TOP 10 mẫu So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (2024) SIÊU HAY

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều lớp 11 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 907 08/07/2024


So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) so sánh nội dung hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với nội dung 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 1)

TOP 10 mẫu So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Hai câu thơ này được Nguyễn Du viết - lời cảm thán của Kiều khi đứng trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên - một người kĩ nữ. Hai câu thơ bật lên như một lời than thở của Kiều hay cũng chính là của Nguyễn Du trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng. Lời thơ như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả, chính Nguyễn Du cũng đã có những năm tháng phiêu bạt phải chịu cảnh đói, cảnh nghèo, có lẽ vì thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ xưa. Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là tấm lòng nhân đạo đầy cao cả của ông dành cho những người phụ nữ Việt Nam xưa - những thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong kiến đương thời. Hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký, nhà thơ muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lòng mình rằng xưa nay những người tài hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều, việc đó chỉ có trời mới hiểu. Nhưng dù trời có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét của người vợ cả, của người đời về lối sống phong lưu đài các, nhàn nhã của người có tài. Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 2)

Với tấm lòng đồng cảm sâu sắc dành cho thân phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Nguyễn Du đã viết nên Truyện Kiều và Độc Tiểu Thanh kí, mà ở đó, người đọc thấy được rất nhiều điểm chung, đặc biệt là hai câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” trong Truyện Kiều và “Cổ kim hận sự thiên an vấn,/Phong vận kì oan ngã tự cư” trong Độc Tiểu Thanh kí. Trong Truyện Kiều, hai câu thơ trên là lời cảm thán của Kiều (cũng chính là Nguyễn Du) về kiếp người hồng nhan bạc mệnh của Đạm Tiên - một kỹ nữ trong tác phẩm. Còn ở Độc Tiểu Thanh kí, toàn bài là lời cảm thán, thương xót của Nguyễn Du gửi đến nàng Tiểu Thanh - một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng cũng chịu chung số phận mệnh bạc. Điểm chung của hai câu thơ của hai bài đều là lời than thở, cảm thông, thương xót cho số phận bất hạnh như một định mệnh của những người phụ nữ tài hoa nhưng chung số phận của xã hội thời xưa. Họ đều đa tài, giỏi giang, xinh đẹp. Những người toàn vẹn như vậy xứng đáng có được cuộc sống hoàn hảo, hạnh phúc. Nhưng dường như những điều bất hạnh luôn tìm đến họ, cướp mất hạnh phúc nhân gian của họ. Thánh thần hay ông Trời - những đấng tạo hóa luôn đẩy họ đến nghiệt ngã, khiến họ chỉ có thể than thân trách phận và chấp nhận số phận. Nguyễn Du tìm thấy ở họ những đau khổ chung, để cảm nhận và thương xót, và cũng để soi chiếu chính mình. Phải chăng số phận của mình cũng sẽ là như vậy? Chịu những khổ đau và ra đi, và bị quên lãng? Đó là nỗi niềm, trăn trở của Nguyễn Du về thời thế và cuộc đời, với những con người “tri âm tri kỉ”, đồng bệnh tương liên, dù chẳng bao giờ có thể gặp được nhau.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 3)

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi nhắc tới đều khiến chúng ta cảm thấy chua xót, đau đớn thay cho họ. Thế nhưng, ít ai dám can đảm đứng lên để giãi bày lòng mình, để khóc than cho những mảnh đời hẩm hiu ấy. Nhưng trong thơ ca thì khác, ta bắt gặp vô số tấm lòng của những người nghệ sĩ khi bày tỏ sự đồng cảm với biết bao lớp người trong xã hội. Cũng như vậy, trong truyện thơ Nôm “Đoạn Trường tân thanh” - hay quen thuộc hơn với độc giả với tên gọi “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du có viết: “Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Hai câu thơ trên đã thể hiện cho chúng ta thấy sự ai oán, đớn đau, chua xót cho số phận người phụ nữ - những con người tài hoa mà bạc mệnh. Tư tưởng ấy dường như không chỉ gói gọn trong thơ ca trong nước, mà ngay cả trong “Độc Tiểu Thanh kí” cũng có hai câu luận có cùng “tần sóng”: “Cổ kim hận sự thiên an vấn,/Phong vận kì oan ngã tự cư”. Hai câu luận như đã bày tỏ nỗi niềm tiếc nuối trước sự tàn phai của thời gian đối với cái đẹp. Một cuộc đời không trọn vẹn làm con người ta canh cánh, xót xa trong lòng. Số kiếp tài hoa bạc mệnh của Đàm Tiên, Thúy Kiều là tiếng kêu ai oán đầy đau thương dành cho người phụ nữ. Đây còn là lời tố cáo đanh thép về một chế độ xã hội vô nhân đạo. Tuy hai tác phẩm không ra đời cùng thời điểm, song ở họ đều có sự giao thoa về sự đồng điệu trong tâm hồn. Giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật của cả hai tác phẩm sẽ chẳng phai mờ đi trong tâm trí độc giả, cũng như khơi gợi trong tâm hồn con người những tâm tư, tình cảm sâu sắc về con người, về xã hội.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 4)

Ai đó từng nói rằng “Tất cả chúng ta đều có sự đồng cảm và có lẽ không phải ai cũng đủ can đảm để thể hiện điều đó”. Tuy vậy, tìm hiểu về nghệ thuật văn chương, ta bắt gặp vô số tấm lòng của những người nghệ sĩ khi bày tỏ sự đồng cảm với những người trong xã hội. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hai câu thơ “Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” thể hiện sự ai oán, đớn đau, chua xót cho số phận người phụ nữ - những con người tài hoa mà bạc mệnh. Thông qua số mệnh của Đàm Tiên, của Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du đã khái quát thành số mệnh chung của người phụ nữ trong thời kì đó. Không chỉ ông mà thậm chí ngay trong tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí”, nền văn học Trung Hoa cũng có chung “tần số” ấy. Hai câu luận “Cổ kim hận sự thiên nan vấn,/ Phong vận kỳ oan ngã tự cư” bày tỏ sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ” về những số phận cay đắng của những con người tài hoa trong xã hội xưa. Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự” , xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,.. khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục. Lời thơ cứ âm ỉ mãi trong ta về một kiếp người hẩm hiu đến từ những bất công, định kiến xã hội. Từ đây, người nghệ sĩ khơi gợi trong trái tim người đọc những tâm tư, tình cảm, những bài học nhận thức sâu sắc về con người, về xã hội.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 5)

Hai câu luận “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư, /Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” trích trong tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” sử dụng hình ảnh thơ đối lập giữa một bên là vườn hoa bên Tây Hồ với bên còn lại là hình ảnh gò hoang thể hiện sự xót xa của người nghệ sĩ trước tình cảnh đổi thay của cái đẹp theo thời gian. Không chỉ vậy, để nhấn mạnh thêm sự hoang tàn, đơn độc của con người, tác giả đã sử dụng từ ngữ một cách tài tình, khéo léo “độc điếu” và “nhất chỉ thư”. Cuộc đời cô đơn, lẻ loi với kiếp người bất hạnh khiến con người ta không khỏi thương cảm đến đau lòng! Cùng chung suy nghĩ này, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du khi viết “Truyện Kiều” với hai câu thơ “Đau đớn thay phận đàn bà / Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” tô đậm số phận hẩm hiu của người phụ nữ xưa. Số kiếp tài hoa bạc mệnh của Đàm Tiên, Thúy Kiều là tiếng kêu ai oán đầy đau thương dành cho người phụ nữ. Đây còn là lời tố cáo đanh thép về một chế độ xã hội vô nhân đạo. Tuy hai tác phẩm không ra đời cùng thời điểm song ở họ đều có sự giao thoa về sự đồng điệu trong tâm hồn. Xuất phát từ sự thương cảm người phụ nữ trong xã hội phong kiến lạc hậu, cổ hủ, người nghệ sĩ đã không thể kìm nén lòng mình. Quả không sai khi nói rằng, thơ khởi phát từ tiếng lòng. Chính từ sự đồng cảm, tiếc thương, tức giận, các tác giả đã viết nên những câu từ để tô đậm tính cách người phụ nữ xưa, gián tiếp tố cáo đanh thép xã hội đầy rẫy bất công đối với người phụ nữ. Giá trị nhân văn mà những “đứa con tinh thần” để lại nhờ đó vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay như một lời giáo dục, một sự nhận thức đúng đắn, khách quan về xã hội.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 6)

Có thể nói rằng người phụ nữ khi sinh ra được xem như một bông hoa thơm ngát tỏa hương cho đời. Thế nhưng trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du lại kể về số phận cuộc đời của nàng Kiều , câu nói có một ý nghĩa sâu sắc ,nếu như nghiệm ra chúng ta sẽ thấy được cái hay trong câu từ đó

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Câu nói trên nói về cuộc đời đầy gian khổ của nàng Kiều sau đó nói lên những triết lí sâu sắc .Với hai câu thơ trên tác giả muốn nói tới thân phận người phụ nữ, tác giả đã rát khéo léo khi dùng biện pháp đảo ngữ để đẩy hai câu thơ lên như là “đau đớn” cho thấy được tâm trạng xót xa tủi nhục vô cùng cho số phận của người phụ nữ liễu yếu đào tơ. Tác giả có ý muốn nói rằng số phận người đàn bà được sinh ra vốn đã khổ, thời xưa người phụ nữ càng xinh đẹp và tài hoa thì càng bạc mệnh. Liệu rằng ý kiến đó có đúng hay không? Để biết được ý kiến trên có đúng hay không thì trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu xem ngòi bút của Nguyễn Du đã đặt tình cảm hết vào nhân vật. Thật sự mà nói thì chúng ta cũng phải nể trước việc một người con gái đẹp như Kiều đến mức “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, “ Cung âm lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương” đáng lẽ ra như Kiều thì phải được hưởng một cuộc sống giàu sang , ấm no và hạnh phúc nhưng lại không được như chúng ta nghĩ, mặt khác ngược lại còn phải thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.Dẫu cho muốn chết cũng không thể chết đươc. Cô có sự tài sắc vẹn tòn nhưng lại không được hưởng những gì mà mình có. Hay như trong tác phẩm vợ chồng A phủ có nhân vật Mỵ, một người con gái trẻ trung xinh đẹp, có tài thổi sáo hay, tưởng rằng cuộc đời sẽ như mơ nhưng cô lại bị bắt về làm vợ , làm dâu trong nhà thống lí pá tra để gạt nợ cho gia đình. Suốt ngày chỉ biết chui trong xó cửa , rồi chỉ biết làm những việc lặp đi lặp lại nhàm chán, và bị xem như món đồ vậy vậy. Tất cả đều điển hình cho số phận tài hoa nhưng lại bạc mệnh. Câu thơ thể hiện sự đau đớn của Nguyễn Du khi nói lên thân phận đau khổ của người đàn bà, nhưng ở đây Nguyễn Du muốn nói chung về thân phận của những người đàn bà phong kiến xưa chứ không phải là riêng gì Thúy Kiều. Ở đây đại thì hào muốn muốn thể hiện sự đồng cảm của những số phận bạc mệnh và bất hạnh chứ không phải là ai cũng như vậy. Chính thời phong kiến trọng nam khinh nữ cho nên tài năng của người phụ nữ luôn bị coi khinh và không được trọng vọng.Vậy thì đối với ngày nay câu nói đó có còn đúng nữa không? Hiện nay, chế độ xã hội bình đằng cho nên không còn có những hủ tục lạc hậu trói buộc thân thể người ta, đây cũng là lúc để cho tài năng của người phụ nữ được biết đến và làm giàu cho chính đất nước của mình. Nếu như bạn có tài thật sự, có nhan sắc thì lại càng được sung sướng về sau nhờ những nỗ lực và cố gắng. Như vậy qua câu nói của Nguyễn Du cho ta thấy được số phận của người phụ nữ thời phong kiến xưa. Còn ở thời đại ngày nay thì tài năng ngày càng được trọng dụng và phát triển. Dù sao chúng ta cũng đã thấy được sự đồng cảm, xót thương của nhà thơ đến số phận những người phụ nữ.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 7)

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”

Ở đây, tác giả đã sử dụng hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại: “Tây Hồ hoa uyển” (vườn hoa bên Tây Hồ) với “thành khư” (gò hoang). Cùng với đó, động từ “tẫn” nhằm thể hiện sự triệt để đến cùng của sự vật. Từ đó, câu thơ đã gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khứ và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ xưa kia nay đã thành bãi đất hoang, không có sự sống. Vì vậy lời thơ khơi gợi sự xót xa của nhà thơ trước sự đổi thay, sự tàn phá của thời gian đối với cái đẹp. Tác giả cũng rất tài tình khi sử dụng các từ chỉ sự đơn độc: “độc điếu” (một mình viếng) và “nhất chỉ thư” (một tập sách). Với hai hình ảnh đó, tác giả như muốn nhấn mạnh sự cô đơn tột cùng của con người. Đồng thời cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Đó là cuộc gặp gỡ của một người mang trạng thái cô đơn với một kiếp bất hạnh, đơn độc. Tương tự với hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du cũng viết hai câu thơ trong Truyện Kiều:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”

Từ kiếp bạc mệnh của Thúy Kiều, nhà thơ khái quát lên thành lời chung, kiếp đau khổ chung của người phụ nữ. Văn học thời ấy đã từng nói đến cái chết thảm thương, oan khốc của Người con gái Nam xương (Nguyễn Dữ); một nạn nhân của chiến tranh và lễ giáo phong kiến bất công. Hay một nàng Đạm Tiên nổi danh tài sắc một thì mà phải rơi vào cảnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Trong xã hội cũ, hỏi có bao nhiêu nàng Đạm Tiên như thế? Câu thơ: Đau đớn thay phận đàn bà… không chỉ là một tiếng kêu thương mà còn là lời tố cáo, lên án đanh thép cái chế độ phong kiến vô nhân đạo, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm con người nói chung và phụ nữ nói riêng. Bởi vậy nó chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả. Tuy ra đời cách đây đã gần hai thế kỉ nhưng những câu thơ tâm huyết của Nguyễn Du vẫn gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Nó vừa là lời than thống thiết về nỗi đau khổ to lớn của kiếp người, vừa là lời kết án tội ác của chế độ phong kiến bất công chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ. Người đọc bao thế hệ đã nhận được từ hai câu thơ này thông điệp của Nguyễn Du: Hãy cứu lấy phụ nữ, hãy bảo vệ phụ nữ và trả lại cho họ vị trí xứng đáng, thiêng liêng mà Tạo hóa đã ban cho họ là duy trì sự sống của loài người trên trái đất.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 8)

"Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."

Câu thơ trên là lời cảm thán của Kiều hay cũng chính là Nguyễn Du về kiếp người bạc mệnh của Đạm Tiên - một người kỹ nữ trong Truyện Kiều. Đến hai câu luận trong Độc tiểu thanh kí:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư”

Nỗi đau của Tiểu thanh vốn dĩ rất riêng nhưng Nguyễn Du đã tinh tế nhận ra nỗi đau rất bình thường, rất rộng lớn - đó là nỗi đau của cả một lớp người, một thế hệ. Bên cạnh nỗi hận là cái “án phong lưu”. Và đây lại là một nghịch cảnh chua xót; khách phong lưu mà phải khổ, phải mang cái án oan lạ lung vì nết phong nhã. Điểm chung của hai câu thơ trích từ hai bài thơ đều là lời than thở, cảm thông, chua xót cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài hoa nhưng mệnh bạc trong xã hội cũ. Họ đều là những người tài hoa, xứng đáng có cuộc sống hạnh phúc nhưng dường như tạo hóa đang trêu đùa trên số phận của họ, luôn đẩy họ đến tận cùng của khổ đau, dù là kỹ nữ hay tài nữ, số phận của họ đều như vậy. Ông thương xót cho số phận của họ và cũng soi chiếu lên số phận của chính mình, phải chăng số phận của mình cũng như vậy, phải chịu cảnh đau đớn, bất hạnh và chết đi mà không một ai thương nhớ. Đó chính là nỗi niềm của những con người đồng bệnh tương liên, tài hoa nhưng gian truân.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 9)

Nội dung của hai câu thơ trong "Truyện Kiều" và hai câu luận của Độc Tiểu Thanh Kí đều thể hiện sự đau đớn và cô đơn của con người trước sự thay đổi và định mệnh không công bằng. Truyện Kiều nhấn mạnh sự bất công và khổ đau của phụ nữ trong xã hội phong kiến, kêu gọi sự quan tâm và bảo vệ cho họ. Trái ngược với đó, Độc Tiểu Thanh Kí thể hiện sự buồn bã và cô đơn của con người trước những khó khăn và thách thức cuộc đời. Cả hai đều mang thông điệp về lòng nhân văn và đấu tranh cho sự công bằng và nhân đạo. Những câu thơ và câu luận này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc, gửi gắm lời kêu gọi và thương cảm đối với những số phận đau khổ của con người. Đây là những tác phẩm văn học có giá trị về tinh thần và đạo đức, góp phần làm cho thế giới này trở nên đẹp hơn và nhân bản hơn.

So sánh hai câu luận của Độc Tiểu Thanh ký với 2 câu thơ kết trong Truyện Kiều (mẫu 10)

Người phụ nữ được sinh ra trên thế giới này luôn được dùng những mỹ từ đẹp như phái yếu “liễu yếu đào tơ” rồi lại “tuyệt thế giai nhân”, “công dung ngôn hạnh”. Đó là tất cả những gì mà người phụ nữ chân chính được công nhận. Có thể nói người phụ nữ giống như một bông hoa thơm ngát hương cho đời. Thế nhưng Nguyễn Du một bậc đại thi hào khi kể chuyện về cuộc đời của một bông hoa tên Thúy Kiều lại đúc kết một câu nói có ý nghĩa khái quát:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Câu nói ấy có ý nghĩa gì?. Nguyễn Du nói về cuộc đời đầy gian nan trắc trở của nàng Kiều sau đó nói lên những câu có ý nghĩa triết lý sâu sắc. Câu thơ trên tác giả muốn nói đến số phận người đàn bà. Tác giả dùng biện pháp đảo ngữ đẩy hai từ “đau đớn” lên đầu câu để cho thấy tâm trạng xót thương vô cùng cho số phận của những người phụ nữ liễu yếu đào tơ. Tác giả có ý muốn nói rằng số phận đàn bà vốn dĩ nó đã rất bạc mệnh. Như câu thơ “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Người phụ nữ càng xinh đẹp càng má đào và tài giỏi thì càng bạc mệnh. Liệu rằng ý kiến đó có đúng hay không? Trước hết xem ngay chính nhân vật mà Nguyễn Du đặt cả tình cảm và ngòi bút để xây dựng nên. Thật sự mà nói đối với một cô gái xinh đẹp đến mức “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” và “Cung âm lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương” như Kiều thì phải có một cuộc sống sung sướng và hạnh phúc với nhan sắc trời phú và tài năng của mình. Thế nhưng người phụ nữ ấy lại không được như chúng ta nghĩ. Kiều phải thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Người yêu của mình thì không đến được với nhau, phải nhờ em gái nối duyên với chàng. Còn mình thì lưu lạc khắp nơi này nơi khác, qua tay biết bao nhiêu gã đàn ông. Dẫu cô muốn chết ông trời cũng không cho cô chết. Cô vẫn phải sống cho trọn kiếp người này. Đó chính là sự trái ngược giữa tài năng và cuộc đòi của cô. Cô muốn được hạnh phúc nhưng xã hội của cô không cho cô hạnh phúc. Có lẽ càng tài giỏi bao nhiêu thì càng bạc mệnh bấy nhiêu. Hay như nhân vật Mị trong tác phẩm của vợ chồng A Phủ cũng vậy. Một cô gái Her Mông xinh xắn dịu dàng, nền nã không những thế cô còn có một lòng hiếu thảo với cha mẹ, tự trọng bản thân và có tài thổi sáo rất giỏi. Tưởng rằng cô sẽ trở thành một cô gái có cuộc sống hạnh phúc như bao người khác. Thế nhưng cô cũng không thoát khỏi cảnh làm dâu gạt nợ của nhà thống lý trong bản. Cuộc sống ấy biến cô trở thành một cô gái lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết cúi mặt lúc đi và làm những công việc quen thuộc cứ lặp đi lặp lại mà thôi. Đó là những điển hình cho số phận những người con gái đa tài nhưng bạc mệnh. Nó thể hiện sự đau đớn của Nguyễn Du khi nói đến thân phận đàn bà. Đó là sự trái ngược về tài sắc và cuộc đời của họ. Nhưng ở đây Nguyễn Du nói những người đàn bà nói chung chứ không phải riêng chỉ những người đàn bà có tài sắc như Thúy Kiều. Có lẽ nào ai là đàn bà cũng bạc mệnh chăng?. Nói như vậy Nguyễn Du muốn thể hiện sự đồng cảm với những số phận người đàn bà bạc mệnh bất hạnh chứ không phải ai là đàn bà cũng có số phận như thế. Ta biết một điều rằng chính xã hội họ sống làm cho những tài năng của họ bị coi khinh và sử dụng vào mục đích kiếm lợi trên chính nhan sắc tài năng ấy. Vì thế số phận của họ như thế một phần lớn là do xã hội họ sống gây nên. Câu nói của nhà đại thi hào liệu còn đúng trong xã hội ngày nay không?. Ngày nay khi không còn cường quyên thần quyền hủ tục đến mức trói buộc thân thể người ta mà khi bình đẳng nam nữ thì cũng là lúc những tài năng của phụ nữ được biết đến và phát triển làm giàu cho chính đất nước đó. Nó không những không làm hại đến số phận của họ mà còn mang lợi đến cho họ. Tất nhiên đa tài hay giỏi quá thì cũng rất phiền vì nhiều người ganh tị ghen ghét. Những người ấy sẵn sàng hại bạn đạp đổ bạn để họ lên trên. Nhưng nếu bạn có tài thật sự thì họ có muốn đạp bạn xuống thì cũng rất khó. Hiện nay những người càng có tài càng có nhan sắc thì lại càng sung sướng về mặt cuộc sống thành đạt và chuyện chọn cho mình người chồng xứng đáng. Như vậy ta thấy câu nói của Nguyễn Du chỉ đúng với số phận người phụ nữ trong xã hội cũ mà thôi. Ngày nay tuy cũng có những người tài năng nhưng bạc mệnh nhưng nó không phải là một quy luật được. Trường hợp đó chỉ rơi vào số phận của một người nào đó mà thôi. Cũng vì thế nếu bạn khổ thì cũng không nên nghĩ mình tài năng nên bạc mệnh. Dù sao ta cũng thấy được sự xót thương của nhà thơ đến số phận những người đàn bà.

1 907 08/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: