TOP 10 mẫu Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (2024) SIÊU HAY
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện lớp 11 Kết nối tri thức gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện
Đề bài:Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 1)
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một trong những tác phẩm chân thực nhất, ấn tượng nhất mà em từng đọc. Truyện không chỉ thu hút người đọc bởi tính phản ánh chân thực hiện thực của xã hội mà nó còn hấp dẫn ở lối tự sự đầy sáng tạo, hấp dẫn của tác giả khi miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Chí Phèo.
Cách kể chuyện ở đây không chỉ đơn thuần là cách kể về diễn biến của câu chuyện về những sự kiện, sự việc diễn ra trong đó. Ở đây, Nam Cao đã vận dụng cách kể chuyện độc đáo không chỉ trong các sự kiện mà còn trong cả diễn biến tâm lí của nhân vật, đặc biệt là diễn biến tâm lí của nhân vật Chí Phèo - từ sự biến đổi sau khi đi tù về cho đến quá trình hoàn lương trở thành người lương thiện.
Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã sử dụng cách kể chuyện độc đáo của mình để miêu tả một Chí Phèo say rượu, vừa đi vừa chửi. Điểm độc đáo ở đây là trong lời chửi, không chỉ là lời miêu tả của tác giả mà trong đó, có cả lời của chính nhân vật - những lời độc thoại nội tâm. Cách sử dụng những lời độc thoại nội tâm như vậy giúp người đọc có thể dễ dàng lắm bắt được diễn biến tâm lý nhân vật và thể hiện sự khai thác sự kiện trên cái nhìn đa chiều của tác giả. Tiếp đến, ông kể về Chí Phèo, là một đứa trẻ mồ côi lương thiện, bị bá kiến cho đi tù và ra tù, hắn trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Hắn trở thành một kẻ chuyên làm nghề rạch mặt, ăn vạ, ngày ngày say khướt và trở thành tay sai của bá kiến.
Đỉnh cao của nghệ thuật kể chuyện độc đáo của Nam Cao phải kể đến ở chỗ khi ông phân tích quá trình hoàn lương của Chí Phèo. Hắn gặp Thị Nở - người đàn bà xấu xí cho hắn biết cảm giác thế nào là tình yêu, là niềm hạnh phúc. Tỉnh dậy sau đến gặp thị Nở, nhận thức của Chí Phèo dần thay đổi. Hắn đã hết say và lắng nghe thấy những thanh âm trong trẻo của cuộc sống mà trước đây hắn chưa từng nghe thấy. Hắn thấy vui rồi lại buồn, rồi lại nghĩ về tương lai, mơ ước về cuộc sống hạnh phúc, giản dị và bình yên. Chí Phèo đang cảm thấy hạnh phúc, chìm đắm trong tình yêu và sự quan tâm của thị Nở. Sau khi nghe lời khuyên của bà cô, thị quay ra đòi chia tay hắn, Chí Phèo muốn níu kéo niềm hạnh phúc nhỏ nhoi này nhưng hắn nhận ra, hắn chẳng có gì để níu kéo. Hắn muốn tìm lại kẻ đầu sỏ, kẻ khiến hắn trở lên như vậy - bá kiến. Đến đây, Nam Cao đã lột tả hết tài năng miêu tả diễn biến tâm lý của mình, ông khoan dung với số phận của hắn, tin tưởng vào sự lương thiện của con người khi miêu tả niềm vui, sự hạnh phúc nhen nhóm của Chí Phèo.
Bởi vậy, sức hấp dẫn của Chí Phèo không chỉ nằm ở cốt truyện giản dị, thật tâm về người nông dân, nông thôn Việt Nam trong những năm chiến tranh, mà nó còn nằm ở sự độc đáo trong cách kể chuyện, miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật một cách chỉn chu, đa dạng trên nhiều phương diện khác nhau để soi chiếu được rõ nhất tâm lí của mỗi nhân vật.
Vì vậy, truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao xứng đáng là một trong những tác phẩm hay nhất, kinh điển nhất về nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật của một nhà văn luôn phản ánh cuộc sống đời thực của những người bất hạnh trong xã hội. Nhưng qua đó, ông cũng khẳng định sự lương thiện luôn ẩn chứa trong họ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 2)
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nội bật trong số đó chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm 1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng. Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng đang ở “những búi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt”.
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, quả thực lúc này thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại “nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó, nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng, cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 3)
Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, "Vợ nhặt" của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch “nhặt” được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết - cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng. Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê. Con mắt “nhỏ tí”, bộ mặt “thô kệch”, cái đầu “trọc nhẵn” lại có tật “vừa đi vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ... chỉ “tầm phơ tầm phào đâu có hai bận”, một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh, chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã “nhặt” được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã “liếc mắt cười tít” làm cho Tràng “thích lắm”.
Tràng “nhặt” được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói “xanh xám như những bóng ma”. Mùi gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, “cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Xóm ngụ cư “xác xơ heo hút”. Tràng “nhặt” vợ mà cảm thấy “chợn” vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà “lại còn đèo bòng”. Trên đường dẫn “vợ mới vợ miếc” về nhà, hắn “phớn phở” khác thường, “tủm tỉm cười nụ”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”... Còn thị thì “thèn thẹn hay đáo để”, “đứng ngay đầu giường” thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không”. Tối “tân hôn” của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng “tiếng khóc hờ tỉ tê” của những gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.
Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn dội lên “dồn dập vội vã”. Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía trước có lá cờ đỏ to lắm!
Tình huống “nhặt” vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm họa năm Ất Dậu “người chết như ngả rạ”. Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người “gầy sọp”, áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, “cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc”. Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thẳm, là chết đói, Thị phải “theo trai”, phải lấy Tràng...
Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái mắt cười câu mắng yêu và cái củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải “nhặt” mới có vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối tăm, nghèo khổ, cô độc, để mừng “vợ mới vợ miếc”, để soi sáng hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.
Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là “chè khoán ngon đáo để”, những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói với con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.
Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng “nhặt” vợ, Kim Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể “nhặt” được vợ.
Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chia cho người đói,... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo của truyện “Vợ nhặt” đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 4)
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.
Là cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn là “con đẻ” của đồng ruộng. Những ông Hai, bà cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công và sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại (1954) truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc sống của những người không có “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mà mình sinh sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, có hạnh phúc nhưng cũng đầy rẫy những lo toan. Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú. Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lý và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:
Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?
- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.
- Quái nhỉ?
Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.
- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.
Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”. Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.
Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lý giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”, rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.
Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng: người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.
Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra là một anh thanh niên chất phác, hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có đời sống nội tâm có phần hơi đơn giản. Bà cụ Tứ mang trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt” được vợ, bà vừa mừng vừa lo. Bà hiểu cái tao đoạn mà bà và những người xung quanh đang phải trải qua, hiểu vị trí của những người dân ngụ cư trong quan niệm của người khác, hiểu được tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông cho hành động theo không của người đàn bà “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà là người gợi ra tương lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hy vọng. Còn ở cô “vợ nhặt” thì tính cách có sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong tư cách một người vợ, một người quen, dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.
Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con người có thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc. Người lao động, dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng về ánh sáng, tin tưởng ở sự sống và tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm là ở đó. Cầu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến. Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ...” và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên”. Và tất nhiên, nhiều nhất phải nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt”, giờ đây đã trong vai trò của một người vợ hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.
Xây dựng tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã một lần nữa chứng minh cái tâm, cái tài của mình với tư cách là một nhà văn một đời đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn trong tác phẩm.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 5)
Vấn đề số phận con người, về những bi kịch đày đọa đến cùng cực đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Với ngòi bút phản ánh hiện thực sâu sắc, khai thác tấn bi kịch tinh thần của những kiếp đời “chết ngay trong lúc sống”, Nam Cao đã để lại cho người đời sau một kiệt tác - truyện ngắn “Chí Phèo” - một sáng tác được xem là kết tinh của thực trạng nhân phẩm bị hủy hoại đến tàn khốc, của nỗi đau khôn nguôi ở kiếp người.
Về nội dung, Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng xoay quanh cuộc đời của một nhân vật chính cùng tên. Toàn bộ tác phẩm khắc họa quá trình tha hóa nhân phẩm, quá trình trượt dài lương thiện của Chí. Xuất phát điểm là một anh nông dân hiền lành, chỉ biết cuốc mướn làm thuê với ước mơ giản dị: “Hình như một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Rồi dưới xã hội “quần ngư tranh thực” ấy, anh nông dân kia rơi vào con đường tha hóa, bần cùng hóa để trở thành một tên chuyên rạch mặt ăn vạ, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nam Cao đã chú trọng phơi bày mâu thuẫn giai cấp, phơi bày bộ mặt kinh tởm của những người đã gây ra cho đời một thung lũng đau thương nhuộm đầy máu và nước mắt. Lí Kiến (hay Bá Kiến) là “một con hổ biết cười”, một con rắn đầy nọc độc, bản chất thối tha, dâm đãng, háo sắc, thủ đoạn mưu mô “mềm nắn, rắng buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”…
Thông qua việc khắc họa nhân vật, đặc biệt là Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật này được xây dựng trên những đặc điểm tính cách tiêu biểu: hiền lành, thật thà; chăm chỉ, cần cù; thiết tha lương thiện nhưng cuối cùng lại bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn. Chí ngật ngưỡng bước ra trang sách bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”, bằng bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ để phải cam chịu cảnh tủi nhục “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai mươi tuổi thì làm canh điển cho nhà Bá Kiến”, bằng những lần rạch mặt ăn vạ… để rồi nhờ Thị mà thức tỉnh và cũng chính sự thức tỉnh ấy dẫn đến hành động trả thù, đem đến một kết quả thương tâm: Ý thức lương thiện trỗi dậy trong hoàn cảnh bi kịch và khi ý thức ấy hồi sinh mạnh mẽ thì sinh mạng con người phải mất đi.
Sự kiện có tính chất tạo và chuyển biến tâm lí của nhân vật Chí Phèo là sự xuất hiện của Thị Nở. Tuy nhiên, Nam Cao không miêu tả sự xuất hiện ấy một cách ngọt ngào cũng không ưu ái cho cuộc tình kia một cái cục đẹp, một giấc mơ hạnh phúc đền trả cho những con người bất hạnh. Sau một đêm ở vườn chuối và được Thị Nở – một người đàn bà xấu xí và gàn dở chăm sóc, Chí Phèo đã nghe lương tri trỗi dậy từ bên trong. Từ một thằng săng đá, “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơn cơn, hai con mắt gườm gườm trong gớm chết”, hắn đã thấy được những hình ảnh đầu tiên, những âm thanh đầu tiên của cuộc đời của một con người – một con người thực sự. Đó là hình ảnh mặt trời bên ngoài, là tia nắng rực rỡ, là tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, là tiếng cười nói của những người đi chợ, là tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Chao ôi bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu thanh âm thường hằng của cuộc sống mà đến giờ anh mới thấy, mới nghe, mới nhận ra “bởi vì chưa bao giờ anh hết say”. Hắn đã tư lự giật mình về quá khứ, hiện tại và tương lai của chính mình.
Bát cháo hành thị Nở có lẽ là một trong những chi tiết nổi bật nhất trong truyện ngắn. Với ba lần xuất hiện, bát cháo hành đã thực hiện ngoạn mục cú lội ngược dòng cho nhân cách Chí Phèo, từ một tên lưu manh bị tha hóa trở về con đường thèm khát lương thiện, thèm khát hạnh phúc đời thường.
Lần đầu tiên cầm bát cháo hành trên tay, hắn đã thấy mắt mình hình như ươn ướt bởi “xưa nay nào có ai tự nhiên cho hắn cái gì”, hắn phải dọa nạt, phải giật cướp, phải làm cho người ta khiếp sợ. Đấy là bát cháo là của tình thương, của tình người, của một kẻ gàn dở duy nhất không chối từ hắn ở cái làng Vũ Đại kia. Lần thứ hai là sau khi hắn bị Thị Nở từ chối, bị định kiến xã hội chà đạp, hắn ngẩn người ra và đã ngửi thấy hương cháo hành. Lần thứ ba thoang thoảng thấy hương cháo hành là ngay sau đó, khi Thị chì chiết và bỏ đi, hắn ngay lập tức đã muốn giết cả gia đình nhà “con đĩ Nở” kia.
Nhưng Chí đã không làm vậy, Chí đã gục đầu vào men rượu, uống cho tới say mèm đi và ôm mặt khóc rưng rức, nhưng lạ là hơi rượu không sặc sụa mà chỉ có hương cháo hành thoảng qua. Qua đó ta thấy, bát cháo hành là liều thuốc đã cứu rỗi lấy lương tâm quỷ dữ, dù cho sự thức tỉnh về sau phải dẫn tới những cái chết tàn khốc không kém. Chí đã thực sự tỉnh táo, thực sự nhận ra những mất mát đau đớn: mất người tình, mất cơ hội duy nhất để trở về cuộc sống lương thiện. Một kẻ tưởng như phải sống trọn đời là quỷ dữ, chỉ cần nhờ một bát cháo hành nhỏ nhoi, một hương cháo hành ấm áp đã có thể quay về khao khát bản tính con người mới đủ thấy, sức cảm hóa của tình thương lớn đến nhường nào.
Một chi tiết khác quan trọng không kém đó là cái lò gạch cũ – một địa điểm ghi dấu những thân phận bi kịch như lời nguyền của số phận. Là nơi bắt đầu cuộc đời bị khước từ của Chí Phèo cũng là nơi hứa hẹn một cuộc đời khác, một thằng Chí Phèo con với cuộc đời bị bóp nát chẳng kém khi hình ảnh cái lò gạch cũ chợt hiện ra trong đầu thị: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…”. Chí Phèo sau khi thức tỉnh thực sự, sau khi nhận ra kẻ đã dồn đẩy mình vào đường cùng của sự sống, khiến hắn mất mát cả nhân hình lẫn nhân tính đã đến nhà Bá Kiến đòi lại món nợ “lương thiện”. Câu hỏi day dẳng: “Ai cho tao lương thiện?” có lẽ sẽ ám ảnh người đọc muôn đời.
Giết chết Bá Kiến chính là sự giải thoát cho bản thân. Tự vẫn chính là hành động để hắn cứu lấy chính mình. Nhưng đến khi con người ấy chết đi, xã hội vẫn loại bỏ hắn đến cùng. Người ta vui mừng trước cái chết của tên Bá Kiến và thằng Chí Phèo. Đau đớn đến thế là cùng! Một thảm kịch tang thương kết thúc cho một số phận bùn nhơ. Thảm kịch ấy kết thúc một đời người nhưng nỗi cái chết của Chí Phèo chung cục chỉ đổi lấy sự hả hê, mỉa mai của dân làng Vũ Đại.
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao chẳng những thành công trên cả phương diện nội dung đã nói ở trên mà còn nổi bật trên phương diện nghệ thuật. Ngôn từ sắc, lạnh trong khắc họa nhân vật nhưng ấp ủ bên trong là một trái tim ấm, nóng luôn sôi sục yêu thương đã thể hiện được sự đa chiều trong tính cách nhân vật. Lối kể chuyện hấp dẫn, để cho nhân vật thản nhiên bước vào bằng những tiếng chửi chớ không phải bằng sự dàn dựng truyền thống, giới thiệu chi tiết ban đầu đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc. Những chi tiết được chọn lọc, xây dựng kĩ lưỡng, khéo léo đã đi từ tác phẩm văn chương vào hiện thực đời thường. Đặc biệt là kết cấu truyện vòng tròn – một điểm sáng trong cách viết của cả một giai đoạn văn học đương thời.
Tóm lại, truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao là một tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám. Đó là lời tố cáo xã hội đanh thép, là tiếng kêu thống thiết cứu lấy nhân tính con người vẫn còn âm vang cho đến ngày nay.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 6)
Tác giả Kim Lân - một trong những cây bút văn học nổi bật khi viết về đề tài nông thôn của đất nước Việt Nam ta. Tên tuổi của ông cũng gắn liền với những tác phẩm văn học có tính bình dị, nhân văn rất sâu sắc của những người nông dân chân chất, thật thà, chất phác phải sống ở trong thời buổi loạn lạc của đất nước khi bị giặc xâm chiếm. Bởi vì thế, phong cách nghệ thuật trong lối kể chuyện của ông cũng luôn là một điều khiến cho rất nhiều người đọc phải chú ý đến.
Trước hết là về việc Kim Lân đã lựa chọn chủ đề, đề tài cho tác phẩm văn học. Ngay từ nhan đề tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã thể hiện được nội dung của truyện ngắn. Động từ “Nhặt” chuyên sử dụng với những thứ đồ không có giá trị, rẻ rúng, không ai cần không ai muốn. Còn “Vợ” lại là người quan trọng trong gia đình, là người giữ lửa hôn nhân, là phần hồn của mỗi ngôi nhà. Hai từ có giá trị trái ngược nhau nhưng lại được đặt cạnh nhau. Đây chính là minh chứng rõ nhất cho giá trị con người thời đó, rẻ rúng như ngọn cỏ ven đường vô chủ ai muốn lấy thì lấy, ai muốn nhặt thì nhặt. Theo lẽ thường ngày dựng vợ gả chồng là việc trọng đại, phải mất thời gian tìm hiểu, tốn tiền bạc để tổ chức đám cưới thì Tràng lại ra đường nói vài câu vu vơ đã có được một cô vợ. Đó là sự khốn khổ của con người khi hạnh phúc đời mình cũng không bằng một bữa ăn no.
Chỉ qua nhan đề với hai chữ đã có thể lột tả được hết hoàn cảnh của tác phẩm. Đó là nạn đói năm 1945 khiến cho giá trị con người sụt giảm nghiêm trọng. Nhưng đó cũng là nền cho lẽ sống của con người, là niềm tin về cuộc sống tốt đẹp, là sự đồng hành hỗ trợ “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta. Các tác phẩm văn học của ông hầu như đều hướng về vùng nông thôn - nơi sinh sống của những con người nông dân chất phác, giàu tình yêu thương con người với nhau nhưng lại có một cuộc sống thường sẽ là khó khăn, bất hạnh. Tất cả họ đều là những con người nông dân nghèo khổ nhưng lại rất giàu tình thương giữa người với người, tình yêu về quê hương đất nước dù có đang phải hứng chịu đựng chiến tranh, loạn lạc, cái đói khát đang hoành hành.
Về tình huống truyện của Vợ nhặt, Tình huống truyện này không chỉ tạo ra sự ngạc nhiên cho người đọc vì không ai nghĩ được rằng “Vợ” có thể có được nhờ “Nhặt. Đó cũng là sự bất ngờ của chính bản thân Tràng, của bà cụ Tứ, của cả bà con hàng xóm vì không ai trong thời điểm nghèo đói này lại đi mang về thêm một miệng ăn.
Tình huống truyện này cũng thể hiện thái độ của tác giả Kim Lân với nhân dân Việt Nam và xã hội thời bấy giờ. Nhà văn đã mạnh mẽ lên án thực dân Pháp, phát xít Nhật cùng với bọn tay sai bán nước đã khiến cho đất nước ta lâm vào cảnh lầm than. Đó cũng là lời xót thương cho số phận của nhân dân ta, là nỗi đau khi thấy con người không đủ ăn, phải chạy từng bữa ăn hàng ngày với số kiếp rẻ rúng bị coi thường. Nhưng dù cho ở hoàn cảnh đấy, nhà văn Kim Lân vẫn luôn có cách để tôn lên được vẻ đẹp trong tâm hồn của con người. Dù có ở trong hoàn cảnh khắc nghiệt khó khăn nào người dân Việt Nam ta vẫn luôn cố gắng yêu thương nhau, đùm bọc hỗ trợ nhau vượt qua nghịch cảnh.
Tiếp đến là phải kể đến nghệ thuật trong miêu tả chân dung, tâm lý nhân vật của tác giả qua từng tác phẩm. Các nhân vật trong câu chuyện của ông đều hiện lên với những tính cách mới mẻ, tâm lý khác nhau và đã được thể hiện thông qua từng cử chỉ, hành động và lời nói nhỏ nhất. Như trong tác phẩm Vợ nhặt, bà cụ Tứ đã hiện lên là một người mẹ già nghèo khổ nhưng lại rất hiền từ, nhân hậu, vóc dáng của bà cũng đã thể hiện lên được rằng bà đang phải trải qua một cuộc đời khổ đau, bất hạnh mà đáng nhẽ bà phải được tận hưởng những hạnh phúc khi về già. Người mẹ già nghèo ấy, dù vậy nhưng vẫn dạt dào được tình thương, không chỉ dành tình yêu thương cho đứa con trai ruột mà còn là dành cho cô con dâu mới được “nhặt” về. Bà đã thương cho số phận của hai đứa con cũng như thương cho chính thân phận của mình. Nhưng dù vậy bà cũng luôn luôn hướng các con đến với một tương lai tươi sáng hơn, cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn cho dù nạn đói vẫn đang hoành hành, hiện hữu và đã lấy đi không biết bao nhiêu mạng người.
Cuối cùng đó chính là nghệ thuật sử dụng ngôn từ vô cùng độc đáo. Chúng ta không thể phủ nhận được rằng ông rất có biệt tài trong việc tìm kiếm, lựa chọn và vận dụng những ngôn từ hết sức tuyệt vời với sự kết hợp rất hài hòa nhưng vẫn giữ được những nét mộc mạc, giản dị của những ngôn ngữ đồng quê. Như ở trong truyện ngắn Vợ nhặt, ta có thể dễ dàng bắt gặp được những từ ngữ miêu tả về chân dung các nhân vật một cách rất sáng tạo nhưng mà cũng hợp lý như “gà gà", "nhấp nhỉnh" ...
Tóm lại, nhờ vào tính chất sắc sảo ở trong từng lời văn cũng như mô tả nhân vật, truyện ngắn của tác giả Kim Lân luôn để lại những ấn tượng sâu sắc ở trong lòng người đọc về triết lý trong xã hội đầy sâu sắc về tình người và tình yêu quê hương và đất nước. Để từ đó có thể khẳng định song hành cùng nhiều những vấn đề về miếng cơm manh áo thì đó chính là vấn đề tình người và đây mới chính là yếu tố quan trọng nhất cứu rỗi được những cuộc đời bất hạnh của mọi người dân trong thời buổi loạn lạc ấy của nước chúng ta.
Chọn một tác phẩm truyện để lại cho bạn nhiều ấn tượng về cách kể chuyện (mẫu 7)
đang cập nhật
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Toán 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Toán 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Toán 11 – Kết nối tri thức
- Bài tập Tiếng Anh 11 Global success theo Unit có đáp án
- Giải sgk Tiếng Anh 11 – Global success
- Giải sbt Tiếng Anh 11 - Global Success
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 11 Global success đầy đủ nhất
- Ngữ pháp Tiếng Anh 11 Global success
- Giải sgk Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Vật lí 11 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Giải sgk Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Hóa 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Hóa 11 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Giải sgk Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Lịch sử 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Địa lí 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Công nghệ 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Công nghệ 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Công nghệ 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Tin học 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng an ninh 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Giáo dục quốc phòng 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 – Kết nối tri thức