TOP 10 mẫu Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (2024) SIÊU HAY

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo lớp 11 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 41,902 07/07/2024


Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo

Đề bài: Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 1)

TOP 10 mẫu Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh là tập thơ ghi lại cảm xúc trong chuỗi ngày bị giam hãm ở nhà lao Trung Quốc. Đọc thơ của Hồ Chí Minh, người đọc nhận ra những dòng cảm xúc rất bình dị, đời thường. “Mộ” là một bài thơ như vậy, tái diễn lại một khoảnh khắc khi sắp kết thúc một ngày, là chiều tối.

Bài thơ “Mộ” ghi lại khoảnh khắc mà Hồ Chí Minh đi từ nhà lao Thiên Bảo đến Long Tuyền vào năm 1942. Cảm hứng chủ đạo chính là bức tranh và phông nền của thiên nhiên lúc về chiều, khi hoàng hôn sắp buông xuống. Phải thật tinh tế, sâu sắc, Hồ Chí Minh mới có thể diễn tả một cách đắc điệu nhịp sống nhẹ nhàng nơi núi rừng như vậy.

Nguyên tác của bài thơ như sau:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Hai câu thơ đầu như một nét vẽ chấm phá tạo khiến cho cảnh bầu trời về chiều hiện lên rõ nét và mang một nỗi buồn man mác:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không

Nỗi buồn như loang nhẹ, lan ra cả hai câu thơ khiến cho giọng thơ trở nên chùng xuống và tâm sự của tác giả dường như đẩy lên cao. Cánh chim khi chiều tà cũng trở nên “mỏi” đi tìm chốn ngủ. Một cánh chim đơn lẻ, đi lạc giữa rộng dài của bầu trời khiến người đọc có cảm giác như Hồ CHí Minh đang liên tưởng đến cuộc sống của người hiện tại. Cảnh tù đày bí bách, kìm hãm khiến Hồ Chí Minh khát khao có được một nơi chốn bình yên và ấm áp nhất để tìm về.

Hình ảnh “tầng mây trôi nhẹ” diễn tả sự vận động nhẹ nhàng, tinh tế của thiên nhiên đất trời. Nhịp thơ trở nên chậm, rất chậm và có lẽ lòng người cũng đang chậm.

Chỉ với hai câu thơ cũng đủ để cho người đọc nhận ra được khát khao muốn được như tầng mây đó, cứ trôi đi, không phụ thuộc, không phải chịu cảnh gông tù.

Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh luôn hiện lên nhẹ nhàng nhưng chất chứa nỗi niềm như vậy.

Đến hai câu thơ sau dường như bừng lên một tia sáng và thấy thấp thoáng bóng dáng con người:

Cô em xóm núi xây ngôi tối
Xay hết lò than đã rực hồng

Mặc dù phần dịch thơ không thực sự bám sát và lột tả hết được tâm trạng cũng như con người trong bức tranh mang màu sắc vừa cổ điển vừa hiện đại này.

Chỉ bằng một nét vẽ tinh tế tác giả đã vẽ lên bức tranh bình dị của cuộc sống người dân nơi chân núi. Hành động “xay ngô” dường như là việc làm thường ngày của con người ở đây. Tuy bình dị nhưng ấm áp và tràn đầy tin yêu. Có thể nói trong cảnh gông cùm như thế này, Hồ Chí Minh rất khao khát có được một nơi để trở về bình dị như thế này.

Đến câu thơ cuối, người đọc nhận ra một sự chuyển động rất nhẹ và một nét sáng bừng lên cả bài thơ. Khi cô gái vùng sơn cước xây hết ngô thì lò than đã rực hồng. Một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng, đều đặn hằng ngày. Giữa vùng núi hoang lạnh, khi mặt trời tắt, hoàng hôn loang xuống hình ảnh “lò than” hiện lên dường như làm sáng cả không gian và ấm áp trái tim Người. Có thể nói việc xây dựng hình ảnh cô em xóm núi và lò than dường như là một nỗi niềm thầm kín của tác giá. Đó là hiện thân của một mái ấm gia đình hạnh phúc, chứa chan yêu thương, và đó cũng chính là lòng mong mỏi của Hồ Chí Minh.

Bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh là bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển vừa mang màu sắc hiện đại đã mang đến dấu ấn riêng, đặc trưng. Bài thơ chính là tâm sự, là ước muốn nhỏ nhoi có thể thoát khỏi chốn gông cùm, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 2)

TOP 10 mẫu Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Bài thơ “Từ ấy” là bản đàn dạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản Tố Hữu khi gặp lí tưởng Đảng.“Từ ấy” được cấu tứ dựa trên một sự kiện quan trọng, có tính chất bước ngoặt trong con đường đời, đường thơ của thi sĩ. Sự kiện ấy làm thay đổi hoàn toàn nhận thức, tư tưởng tình cảm và con đường đấu tranh của người thanh niên cách mạng. Đó là sự kiện Tố Hữu được kết nạp Đảng năm 1938.

Toàn bộ bài thơ từ nhan đề đến các câu thơ, khổ thơ, hình ảnh, tình cảm của nhân vật trữ tình đều được triển khai từ sự kiện đó nên người đọc sẽ thấy: Từ ấy - niềm vui lớn “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý”, “hồn tôi – vườn hoa lá”; từ ấy - lẽ sống lớn “tôi buộc lòng tôi với mọi người”; Từ ấy - tình cảm lớn “tôi đã là con của vạn nhà”…

“Từ ấy” được đặt ở nhan đề và ngay dòng đầu bài thơ như bản lề vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Đó là bản lề cánh cửa khép lại quãng thời gian trước “Từ ấy” và mở ra khoảng thời gian sau “Từ ấy” trong cuộc đời nhà thơ. Trước “Từ ấy” là cuộc sống bế tắc, tối tăm, cô đơn tuyệt vọng chán chường đã từng được Tố Hữu ghi lại qua những dòng thơ hồi tưởng.

“Năm 20 của thế kỉ 20

Tôi sinh ra nhưng chưa được làm người

Nước đã mất. Cha đã làm nô lệ

Ôi những ngày xưa mưa xứ Huế

Mưa sao buồn vậy, quê hương ơi!

Ngẩng đầu lên không thấy mặt trời

Đất lai láng những là nước mắt.”

(Một nhành xuân)

“Từ ấy” đã khai quang con đường rộng mở, tươi sáng cho người thanh niên Nguyễn Kim Thành; mở ra những điều mới mẻ, thiêng liêng. “Từ ấy” là thời điểm Tố Hữu được ánh sáng lí tưởng soi chiếu, thời điểm hình thành nên chiến sĩ cách mạng Tố Hữu và cũng là thời điểm “khai sinh” hồn thơ Tố Hữu - hồn thơ trữ tình chính trị, lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Vì thế, “Từ ấy” trở thành tứ của bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động của nhận thức, tình cảm của nhà thơ; là điểm liên kết các khổ trong bài thơ.

“Từ ấy” là thời điểm khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống mới đầy hứa hẹn với niềm vui sướng, say mê toát lên từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh tươi sáng, giàu tính hình tượng: “nắng hạ”, “mặt trời chân lí”, “vườn hoa lá”.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

“Nắng hạ” là thứ ánh nắng chói chang, rực rỡ của mùa hè; khác hẳn ánh nắng dịu nhẹ của mùa thu hay ánh nắng ấm áp của mùa xuân. Ánh nắng hạ chiếu sáng những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức của chàng thanh niên trẻ. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ cho lí tưởng Đảng. Mặt trời đem đến ánh sáng, sự sống cho muôn loài. Đối với Tố Hữu, lí tưởng của Đảng cũng như thế, soi rọi tâm hồn, đem lại sự sống giúp nhà thơ nhận ra con đường đi đến chân lí, lẽ phải, niềm vui và hạnh phúc. Để diễn tả tác động mạnh mẽ, sức ảnh hưởng lớn lao của lí tưởng cộng sản, Tố Hữu đã khéo léo sử dụng các động từ mạnh “bừng”, “chói”. Ánh sáng lí tưởng cộng sản không chỉ tác động về mặt lí trí mà còn “chói qua tim”, thức tỉnh cả về mặt tình cảm trong tâm hồn nhà thơ. Từ đó, mở ra một chân trời mới, nhà thơ như sống một cuộc đời mới đầy vui tươi, lạc quan như “vườn hoa lá”.

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Hình ảnh so sánh hồn thơ - vườn hoa lá diễn tả một cách đầy đủ sức sống dào dạt, sinh sôi và niềm vui sướng hứng khởi trong tâm hồn nhà thơ trong những buổi đầu đến với lí tưởng cách mạng. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có hương thơm của hoa và âm thanh rộn ràng của tiếng chim. Việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như “đậm”, “rộn” nhấn mạnh hơn nữa niềm vui, sức sống kì diệu trong tâm hồn thi nhân khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình.

Thời điểm “Từ ấy” không chỉ là bước ngoặt hồi sinh cuộc đời nhà thơ, đem đến một cuộc sống mới đầy niềm vui, lạc quan mà còn là bước ngoặt hồi sinh tâm hồn, đem đến nguồn cảm hứng nghệ thuật dạt dào cho thơ ca của Tố Hữu. Vì vậy, có thể nói, “Từ ấy” chính là thời điểm khai sinh hồn thơ Tố Hữu, đem đến cho thơ ca của ông sức sống mới, nguồn cảm hứng mới – thơ trữ tình chính trị.

Sau những phút giây sung sướng đón nhận lí tưởng cách mạng, người chiến sĩ cộng sản đã có sự chuyển biến lớn về nhận thức. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc đời, là nhận thức mới về lẽ sống.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Nhân vật trữ tình tự “buộc” lòng mình với mọi người. Đó là ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của nhà thơ vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống gắn bó với mọi người với thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bởi lí trí sáng suốt thể hiện. Con người cá nhân đã thoát dần cái tôi vị kỉ, nhỏ bé để vươn đến cái tôi rộng lớn - cái tôi hướng đến cuộc đời và mọi người. Để từ đó thiết lập tình yêu thương, cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người, đặc biệt là “bao hồn khổ”.

Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ; ở đó, nhà thơ tìm thấy niềm vui, tìm thấy sức mạnh mới của “khối đời”. Đó là sức mạnh đoàn kết gắn bó rộng lớn và đông đảo của nhân dân. Lẽ sống cao đẹp khi giác ngộ lập trường giai cấp, tự nguyện gắn bó cái tôi cá nhân với cái ta chung trong ý thức đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn cho người thanh niên cộng sản Tố Hữu.

“Từ ấy” không chỉ là bước ngoặt đem đến niềm vui lớn, lẽ sống lớn mà còn mở ra những chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của người thanh niên cộng sản Tố Hữu. Trước khi giác ngộ cách mạng, Tố Hữu là thanh niên trí thức tiểu tư sản; lí tưởng cộng sản đã giúp nhà thơ vượt ra rào cản hẹp hòi của cá nhân để có được tình hữu ái giai cấp, tình thân ruột thịt với quần chúng lao khổ.

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh của vạn đầu em nhỏ

Không áo cơm cù bất cù bơ

Ba từ “là” xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoát cho sự hòa nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Số từ được nhà thơ sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa quần chúng nhân dân lao khổ.

Qua các cụm từ “kiếp phôi pha”, “cù bất cù bơ” ta không chỉ thấy ý thức trách nhiệm mà còn là tấm lòng chan chứa yêu thương, sự đồng cảm xót xa của nhà thơ dành cho những kiếp người bất hạnh, vất vả, đắng cay trong xã hội cũ. Ta như nhìn thấy hình ảnh của những chú bé đi ở (“Đi đi em”, “Hai đứa bé”), những cô gái giang hồ (“Tiếng hát sông Hương),… Càng yêu thương đồng cảm với những số phận phôi pha bao nhiêu, nhà thơ càng căm hận trước bao bất công, ngang trái trong xã hội cũ bấy nhiêu. Đó cũng là động lực để người chiến sĩ hăng say hoạt động cách mạng để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người, cho quần chúng nhân dân còn bao cơ cực, lầm than.

“Từ ấy” là tuyên ngôn về lẽ sống của người cộng sản khi gặp lí tưởng của Đảng; là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Đó là thời điểm hồi sinh tâm hồn, bước ngoặt trong nhận thức, tình cảm của nhà thơ. Còn nếu không có “Từ ấy”? Nhà thơ Tố Hữu đã từng tự trả lời: “Không biết tôi sẽ trở thành thế nào, may lắm là một người vô tội” (Câu chuyện về thơ). Chính vì thế “Từ ấy” được Tố Hữu lựa chọn trở thành tứ xuyên suốt, là mạch ngầm liên kết hình ảnh, câu từ, cảm xúc trong toàn bộ bài thơ.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 3)

TOP 10 mẫu Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII - XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca... Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.

Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bỡi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên...

Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như: Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô.... Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng.

Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.

Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ - con người, vô hạn - hữu hạn, không gian - thời gian, hữu hình - vô hình, có - không, đen - trắng, tĩnh - động, tối - sáng, nhất thời - vĩnh hằng... Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.

Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:

Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.

Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và "ngộ" ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố hương.

Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình đối với quê hương và đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí sâu sắc trong quy luật tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.

Một lần ngang qua cách rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc

gió mùa thu tái tê.

Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người( hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ.

Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghiã tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan. Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.

Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.

Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đôí lập giữa không gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con người... Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữu sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc. Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.

Trên cành khô

cánh quạ đậu

đêm thu.

Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màng đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la...

Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như : thiên nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây...Khi nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình

Chim đỗ quyên hót

ở kinh đô

mà nhớ kinh đô.

Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. Ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.

Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.

Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.

Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ giúp. Dó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ.

Nhà thơ Chiyô viết

A! Hoa Asagaô

dây gàu vương hoa bên giếng

đành xin nước nhà bên.

Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm tiết là sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bỡi thiên nhiên đẹp, con người nâng niu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.

Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như hoa đào - mùa xuân, tiếng ve - mùa hè... còn có nhiều bài không có. Những bài này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông... Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagor (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư "nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên". Như vậy những từ này có khi được coi là đề tài, là điểm sáng, "là con mắt" để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, nguời đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng.

Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.

Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im ắng cất lên trước cảnh đá vật nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôn nay và mai sau...

Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-cư Nhật Bản mãi mãi sẽ là một viên ngọc quý ở xứ sở "mặt trời mọc" với công chúng yêu thơ.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 4)

Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.

Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ, tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:

“Em nhớ: một sáng ngày mùa đông
Gió bấc ào ào tiếng hãi hùng
Theo khe cửa sổ gió thổi rú
Chỉ nghe tiếng gió mà lạnh lùng”

Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:

“Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa
Gió phẩy mùa băng giải mặt sông”

Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu càng thêm nổi bật và ấn tượng.

Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:

“Trời lơ lửng cao vút không buông gió
Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng
Êm đềm sóng lụa trên trên lúa
Nhạc ngựa đường xa lắc tiếng đồng
Quán cũ nằm lười trên sóng nắng
Bà hàng thừa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
Đứng lặng trong mây một cánh diều”

Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.

Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.

Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 5)

Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mạng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.

Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là kết tinh nghệ thuật trong đời thơ của ông. Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với đất nước, với cuộc đời và nguyện ước chân thành của tác giả muốn được cống hiến cho đời, góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Ngay từ nhan đề tác phẩm đã thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của Thanh Hải đồng thời cũng bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Danh từ mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian vô hình, không đong đếm, đo lường được nhưng dưới con mắt của thi nhân với trường liên tưởng độc đáo kết hợp với từ nho nhỏ đã khiến cho một khái niệm vốn trừu tượng trở nên hữu hình.

Đồng thời hình ảnh ẩn dụ này còn tượng trưng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Qua đó tác giả bộc lộ quan điểm, sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng. Ngoài ra, nhan đề còn thể hiện ước muốn chân thành, tha thiết của tác giả: muốn làm một mùa xuân nho nhỏ, nghĩa là muốn sống một cuộc đời tươi đẹp, có ý nghĩa và giúp ích cho đời, cho đất nước.

Cách đặt nhan đề đã làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Khổ thơ đầu mở ra khung cảnh mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đặc trưng nhất của không gian xứ Huế mơ mộng:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc”

Không gian mùa xuân cao rộng, bao la của dòng sông – mặt đất – bầu trời gợi ra trước mắt người đọc, không gian ấy cho thấy sự thanh bình, yên ả. Cùng với đó là sự phối hợp hài hòa của sắc màu thiên nhiên: màu xanh mênh mông của dòng sông làm nền cho màu hoa tím biếc thơ mộng – một sắc màu tươi sáng, dịu dàng rất đặc trưng của xứ Huế.

Thanh Hải cũng thật tinh tế và tài tình khi đảo động từ “mọc” lên đầu câu, việc đảo trật tự như vậy càng nhấn mạnh vào sự xuấ Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mạng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.

Đứng trước vẻ đẹp mùa xuân tác giả không thể kìm nén cảm xúc của bản thân mà cất lên tiếng gọi đầy tha thiết: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Chỉ một chữ “ơi” thôi đã cho thấy niềm xúc động, vui sướng mãnh liệt của nhà thơ trước thiên nhiên vạn vật, bởi vậy, ngay lúc đó đã diễn ra một cuộc trò chuyện thật gần gũi và thân mật giữa con người và thiên nhiên.

Cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở đó, sự say sưa, yêu mến còn được thể hiện trong động tác đầy trân trọng, nâng niu: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt” là hình ảnh đa nghĩa, ta có thể hiểu đó là giọt mưa xuân, cũng có thể hiểu là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Câu thơ mang đến những hình ảnh mới lạ, đầy tính tạo hình. Có thể thấy rằng chỉ bằng vài nét phác họa rất đơn sơ nhưng Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy mơ mộng, tươi đẹp và tràn đầy nhựa sống.

Từ mùa xuân của thiên nhiên tác giả dâng trào của xúc trước của xuân của đất nước. Hai câu thơ đầu tạo ra những hình ảnh sóng đôi đặc sắc: “người cầm súng” “người ra đồng” tượng trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng đất nước. Cùng với đó là hình ảnh “lộc”, mỗi chữ “lộc” lại mang những ý nghĩa khác nhau. “Lộc giắt đầy trên lưng” trước hết mang ý nghĩa tả thực là chồi non, ngoài ra còn biểu tượng cho sức sống mùa xuân, cho những thành quả tốt đẹp.

Cũng bởi vậy, khi những người chiến sĩ khi ra trận khoác trên mình chiếc lá ngụy trang như mang sức sống của toàn dân tộc trên vai với một niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai chiến thắng của toàn dân tộc. Hình ảnh “lộc” phía sau lại tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, được mùa dưới bàn tay của những người nông dân. Tất cả những yếu tố đó đã cho thấy khí thế, nghị lực của con người trên mặt trận bảo vệ tổ quốc và xây dựng của cuộc sống mới.

Hai câu thơ cuối diễn tả cái náo nức, xôn xao của con người. Ấy là không khí lên đường nhộn nhịp, khẩn trương, liên tục không ngừng cùng với đó là tâm trạng háo hức, hăng say. Cả khổ thơ dạt dào niềm vui, như lời cổ vũ, động viên con người lên đường, hòa vào nhịp chung của dân tộc.

Sang đến khổ thơ thứ ba, ta không còn thấy niềm vui trước mùa xuân dân tộc mà thay vào đó là những cảm nhận, suy tư của tác giả về lịch sử đất nước mình. “Đất nước bốn nghìn năm / Vất vả và gian lao” cho thấy những thử thách, khó khăn mà dân tộc ta phải trải qua trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Thế nhưng trước những khó khăn chồng chất ấy ta vẫn “đi lên” một cách bản lĩnh, kiên cường. “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” là hình ảnh so sánh đẹp đẽ đem đến cho người đọc những ý nghĩa khác nhau. Câu thơ là lời khẳng định về sự trường tồn mãi mãi của dân tộc ta trước mọi khó khăn, thử thách. Ở câu thơ tiếp, ba chữ “cứ đi lên” như một lời khẳng định chắc nịch về tương lai tươi sáng của toàn dân tộc. Khổ thơ bộc lộ niềm tự hào, tin tưởng vào sự bền bỉ của đất nước và khí thế đi lên của dân tộc.

Những khổ thơ cuối cùng của bài là nguyện ước chân thành, tha thiết của nhà thơ cho cuộc đời. Tác phẩm ra đời trước lúc tác giả mất không lâu, khiến ta càng thêm trân trọng những nguyện ước giản dị mà đẹp đẽ của ông. Tác giả ước làm con chim để đem niềm vui cho cuộc đời, làm cành hoa đem hương sắc cho cuộc sống.

Đáng quý hơn, ông nguyện làm một nốt trầm trong bản hòa ca. Nốt trầm xao xuyến ấy làm xúc động, gây ám ảnh trong lòng người. Trong khổ thơ có sự chuyển đổi từ “tôi” sang “ta” – đại từ vừa diễn tả số ít, vừa diễn tả số nhiều giúp tác giả vừa thể hiện cái riêng nhưng đồng thời cũng thể hiện cái chung. Qua sự biến đổi đại từ ấy cho thấy đây không chỉ là khát vọng riêng của tác giả mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người.

Ước nguyện cống hiến tha thiết, chân thành càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh: “Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời” cho thấy thái độ sống, cống hiến lặng lẽ, khiêm nhường nhưng lại vô cùng mãnh liệt, bền bỉ. Đây là cách sống cao đẹp, chân thành mà vô cùng dung dị. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, tóc bạc” nói lên sự thống nhất trong quá trình cống hiến của nhà thơ: dù là khi còn trẻ, tràn đầy nhựa sống hay khi tóc đã bạc thì trách nhiệm ấy vẫn không hề thay đổi.

Khổ thơ cuối cùng bộc lộ niềm tự hào, yêu mến đất nước của tác giả qua làn điệu dân ca xứ Huế. Bài thơ kết lại bằng làn điệu dân ca xứ Huế thiết tha cho thấy tấm lòng của tác giả trước quê hương, đất nước. Để tạo nên thành công của tác phẩm, Thanh Hải đã vận dụng tài tình thể thơ năm chữ, giàu nhạc điệu.

Kết hợp với cách gieo vần linh hoạt, gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo nên sự liền mạch cảm xúc cho tác phẩm. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tự nhiên, giản dị, trong sáng mà cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Cảm xúc, giọng điệu nhà thơ chân thành, tha thiết.

Bài thơ đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân đất nước tươi sáng, tràn đầy nhựa sống bằng giọng văn tha thiết, đầy tự hào. Nhưng đằng sau những câu thơ ấy còn cho thấy lẽ sống đẹp đẽ, cao cả của nhà thơ: nguyện cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, quê hương. Tấm lòng, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 6)

Huy Cận, tên gọi quen thuộc trong làng văn hóa Việt Nam, không chỉ là nhà thơ nổi tiếng mà còn là một chiến sĩ cách mạng, người đã để lại những tác phẩm văn chất lượng cao, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của đất nước. Trong bài thơ của mình, Huy Cận đã lột tả một cách mạnh mẽ và đầy tình cảm về những thăng trầm của cuộc sống và thời đại. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh dòng sông Tràng Giang dài lâu, nơi ông tìm thấy nguồn cảm hứng và tiếng lòng của con người. Cảnh sắc hữu tình, dịu dàng nhưng đồng thời chứa đựng nhiều bí ẩn sâu sắc được nhà thơ lựa chọn làm bối cảnh cho tác phẩm của mình. Những sự vật trôi trên dòng sông, tựa như những cảm xúc và khát khao cuộc sống, tạo nên một bức tranh tâm lý sâu sắc về con người và thế giới xung quanh.

Ngôn từ của Huy Cận không chỉ đậm chất nghệ thuật mà còn mang theo một góc nhìn triết học sâu sắc về cuộc sống. Bài thơ được chạm khắc bằng những từ ngữ tinh tế, thiết tha, giúp người đọc cảm nhận được mạch cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Sự sáng tạo ngôn ngữ không chỉ nâng cao giá trị thẩm mỹ mà còn làm sâu sắc thêm nghệ thuật thể hiện ý nghĩa của tác phẩm.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Hình ảnh mở đầu của bài thơ đưa ta vào một không gian huyền bí và lãng mạn, nơi tác giả mượn hình ảnh của sóng để thể hiện tâm trạng sâu sắc của bản thân. Sóng gợn tràng giang như những nỗi buồn man mác, và dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm đậm chất trong hình tượng thơ. Bằng cách này, tác giả sử dụng sóng như một biểu tượng cho sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn, làm tăng lên gấp đôi những nỗi buồn và tạo ra một điệu nhấn riêng, mang màu sắc giá trị của sự sống con người.

Hình ảnh thơ lan tỏa chất lãng mạn, thu hút người đọc vào những vòng cuốn của cảm xúc lãng mạn với những lời thơ tinh tế. Sự mộng mơ và huyền bí của hình ảnh sóng, dòng nước trôi qua những con sóng làm vỗ bờ cát tạo ra một không gian thơ mộng và đặc biệt. Hình ảnh của tràng giang, một con sông dài và những tình người rộng lớn đang bị sóng nước mênh mang làm cho tâm trạng trở nên cô đơn và thơ mộng. Tác giả thông qua hình ảnh thơ đã vẽ lên những lời thơ sâu sắc, nâng cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm và tạo nên một không khí lãng mạn, huyền bí.

Nỗi buồn mênh mang trong không gian vô tận làm cho tâm trạng trở nên mông lung và đầy ắp những cảm xúc lãng mạn. Hình ảnh thơ không chỉ thể hiện sự cô đơn mà còn là sự kỳ bí và mênh mông của cuộc sống. Cảnh trên dòng sông Trường Giang với những chiếc thuyền trôi qua những dòng nước được mô tả thông qua cụm từ "điệp điệp" và "song song", mang lại hình ảnh của một sự vật mạnh mẽ và tăng lên mức độ của nỗi buồn. Hình ảnh này không chỉ là một cảm nhận về thiên nhiên, mà còn là một biểu tượng cho sự phong phú và nghệ thuật của cuộc sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Những làn gió nhẹ vẫn vuốt nhẹ trên dòng sông, tạo nên không khí man mác và làm cho trái tim người đọc cảm nhận những tâm trạng sâu thẳm. Sóng vỗ trên rặng liễu, như những nỗi buồn dịu dàng của con người, đưa đến cho chúng ta những hình ảnh đậm đà giá trị thơ. Trong bức tranh thơ, những gió và sóng không chỉ là hiện thực vật lý mà còn là ngôn ngữ tinh tế của tâm hồn. Những cảm xúc và tình cảm man mác được lồng ghép trong từng câu thơ, tạo nên một không gian thơ mộng, nơi giá trị thơ được tạo ra không chỉ qua những hình ảnh mà còn qua cảm nhận sâu sắc về cuộc sống. Lời thơ như là một bức tranh tĩnh lặng, nơi âm nhạc của làng xa vọng qua những dòng sông, kể lên những câu chuyện chợ chiều và những nỗi buồn chầm chậm trôi đi.

Sự kết hợp của ánh sáng hiu hắt và ánh nắng từ trên cao như là một bức tranh sống động, nó không chỉ mô tả về một không gian tĩnh lặng mà còn chứa đựng những hình ảnh sâu sắc về quê hương, những bến cô liêu dẫn lối dọc theo những dòng sông dài, mỗi đường cong là một câu chuyện buồn, là một khoảnh khắc đọng lại trong tâm hồn. Giá trị thơ của lời thơ không chỉ là ở những hình ảnh đẹp mà nó tạo ra mà còn là ở sự không định hình, sự phiêu bạt và tự do trong cảm nhận và diễn đạt. Đây là một phong cách nghệ thuật độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc và mang đến cho họ trải nghiệm tâm lý sâu sắc. Hình ảnh thơ là những cung bậc riêng, những tâm trạng khác nhau, tạo nên một bức tranh thơ phong phú và đầy sức sống.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trong những câu thơ, tác giả đã truyền đạt cảm xúc về số phận lênh đênh, mơ hồ và không biết đi về đâu của con người. Hình ảnh của dòng sông và những chiếc bèo trôi dạt như những hình ảnh tượng trưng, mang đậm giá trị thơ và làm nổi bật sự không chắc chắn trong cuộc sống. Sự lững thững của những chiếc bèo trên dòng sông như là biểu tượng cho sự bất an và khám phá không ngừng của con người trong hành trình sống. Hình ảnh của bãi cát trải dài trên biển xanh và những dòng sông mát lành thể hiện sự bình yên và tĩnh lặng, tạo nên một bức tranh tự nhiên hùng vĩ. Nhưng trong bức tranh đẹp ấy, cảm xúc cô đơn và buồn bã của tác giả vẫn hiện hữu. Bãi cát và dòng sông trở thành những người bạn trung thành trong cuộc hành trình, nhưng cũng là những nhân chứng trầm lặng của những cảm xúc không dễ dàng diễn tả. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm thơ mộng với thiên nhiên và sự biểu cảm tâm hồn, mà còn là bức tranh sống động về cuộc phiêu lưu của con người trong thế giới mênh mông. Các từ ngữ sâu sắc và màu sắc thơ đã làm nổi bật những nét đẹp và đau thương của cuộc sống, tạo nên một không gian văn hóa và tâm linh độc đáo.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 7)

Tiếng "Tràng Giang" như làm truyền đạt âm thanh vang vọng của nỗi buồn tha thiết. Sự lặp lại này như một bản nhạc buồn, khiến cho nỗi buồn trở nên lâu dài và sâu sắc. Những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông mang đến cho không gian một tầng màu tâm trạng "buồn điệp điệp." Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong linh hồn của nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" làm tăng cường sự khắc khoải, tầng tầng lớp lớp của nỗi buồn, nối tiếp nhau mà không thể giải thoát. Dường như nhẹ nhàng, nhưng lại mang trọng lượng vô tận, thấm đẫm và lan tỏa trong từng cảnh vật.

Trong không gian rộng lớn, mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" nổi bật, tạo ra bức tranh của sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, trôi dạt theo dòng nước, lênh đênh giống như nhân vật thi sĩ, trống vắng, lẻ loi giữa cuộc sống hối hả, bị xô đẩy và trôi chảy theo dòng đời. Hình tượng này làm cho nỗi cô đơn và sự phó mặc trở nên rõ ràng và chạm đến lòng người, tạo nên một không gian xô bồ, nhưng đồng thời là đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ mở đầu bức tranh thơ "Tràng Giang" không chỉ là một giới thiệu về tên gọi của tác phẩm mà còn là một cánh cửa mở ra một không gian mênh mông, hùng vĩ. Sự lặp lại của từ "tràng giang" và điệp vần "ang" không chỉ tạo ra một âm thanh đặc trưng, mà còn tạo nên một bức tranh tĩnh lặng của dòng sông trải dài. Hai tiếng "tràng giang" không chỉ là tên của một dòng sông, mà còn là biểu tượng của một không gian rộng lớn, mang theo nó nhiều cảm xúc và nỗi buồn. Con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông không chỉ là hình ảnh đẹp mắt của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của nỗi buồn. Cách tác giả diễn đạt "buồn điệp điệp" không chỉ là sự lặp lại của từ "buồn" mà còn là sự chọn lựa từ ngữ tinh tế để làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc. Từ "buồn điệp điệp" như một âm thanh khẽ nhẹ, nhưng chứa đựng nhiều tầng cảm xúc, làm cho nỗi buồn trở nên thêm khắc khoải và đậm sâu.

Hình ảnh "con thuyền xuôi mái" là biểu tượng của sự lẻ loi và cô đơn trong cuộc sống. Con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước không chỉ là hình ảnh của sự lênh đênh và phiêu bạt, mà còn là tượng trưng cho tâm hồn của người thi sĩ. Người sáng tác đang miêu tả bản thân mình như một con thuyền lẻ loi, trống vắng, bơ vơ giữa dòng đời hối hả. Hình ảnh này không chỉ diễn đạt sự cô đơn của tác giả mà còn đánh dấu một nét buồn nằm sâu trong bức tranh thơ.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề "Tràng Giang," với cách điệp vần tinh tế, mở ra một không gian rộng lớn, với dòng sông trải dài. Hai tiếng "Tràng Giang" như nhấn mạnh và khuếch đại âm thanh của nỗi buồn sâu sắc. Những con sóng nhẹ trên dòng sông tạo nên không khí "buồn điệp điệp," làm tăng thêm chiều sâu cho nỗi buồn trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" không chỉ làm đậm thêm cảm xúc buồn bã mà còn làm nổi bật sự khắc khoải, lớp lớp, nối tiếp nhau, không có hồi kết. Dường như nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và trầm lắng, nỗi buồn tràn ngập từng khung cảnh.

Trong không gian mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" làm nổi bật sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, lênh đênh trên dòng nước, tượng trưng cho người thi sĩ, trống vắng, lẻ loi giữa cuộc sống hối hả. Nhưng thuyền không phải chỉ là phương tiện, mà còn là biểu tượng cho sự phó mặc, lặng lẽ chấp nhận sự xô đẩy, chảy trôi của dòng đời. Hình ảnh này không chỉ là sự đẹp đẽ trong cảnh vật mà còn là sự đầy ý nghĩa và sâu sắc, khiến cho người đọc cảm nhận được tầng tầng cảm xúc đan xen giữa con người và thiên nhiên.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Câu thơ lặp lại nhan đề "Tràng Giang" không chỉ là việc sử dụng cách điệp vần tinh tế, mà còn là một phép màu đưa người đọc vào một không gian mênh mông với dòng sông trải dài. Hai tiếng "Tràng Giang" như là âm thanh biểu tượng của một nỗi buồn tha thiết, một sự thương cảm sâu sắc. Những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông không chỉ là cảnh đẹp tự nhiên mà còn là hình ảnh của nỗi buồn "điệp điệp." Nỗi buồn của dòng sông không chỉ là nỗi buồn của thiên nhiên mà còn là nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" không chỉ làm đậm thêm cảm xúc buồn bã mà còn tạo ra một sự khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, như một dòng chảy không ngừng của cảm xúc. Đó không chỉ là cảm giác nhẹ nhàng mà còn là trọng lực nặng nề, thấm đẫm, và lan tỏa từng thước phim của cảnh vật.

Nổi bật giữa không gian lớn mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" là biểu tượng của sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, lênh đênh trên dòng nước, không chỉ là hình ảnh của một phương tiện giao thông mà còn là biểu tượng của con người, người thi sĩ, đang trống vắng và lẻ loi giữa cuộc sống hối hả. Nhưng con thuyền không chỉ đơn thuần là phương tiện di chuyển mà còn là biểu tượng của sự phó mặc, lặng lẽ chấp nhận sự xô đẩy, chảy trôi của dòng đời. Hình ảnh này không chỉ đẹp mắt trong khung cảnh tự nhiên mà còn chứa đựng sự đầy ý nghĩa và sâu sắc, tạo nên một tác phẩm thơ đẹp đẽ và lôi cuốn.

“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót

Sông dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá tạo nên một chiều kích mênh mông của không gian trong tác phẩm. Hình ảnh "Sâu chót vót" không chỉ gợi lên sự thăm thẳm và huyền bí mà còn tận dụng chiều sâu của từ ngữ để tăng cường hiệu ứng. Đây không chỉ là một chiều sâu về khoảng cách vật lý mà còn là chiều sâu của tâm hồn, như một vùng trí tưởng không gian mênh mông, đầy những khó khăn và bí ẩn. Mỗi từ ngữ "rộng," "cao," "sâu" đều là những chiều kích tăng cường cho không gian, làm cho cảnh vật trở nên buồn vắng và lẻ loi. Sự mở rộng của không gian khiến nỗi buồn mở rộng theo chiều kích của nó, như một sự thấm sâu vào từng hơi thở.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo là biểu tượng của sự vô định và lênh đênh. Những chiếc cánh bèo trôi dạt "hàng nối hàng" mà không có nơi nào bấu víu, chẳng chốn trở về, như một hình ảnh ẩn dụ cho những số phận người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng trong thế giới lo lắng và không chắc chắn của thời kỳ đó. Dòng sông mênh mông, dài rộng, không có chuyến đò nào đi qua, không có cây cầu nào bắc ngang, tất cả những điều này như thách thức lòng người khao khát giao cảm, hy vọng một sự kết nối với con người. Tất cả như là một cuộc đối đầu với tâm trạng cô đơn, một sự khát khao sự giao cảm, sẻ chia, mà cuối cùng lại không có một chút tình người nào để chia sẻ.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.

Bầu trời mênh mông, với những đám mây cao trắng, được phản chiếu dưới ánh mặt trời, tạo nên một bức tranh tuyệt vời với ánh bạc lấp lánh. Động từ "đùn" không chỉ miêu tả sự vận động mạnh mẽ của cảnh vật mà còn thể hiện sự sôi động, hứng khởi. Những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ, như là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tuyệt vời. Giữa không trung, một cánh chim bé nhỏ nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương, tạo nên hình ảnh cô đơn và duyên dáng. Sự đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ không chỉ làm tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng mà còn thể hiện sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước vẻ đẹp vô tận của vũ trụ.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 8)

Tố Hữu là một nhà thơ lớn, xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ đồ sộ, thơ ông được coi là biên niên sử bằng thơ. Đối với Tố Hữu, ông quan niệm con đường thơ ca cũng giống với con đường cách mạng. Vậy nên thơ ông thường song hành cùng con đường cách mạng qua đó đã phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Qua bài thơ Nhớ đồng, người cộng sản trẻ tuổi bày tỏ nỗi niềm thương nhớ đồng quê, thương nhớ cảnh vật con người, đồng đội đồng bào của mình trong những tháng ngày bị giam giữa ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 trong khi hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt và nhốt giam tại nhà tù ở Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm lẻ loi trong tù ngục tối tăm nhưng chính hoàn cảnh sống ấy đã gợi cho ông nguồn cảm hứng dạt dào để làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh ấy và được rút từ tập thơ “Từ ấy” trong phần xiềng xích của tác phẩm. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..”

Đó chính là cái cảm giác cô đơn, lẻ loi, đơn độc khi Tố Hữu bị bắt giảm, sống cách biệt với thế giớ bên ngoài. Vì vậy chỉ là một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào từ bên ngoài dội vào thôi cũng đủ để gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ tha thiết, khôn nguôi. Chẳng phải là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải gọi hè về như trong tác phẩm “Khi con tu hú”, mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc của nơi đồng quê:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”

Bài thơ được gợi cảm hứng từ tiếng hò thân quen đã trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại về nỗi thương nhớ, nỗi cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người tù.

Tiếng hò đã gợi ra biết bao nỗi nhớ, kí ức về hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê hiện về trong tâm trí tác giả:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Âm thanh tiếng hò- một âm thanh gần gũi, quen thuộc nơi quê nhà của tác giả. Trong sự xa cách ấy, nỗi nhớ của nhà thơ dường như càng mãnh liệt và da diết hơn biết bao. Giờ đây, hình ảnh, mùi vị, màu săc, âm thanh của quê hương càng trở nên thật thân thương, gần gũi đến lạ thường.

Không chỉ nhớ về đồng quê, Tố Hữu còn nhớ tới hình ảnh con người lao động – những người dân nơi thôn quê cần cù, giản dị mà chất phác, họ đã quen với việc “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Đó là những người nông dân, chăm chỉ, chịu khó quanh năm lao động cật lực, họ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người nông dân cùng luống cày gian nan, vất vả, theo thời gian, theo năm tháng lưng của họ càn còng dần. Thế nhưng dù cho có phải ở trong bùn đen lấm lem bụi bẩn, ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp nhân hậu, sáng ngời của phẩm chất trong sáng. Chính những người lao động giản gị, mộc mạc, chân chất thôn quê ấy lại là những người sẽ gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời.

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ thương da diết của mình qua các chi tiết, hình ảnh: giọng hò, sương, lúa, tiếng xe lùa nước,…. Tất cả đều là mang một sự thân quen của nơi quê hương xa xôi, cách trở. Và nhà thơ nhớ da diết tới những âm thanh, hình ảnh ấy. Từ đó, theo dòng hồi tửng, Tố Hữu lại nghĩ bản thân về cảnh tù đày, đến đây tác giả như có chút chạnh lòng chợt len lỏi vào trong tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Tất cả những điều là quen thuộc và thân thương nhất, nhưng vào khoảnh khắc này, nhà thơ lại chẳng thấy gì “đâu cả rồi“. Câu hỏi ấy vang lên nhưng chẳn có một lời đáp, điều đó như là một nhát dao đâm sâu vào trong lòng người tù, khiến cho người thi sĩ trở nên đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi ở trong nhà lao tăm tối này, mọi thứ trở nên cách biệt và xa xôi biết nhường nào. Và trong nỗi nhớ thương da diết ấy, hình ảnh người mẹ già yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí tác giả. Mẹ- chính là người mà tác giả nhớ nhất, thương nhất trong nỗi nhớ của mình.

Và sau những thoáng tủi hổ, buồn thương ấy, người chiến sĩ lại thiết tha với tình yêu cuộc sống, anh ấy lại dũng cảm kiên trì, đấu tranh với những phút giây yếu mềm để vượt qua nó. Và thế là khát khao được tự do, được giả thoát lại sôi sục trong trái tim cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng:

“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời”

Hình ảnh chú chim sơn ca như là một biểu tượng đại diện cho khát khao được tự do sải rộng cánh bay trên bầu trời trong xanh và rộng lớn kia. Đây có lẽ là tâm trạng vui tươi nhất của người chiến sĩ khi bị giam cầm trong tù.

Nỗi nhớ thương của tác giả được đánh thức bởi “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò ấy đã gợi dậy về một thế giới khác bên ngoài nhà giam cùng những cảnh sắc và những hình dáng quen thuộc. Để rồi nhớ về quá khứ, những ngày còn được tự cống hiến bản thân cho cách mạng, và cuối cùng khi trở về với thực tại đau thương, một lần nữa khao khát được tự do, được dâng hiến mình cho đảng lại sôi sục trong lòng người chiến sĩ.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 9)

Huy Cận, một tên tuổi lớn trong văn hóa thơ Mới của Việt Nam, không chỉ là một nhà thơ tài năng mà còn là một nhà văn có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử văn hóa dân tộc. Bút danh "Huy Cận" không chỉ là cái tên, mà còn là biểu tượng của một tâm hồn sâu sắc, tràn đầy cảm xúc và tầm nhìn vĩ đại về nghệ thuật. Thời kỳ trước Cách mạng tháng 8, thơ của Huy Cận thường đựng đầy nỗi buồn, sầu bi đậm chất da diết và vô tận. Có lẽ, như lời đùa mỉa mai của người ta, ông đã mang theo nhiều nước mắt từ khi còn trong bụng mẹ, khiến tâm hồn ông trở nên sầu não, ảm đạm như thế. "Tràng Giang" là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của phong trào thơ Mới và là điển hình cho phong cách sáng tạo của Huy Cận trong giai đoạn này. Bức tranh "Tràng Giang" không chỉ là một dòng sông thông thường mà là biểu tượng của sự trôi chảy không ngừng của cuộc sống và thời đại. Từ chủ đề này, Huy Cận đã tạo ra một bức tranh thơ sâu sắc và phong cách hết sức độc đáo. Chữ "ang" trong nhan đề không chỉ là một âm vị mà còn là cầu nối đưa người đọc vào một không gian rộng lớn, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất. Nhan đề hán việt này cũng tạo nên một không khí cổ điển, trầm lặng, chứa đựng nhiều tâm tư và nỗi buồn sâu sắc.

Câu đầu "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khơi gợi cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, tràn ngập nhiều tâm sự của con người đối diện với vùng trời sông nước bát ngát. Con người như hạt cát nhỏ lẻng lơ, lạc lõng giữa vô vàn, không biết hướng đi, không biết mình tồn tại với ý nghĩa gì trong vũ trụ lớn này. Điều này tương ứng với tâm trạng của Huy Cận, một trí thức tiểu tư sản, trước sự biến động khôn lường của thế giới xung quanh, bị bế tắc và không tìm thấy con đường sáng.

Điểm độc đáo của Huy Cận là khả năng sử dụng ngôn từ phong phú và hình ảnh tượng trưng sâu sắc. Thuyền trôi êm đềm, dòng nước buồn bã khi thuyền cập bến, cành củi khô dạt dào lênh đênh trên sóng nước, còn cồn cát nhỏ và những ngọn gió đìu hiu thổi làm bức tranh thơ trở nên sống động và phong phú. Huy Cận không chỉ đơn thuần là một nhà thơ, mà là một họa sĩ tài ba với bức tranh tâm hồn sâu lắng về cuộc sống và thời đại. Từng chi tiết nhỏ nhưng tinh tế, với ngôn từ đậm chất nghệ thuật, Huy Cận đã xây dựng nên một bức tranh huyền bí, đậm chất lãng mạn, mà qua đó, ông diễn đạt tận cùng nỗi buồn, cô đơn và lạc lõng của con người trước thế sự. Nếu cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại dùng thiên nhiên để phản ánh nỗi niềm, để làm gia tăng lên những rung cảm và cảm xúc mới mẻ, hấp dẫn đối với độc giả. Cuối cùng, "Tràng Giang" không chỉ là một bức tranh mỹ thuật mà còn là một chân dung tinh tế về tâm hồn con người và vẻ đẹp của cuộc sống. Huy Cận đã để lại một di sản văn hóa lớn, một kho tàng ngôn ngữ và tư duy văn chương đầy ý nghĩa, làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Tiêu biểu cho sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển của thơ Đường và tính hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp, "Tràng Giang" là một kiệt tác thơ mang tâm huyết và sự sáng tạo. Với đề mở "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", tác giả không chỉ tạo ra một không gian mở rộng với âm vang vững vọng, mà còn mang đến cho tác phẩm một tông màu cổ điển, trầm lặng và sâu sắc. Làm việc với từ ngữ "bâng khuâng", Huy Cận thể hiện nỗi buồn, sự lạc lõng và khát khao tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống.

Những dòng thơ như "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" làm nổi bật sự cô đơn, bất an và khó khăn của con người đối diện với một thế giới rộng lớn, bi thảm. Tác giả, một trí thức tiểu tư sản, đối mặt với sự bế tắc trước thế sự hỗn loạn, tìm kiếm đồng cảm và giao cảm với thiên nhiên. "Tràng Giang" không chỉ là một bức tranh về thiên nhiên mênh mông, mà còn là bức tranh về tâm hồn, nổi loạn và tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Khi bước vào khổ thơ thứ hai, cảnh sông nước mênh mông dường như biến thành một bức tranh mới, với không gian thu hẹp hơn, nhưng nỗi buồn lại trở nên đậm đặc hơn, ôm trọn từng góc cạnh của cảnh vật. Huy Cận tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc của mình từ thời Đường thi bằng cách liên tục sử dụng các từ láy vần như "lơ thơ", "đìu hiu", "chót vót", để truyền đạt sự cô đơn và hoang vắng của cảnh vật. Câu "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu" là một hiện thực rõ ràng về sự nhỏ bé và xa cách của những cồn cát, nhưng chúng vẫn rời rạc, thưa thớt, không có vẻ kết nối, trong khi tiếng gió buổi chiều mỏng nhẹ thổi qua làm tăng thêm cảm giác tịch mịch, buồn bã.

Trong bức tranh cô đơn và ảm đạm đó, Huy Cận không thể kiềm chế được việc thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều," như một cố gắng tìm kiếm một chút âm thanh của cuộc sống, âm thanh của con người, dù chỉ là nhỏ nhất để xua tan đi chút cô đơn, trống vắng đang bao trùm. Mặt khác, tiếng vãn chợ xa xăm lại làm nổi bật thêm sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng khiến người lữ khách bên bờ sông không thể không chú ý. Điều này thể hiện rõ rằng cảnh thiên nhiên và tâm hồn con người đang ở mức độ cô tịch, vắng vẻ đến mức độ nào. Câu "Nắng xuống trời lên sâu chót vót" tạo ra một khoảng cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như kéo giãn thêm độ rộng của không gian. Mấy từ "sâu chót vót" có vẻ không phù hợp khi miêu tả độ cao của bầu trời, nhưng trong "Tràng Giang," chúng lại trở thành một biểu tượng sâu sắc về khoảng cách giữa đất và trời, làm nổi bật sự nhỏ bé của con người trước sự vô cùng lớn lao của vũ trụ. Khi rời xa tiếng chợ chiều, Huy Cận quay nhìn lại và chỉ còn "Sông dài trời rộng, bến cô liêu," cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, nhưng bến cô liêu trống trải và lạnh lẽo như chính tâm hồn của tác giả.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Khổ thơ thứ ba của "Tràng Giang" không chỉ là một đoạn văn thơ, mà là một bức tranh sâu sắc về nỗi đau, sự cô đơn, và bế tắc của tác giả, tìm thấy trong những hình ảnh đậm chất biểu tượng và hàm súc. Hình ảnh "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng" là một phát ngôn mạnh mẽ về sự lênh đênh, vô định của số phận con người trong cuộc sống. Bèo, trong văn hóa cổ điển, thường được coi là biểu tượng của sự phù du, bất an, và cuộc sống lênh đênh. Sự hỏi han "bèo dạt về đâu" thể hiện sự mất mát, tuyệt vọng trước hình ảnh không chắc chắn của cuộc đời. Cụm từ "hàng nối hàng" là một hình ảnh mạnh mẽ về sự kết nối của những số phận, nhưng đồng thời cũng là biểu hiện của sự bế tắc, không có hướng đi rõ ràng, mỗi "hàng" là một số phận, một đời sống, và chúng không thể nối với nhau để tạo ra sức mạnh lớn hơn. Tác giả chọn từ ngữ đơn giản nhưng gần gũi, tận dụng tình hình xã hội lúc bấy giờ để truyền đạt một thông điệp sâu sắc về bế tắc và cô đơn.

"Câu thơ tiếp 'Mênh mông không một chuyến đò ngang'" là một hình ảnh đẹp và đầy ý nghĩa. Nó không chỉ thể hiện cảnh đêm hoang vắng, trống trải của dòng sông, mà còn phản ánh sự trống trải, cô đơn của tâm hồn tác giả. "Không một chuyến đò ngang" không chỉ là hình ảnh về dòng sông bất động, mà còn là biểu tượng cho sự thiếu hụt, vắng bóng của những nỗ lực đoàn kết và hướng dẫn trong cuộc chiến tranh giải phóng. Trong cảnh đêm tăm tối, tác giả không tìm thấy nguồn sáng hy vọng, không có "đò ngang" nào chờ đón, đồng thời cũng làm nổi bật tình cảnh đau đớn, cô đơn của người lính, của những người muốn thay đổi thế giới mà không biết làm thế nào.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

hổ thơ thứ ba của "Tràng Giang" là một đoạn văn thơ đậm chất biểu tượng, nơi tác giả Cù Huy Cận lồng ghép những hình ảnh tuyệt vời để bộc lộ nỗi cô đơn và sự bất lực trước cuộc sống và thời cuộc. Hình ảnh "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng" là một tác phẩm nghệ thuật lôi cuốn, ám chỉ sự lênh đênh và vô định của số phận con người trong dòng đời. Bèo, biểu tượng của sự phù du, lênh đênh, được tác giả sử dụng để thể hiện nỗi đau đớn và sự bất lực trước số phận không chắc chắn. "Hàng nối hàng" là hình ảnh tuyệt vời, là biểu tượng của những số phận, mỗi số phận như một "hàng" liên kết với nhau, nhưng cũng làm nổi bật sự bế tắc và đau khổ trong sự liên kết này. "Câu thơ tiếp 'Mênh mông không một chuyến đò ngang'" là một bức tranh hoàn hảo về cảnh đêm u tối, trống trải của dòng sông và sự cô đơn giữa không gian rộng lớn. Sự im ắng của "không một chuyến đò ngang" là biểu tượng cho sự thiếu hụt, vắng bóng của những nỗ lực đoàn kết và hướng dẫn trong cuộc chiến tranh giải phóng. Tác giả giác ngộ một cách chân thực về thực trạng đất nước và con người khi gặp phải những khó khăn và sự cô đơn không lường trước được.

"Không cầu gợi chút niềm thân mật" là lời thở dài về sự thiếu hụt tình cảm và sự hiểu biết trong xã hội. Hình ảnh "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng" kết thúc bức tranh thơ bằng một tâm trạng yên bình, nhưng đầy ý nghĩa. Sự yên bình đó không phải là niềm an ủi, mà làm nổi bật sự cô đơn và đau khổ của tâm hồn tác giả giữa thiên nhiên tươi đẹp nhưng u tối. Tóm lại, khổ thơ thứ ba của "Tràng Giang" không chỉ là một phần trong bài thơ, mà là một kiệt tác nghệ thuật với những hình ảnh sâu sắc, biểu tượng và ý nghĩa sâu xa, tác giả thông qua từ ngữ tinh tế đã thành công bộc lộ sự bất lực và nỗi cô đơn trước cuộc sống và thế giới xung quanh.

Phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo (mẫu 10)

Huy Cận được gọi là nhà thơ của nỗi buồn vô hạn. Trước thời cuộc u tối, thơ ông dệt nên những nỗi buồn sâu thẳm. 'Tràng Giang' là một ví dụ điển hình, toả ra nỗi buồn chín chắn trước cuộc đời, trước biến cố thời đại. Dưới lớp buồn ấy là tâm sự chân thành, lòng yêu nước rất riêng.

Tên bài thơ với hai chữ 'ang' - một âm mở, bao quát, mênh mông. Dòng sông trong bài thơ không chỉ là một dòng nước bình thường mà nó còn đại diện cho tầm vóc vũ trụ. Sử dụng tiếng Hán cổ tạo ra không gian cổ điển, khái quát.

Không phải mọi tác phẩm đều có lời đề, nhưng khi có, nó thường mang ý nghĩa tổng quát của tác phẩm. Trước khi bắt đầu 'Tràng Giang', Huy Cận đã viết lời đề:

Mong manh trời mênh mang sông dài

Cách bố trí khổ thơ mở ra một không gian vũ trụ rộng lớn, mênh mông, thể hiện cảm giác lạc lõng, bơ vơ của con người, tương tự như những thi nhân đã từng trải qua. Khẩu đề thơ đã kích thích cảm xúc chung của bài thơ.

Bài thơ mở đầu bằng những dòng thơ chứa đựng nỗi buồn thâm sâu:

    Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    Con thuyền xuôi mái nước song song

    Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

    Củi một cành khô lạc mấy dòng

Các sóng biển đảo lộn theo hướng gió, tạo ra một không gian hoàn toàn yên bình. Nhưng không chỉ có cảnh vật, mà còn có tâm trạng 'buồn điệp điệp', nỗi buồn không chỉ tinh thần mà còn vật chất qua từ 'điệp điệp'. Nỗi buồn đó dày đặc, lan tỏa trong tâm hồn con người. Một điểm nổi bật là hình ảnh con thuyền trôi dạt, nhỏ bé giữa dòng sông. Từ 'xuôi mái' biểu thị sự chấp nhận, buông bỏ. Đó cũng có thể là tâm trạng của người Việt trong bối cảnh lịch sử đó. Thuyền trôi đi, để lại nỗi buồn vô tận cho quê hương. Điều đó được minh họa bằng hình ảnh cành củi khô cô đơn, vô dụng, cách đặt từ 'củi' ở đầu câu nhấn mạnh tính hữu hình, tầm thường. Hình ảnh 'củi khô' biểu hiện sự lạc lõng, bơ vơ giữa cuộc sống vô tận, đồng thời tượng trưng cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.

Huy Cận dịch chuyển tầm nhìn gần với những bãi, những cồn trước mắt mình. 'Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu' là một hình ảnh thực tế tại bãi giữa sông Hồng, kèm theo 'lơ thơ' 'đìu hiu' gợi lên cảm giác trống vắng, buồn bã. Trong không gian đó, tác giả tìm kiếm sự sống vẹn toàn, tiếng chợ xa, nhưng không gian im lìm, yên bình tới đáng kinh ngạc. Nỗi buồn càng sâu khi không gian mở ra vô tận, nắng chiều trải dài, sông dài - trời rộng, cùng từ 'sâu chót vót' mở rộng không gian 3 chiều: rộng, cao, sâu. Mô tả nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến tột cùng của con người trước vũ trụ.

Mắt Huy Cận tiếp tục tìm kiếm, nhìn về vô cùng và thu nhỏ lại chỉ còn:

    Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

    Mênh mông không chuyến đò ngang

    Không gợi lên niềm thân mật

    Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Những cánh bèo lênh đênh, không định hình nối tiếp nhau trôi, sự trôi chảy không mục đích, không hướng đi, giống như cuộc đời nhỏ bé, đơn độc lúc ấy. Không gian sông nước mênh mông không có một chuyến đò qua lại. Đò không chỉ là phương tiện di chuyển mà còn là sợi dây liên kết tình cảm. Nhưng tất cả đã biến mất: không, không chuyến đò nào, không chút tình thương nào còn lại ở đây.

Cuối bài thơ vẽ lên không gian phong phú, ông nhìn lên cao: 'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa'. Bầu trời với những đám mây lớn dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ. Động từ “đùn” cho thấy đám mây ùn ùn kéo về, tạo nên những dãy núi tráng lệ. Và giữa trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, như bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng trỗi dậy:

    Lòng quê dờn dợn vợi con nước

    Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.

Câu thơ gợi nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu về nỗi nhớ quê khắc khoải, nhưng Huy Cận có cách thể hiện mới, lạ. Lòng quê “dờn dợn” cứ tăng, mạnh lên, như sóng lòng càng mạnh mẽ. Nỗi nhớ quê luôn thường trực, dai dẳng, là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.

Tác phẩm kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Bài thơ cũng thể hiện lòng yêu nước sâu lắng.

1 41,902 07/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: