn, áo mặc. Có lẽ ông nhận ra đây là cái cao sang bất nhân, bất nghĩa có được bằng cách bóc lột, tước đoạt công sức của người khác.
Và con người nhân đức ấy cũng ngạc nhiên bởi cung cách sinh hoạt của phủ chúa. Trong phủ người hầu kẻ hạ tấp nập, lại thêm bữa ăn đầy sơn hào hải vị, của ngon vật lạ ở trên đời khiến ông ấn tượng không sao quên nổi. Đó là khi ông được mời một bữa cơm trong phủ, dù chỉ là cơm sẻ của quan nhưng với ông nó cũng quá xa xỉ, mâm vàng, chén bạc và mọi thứ tươm tất đến không tưởng. Đây chẳng còn là thế giới của con người mà là một thế giới thần tiên nào đó được tạo ra dành cho chúa trời.
Thật vậy, nhân cách sáng ngời của ông cũng bộc lộ rõ nét khi chuẩn bệnh cho thế tử. Đó là một đứa bé tầm năm, sáu tuổi bị mắc một căn bệnh mà nguyên nhân lại rất đơn giản. Đó là vì không vận động lại được ăn sung mặc sướng lâu ngày dẫn đến hại thân và mang bệnh. Sự phục vụ chu đáo của kẻ hầu người hạ khiến cho nó không phải động tay chân, mắc bệnh lâu ngày mà chưa khỏi khiến sinh khí khô héo, gầy guộc, gân xanh nổi lên khắp người. Chỉ cần nhìn sơ qua thôi, nhà y thông thái ấy cũng đã có thể chuẩn đoán ra được bệnh tình của đứa trẻ mang danh con trời kia nhưng rồi ông lại đắn đo, dằn vặt, đấu tranh tìm ra cách tốt nhất cho lựa chọn của mình. Và cuối cùng sau bao trăn trở ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn để chữa bệnh cho thế tử mặc dù có khả năng chữa khỏi ngay lập tức. Ông trăn trở vì sợ tiền tài danh vọng sẽ cướp mất tự do, tự tại của cuộc đời, sợ chữa bệnh khỏi nhanh quá sẽ bị giữ lại. Qua chi tiết trên, có thể thấy Lê Hữu Trác là người không ham mê danh vọng, điều ông coi trọng hơn ca là cái y đức, cái đạo đức lẽ sống của mình. Không có gì quý giá hơn tự do tự tại của cuộc đời, và ông đã quyết định tránh xa nơi thị phi ganh đua để sống an nhàn. Ông thà làm lang y bình thường chứ nhất định không trở thành con chim quý trong lồng lúc nào cũng phải khom lưng quỳ gối trước kẻ lãnh chúa tàn bạo.
Kẻ có tài luôn là người có tâm. Thật vậy từ xưa đến nay, đã có biết bao nhân tài chọn cách buông bỏ triều chính vì nhận ra được cái bản chất, cái bộ mặt thật sự của triều đình. Luật lệ được đặt ra để đàn áp con người nghèo khổ, nó là công cụ để cướp bóc một cách hợp pháp. Cả một đất nước rộng lớn bị bao phủ bởi bóng tối đặc kịt, những tiếng khóc, tiếng kêu van thảm thiết. Con người cứ chìm trong đau khổ còn bọn thống trị thì cứ nhởn nhơ hưởng thụ. Một xã hội thối nát và vô nhân đạo làm sao. Thế nhưng sau tất cả ta vẫn còn hy vọng, niềm tin vẫn được tiếp nối bởi xã hội vẫn còn những người có tâm có đức như Lê Hữu Trác, ông là một người có tài, có tâm và mang trong mình nhân cách cao đẹp.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 8)
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc, đánh dấu sự phát triển mới của thể loại kí Việt Nam thời trung đại. Với tác phẩm này, tác giả đã ghi lại những cảm nhận của bản thân trước hiện thực về cảnh vật và con người mà mình tận mắt chứng kiến từ lúc nhận được lệnh triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Cán đến lúc xong việc, về tới nhà ở Hương Sơn. Và có thể nói, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm, vẽ lại một cách chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đặc biệt, qua đoạn trích còn giúp chúng ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trước hết, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hiện lên là một con người coi thường danh lợi. Bước vào khung cảnh lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ và nghiêm trang, cung kính nơi chốn phủ chúa với những gác tía, “Đại đường”, “Quyển bồng” Lê Hữu Trác đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách trực tiếp. “Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.” Với những câu văn đã dẫn ở trên có thể thấy được thái độ ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả trước khung cảnh nơi phủ chúa. Tuy nhiên, ẩn sau cái thái độ ngỡ ngàng ấy, ông cũng gián tiếp lên tiếng phê phán cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi phủ chúa. Thái độ phê phán ấy của ông thể hiện qua cách ông miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách chi tiết, tỉ mỉ, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, dường như ông đã dẫn người đọc đi chiêm ngưỡng hết mọi nơi trong phủ chúa và để rồi cuối cùng ông khép lại bằng một bài thơ miêu tả cảnh phủ chúa nhưng xét đến cùng chính là tiếng lòng của ông:
Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đồng thời, thái độ phê phán cảnh sống xa hoa nơi phủ chúa còn được thể hiện qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt khi ông nói về những đồ dùng trong phủ chúa lúc được mời ăn cơm: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Như vậy, xét đến cùng, ẩn sau cách miêu tả tỉ mỉ quang cảnh xa hoa nơi phủ chúa và thái độ mỉa mai trong cách ghi chép, miêu tả chính là một Hải Thượng Lãn Ông coi thường danh lợi, tiền bạc, không đồng tình với cuộc sống xa hoa nhưng thiếu khí trời nơi chốn phủ chúa.
Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Trác còn là một thầy thuốc tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề, giàu lương tâm, đức độ và luôn giữ cho mình một lối sống, một cốt cách thanh cao. Có thể nói, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán trong nội tâm Lê Hữu Trác có sự giằng co, mâu thuẫn giữa một bên là ông hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật với một bên là muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. Nhưng để rồi, đến cuối cùng, tấm lòng, lương y của người thầy thuốc cùng với việc ông luôn lấy việc nối tiếp lòng trung thành của cha ông làm tôn chỉ, làm lẽ sống đã chiến thắng tất cả mọi suy tư, trăn trở, mâu thuẫn trong ông, để rồi cuối cùng ông đưa ra phương pháp, cách thức chữa trị bệnh cho thế tử – căn bệnh mà nhiều thầy thuốc đã không tìm ra cách chữa trị. Tuy nhiên, việc Lê Hữu Trác sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật xét đến cùng là sự biểu hiện cho lòng yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm nơi quê nhà, không vướng bận vinh hoa phú quý của ông. Thêm vào đó, tài năng, kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc của ông không chỉ được thể hiện trực tiếp ở việc chữa khỏi bệnh cho thế tử Cán mà còn ở lời nhận xét của Quan chánh đường “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
Tóm lại, qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh giúp chúng ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bên cạnh là một thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm còn là một người giàu y đức, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp – coi thường tiền bạc, vinh hoa, yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ sau ngưỡng mộ và học tập, noi theo.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 9)
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê – chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột… Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (…)”. Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác (mẫu 10)
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông không chỉ là một nhà y học tài năng mà còn là một nhà văn, nhà thơ rất đáng trân trọng của dân tộc ta. Ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ; bên cạnh đó ông còn có những tác phẩm văn chương rất quý giá.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo "Thánh chỉ" để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà Chúa, và cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích "Vào phủ Chúa Trịnh" là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích bắt đầu từ lúc tác giả đã đến Thăng Long, hiện ở đỉnh Trung Kiên trong phủ Chúa được triệu vào khám bệnh cho Thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày "mồng một tháng hai", "sáng tinh mơ"; và nói rõ nguyên có sự việc "có Thánh chỉ triệu vào cung"- đó là đặc điểm của thể kí sự. ơ Kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại quang cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ Chúa hiện lên như một thiên đường: "Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng"... Tâm hồn tác giả nhạy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa noi phủ Chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có một giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết:
"Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành minh cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ Chúa... mới hay cái cảnh giàu sang của Vua Chúa thực khác hẳn người thường". Rồi tác giả làm thơ miêu ta nói là "để ghi nhớ" cảnh này:
"Lính nghìn cửa vác đông nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ chân mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ảnh vào...
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!"
Lời thơ mới đầu tương như là lời ngợi ca cảnh đẹp nơi phồn hoa, nhưng nghĩ cho kĩ thì tâm hồn tác giả rung cảm vói vẻ đẹp thiên nhiên chỉ có một phần. Toàn bộ nội dung của bài thơ như có chất trào lộng, châm biếm, tuy Hải Thượng Lãn Ông không thể bộc bạch ra được.
Cảnh cung đình hiện lên như ở cõi tiên với những "lầu son, gác tía", "hiên ngọc, rèm châu". Tác giả nói mình là "ngư phủ” lạc vào chốn "đào nguyên" theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: "Điếm làm bên cái hồ, có những cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp".
Trong lối diễn đạt ấy, tác giả đã khéo léo ngầm ý phê phán. Ông lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa một cách kín đáo.
Là một người coi trọng chữ "đức", lánh xa danh lợi, Hải Thượng Lãn Ông không coi trọng lối sống xa hoa. Hơn nữa, trên quan điểm vì con người, vì dân, Hải Thượng Lãn Ông thấy rõ nơi phủ Chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là "cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".
Tài năng của ông được người đời truyền tụng là làm thuốc hay, nổi tiếng như "sấm động bên tai"... Và việc ông được tiến cử chữa bệnh cho Thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan thái y là tước vị sẽ đến với ông chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông, tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Quan niệm của các Nho gia, Đạo gia xưa kia đều không màng danh lợi. Đó là vì họ ham mê lí tưởng cao đẹp hơn, và quan trọng là phải giữ cho tâm hồn, cốt cách của mình được trong sạch.
Cho nên, khi xem bệnh cho Thế tử, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng đã tìm cách để "hoà hoãn", sao cho vừa giữ được mình khỏi tiếng "bất trung", lại vừa tránh được việc phải ở lại làm quan. Cũng đã có sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh giữa cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo "trung" của kẻ bề tôi với lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng, ta thấy lòng ham "về núi" cua kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một Thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn...
Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lí sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Tuy nhiên, tài năng của Hải Thượng Lãn Ông không được sử dụng để phục vụ bọn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích cho riêng mình, mà là để phục vụ nhân dân.
Bằng ngòi bút kí sự chân thực sắc sảo, Lê Hữu Trác đã phản ánh được cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và đạo đức.
Tác phẩm Thượng kinh kí sự xứng đáng là viên ngọc quí của nền văn học trung đại Việt Nam.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 11
Lê Hữu Trác được biết đến là một danh y bậc nhất của thời trung đại. Ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Tác phẩm nổi bật nhất ông để lại là “Thượng kinh kí sự”, với ngòi bút miêu tả sắc sảo, không chỉ phơi bày hiện thực cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi phủ chúa, mà đằng sau đó ta có thấy sáng lên tấm lòng, nhân đức cao đẹp của một con người đại tài.
“Thượng kinh kí sự” là tập kí sự được viết bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783. Tác phẩm ra đời nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm cho mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm này đã phơi bày quang cảnh kinh đô, cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa quyền uy, đầy thế lực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” tuy chỉ là một trích đoạn ngắn ngủi nhưng đã phần nào nói lên nhân cách, vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả: Coi thường lợi danh và là người thầy thuốc lương thiện, có y đức.
Khi đang ở quê nhà Hương Sơn – Hà Tĩnh, sáng sớm tinh mơ đã có người đến gõ cửa rất gấp triệu ông vào cung bắt mạch, kê đơn, chữa bệnh cho thế tử Cán, ông ăn vận chỉnh tề và theo họ đến kinh đô. Trước khung cảnh phủ chúa nguy nga, sa hoa khiến cho một người vốn “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết” cũng phải ngỡ ngàng “bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường”. Những gì ông thấy trên đường vào nơi thâm cung khiến ông không khỏi ngỡ ngàng, với cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua sắc ở khắp mọi nơi, quang cảnh thực khác thường. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Hữu Trác lại có nhã hứng ngâm thơ, mà qua những vần thơ ấy ông thể hiện sự giàu sang khác thường, một điềm báo chẳng lành ở nơi phủ chúa: Cả trời nam sang nhất là đây. Bao nhiêu cổ vật, chân cầm dị thú đều tập trung cả ở nhà phủ chúa, khiến cho những con người “quê mùa” như tác giả không khỏi ngỡ ngàng:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.
Sự ngỡ ngàng, bất ngờ đó ngày một tăng lên khi ông đi sâu vào trong phủ chúa, những cái điếm lớn, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách xinh đẹp, hay những cái cây và hòn đá lạ lùng mà nhân gian chưa từng gặp đều tụ hội ở nơi phủ chúa. Những đồ vật được dùng trong phủ chúa đều là những đồ vật giá trị, sơn son thếp vàng: đồ nghi trượng, sập, võng điều,… cung cách sinh hoạt hết sức xa hoa. Nhìn những đồ vật đó tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Hành động đó cho thấy tính cách coi thường danh lợi của tác giả. Trước sự sa hoa, quyền quý ở nơi phủ chúa ông không sợ hãi, không ham mê mà coi thường tất cả phường danh lợi đó. Ta có thể thấy trong đoạn trích này, giọng điệu mỉa mai, châm biếm của tác giả được ẩn giấu rất kĩ lưỡng, đó chỉ là cái cười khểnh rất nhẹ, rất kín đáo mà ta khó lòng nhận ra. Những lời nhận xét, bình luận mà dường như không phải: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” hay “Tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Qua các lời nhận xét đó đã cho thấy thái độ coi thường danh lợi, một cách rất kín đáo Lê Hữu Trác đã cho người đọc thấy được cốt cách cao đẹp của bản thân.
Không chỉ vậy, ông còn là một người thẳng thắn, không sợ uy quyền. Trước khi trả lời câu hỏi của Quan Chánh đường, Lê Hữu Trác đã được quan Chánh đường rào đón trước về cách chữa bệnh nên “dùng thứ thuốc công phạt” để tác giả liệu điều kê thuốc theo đúng ý quan Chánh đường. Nhưng trước những lời nói đó, Lê Hữu Trác không hề sợ hãi, bằng sự chuẩn đoán của bản thân, ông vẫn kê đơn thuốc theo những gì mình cho là tốt nhất cho người bệnh: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Sự bộc trực, thẳng thắn này một phần xuất phát từ sự coi thường danh lợi của tác giả, đồng thời cũng là từ tấm lòng y đức, lương thiện của ông.
Bên cạnh đó, qua đoạn trích này ta còn thấy Lê Hữu Trác là một người thầy thuốc có y đức, có lương tâm với người bệnh. Vốn không cầu danh lợi, ông rời xa chốn kinh thành về tận Hương Sơn – Hà Tĩnh để bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, khi được triệu vào cung chữa bệnh ông cũng mang hết tài năng và kiến thức của bản thân để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Nhưng sau khi khám xong, trong ông bị hai mâu thuẫn giằng xé, là chữa bệnh hay không chữa bệnh cho thế tử. Nếu chữa bệnh khỏi cho thế tử lại sợ “mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không sao về núi được nữa. Chi bằng ta cứ dùng thứ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Nếu làm như vậy ông sẽ được thỏa mãn cái thú điền viên, được chữa bệnh cho người nghèo và không bị phường lợi danh cuốn vào. Nhưng với y đức vốn có của một người thầy thuốc liệu ông có thể làm được như vậy hay không? Rất nhanh sau đó ông đã tự đưa ra câu trả lời cho chính mình: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Trước hết ông đưa ra lý do muốn tiếp nối lòng trung của cha ông, tổ tiên để không phụ lại công ơn cha ông để lại, nhưng đằng sau đó còn là cả tấm lòng, là cả nhân cách y đức sáng ngời của ông. Trước người bệnh, không kể đó là ai ông chỉ có một lòng chữa và giúp họ khỏi bệnh. Tấm lòng cao cả, y đức hơn người đó đã giúp ông chiến thắng những mong muốn, nhu cầu của bản thân. Lê Hữu Trác quả là con người giàu lòng y đức và thương người.
Chỉ trong một trích đoạn ngắn, nhưng người đọc đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của Lê Hữu Trác. Ông là người coi thường danh lợi, phú quý, là một vị lương y tài giỏi, nhân đức.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 12)
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc, đánh dấu sự phát triển mới của thể loại kí Việt Nam thời trung đại. Với tác phẩm này, tác giả đã ghi lại những cảm nhận của bản thân trước hiện thực về cảnh vật và con người mà mình tận mắt chứng kiến từ lúc nhận được lệnh triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Cán đến lúc xong việc, về tới nhà ở Hương Sơn. Và có thể nói, đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm, vẽ lại một cách chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đặc biệt, qua đoạn trích còn giúp chúng ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trước hết, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hiện lên là một con người coi thường danh lợi. Bước vào khung cảnh lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ và nghiêm trang, cung kính nơi chốn phủ chúa với những gác tía, "Đại đường", "Quyển bồng" Lê Hữu Trác đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách trực tiếp. "Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường." Với những câu văn đã dẫn ở trên có thể thấy được thái độ ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả trước khung cảnh nơi phủ chúa. Tuy nhiên, ẩn sau cái thái độ ngỡ ngàng ấy, ông cũng gián tiếp lên tiếng phê phán cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi phủ chúa. Thái độ phê phán ấy của ông thể hiện qua cách ông miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách chi tiết, tỉ mỉ, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, dường như ông đã dẫn người đọc đi chiêm ngưỡng hết mọi nơi trong phủ chúa và để rồi cuối cùng ông khép lại bằng một bài thơ miêu tả cảnh phủ chúa nhưng xét đến cùng chính là tiếng lòng của ông:
Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đồng thời, thái độ phê phán cảnh sống xa hoa nơi phủ chúa còn được thể hiện qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt khi ông nói về những đồ dùng trong phủ chúa lúc được mời ăn cơm: "Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia". Như vậy, xét đến cùng, ẩn sau cách miêu tả tỉ mỉ quang cảnh xa hoa nơi phủ chúa và thái độ mỉa mai trong cách ghi chép, miêu tả chính là một Hải Thượng Lãn Ông coi thường danh lợi, tiền bạc, không đồng tình với cuộc sống xa hoa nhưng thiếu khí trời nơi chốn phủ chúa.
Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Trác còn là một thầy thuốc tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề, giàu lương tâm, đức độ và luôn giữ cho mình một lối sống, một cốt cách thanh cao. Có thể nói, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán trong nội tâm Lê Hữu Trác có sự giằng co, mâu thuẫn giữa một bên là ông hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật với một bên là muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. Nhưng để rồi, đến cuối cùng, tấm lòng, lương y của người thầy thuốc cùng với việc ông luôn lấy việc nối tiếp lòng trung thành của cha ông làm tôn chỉ, làm lẽ sống đã chiến thắng tất cả mọi suy tư, trăn trở, mâu thuẫn trong ông, để rồi cuối cùng ông đưa ra phương pháp, cách thức chữa trị bệnh cho thế tử - căn bệnh mà nhiều thầy thuốc đã không tìm ra cách chữa trị. Tuy nhiên, việc Lê Hữu Trác sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật xét đến cùng là sự biểu hiện cho lòng yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm nơi quê nhà, không vướng bận vinh hoa phú quý của ông. Thêm vào đó, tài năng, kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc của ông không chỉ được thể hiện trực tiếp ở việc chữa khỏi bệnh cho thế tử Cán mà còn ở lời nhận xét của Quan chánh đường "Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều."
Tóm lại, qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh giúp chúng ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bên cạnh là một thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm còn là một người giàu y đức, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp - coi thường tiền bạc, vinh hoa, yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ sau ngưỡng mộ và học tập, noi theo.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 13)
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông không chỉ là một nhà y học tài năng mà còn là một nhà văn, nhà thơ rất đáng trân trọng của dân tộc ta. Ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ; bên cạnh đó ông còn có những tác phẩm văn chương rất quý giá.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “Thánh chỉ” để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà Chúa, và cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích bắt đầu từ lúc tác giả đã đến Thăng Long, hiện ở đỉnh Trung Kiên trong phủ Chúa được triệu vào khám bệnh cho Thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày “mồng một tháng hai”, “sáng tinh mơ”; và nói rõ nguyên có sự việc “có Thánh chỉ triệu vào cung” – đó là đặc điểm của thể kí sự. Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại quang cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ Chúa hiện lên như một thiên đường: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng”… Tâm hồn tác giả nhạy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ Chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có một giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết:
“Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ Chúa… mới hay cái cảnh giàu sang của Vua Chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi tác giả làm thơ miêu tả nói là “để ghi nhớ” cảnh này:
“Lính nghìn cửa vác đông nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ chân mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ảnh vào…
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Lời thơ mới đầu tưởng như là lời ngợi ca cảnh đẹp nơi phồn hoa, nhưng nghĩ cho kĩ thì tâm hồn tác giả rung cảm với vẻ đẹp thiên nhiên chỉ có một phần. Toàn bộ nội dung của bài thơ như có chất trào lộng, châm biếm, tuy Hải Thượng Lãn Ông không thể bộc bạch ra được.
Cảnh cung đình hiện lên như ở cõi tiên với những “lầu son, gác tía”, “hiên ngọc, rèm châu”. Tác giả nói mình là “ngư phủ” lạc vào chốn “đào nguyên” theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: “Điếm làm bên cái hồ, có những cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Trong lối diễn đạt ấy, tác giả đã khéo léo ngụ ý phê phán. Ông lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa một cách kín đáo.
Là một người coi trọng chữ “đức”, lánh xa danh lợi, Hải Thượng Lãn Ông không coi trọng lối sống xa hoa. Hơn nữa, trên quan điểm vì con người, vì dân, Hải Thượng Lãn Ông thấy rõ nơi phủ Chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
Tài năng của ông được người đời truyền tụng là làm thuốc hay, nổi tiếng như “sấm động bên tai”… Và việc ông được tiến cử chữa bệnh cho Thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan thái y là tước vị sẽ đến với ông chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông, tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Quan niệm của các Nho gia, Đạo gia xưa kia đều không màng danh lợi. Đó là vì họ ham mê lý tưởng cao đẹp hơn, và quan trọng là phải giữ cho tâm hồn, cốt cách của mình được trong sạch. Cho nên, khi xem bệnh cho Thế tử, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng đã tìm cách để “hoà hoãn”, sao cho vừa giữ được mình khỏi tiếng “bất trung”, lại vừa tránh được việc phải ở lại làm quan. Cũng đã có sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh giữa cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo “trung” của kẻ bề tôi với lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng, ta thấy lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một Thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…
Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Tuy nhiên, tài năng của Hải Thượng Lãn Ông không được sử dụng để phục vụ bọn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích cho riêng mình, mà là để phục vụ nhân dân.
Bằng ngòi bút kí sự chân thực sắc sảo, Lê Hữu Trác đã phản ánh được cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và đạo đức. Tác phẩm Thượng kinh kí sự xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 14)
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê – chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn "Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi "cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường". Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: "Cả trời Nam sang nhất là đây!" Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
"Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. "Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương." Được ngồi trên cáng để vào phủ mà "khổ không nói hết". Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn "rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào".
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. "Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ" chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc "nhân gian chưa từng thấy". Tác giả chỉ dám "ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. "Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (...)". Nhưng rồi lại nghĩ: "Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được". Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử "phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu", vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 15)
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông không chỉ là một nhà y học tài năng mà còn là một nhà văn, nhà thơ rất đáng trân trọng của dân tộc ta. Ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ; bên cạnh đó ông còn có những tác phẩm văn chương rất quý giá.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo "Thánh chỉ" để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà Chúa, và cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích "Vào phủ Chúa Trịnh" là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích bắt đầu từ lúc tác giả đã đến Thăng Long, hiện ở đỉnh Trung Kiên trong phủ Chúa được triệu vào khám bệnh cho Thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày "mồng một tháng hai", "sáng tinh mơ"; và nói rõ nguyên có sự việc "có Thánh chỉ triệu vào cung"- đó là đặc điểm của thể kí sự. ơ Kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại quang cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ Chúa hiện lên như một thiên đường: "Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng"... Tâm hồn tác giả nhạy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ Chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có một giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết:
"Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành minh cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ Chúa... mới hay cái cảnh giàu sang của Vua Chúa thực khác hẳn người thường". Rồi tác giả làm thơ miêu ta nói là "để ghi nhớ" cảnh này:
"Lính nghìn cửa vác đông nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ chân mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ảnh vào...
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!"
Lời thơ mới đầu tưởng như là lời ngợi ca cảnh đẹp nơi phồn hoa, nhưng nghĩ cho kĩ thì tâm hồn tác giả rung cảm với vẻ đẹp thiên nhiên chỉ có một phần. Toàn bộ nội dung của bài thơ như có chất trào lộng, châm biếm, tuy Hải Thượng Lãn Ông không thể bộc bạch ra được.
Cảnh cung đình hiện lên như ở cõi tiên với những "lầu son, gác tía", "hiên ngọc, rèm châu". Tác giả nói mình là "ngư phủ” lạc vào chốn "đào nguyên" theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: "Điếm làm bên cái hồ, có những cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp".
Trong lối diễn đạt ấy, tác giả đã khéo léo ngầm ý phê phán. Ông lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa một cách kín đáo.
Là một người coi trọng chữ "đức", lánh xa danh lợi, Hải Thượng Lãn Ông không coi trọng lối sống xa hoa. Hơn nữa, trên quan điểm vì con người, vì dân, Hải Thượng Lãn Ông thấy rõ nơi phủ Chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là "cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".
Tài năng của ông được người đời truyền tụng là làm thuốc hay, nổi tiếng như "sấm động bên tai"... Và việc ông được tiến cử chữa bệnh cho Thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan thái y là tước vị sẽ đến với ông chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông, tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Quan niệm của các Nho gia, Đạo gia xưa kia đều không màng danh lợi. Đó là vì họ ham mê lí tưởng cao đẹp hơn, và quan trọng là phải giữ cho tâm hồn, cốt cách của mình được trong sạch.
Cho nên, khi xem bệnh cho Thế tử, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng đã tìm cách để "hoà hoãn", sao cho vừa giữ được mình khỏi tiếng "bất trung", lại vừa tránh được việc phải ở lại làm quan. Cũng đã có sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh giữa cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo "trung" của kẻ bề tôi với lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng, ta thấy lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một Thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn...
Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lí sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Tuy nhiên, tài năng của Hải Thượng Lãn Ông không được sử dụng để phục vụ bọn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích cho riêng mình, mà là để phục vụ nhân dân.
Bằng ngòi bút kí sự chân thực sắc sảo, Lê Hữu Trác đã phản ánh được cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và đạo đức.
Tác phẩm Thượng kinh kí sự xứng đáng là viên ngọc quí của nền văn học trung đại Việt Nam.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 16)
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc, đánh dấu sự phát triển mới của thể loại kí Việt Nam thời trung đại. Với tác phẩm này, tác giả đã ghi lại những cảm nhận của bản thân trước hiện thực về cảnh vật và con người mà mình tận mắt chứng kiến từ lúc nhận được lệnh triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Cán đến lúc xong việc, về tới nhà ở Hương Sơn. Và có thể nói, đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm, vẽ lại một cách chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đặc biệt, qua đoạn trích còn giúp chúng ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trước hết, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hiện lên là một con người coi thường danh lợi. Bước vào khung cảnh lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ và nghiêm trang, cung kính nơi chốn phủ chúa với những gác tía, "Đại đường", "Quyển bồng" Lê Hữu Trác đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách trực tiếp. "Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường." Với những câu văn đã dẫn ở trên có thể thấy được thái độ ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả trước khung cảnh nơi phủ chúa. Tuy nhiên, ẩn sau cái thái độ ngỡ ngàng ấy, ông cũng gián tiếp lên tiếng phê phán cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi phủ chúa. Thái độ phê phán ấy của ông thể hiện qua cách ông miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách chi tiết, tỉ mỉ, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, dường như ông đã dẫn người đọc đi chiêm ngưỡng hết mọi nơi trong phủ chúa và để rồi cuối cùng ông khép lại bằng một bài thơ miêu tả cảnh phủ chúa nhưng xét đến cùng chính là tiếng lòng của ông:
Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đồng thời, thái độ phê phán cảnh sống xa hoa nơi phủ chúa còn được thể hiện qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt khi ông nói về những đồ dùng trong phủ chúa lúc được mời ăn cơm: "Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia". Như vậy, xét đến cùng, ẩn sau cách miêu tả tỉ mỉ quang cảnh xa hoa nơi phủ chúa và thái độ mỉa mai trong cách ghi chép, miêu tả chính là một Hải Thượng Lãn Ông coi thường danh lợi, tiền bạc, không đồng tình với cuộc sống xa hoa nhưng thiếu khí trời nơi chốn phủ chúa.
Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Trác còn là một thầy thuốc tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề, giàu lương tâm, đức độ và luôn giữ cho mình một lối sống, một cốt cách thanh cao. Có thể nói, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán trong nội tâm Lê Hữu Trác có sự giằng co, mâu thuẫn giữa một bên là ông hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật với một bên là muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. Nhưng để rồi, đến cuối cùng, tấm lòng, lương y của người thầy thuốc cùng với việc ông luôn lấy việc nối tiếp lòng trung thành của cha ông làm tôn chỉ, làm lẽ sống đã chiến thắng tất cả mọi suy tư, trăn trở, mâu thuẫn trong ông, để rồi cuối cùng ông đưa ra phương pháp, cách thức chữa trị bệnh cho thế tử - căn bệnh mà nhiều thầy thuốc đã không tìm ra cách chữa trị. Tuy nhiên, việc Lê Hữu Trác sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật xét đến cùng là sự biểu hiện cho lòng yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm nơi quê nhà, không vướng bận vinh hoa phú quý của ông. Thêm vào đó, tài năng, kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc của ông không chỉ được thể hiện trực tiếp ở việc chữa khỏi bệnh cho thế tử Cán mà còn ở lời nhận xét của Quan chánh đường "Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều."
Tóm lại, qua đoạn tríchVào phủ chúa Trịnh giúp chúng ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bên cạnh là một thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm còn là một người giàu y đức, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp - coi thường tiền bạc, vinh hoa, yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ sau ngưỡng mộ và học tập, noi theo.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 17)
Nhắc đến Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là nhắc đến một nhà y giàu y đức, ông cũng là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc. Trong suốt cuộc đời, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm, những cống hiến to lớn cho đất nước, và một trong số đó phải kể đến là cuốn “Thượng kinh kí sự” được viết năm 1782, là thành quả của chuyến đi đến kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, ta thấy được cuộc sống xa hoa của bọn chúa phong kiến và nổi bật hơn hết là tâm hồn, nhân cách sáng ngời của một nhà y có tâm đức không ham tiền tài danh vọng.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã ghi lại chân thực toàn bộ những điều mà ông chính mắt thấy, tai nghe. Khi được tận mắt chứng kiến mọi thứ trong phủ chúa, ông lại không khỏi sững sờ, kinh ngạc bởi các vẻ quyền quý, cao sang. Mọi thứ còn hơn cả lời đồn mà ông đã nghe được ở bên ngoài.
Mở đầu tác phẩm ông đã lấy ngòi bút của mình để phác lại bức tranh rực rỡ ở phủ chúa. Từ ngoài vào trong không biết bao nhiêu kẻ hầu người hạ, những hàng cây um tùm nối đuôi nhau tít tắp, rồi có chỗ lại có những hòn đá hình thù kì lạ, nơi có những chiếc cột được dát vàng. Nghe tác giả kể mà ta như đi lạc vào một thế giới cổ tích nào đó, một thế giới sặc sỡ sắc màu và uy quyền không tưởng. Nhà y được đưa vào trong phủ bằng cửa sau, đi hết hành lang này đến hành lang kia rồi lại qua cửa lớn cửa nhỏ, bắt gặp những cung điện đài các nguy nga đến ngộp thở, đứng trước khung cảnh kiêu sa thế khiến cho ông trầm trồ nhưng cũng chỉ ngẩng đầu lên liếc vài cái rồi lại cúi gằm xuống đất. Dường như ngay từ khi bước chân vào trong phủ ông đã nhận ra đây không phải là thế giới dành cho mình, đó là cuộc sống đối nghịch với thực tại của hàng nghìn hàng vạn con người ngoài kia đang đầu sấp mặt tối chỉ mong có đủ cơm ăn, áo mặc. Có lẽ ông nhận ra đây là cái cao sang bất nhân, bất nghĩa có được bằng cách bóc lột, tước đoạt công sức của người khác.
Và con người nhân đức ấy cũng ngạc nhiên bởi cung cách sinh hoạt của phủ chúa. Trong phủ người hầu kẻ hạ tấp nập, lại thêm bữa ăn đầy sơn hào hải vị, của ngon vật lạ ở trên đời khiến ông ấn tượng không sao quên nổi. Đó là khi ông được mời một bữa cơm trong phủ, dù chỉ là cơm sẻ của quan nhưng với ông nó cũng quá xa xỉ, mâm vàng, chén bạc và mọi thứ tươm tất đến không tưởng. Đây chẳng còn là thế giới của con người mà là một thế giới thần tiên nào đó được tạo ra dành cho chúa trời.
Thật vậy, nhân cách sáng ngời của ông cũng bộc lộ rõ nét khi chuẩn bệnh cho thế tử. Đó là một đứa bé tầm năm, sáu tuổi bị mắc một căn bệnh mà nguyên nhân lại rất đơn giản. Đó là vì không vận động lại được ăn sung mặc sướng lâu ngày dẫn đến hại thân và mang bệnh. Sự phục vụ chu đáo của kẻ hầu người hạ khiến cho nó không phải động tay chân, mắc bệnh lâu ngày mà chưa khỏi khiến sinh khí khô héo, gầy guộc, gân xanh nổi lên khắp người. Chỉ cần nhìn sơ qua thôi, nhà y thông thái ấy cũng đã có thể chuẩn đoán ra được bệnh tình của đứa trẻ mang danh con trời kia nhưng rồi ông lại đắn đo, dằn vặt, đấu tranh tìm ra cách tốt nhất cho lựa chọn của mình. Và cuối cùng sau bao trăn trở ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn để chữa bệnh cho thế tử mặc dù có khả năng chữa khỏi ngay lập tức. Ông trăn trở vì sợ tiền tài danh vọng sẽ cướp mất tự do, tự tại của cuộc đời, sợ chữa bệnh khỏi nhanh quá sẽ bị giữ lại. Qua chi tiết trên, có thể thấy Lê Hữu Trác là người không ham mê danh vọng, điều ông coi trọng hơn ca là cái y đức, cái đạo đức lẽ sống của mình. Không có gì quý giá hơn tự do tự tại của cuộc đời, và ông đã quyết định tránh xa nơi thị phi ganh đua để sống an nhàn. Ông thà làm lang y bình thường chứ nhất định không trở thành con chim quý trong lồng lúc nào cũng phải khom lưng quỳ gối trước kẻ lãnh chúa tàn bạo.
Kẻ có tài luôn là người có tâm. Thật vậy từ xưa đến nay, đã có biết bao nhân tài chọn cách buông bỏ triều chính vì nhận ra được cái bản chất, cái bộ mặt thật sự của triều đình. Luật lệ được đặt ra để đàn áp con người nghèo khổ, nó là công cụ để cướp bóc một cách hợp pháp. Cả một đất nước rộng lớn bị bao phủ bởi bóng tối đặc kịt, những tiếng khóc, tiếng kêu van thảm thiết. Con người cứ chìm trong đau khổ còn bọn thống trị thì cứ nhởn nhơ hưởng thụ. Một xã hội thối nát và vô nhân đạo làm sao. Thế nhưng sau tất cả ta vẫn còn hy vọng, niềm tin vẫn được tiếp nối bởi xã hội vẫn còn những người có tâm có đức như Lê Hữu Trác, ông là một người có tài, có tâm và mang trong mình nhân cách cao đẹp.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 18)
Lê Hữu Trác được biết đến là một danh y bậc nhất của thời trung đại. Ông không chỉ là một thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Tác phẩm nổi bật nhất ông để lại là “Thượng kinh kí sự”, với ngòi bút miêu tả sắc sảo, không chỉ phơi bày hiện thực cuộc sống xa hoa, tráng lệ nơi phủ chúa, mà đằng sau đó ta có thấy sáng lên tấm lòng, nhân đức cao đẹp của một con người đại tài.
“Thượng kinh kí sự” là tập kí sự được viết bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783. Tác phẩm ra đời nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm cho mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm này đã phơi bày quang cảnh kinh đô, cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa quyền uy, đầy thế lực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” tuy chỉ là một trích đoạn ngắn ngủi nhưng đã phần nào nói lên nhân cách, vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả: Coi thường lợi danh và là người thầy thuốc lương thiện, có y đức.
Khi đang ở quê nhà Hương Sơn - Hà Tĩnh, sáng sớm tinh mơ đã có người đến gõ cửa rất gấp triệu ông vào cung bắt mạch, kê đơn, chữa bệnh cho thế tử Cán, ông ăn vận chỉnh tề và theo họ đến kinh đô. Trước khung cảnh phủ chúa nguy nga, sa hoa khiến cho một người vốn “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết” cũng phải ngỡ ngàng “bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường”. Những gì ông thấy trên đường vào nơi thâm cung khiến ông không khỏi ngỡ ngàng, với cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, trăm hoa đua sắc ở khắp mọi nơi, quang cảnh thực khác thường. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Hữu Trác là lại có nhã hứng ngâm thơ, mà qua những vần thơ ấy ông thể hiện sự giàu sang khác thường, một điềm báo chẳng lành ở nơi phủ chúa: Cả trời nam sang nhất là đây. Bao nhiêu cổ vật, chân cầm dị thú đều tập trung cả ở nhà phủ chúa, khiến cho những con người “quê mùa” như tác giả không khỏi ngỡ ngàng: “Quê mùa, cung cấm chưa quen/ Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”.
Sự ngỡ ngàng, bất ngờ đó ngày một tăng lên khi ông đi sâu vào trong phủ chúa, những cái điếm lớn, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách xinh đẹp, hay những cái cây và hòn đá lạ lùng mà nhân gian chưa từng gặp đều tụ hội ở nơi phủ chúa. Những đồ vật được dùng trong phủ chúa đều là những đồ vật giá trị, sơn son thếp vàng: đồ nghi trượng, sập, võng điều,… cung cách sinh hoạt hết sức xa hoa. Nhìn những đồ vật đó tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Hành động đó cho thấy tính cách coi thường danh lợi của tác giả. Trước sự sa hoa, quyền quý ở nơi phủ chúa ông không sợ hãi, không ham mê mà coi thường tất cả phường danh lợi đó. Ta có thể thấy trong đoạn trích này, giọng điệu mỉa mai, châm biếm của tác giả được ẩn giấu rất kĩ lưỡng, đó chỉ là cái cười kểnh rất nhẹ, rất kín đáo mà ta khó lòng nhận ra. Những lời nhận xét, bình luận mà dường như không phải: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” hay “Tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Qua các lời nhận xét đó đã cho thấy thái độ coi thường danh lợi, một cách rất kín đáo Lê Hữu Trác đã cho người đọc thấy được cốt cách cao đẹp của bản thân.
Không chỉ vậy, ông còn là một người thẳng thắn, không sợ uy quyền. Trước khi trả lời câu hỏi của Quan Chánh đường, Lê Hữu Trác đã được quan Chánh đường rào đón trước về cách chữa bệnh nên “dùng thức thuốc công phạt” để tác giả liệu điều kê thuốc theo đúng ý quan Chánh đường. Nhưng trước những lời nói đó, Lê Hữu Trác không hề sợ hãi, bằng sự chuẩn đoán của bản thân, ông vẫn kê đơn thuốc theo những gì mình cho là tốt nhất cho người bệnh: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Sự bộc trực, thẳng thắn này một phần xuất phát từ sự coi thường danh lợi của tác giả, đồng thời cũng là từ tấm lòng y đức, lương thiên của ông.
Bên cạnh đó, qua đoạn trích này ta còn thấy Lê Hữu Trác là một người thân thuốc có y đức, có lương tâm với người bệnh. Vốn không cầu danh lợi, ông rời xa chốn kinh thành về tận Hương Sơn – Hà Tĩnh để bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, khi được triệu vào cung chữa bệnh ông cũng mang hết tài năng và kiến thức của bản thân để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Nhưng sau khi khám xong, trong ông bị hai mâu thuẫn giằng xé, là chữa bệnh hay không chữa bệnh cho thế tử. Nếu chữa bệnh khỏi cho thế tử lại sợ “mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không sai về núi được nữa. Chi bằng ta cứ dùng thứ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Nếu làm như vậy ông sẽ được thỏa mãn cái thú điền viên, được chữa bệnh cho người nghèo và không bị phường lợi danh cuốn vào. Nhưng với y đức vốn có của một người thầy thuốc liệu ông có thể làm được như vậy hay không? Rất nhanh sau đó ông đã tự đưa ra câu trả lời cho chính mình: “Cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Trước hết ông đưa ra lí do muốn tiếp nối lòng trung của cha ông, tổ tiên để không phụ lại công ơn cha ông để lại, nhưng đằng sau đó còn là cả tấm lòng, là cả nhân cách y đức sáng ngời của ông. Trước người bệnh, không kể đó là ai ông chỉ có một lòng chữa và giúp họ khỏi bệnh. Tấm lòng cao cả, y đức hơn người đó đã giúp ông chiến thắng những mong muốn, nhu cầu của bản thân. Lê Hữu Trác quả là con người giàu lòng y đức và thương người.
Chỉ trong một trích đoạn ngắn, nhưng người đọc đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của Lê Hữu Trác. Ông là người coi thường danh lợi, phú quý, là một vị lương y tài giỏi, nhân đức.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 19)
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong “Thượng kinh kí sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực. Đồng thời qua việc miêu tả đó, ta cũng thấy được một nhân cách lớn.
Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước chân vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã bắt đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”
Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Sau khi khắc họa toàn cảnh phủ chúa, Lê Hữu Trác đã đưa ra lời đánh giá về phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Lời đánh giá cho thấy một thái độ không đồng tình với cuộc sống cũng như sự dửng dưng với những cám dỗ vật chất xa hoa nơi phủ chúa, một con người không màng đến vật chất phù phiếm.
Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kỹ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe chỉ để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổ dưỡng tỳ và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”. Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khai của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: “Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tỳ âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tỳ thổ thì yên…”. Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Lê Hữu Trác cũng cảm thấy đầy mâu thuẫn khi chữa bệnh cho Thế tử. Nếu chữa khỏi bệnh cho Thế tử, ông sẽ được giữ lại trong triều - với chức quan to và bổng lộc cao. Một bên là y đức của người thầy thuốc một bên là tấm lòng không màng danh lợi, chỉ vui thú sống “ẩn dật qua ngày” - lựa chọn cái nào mới là đúng đắn?
Qua phân tích trên, có thể thấy nét đẹp trong con người của Lê Hữu Trác - một vị danh y đáng được người đời nể phục.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 20)
Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo "Thượng kinh ký sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
"Thượng kinh ký sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn "Vào Trịnh phủ ” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kỹ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp "đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp", người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, "truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen...”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá "kì lạ”. Nhà "Đại Đường” còn gọi là "Quyển Hồng”. Là cái tầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “ phòng Chè".
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi". Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hóa nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn, cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang "khác hẳn mgười thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đô nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi Thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt". Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây”
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn”, nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ’’. Ông thầy thuốc mà danh tiếng "như sấm động ” đã suy nghĩ và nói: “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê- Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ “cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả ‘‘Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì "ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen ,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sâm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bảng công danh: "Cũng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5, 6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xong quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. "Lưng khôn uốn, lộc nên từ” là thế.
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cúi lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tê sắc. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên... ”
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu "Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào Trịnh phủ” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê - Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê - Trịnh.
Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.
“Vào Trịnh phủ ”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 21)
Vào khoảng thế kỷ thứ XVII, XVIII vua Lê mải ăn chơi, hưởng thụ không lo việc nước, cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, các thế lực phong kiến nổi loạn ở khắp nơi. Bên cạnh triều đình bù nhìn của nhà Lê và Phủ Chúa lộng lẫy đầy quyền, kinh thành một lúc tồn tại hai Hoàng cung, hiện thực rối ren và suy thoái ấy đã khiến nhiều nhà nho chân chính, có cốt cách thanh cao tìm về chốn xa xôi ở ẩn. Lê Hữu Trác cũng không ngoại lệ, nhưng dù ở đâu ông vẫn luôn hướng lòng mình, lắng nghe những âm thanh vang vọng từ cuộc sống lầm than của nhân dân. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, đã làm rõ vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của Lê Hữu Trác. Đó là một người thầy thuốc tài, đức vẹn toàn, coi thường danh lợi.
Hải Thượng Lãn Ông là một trong những nhà nho nặng lòng với đất nước, Ông là một danh y, không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách và mở trường dạy nghề thuốc để truyền bá y học, luôn luôn cố gắng hết sức mình để đóng góp cho sản phẩm thật đáng trân trọng. Đó là những bài thuốc hay, những trang văn tràn đầy tâm huyết và hơn hết đó là một nhân cách cao quý của một con người. Với tập ký “Thượng kinh ký sự”, Lê Hữu Trác đã thể hiện tài năng của mình với tư cách người thầy thuốc, nhà sử học và nhà văn, với tư cách là nhà văn, Ông đã đưa thể loại kí sự lên một tầm cao mới. Đoạn trích “Vào Phủ Chúa Trịnh”, là một đoạn trích đặc sắc, tiêu biểu của tác phẩm, nó đã tái hiện chi tiết và cụ thể hành trình của tác giả vào phủ chúa để khám bệnh cho thế tử, từ đó dần hé lộ những đức tính tốt đẹp của tác giả.
Đầu tiên, Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước cảnh kinh đô. Đó là một mê cung với những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, điếm hậu mã quân túc trực, được xây dựng với kiến trúc cầu kỳ, xinh đẹp trong điếm có cột và bao lớn lượn vòng, đại đường, gác tía, quyển bồng rất lớn cao và đẹp. Ở đây cột đều sơn son thếp vàng, trước sập là hai bên bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian trước nay chưa từng thấy, bữa cơm trong phủ dùng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon, vật lạ. Cái cảnh giàu sang của vua, chúa thường khác hẳn so với người thường. Lê Hữu Trác vốn con quan, sinh trưởng ở nơi phồn hoa cũng phải thốt lên “cả trời Nam sang nhất là đây”, tác giả không phải con người đam mê vinh hoa, phú quý, ham danh, chức, tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp, trong nhân cách con người ông. Chính vì thế đứng trước danh lợi, cái cảnh giàu sang cực điểm ông chỉ cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng mà thôi.
Tiếp theo chân dung của một người thầy thuốc hiện lên chi tiết, quá trình khám bệnh cho thế tử Trịnh cán, quá trình ấy diễn ra rất nhanh, rất gấp, phải tuân theo một loạt các phép tắc, từng hành động, cử chỉ đều phải bấm báo và được quan chánh đường, truyền lệnh thì mới được phép thực hiện. Lê Hữu Trác bắt mạch, rồi xem thân hình của thế tử, ngay lập tức ông đã vận giải được nguyên nhân của căn bệnh, đó là cuộc sống quá thừa về vật chất, mà thiếu khí trời, ông vô cùng tin tưởng vào khả năng của mình, thế nhưng tâm trạng thì vô cùng khó xử. Mọi sự đấu tranh quyết liệt giữa một bên là lương tâm của người thầy thuốc, một bên là sự trói buộc của công danh, nếu như chữa khỏi bệnh thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không thể tiếp tục cuộc sống tự do, tự tại mà mình yêu thích. Nếu không chữa bệnh sẽ không đúng với lương tâm của người thầy thuốc, cuối cùng ý đức, trách nhiệm nghề nghiệp, tấm lòng đối với cha ông cũng như phẩm chất trung thực của một danh y đã chiến thắng sở thích cá nhân. Từ đó cho ta thấy Lê Hữu Trác, không những là một nhà văn tài hoa và còn là một danh y có kiến thức y học uyên thông, là một người thầy thuốc y đức lớn, tâm huyết với nghề, cốt cách thành cao, coi thường danh lợi.
Thế kỉ thứ XVIII, văn học Việt Nam phát triển rực rỡ, với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học, có giá trị nghệ thuật cao và chứa đầy giá trị nhân văn “thượng kinh ký sự” của Lê Hữu Trác cũng góp phần làm nên thành công ấy. Thành công của đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh”, trước hết phải kể đến giọng điệu kể chuyện rất chân thực, mộc mạc của tác giả, đó là sự xen kẽ rất tự nhiên của lời kể, lời bình và thơ Lê Hữu Trác chú ý đến việc tả cảnh và tường thuật sự việc. Nhưng chính cách kể và cách tả ấy lại kín đáo, bộc lộ tâm sự, tình cảm, thái độ của nhà văn. Ngòi bút tinh tế của tác giả, có vẻ ông không phê phán một điều gì cả, hình ảnh phủ chúa hiện lên trong tác phẩm với những cung điện kiêu xa, cầu kỳ, với những con người quyền uy tuyệt đối như Chúa Trịnh Sâm, quan chánh đường, các danh y của 6 cung, hai viện, thế tử Trịnh cán, tất cả như vô nghĩa bởi bệnh tật. Không một ai thực sự có năng lực, bản lĩnh, từ đó người đọc phần nào nhận ra được bộ mặt xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ vua Lê, Chúa Trịnh.
Hình ảnh Lê Hữu Trác là một tấm gương sáng cho nền y học nước nhà, tài năng y đức, phẩm chất tốt đẹp của tâm hồn ông sống mãi trong lòng người dân đất Việt./.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 22)
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII (thời vua Lê - chúa Trịnh). Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự” (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” cũng như tập “Thượng kinh kí sự” đã khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: Đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chốn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi trượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được…”. Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản.
Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ. Ông hoàn toàn coi thường tiền tài, danh lợi.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 23)
Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) là một danh y nổi tiếng thế kỉ XVIII. Ông không chỉ là một nhà y học tài năng mà còn là một nhà văn, nhà thơ rất đáng trân trọng của dân tộc ta. Ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ; bên cạnh đó ông còn có những tác phẩm văn chương rất quý giá.
“Thượng kinh kí sự” là tập ký viết bằng chữ Hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh) - nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà Chúa, và cuộc sống xa hoa trong phủ Chúa Trịnh. Đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích “Vào phủ Chúa Trịnh” là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích bắt đầu từ lúc tác giả đã đến Thăng Long, hiện ở đỉnh Trung Kiên trong phủ Chúa được triệu vào khám bệnh cho Thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày “mồng một tháng hai”, “sáng tinh mơ”; và nói rõ nguyên có sự việc “có Thánh chỉ triệu vào cung” - đó là đặc điểm của thể kí sự. Khi ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang và xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại quang cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ Chúa hiện lên như một thiên đường: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng”... Tâm hồn tác giả vốn nhạy cảm, lại giàu tình yêu thiên nhiên. Nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ Chúa, Hải Thượng Lãn Ông dường như thờ ơ. Ông viết:
“Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành minh cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa... mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi tác giả làm thơ miêu ta nói là “để ghi nhớ” cảnh này:
“Lính nghìn cửa vác đông nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ chân mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ảnh vào…
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Lời thơ mới đầu tưởng như là lời ngợi ca cảnh đẹp nơi phồn hoa. Nhưng nghĩ cho kĩ thì tâm hồn tác giả rung cảm với vẻ đẹp thiên nhiên chỉ có một phần. Toàn bộ nội dung của bài thơ như có chất trào lộng, tuy Hải Thượng Lãn Ông không thể bộc bạch ra được.
Cảnh cung đình hiện lên như ở cõi tiên với những “lầu son, gác tía”, “hiên ngọc, rèm châu”. Tác giả nói mình là “ngư phủ” lạc vào chốn “đào nguyên” theo tích trong Đào hoa nguyên ký của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: “Điếm làm bên cái hồ, có những cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”.
Trong lối diễn đạt ấy, tác giả đã khéo léo ngụ ý phê phán. Ông lên án cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.
Là một người coi trọng chữ “đức”, lánh xa danh lợi, Hải Thượng Lãn Ông không coi trọng lối sống xa hoa. Hơn nữa, trên quan điểm vì con người, vì dân, ông thấy rõ nơi phủ chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
Tài năng của ông được người đời truyền tụng là làm thuốc hay, nổi tiếng như “sấm động bên tai”... Và việc ông được tiến cử chữa bệnh cho Thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, “quan thái y” có lẽ là tước vị sẽ đến với ông chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông, tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Quan niệm của các Nho gia, Đạo gia xưa kia đều không màng danh lợi. Đó là vì họ ham mê lý tưởng cao đẹp hơn, và quan trọng là phải giữ cho tâm hồn, cốt cách của mình được trong sạch. Cho nên, khi xem bệnh cho Thế tử, Hải Thượng Lãn Ông cuối cùng đã tìm cách để “hoà hoãn”, sao cho vừa giữ được mình khỏi tiếng “bất trung”, lại vừa tránh được việc phải ở lại làm quan. Cũng đã có sự đấu tranh tư tưởng diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh giữa cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo “trung” của kẻ bề tôi với lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng, ta thấy lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thanh cao đã thắng. Ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một Thế tử ốm yếu và bệnh hoạn...
Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y và làm cho bọn họ phải kính nể. Tuy nhiên, tài năng của Hải Thượng Lãn Ông không được sử dụng để phục vụ bọn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích cho riêng mình, mà là để phục vụ nhân dân.
Bằng ngòi bút kí sự chân thực sắc sảo, Lê Hữu Trác đã phản ánh được cuộc sống xa hoa nơi phủ Chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông. Đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và đạo đức. Tác phẩm “Thượng kinh kí sự” hay cụ thể là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 24)
Lê Hữu Trác, hiệu Hải Thượng Lãn Ông là một danh y có tâm huyết và đức độ. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ có những đóng góp đáng ghi nhận cho văn học nước nhà. Tiêu biểu trong số đó là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong “Thượng kinh kí sự” đã để lại những giá trị hiện thực sâu sắc.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần mở đầu tác phẩm kể về việc Lê Hữu Trác tới kinh đô được dẫn vào phủ để bắt mạch kê đơn cho chúa Trịnh Cán. Ở đây, ông đã chứng kiến được cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Hiện thực trong phủ chúa được ông miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa từ ngoài vào trong, không những thế còn là những cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa. Tất cả đều hiện lên vô cùng chân thực. Đồng thời qua việc miêu tả đó, ta cũng thấy được một nhân cách lớn.
Đầu tiên là quang cảnh trong phủ chúa. Từ khi bước chân vào phủ chúa, Lê Hữu Trác đã bắt đầu quan sát thật tỉ mỉ. Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kỳ lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp”. Rồi khi vào bên trong, tác giả lại càng bất ngờ bởi sự xa hoa hơn cả bên ngoài. “Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”
Nhưng thế đã là gì, cung cách sinh hoạt trong phủ chúa lại còn khiến ta thêm ngạc nhiên hơn nữa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Sau khi khắc họa toàn cảnh phủ chúa, Lê Hữu Trác đã đưa ra lời đánh giá về phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Lời đánh giá cho thấy một thái độ không đồng tình với cuộc sống cũng như sự dửng dưng với những cám dỗ vật chất xa hoa nơi phủ chúa, một con người không màng đến vật chất phù phiếm.
Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kỹ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe chỉ để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: “Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổ dưỡng tỳ và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất”. Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khai của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: “Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tỳ âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tỳ thổ thì yên…”. Sự phân tích y thuật của ông thể hiện sự am hiểu ý lý sâu sắc, khác hẳn với cách hiểu của bọn quan thái y, và làm cho bọn họ phải kính nể. Lê Hữu Trác cũng cảm thấy đầy mâu thuẫn khi chữa bệnh cho Thế tử. Nếu chữa khỏi bệnh cho Thế tử, ông sẽ được giữ lại trong triều - với chức quan to và bổng lộc cao. Một bên là y đức của người thầy thuốc một bên là tấm lòng không màng danh lợi, chỉ vui thú sống “ẩn dật qua ngày” - lựa chọn cái nào mới là đúng đắn?
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 25)
Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác được biết đến là một vị danh y nổi tiếng của đất nước ta. Nhưng không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tác phẩm nổi tiếng “Thượng kinh kí sự” mà đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đem đến những giá trị sâu sắc, đồng thời phản ảnh những vẻ đẹp trong con người của chính nhà văn.
Với điểm nhìn trần thuật là ngôi thứ nhất - tác giả xưng tôi để thuật lại những điều mắt thấy, tai nghe khi có dịp được chúa triệu vào xem bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
Một người luôn coi trọng chữ “đức” và luôn muốn tránh xa khỏi vòng danh lợi, Lê Hữu Trác không coi trọng lối sống xa hoa. Ông thấy rõ nơi phủ Chúa là hiện thân của sự bóc lột, trái ngược với đời sống nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
Khi bước chân vào phủ chúa phải đi qua nhiều lần cửa, mỗi cửa đều có lính canh gác và có điếm “Hậu mã túc trực”. Trong phủ chúa, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, tiếng chim kêu ríu rít, các loài hoa đua nhau khoe sắc thắm và gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong lại càng lộng lẫy hơn cả. Nào là những đồ đạc mà có lẽ giai nhân trong nhà chưa từng thấy hết, nào là các đồ đồ nghị trượng đều được sơn son thếp vàng. Sau trong nội cung của các thê tử phải qua năm sáu lần trướng gấm, các đồ đạc cùng đều được sơn son thếp vàng, trên bày nệm gấm và hương hoa thơm ngào ngạt. Có thể thấy, quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng xa hoa, giàu sang và thâm nghiêm. Đây có lẽ là quang cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước.
Không chỉ là quan sát tỉ mỉ quang cảnh nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác còn được tận mắt chứng kiến cung cách sinh hoạt hằng ngày của chúa. Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Mỗi lời lẽ nhắc đến chúa đều phải nhẹ nhàng, khuôn phép thể hiện sự cung kính và lễ độ. Bữa cơm sáng của chúa đầy những của ngon, vật lạ còn đồ dùng trên mân đều bằng vàng bằng bạc. Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh. Thế tử nếu có bị bệnh cũng phải đến bảy tám vị thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai bên. Đến khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép. Lối sống xa hoa này, được ông nhận xét một cách đúng đắn: “phủ chúa là nơi thiếu đi sinh khí. Cũng bởi vì sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người dần trở nên: “Tính khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
Đặc biệt nhất là khi xem bệnh cho thế tử. Nhiều người coi đó như một cơ hội trời ban để đạt có được tiền tài, danh lợi. Nhưng Lê Hữu Trác thì từ chối điều ấy. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người và cái phận làm bề tôi. Ông thuật lại những suy nghĩ của mình: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được…”. Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Ông chẳng ham chuộng danh lợi, bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Nhưng rồi, là một người thầy thuốc có đức độ, ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, vì lương tâm không cho phép”. Dù thế nào, ông cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn.
Qua phân tích trên, ta thấy được một nhân cách lớn của vị danh y Lê Hữu Trác. Ông chính là tấm gương sáng để cho thế hệ sau học tập và làm theo.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 26)
Lê Hữu Trác là một trong những danh y tài đức, sống vào thời vua Lê-chúa Trịnh. Không chỉ là một danh y tận tâm, ông còn là một văn với nhiều tác phẩm nổi bật. Tiêu biểu có thể kế đến cuốn “Thượng kinh kí sự” được ra đời vào năm 1782. Qua tác phẩm, một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa cùng những thế lực, quyền uy trong phủ chúa Trịnh được tái hiện đầy chân thực. “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những trích đoạn hay nhất tác phẩm, qua đó Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của mình.
Trước hết, có thể thấy Hữu Trác là một danh y là người giản dị, thanh sạch, coi thường danh lợi. Bước vào phủ chúa với lầu son, gác tía, tác giả không bày tỏ sự thán phục mà thể hiện thái độ ngỡ ngàng trước sự giàu sang, lộng lẫy của nơi đây: “Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.” Ngoài ra, ông cũng bộc lộ rõ thái độ phê phán lối sống xa hoa trong phủ qua cách miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách đầy tỉ mỉ, chi tiết. Ngắm cảnh xa hoa đến đâu tác giả miêu tả chi tiết đến đấy, từ trong ra ngoài, từ xa tới gần, tất cả quang cảnh rất mực “thừa thãi” ấy khiến ông phải thốt lên tiếng xuýt xoa đầy ái ngại:
“Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Trong từng câu văn, ngôn từ, hình ảnh, thậm chí là cả giọng điệu đều toát lên sự giễu cợt, mỉa mai của Lê Hữu Trác đối với “những đứa con tinh thần” đầy mùi vật chất và khoe khoang nơi phủ chúa: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Nhìn tất cả những vật chất ấy, tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Có thể thấy, cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ Trịnh không làm Lê Hữu Trác chìm đắm trong u mê, xuýt xoa khen ngợi, thán phục mà càng khiến ông thêm phần khinh khi, buồn nản, hẳn là một người coi thường vật chất, phú quý. Hơn thế nữa, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán, ông cũng đã đấu tranh rất nhiều trước hai sự lựa chọn. Bởi ông sợ công danh trói buộc, không được trở về với cuộc sống ẩn dật, bình yên chốn núi rừng. Có thể thấy chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào” không dành cho kẻ tâm hồn thanh sạch, cao quý như ông.
Ở Lê Hữu Trác ta còn thấy được sự tận tâm, tài năng của một người thầy thuốc. Khi căn bệnh của thế tử rất nhiều người thầy thuốc không tìm ra phương cách, chấp nhận bó tay thì Lê Hữu Trác lại biết rất rõ nguyên căn bệnh. Trước những trăn trở, nghĩ suy giữa vòng danh lợi trói buộc và cuộc sống thanh bình chốn an yên thì ông đã chọn lòng trung thành, trượng nghĩa. Gác lại những suy tính của bản thân, ông làm việc bằng lương tâm với nghề, bằng trách nhiệm của một trung thần với chúa Điều đó được thể hiện rõ qua việc Lê Hữu Trác đã đưa ra phương thuốc hữu hiệu, cách thức chữa trị chính xác nhất để chữa bệnh cho thế tử .”Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”. Tài năng, kinh nghiệm và đức độ của ông trong nghề thầy thuốc được mọi người thán phục, ngay cả vị Quan chánh đường cũng phải thốt lên: “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
Qua đoạn trích ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một người có tâm hồn và nhân cách cao đẹp – yêu tự do, ghét ràng buộc, sống bình dị, xem thường công danh phú quý và tận tâm với nghề. Vẻ đẹp về tâm hồn và nhân cách của danh y Lê Hữu Trác mãi là tấm gương sáng cho bao thế hệ học tập, noi theo.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 27)
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một nhà y giàu y đức, ông cũng là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc. Trong suốt cuộc đời, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm, những cống hiến to lớn cho đất nước, và một trong số đó phải kể đến là cuốn “Thượng kinh kí sự” được viết năm 1782, là thành quả của chuyến đi đến kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”, ta thấy được cuộc sống xa hoa của bọn chúa phong kiến và nổi bật hơn hết là tâm hồn, nhân cách sáng ngời của một nhà y có tâm đức không ham tiền tài danh vọng.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã ghi lại chân thực toàn bộ những điều mà ông chính mắt thấy, tai nghe. Khi được tận mắt chứng kiến mọi thứ trong phủ chúa, ông lại không khỏi sững sờ, kinh ngạc bởi các vẻ quyền quý, cao sang. Mọi thứ còn hơn cả lời đồn mà ông đã nghe được ở bên ngoài.
Mở đầu tác phẩm ông đã lấy ngòi bút của mình để phác lại bức tranh rực rỡ ở phủ chúa. Từ ngoài vào trong không biết bao nhiêu kẻ hầu người hạ, những hàng cây um tùm nối đuôi nhau tít tắp, rồi có chỗ lại có những hòn đá hình thù kì lạ, nơi có những chiếc cột được dát vàng. Nghe tác giả kể mà ta như đi lạc vào một thế giới cổ tích nào đó, một thế giới sặc sỡ sắc màu và uy quyền không tưởng. Nhà y được đưa vào trong phủ bằng cửa sau, đi hết hành lang này đến hành lang kia rồi lại qua cửa lớn cửa nhỏ, bắt gặp những cung điện đài các nguy nga đến ngộp thở, đứng trước khung cảnh kiêu sa thế khiến cho ông trầm trồ nhưng cũng chỉ ngẩng đầu lên liếc vài cái rồi lại cúi gằm xuống đất. Dường như ngay từ khi bước chân vào trong phủ ông đã nhận ra đây không phải là thế giới dành cho mình, đó là cuộc sống đối nghịch với thực tại của hàng nghìn hàng vạn con người ngoài kia đang đầu sấp mặt tối chỉ mong có đủ cơm ăn, áo mặc. Có lẽ ông nhận ra đây là cái cao sang bất nhân, bất nghĩa có được bằng cách bóc lột, tước đoạt công sức của người khác.
Và con người nhân đức ấy cũng ngạc nhiên bởi cung cách sinh hoạt của phủ chúa. Trong phủ người hầu kẻ hạ tấp nập, lại thêm bữa ăn đầy sơn hào hải vị, của ngon vật lạ ở trên đời khiến ông ấn tượng không sao quên nổi. Đó là khi ông được mời một bữa cơm trong phủ, dù chỉ là cơm sẻ của quan nhưng với ông nó cũng quá xa xỉ, mâm vàng, chén bạc và mọi thứ tươm tất đến không tưởng. Đây chẳng còn là thế giới của con người mà là một thế giới thần tiên nào đó được tạo ra dành cho chúa trời.
Thật vậy, nhân cách sáng ngời của ông cũng bộc lộ rõ nét khi chuẩn bệnh cho thế tử. Đó là một đứa bé tầm năm, sáu tuổi bị mắc một căn bệnh mà nguyên nhân lại rất đơn giản. Đó là vì không vận động lại được ăn sung mặc sướng lâu ngày dẫn đến hại thân và mang bệnh. Sự phục vụ chu đáo của kẻ hầu người hạ khiến cho nó không phải động tay chân, mắc bệnh lâu ngày mà chưa khỏi khiến sinh khí khô héo, gầy guộc, gân xanh nổi lên khắp người. Chỉ cần nhìn sơ qua thôi, nhà y thông thái ấy cũng đã có thể chuẩn đoán ra được bệnh tình của đứa trẻ mang danh con trời kia nhưng rồi ông lại đắn đo, dằn vặt, đấu tranh tìm ra cách tốt nhất cho lựa chọn của mình. Và cuối cùng sau bao trăn trở ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn để chữa bệnh cho thế tử mặc dù có khả năng chữa khỏi ngay lập tức. Ông trăn trở vì sợ tiền tài danh vọng sẽ cướp mất tự do, tự tại của cuộc đời, sợ chữa bệnh khỏi nhanh quá sẽ bị giữ lại. Qua chi tiết trên, có thể thấy Lê Hữu Trác là người không ham mê danh vọng, điều ông coi trọng hơn ca là cái y đức, cái đạo đức lẽ sống của mình. Không có gì quý giá hơn tự do tự tại của cuộc đời, và ông đã quyết định tránh xa nơi thị phi ganh đua để sống an nhàn. Ông thà làm lang y bình thường chứ nhất định không trở thành con chim quý trong lồng lúc nào cũng phải khom lưng quỳ gối trước kẻ lãnh chúa tàn bạo.
Kẻ có tài luôn là người có tâm. Thật vậy từ xưa đến nay, đã có biết bao nhân tài chọn cách buông bỏ triều chính vì nhận ra được cái bản chất, cái bộ mặt thật sự của triều đình. Luật lệ được đặt ra để đàn áp con người nghèo khổ, nó là công cụ để cướp bóc một cách hợp pháp. Cả một đất nước rộng lớn bị bao phủ bởi bóng tối đặc kịt, những tiếng khóc, tiếng kêu van thảm thiết. Con người cứ chìm trong đau khổ còn bọn thống trị thì cứ nhởn nhơ hưởng thụ. Một xã hội thối nát và vô nhân đạo làm sao. Thế nhưng sau tất cả ta vẫn còn hy vọng, niềm tin vẫn được tiếp nối bởi xã hội vẫn còn những người có tâm có đức như Lê Hữu Trác, ông là một người có tài, có tâm và mang trong mình nhân cách cao đẹp
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 28)
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác là tác phẩm đặc sắc, đánh dấu sự phát triển mới của thể loại kí Việt Nam thời trung đại. Với tác phẩm này, tác giả đã ghi lại những cảm nhận của bản thân trước hiện thực về cảnh vật và con người mà mình tận mắt chứng kiến từ lúc nhận được lệnh triệu về kinh đô chữa bệnh cho thế tử Cán đến lúc xong việc, về tới nhà ở Hương Sơn. Và có thể nói, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm, vẽ lại một cách chân thực cuộc sống nơi phủ chúa. Đặc biệt, qua đoạn trích còn giúp chúng ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Trước hết, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác hiện lên là một con người coi thường danh lợi. Bước vào khung cảnh lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ và nghiêm trang, cung kính nơi chốn phủ chúa với những gác tía, “Đại đường”, “Quyển bồng” Lê Hữu Trác đã bộc lộ cảm xúc của mình một cách trực tiếp. “Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.” Với những câu văn đã dẫn ở trên có thể thấy được thái độ ngỡ ngàng, bất ngờ của tác giả trước khung cảnh nơi phủ chúa. Tuy nhiên, ẩn sau cái thái độ ngỡ ngàng ấy, ông cũng gián tiếp lên tiếng phê phán cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi phủ chúa. Thái độ phê phán ấy của ông thể hiện qua cách ông miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách chi tiết, tỉ mỉ, từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, dường như ông đã dẫn người đọc đi chiêm ngưỡng hết mọi nơi trong phủ chúa và để rồi cuối cùng ông khép lại bằng một bài thơ miêu tả cảnh phủ chúa nhưng xét đến cùng chính là tiếng lòng của ông:
Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đồng thời, thái độ phê phán cảnh sống xa hoa nơi phủ chúa còn được thể hiện qua giọng điệu mỉa mai, giễu cợt khi ông nói về những đồ dùng trong phủ chúa lúc được mời ăn cơm: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Như vậy, xét đến cùng, ẩn sau cách miêu tả tỉ mỉ quang cảnh xa hoa nơi phủ chúa và thái độ mỉa mai trong cách ghi chép, miêu tả chính là một Hải Thượng Lãn Ông coi thường danh lợi, tiền bạc, không đồng tình với cuộc sống xa hoa nhưng thiếu khí trời nơi chốn phủ chúa.
Không dừng lại ở đó, Lê Hữu Trác còn là một thầy thuốc tài giỏi, có kinh nghiệm trong nghề, giàu lương tâm, đức độ và luôn giữ cho mình một lối sống, một cốt cách thanh cao. Có thể nói, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán trong nội tâm Lê Hữu Trác có sự giằng co, mâu thuẫn giữa một bên là ông hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật với một bên là muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. Nhưng để rồi, đến cuối cùng, tấm lòng, lương y của người thầy thuốc cùng với việc ông luôn lấy việc nối tiếp lòng trung thành của cha ông làm tôn chỉ, làm lẽ sống đã chiến thắng tất cả mọi suy tư, trăn trở, mâu thuẫn trong ông, để rồi cuối cùng ông đưa ra phương pháp, cách thức chữa trị bệnh cho thế tử – căn bệnh mà nhiều thầy thuốc đã không tìm ra cách chữa trị. Tuy nhiên, việc Lê Hữu Trác sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc, không được về với núi rừng ẩn dật xét đến cùng là sự biểu hiện cho lòng yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm nơi quê nhà, không vướng bận vinh hoa phú quý của ông. Thêm vào đó, tài năng, kinh nghiệm trong nghề thầy thuốc của ông không chỉ được thể hiện trực tiếp ở việc chữa khỏi bệnh cho thế tử Cán mà còn ở lời nhận xét của Quan chánh đường “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
Tóm lại, qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh giúp chúng ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bên cạnh là một thầy thuốc giỏi, giàu kinh nghiệm còn là một người giàu y đức, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp – coi thường tiền bạc, vinh hoa, yêu thích cuộc sống tự do, thanh đạm. Vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của ông là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ sau ngưỡng mộ và học tập, noi theo.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 29)
Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê - chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!"
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột... Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (...). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (mẫu 30)
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê – chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự” (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết dến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm dọc đường đi dược kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!”
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lẩn quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột… Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn đươc bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (…). Nhưng rồi lại nghỉ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lượng tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức độ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.
Xem thêm các văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11