TOP 10 mẫu Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ (2024) SIÊU HAY
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho em nhiều suy nghĩ về vấn đề lựa chọn và hành động trong cuộc đời.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 1
Tình cảm giữa người với người, người với vật, người với đất là tư tưởng thiêng liêng, quan trọng trong bất kỳ thời đại nào. Nhà thơ Thanh Sao cũng từ cảm xúc ấy mà viết nên bài thơ “Gặp lá gạo nếp” khiến ông suy nghĩ nhiều về tình cảm con người.
Bài thơ “Gặp lá gạo nếp” nói về người mẹ già và tình cảm của người con đối với đất nước. Thanh Thảo đã gửi gắm nhiều tâm tư, hoài niệm, cảm xúc qua nhân vật người con trai. Trong những lần hành quân qua chiến trường Trường Sơn, tình cờ con tôi ngửi thấy mùi lá nếp vừa lạ vừa quen. Cái mùi này làm tôi nhớ đến hình ảnh người mẹ cần cù, chăm chỉ đứng bếp nấu cơm, nó làm tôi bỗng nghẹn ngào. Hương thơm của phương trời này cũng đã gợi nhớ hương vị quê nhà, nên nỗi nhớ được chia sẻ giữa mẹ già và đất nước. Nỗi nhớ nhung thủy chung ấy đã thắp lên ngọn lửa đỏ thắp sáng tâm hồn nhạy cảm và quyết tâm làm tròn trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc.
Qua mối liên hệ thiêng liêng giữa đứa con xa nhà và mẹ. Chúng ta cũng có thể tự suy nghĩ, ngẫm ra. Trong cuộc sống, chúng ta bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ. Chúng ta gắn bó với cha mẹ và anh chị em của chúng ta từ khi sinh ra. Tình cảm này chắc chắn luôn thiêng liêng và quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người. Dù mai này ta có lớn lên và đi xa, khi cuộc sống còn nhiều gánh nặng, khó khăn thì nơi bình yên và hạnh phúc nhất chính là gia đình. Người ta nói giữa cha mẹ và con cái luôn có một sợi dây liên kết vô hình. Nó thực sự rất đúng. Hình ảnh cha mẹ luôn gắn liền với công sinh thành, dưỡng dục khôn lớn, vì vậy bổn phận của chúng ta là phải yêu thương, kính trọng và tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ hết mức có thể. Tình yêu này rất đặc biệt đến nỗi không gì có thể thay thế được tình yêu sâu đậm của cha mẹ dành cho con cái, cũng như lòng biết ơn và sự phụ thuộc của con cái vào cha mẹ.
Xa hơn nữa là tình yêu quê hương đất nước. Sinh ra trong một cộng đồng nhỏ là một gia đình, và cho đến khi lớn lên, trưởng thành, con người cần chung sống và cống hiến hết mình cho cộng đồng lớn hơn. Đó là xã hội, quê hương, đất nước. Trong xã hội hòa bình ngày nay, chúng ta không còn cần phải cống hiến sức mình cho kháng chiến cách mạng như chúng ta đã từng làm. Nhưng nếu đất nước cần chúng ta, thì với tư cách là những người trẻ tuổi, chúng ta phải sẵn sàng tham gia tích cực vào việc bảo vệ đất nước của mình. Đừng thờ ơ, lảng tránh mà hãy mạnh dạn, tự tin làm chủ đất đai, sông núi, phát triển đất nước ngày càng phát triển theo lời Bác dạy để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Tóm lại, tình cảm của con người trong cuộc sống rất đa dạng vì con người là những cá thể nhỏ bé trong một cộng đồng lớn. Trao yêu thương luôn. Chúng ta luôn ở lại với những điều đơn giản nhất xung quanh chúng ta.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 2
Kính chào thầy cô và các bạn học sinh, tôi tên là…, học sinh lớp… trường… Sau đây, tôi sẽ giới thiệu về tác phẩm nghệ thuật, bức tranh Sự dai dẳng của kí ức Của Salvador Dali.
Sự dai dẳng của ký ức Của Salvador Dali là một trong những tác phẩm ấp ủ nhất của anh ấy từ một cuộc đời sung mãn. Nó được vẽ vào năm 1931 rất lâu sau khi ông theo học trường nghệ thuật ở Madrid và Barcelona. Công việc ban đầu của anh ấy trong suốt quá trình học tập của anh ấy phản ánh năng khiếu khác thường đối với nhiều phong cách khác nhau.
Vào những năm 1930, khả năng vô song của Dali với tư cách là một nghệ sĩ được kết hợp với việc ông khám phá ra những lời dạy của Sigmund Freud về hình ảnh tiềm thức, và phong cách trưởng thành dễ nhận biết của ông đã được giới thiệu với thế giới. trước khi sơn Sự dai dẳng của ký ức Dali cũng đã làm quen với những người theo chủ nghĩa Siêu thực ở Paris. Anh ấy cảm thấy có khả năng tạo ra nghệ thuật đột phá sẽ thiết lập hiện thực trong tiềm thức.
Hình ảnh mang tính biểu tượng của chiếc đồng hồ bỏ túi đang tan chảy đã khiến Sự dai dẳng của ký ức một trong những bức tranh dễ nhận biết nhất của Dali. Bức tranh là một ví dụ tuyệt vời về sự tương phản giữa những đường nét cứng rắn sắc nét và sự mềm mại tan chảy. Bản thân những chiếc đồng hồ tượng trưng cho khái niệm về thời gian đã qua và có lẽ là sự không liên quan của thời gian trong vũ trụ. Dali có thể đã bình luận về cách giải thích của Chủ nghĩa siêu thực đối với thuyết tương đối của Albert Einstein.
Dali đã vẽ một hình người trừu tượng ở giữa bố cục mà một số người hiểu là một bức chân dung tự họa. Nhân vật kỳ lạ này là một vị khách định kỳ trong tác phẩm của anh ấy và đại diện cho một linh hồn du hành trong cả cõi thực và tiềm thức. Dali thường tự đánh thuốc mình vào trạng thái ảo giác và dành nhiều thời gian để khám phá tiềm thức của mình. Nhân vật trong bức tranh chỉ nhắm một mắt gợi ý trạng thái mơ.
Kiến bò qua đồng hồ ở phía dưới bên trái của bức tranh. Dali thường vẽ kiến để tượng trưng cho sự suy tàn. Điều này liên kết một cách hiệu quả trong cõi phàm trần với hoạt động rõ ràng là sự mô tả của tiềm thức.
Có khả năng đồng hồ đã được Salvador Dali sử dụng để tượng trưng cho tỷ lệ tử vong thay vì thời gian theo nghĩa đen. Và những vách đá cung cấp bối cảnh là ấn tượng về một phần của Catalonia, ngôi nhà thời thơ ấu của Dali.
Đây là một bức tranh khá nhỏ, ít nhất là không lớn như bạn nghĩ. Trong khi bức tranh này là một trong những chiến thắng lớn nhất của Dali, kích thước thực tế của bức tranh sơn dầu này chỉ có kích thước 9 1/2″ x 13″.
Bức tranh này lần đầu tiên được trưng bày tại Phòng trưng bày Julien Levy và là một phần trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) ở Thành phố New York từ năm 1932, nhờ một nhà tài trợ ẩn danh.
Trên đây là phần trình bày của tôi, cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 3
Chắc hẳn những bộ phim về chiến tranh Việt Nam không còn quá xa lạ với thầy cô và các bạn. Nhưng có một bộ phim luôn khiến em tâm đắc và day dứt khi xem mà hôm nay em muốn giới thiệu đến mọi người.
Chiến tranh đã qua đi, nhưng những nỗi đau để lại dường như còn mãi, đặc biệt đối với những người có người con, người anh, người chị của mình đã ngã xuống vì độc lập của dân tộc. “Mùi cỏ cháy” là một bộ phim ấn tượng nói về Việt Nam năm 1972 tại Thành cổ Quảng Trị - nơi biết bao người thanh niên trẻ đã ngã xuống vì độc lập của Tổ quốc. Bộ phim như nhắc nhở chúng ta về cái giá phải trả cho độc lập tự do là quá lớn.
Mùi cỏ cháy là bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại tâm lý xã hội và chiến tranh được công chiếu vào năm 2012. Bộ phim do Hãng phim truyện Việt Nam sản xuất. Kịch bản do nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm chấp bút, dựa trên quyển Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Đạo diễn phim là Nguyễn Hữu Mười – một đạo diễn tài năng và được nhiều người biết đến. Bối cảnh chính của phim là sự kiện Mùa hè đỏ lửa 1972 với trận chiến tại Thành cổ Quảng Trị.
Giá trị của phim không chỉ được kể đến bởi sự tỉ mỉ trong kịch bản, góc quay… mà nó đến từ nội dung đầy ý nghĩa, sâu sắc về thế hệ trẻ một thời hết lòng phụng sự cho Tổ quốc. Bộ phim xoay quanh câu chuyện về 4 chàng sinh viên Hà thành Hoàng, Thành, Thăng và Long ở lứa tuổi đôi mươi, khi họ vừa mới bước chân và làm quen với môi trường đại học. Sống trong cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo và đứng trước lệnh tổng động viên của Chính phủ, 4 chàng thanh niên trẻ đã tình nguyện lên đường nhập ngũ, dấn thân vào chiến tranh và trở thành những chiến sĩ quả cảm. Tinh thần quả cảm, bất diệt đó của họ đã chiến thắng những ham muốn cuộc sống nhàn hạ, vui vẻ của tuổi đôi mươi, họ ra đi vì độc lập của Tổ quốc. Trong phim có một câu nói khiến em ấn tượng mãi đó là khi Thủ trưởng Phong hỏi bốn chàng thanh niên trẻ có thấy hối tiếc vì lựa chọn của mình không, Hoàng đã không ngần ngại nói: “Chúng em cũng hơi tiếc ạ. Nhưng còn hối tiếc hơn nếu như trong đội ngũ những người ra trận hôm nay không có chúng em”. Đó là câu trả lời chứa đựng đầy sự hồn nhiên, nhưng pha lẫn đầy khí phách của một chàng thanh niên tuổi đôi mươi nhưng thấu hiểu sự đời và hoàn cảnh của đất nước. Họ chính là đại biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ, luôn mang trong mình nhiệt huyết dâng trào của tuổi trẻ, một lòng muốn phụng sự cho Tổ quốc, khi Tổ quốc lâm nguy, sẵn sàng từ bỏ tất cả và đi vào chiến trường, chiến đấu để giành lấy độc lập cho Tổ quốc. Những người thanh niên trẻ ấy từ sự hồn nhiên của tuổi trẻ, được thể hiện qua câu hát của Long trên chiếc xe chở quân vào chiến trường: “Ta là con của bố mẹ ta. Nhớ nhà ta trốn ta về”; thú bắt ve sầu rồi áp tai nghe tiếng kêu ve ve của Thành và niềm đam mê chơi chọi dế của Thăng…” Và rồi, trải qua sự rèn luyện khắc nghiệt trong quân đội và trực tiếp chiến đấu với kẻ thù, tận mắt chứng kiến đồng đội của mình hy sinh, họ dần trưởng thành và trở thành những chiến sĩ dũng cảm, sống vì mục tiêu cao cả hơn.
Cùng với đó là những hình ảnh về sức tàn phá của chiến tranh, chân thực đến đau lòng. Bằng cách tạo dựng bối cảnh của cuộc chiến hết sức chân thật, đạo diễn Nguyễn Hữu Mười đã khiến người xem không thể kìm nổi nước mắt khi chứng kiến hình ảnh hàng trăm chiến sĩ bị trúng bom mìn khi vượt sông Thạch Hãn, máu nhuộm đỏ dòng sông; cảnh Long đứng giữa trời đạn bom kêu gào thảm thiết: “Đừng tấn công nữa!…” và bị bom giặc cướp mất tính mạng; hay hình ảnh một chiến sĩ mù vẫn cầm lựu đạn mò mẫm ra chiến trường chiến đấu với kẻ thù… Khung cảnh chiến tranh năm 1972 đó dường như đang được hiện hữu rõ ràng trước mắt người đọc, nó khiến chúng ta không khỏi xúc động, nghẹn ngào mà thậm chí là căm thù kẻ thù xâm lược, về những đau thương mà chúng gây ra cho chúng ta trong những năm tháng chiến tranh thảm khốc.
Bên cạnh đó, một chi tiết rất đắt giá vẫn được ekip làm phim thể hiện rất tài tình, đó là ở nơi ranh giới giữa sự sống và cái chết đang cận kề ấy, đạo diễn vẫn dành cho những nhân vật của mình những giây phút bình yên suy ngẫm về gia đình, chiến tranh, tình cảm đồng chí, đồng đội… Đó là một dấu ấn mang đậm nét tình cảm của phim. Họ khẳng định dù trong hoàn cảnh sự sống luôn bị đe dọa như vậy, nhưng những tình cảm, cảm xúc chân thực của con người vẫn được thể hiện, họ vẫn tin yêu vào cuộc sống và đó chính là động lực để họ đứng đến đấu tranh và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Đó đều là tình cảm chân thành, sự quý mến sâu sắc.
Như vậy, qua những trang nhật ký của Thăng, những vần thơ của Hoàng, những bức thư thấm đẫm nước mắt của Thành vĩnh biệt mẹ và lời hứa trở lại (không thực hiện được) của Long đối với một cô gái anh gặp trên đường hành quân… “Mùi cỏ cháy” đã tố cáo tội ác của chiến tranh một cách đầy đủ nhất, chân thực và sinh động nhất. Không những thế, nó đã chạm đến những giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc về tình người, về lẽ sống của cả một thế hệ trẻ thời chống Mỹ.
Trên đây là toàn bộ phần trình bày của em về bộ phim “Mùi cỏ cháy”, rất mong nhận được sự góp ý của cô và các bạn để bài trình bày của em được hoàn thiện hơn. Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 4
“Chữ người tử tù” còn đặc biệt xuất sắc bởi những giá trị nghệ thuật mà tác giả xây dựng. Đầu tiên phải kể đến nghệ thuật tạo tình huống truyện thật độc đáo đó là cuộc gặp gỡ chốn lao tù giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Trên bình diện xã hội họ là kẻ thù. Còn trên bình diện nghệ thuật, họ là những tri kỉ. Tình huống truyện độc đáo đã góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật và tô đậm chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng hết sức đặc sắc. Nhân vật được xây dựng từ cái nhìn tài hoa của người nghệ sĩ với bút pháp lãng mạn, đặt nhân vật trong mối liên hệ tương phản và cách miêu tả gián tiếp. Nghệ thuật tạo dựng cảnh cho chữ. Tác giả đã sử dụng triệt để thủ pháp đối lập để miêu tả cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có”, qua đó góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật. Nguyễn Tuân còn đặc biệt cho thấy mình là bậc thầy trong sử dụng ngôn ngữ với việc sử dụng một loạt các từ Hán Việt rất đắt giá tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính và bi tráng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một tác phẩm xuất sắc cho thấy tài năng nghệ thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập “Vang bóng một thời” chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến “Chữ người tử tù” với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
“Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên “Dòng chữ cuối cùng”, sau in thành sách đổi thành “Chữ người tử tù”. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.
Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.
Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 5
Tài sản về vật chất có thể nhanh đến và nhanh đi nhưng tài sản về tinh thần thì sẽ luôn luôn được lưu giữ. Người ta cũng không thể đem tài sản tinh thần ra để định giá bởi vì nó là vô giá. Đối với tất cả người dân Việt Nam, chúng ta có nhiều khối tài sản tinh thần chung và trong số đó không thể không nhắc đến đó chính là Truyện Kiều. Tác phẩm giống như một viên ngọc sáng mà tất cả các nhà văn, nhà thơ đều ao ước mình có thể làm nên một tác phẩm như vậy.
Kiệt tác vĩ đại Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm theo thể loại truyện thơ. Toàn bộ tác phẩm gồm 3254 câu thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc. Mặc dù được viết dựa theo cốt truyện cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng Nguyễn Du đã có sự sáng tạo để tạo nên một Đoạn Trường Tân Thanh phù hợp với văn hoa của người Việt và thể hiện được những tinh hoa trong ngôn ngữ của người Việt.
Cốt truyện xoay quanh cuộc đời của Thúy Kiều, một người con sinh ra trong gia đình trung lưu lương thiện. Thúy Kiều vốn có cuộc sống êm đềm bên cha mẹ và hai người em là Thúy Vân và Vương Quan cho đến trước khi sóng gió ập đến.
Cả thiên truyện được chia làm ba phần với phần một có tên là Gặp gỡ và đính ước. Vào ngày hội Đạp Thanh, ba chị em Thúy Kiều cùng nhau đi tảo mộ. Tại đây, Kiều đã gặp nấm mồ của Đạm Tiên và tỏ lòng thương xót cho thân phận của người con gái hồng nhan, bạc mệnh. Lúc chuẩn bị ra về, Kiều lại gặp gỡ Kim Trọng và dường như hai người đã cảm mến nhau ngay từ giây phút đầu gặp gỡ. Sau đó, hai người đã bí mật gặp nhau và cùng nhau đính ước.
Phần hai có tên gọi Gia biến và lưu lạc. Sau khi đính ước, Kim Trọng phải về quê hộ tang chú. Đúng lúc này gia đình Kiều bị vu oan, cha và em Kiều là Vương Quan bị bắt. Để cứu cha và em, Kiều đã phải bán mình để có tiền chuộc. Trước khi ra đi, Kiều đã trao lại mối duyên tình của mình cho em gái Thúy Vân. Sau khi bán mình, Kiều bị Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh lừa vào chốn lầu xanh. Tại đây, Kiều đã được Thúc Sinh cứu ra để làm vợ lẽ. Thúc Sinh là một khách làng chơi hào phóng nhưng vợ của hắn là Hoạn Thư có tính ghen điên cuồng. Hoạn Thư đã bày mưu tính kế để bắt Kiều về đày đọa. Sau khi trốn thoát, Kiều đã đến nương nhờ nơi cửa Phật và được sư Giác Duyên giúp đỡ. Nhưng sư Giác Duyên vì tin lời Bạc Bà, Bạc Hạnh nên đã giao lầm Kiều vào tay kẻ xấu. Thêm một lần nữa Kiều bị rơi vào chốn lầu xanh. Tại đây, Kiều gặp được Từ Hải, một vị anh hùng đầu đội trời chân đạp đất. Không chỉ chuộc Kiều về làm vợ, Từ Hải còn giúp Kiều báo ân, báo oán. Nhưng nàng Kiều thật thà lại một lần nữa bị kẻ xấu lừa. Tin lời Hồ Tôn Hiến, Kiều đã đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Sau đó, Kiều bị bắt phải hầu rượu, đánh đàn trong tiệc mừng công của quân triều và sau cùng bị ép gả cho một viên quan thổ. Vì quá đau xót và tủi nhục cho chính mình, khi đi qua sông Tiền Đường nàng đã nhảy xuống tự vẫn nhưng may mắn được sư Giác Duyên cứu giúp. Kiều lại tiếp tục sống nương nhờ cửa Phật.
Phần ba có tên gọi là Đoàn tụ. Sau khi hộ tang chú, Kim Trọng đã trở lại để tìm người yêu. Lúc này biết được sự việc Kim Trọng vô cùng đau đớn. Chàng kết duyên với Thúy Vân theo như lời dặn của Kiều nhưng trong lòng vẫn không nguôi nhớ về nàng. Kim Trong đã đi tìm Kiều ở khắp nơi và may mắn đã cho hai người gặp lại nhau. Ngày đoàn viên của gia đình, Kiều đã quyết định “Duyên đối lứa cũng là duyên bạn bầy” để tỏ lòng kính trọng người yêu cũng như bảo vệ danh tiết của mình.
Về nội dung, Truyện Kiều mang đến giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo vô cùng to lớn. Đó là một bức tranh khắc họa chân thực xã hội trước đây đầy rẫy những sự bất công và tàn bạo. Ở đó, con người bị vùi thập, bị tha hóa chỉ vì đồng tiền. Ở xã hội đó xuất hiện quá nhiều những con buôn giáo dở, nhà chứa nhơ nhớp và cả những tên quan tham ô lại. Người phụ nữ sống trong xã hội ấy bị đối xử một cách tàn nhẫn, bất công, bị chà đạp lên nhân phẩm khiến cho họ sống không bằng chết. Thế nhưng họ vẫn giữ được nhân phẩm, vẫn thể hiện được tài năng và khát vọng tự do, khát vọng tình yêu.
Về nghệ thuật, Truyện Kiều đã cho thấy được tinh hoa trong ngôn ngữ cũng như thể loại văn học của dân tộc. Tác phẩm đã sử dụng thể thơ lục bát một cách quá xuất sắc. Khi đọc tác phẩm, ta thấy một sự gần gũi, thân thuộc nhưng vẫn rất bác học. Có thể nói, nghệ thuật tự sự của tác phẩm đã có bước phát triển vượt bậc.
Cho đến nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và có hàng ngàn công trình nghiên cứu về tác phẩm này. Truyện Kiều không chỉ đưa văn học Việt Nam vươn xa ra thế giới mà còn giúp đất nước và con người Việt Nam ra xa hơn phạm vị quốc gia.
Truyện Kiều hoàn hảo cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Những nhân vật trong tác phẩm như là con người thật ngoài đời. Đó là những điều làm nên giá trị tuyệt vời cho tác phẩm này.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 6
Marxim Gorki đã từng nói rằng "Nơi lạnh nhất trên thế giới không phải ở Bắc Cực, mà là nơi thiếu vắng tình yêu thương." Với tình yêu thương làm trọng tâm, tác giả đã sáng tác ra tác phẩm "Bà lão I-dec-ghin". Trong phần kết của truyện, đoạn trích "Trái tim của Đan-kô" đã thể hiện suy nghĩ và triết lý sâu sắc của tác giả về cách sống và tình yêu thương trong cuộc sống. Từ đó, nhân vật Đan-kô được tạo hình rõ nét trong tác phẩm.
Đầu tiên, Đan-kô là một chàng trai can đảm, lạc quan, không chịu khuất phục trước sự nguy hiểm. Bộ tộc đang sợ hãi trước đầm lầy u tối và không dám tiến lên phía trước. Tuy nhiên, Đan-kô lại khuyên họ không nên đứng yên mà cần dũng cảm đi vào rừng tìm đường sống. Cuối cùng, Đan-kô đã thuyết phục được mọi người và trở thành người dẫn đầu, giúp đỡ mọi người tìm nơi ở mới. Quãng đường đến nơi cư ngụ mới đầy nguy hiểm, "Rừng tối om, cứ bước một bước, đầm lầy lại há cái mõm tham lam hôi thối ra nuốt mất người, và cái cây cối sừng sững chặn đường như một bức thành kiên cố. Cành cây quấn quýt lấy nhau; rễ bò lan khắp nơi như đầu rắn, và cứ mỗi bước đi, họ lại phải tốn bao nhiêu mồ hôi và máu". Tuy nhiên, Đan-kô không chùn bước, không đầu hàng. Chỉ vì một chút khó khăn, mọi người đã nản chí, oán trách nhưng Đan-kô vẫn duy trì được sự hăng hái, nhiệt tình và sự lạc quan.
Trong tình cảnh khắc nghiệt, thiên nhiên giận dữ với "cơn giông đánh rừng, cây cối đung đưa rùng rợn", "tia chớp vồ lấy những cành cây, ánh lửa lạnh lẽo soi sáng qua những khoảnh khắc". Đám người hoảng sợ, mất tinh thần và trở thành những con người yếu đuối, nhát gan. Họ tự biến mình thành đám đông giận dữ, phàn nàn và chỉ trích Đan-kô. Nghe những lời chửi mắng, Đan-kô cũng bị kích động, nhưng lòng thương hại đã dập tắt ngọn lửa giận dữ ấy. Anh ta yêu thương mọi người và nghĩ rằng nếu không có anh, có lẽ họ đã không còn tồn tại được. Sự cao thượng và tình yêu thương giúp Đan-kô vượt lên khỏi sự ích kỷ và những hạnh phúc nhỏ bé.
Trong trái tim Đan-kô, ngọn lửa nhiệt thành bùng cháy, cố gắng giải cứu mọi người khỏi hiểm nguy. Những tia lửa mong muốn mãnh liệt của anh lóe sáng trong mắt, anh sẵn sàng hy sinh tính mạng để soi sáng con đường đi của đoàn người. Trái tim anh cháy sáng như mặt trời, làm khu rừng bừng tỉnh dậy dưới ngọn đuốc tình yêu thương vĩ đại, cao cả. Bất chợt, người khác phải cúi đầu, nhường lối cho anh. Cuối cùng, sự hy sinh đó được đền đáp khi đoàn người tìm được nơi trú ẩn, sinh sống an toàn. Những chi tiết ấy chứng tỏ Đan-kô là người có trái tim nhân hậu, đầy lòng bao dung và trắc ẩn đối với con người.
Điểm nhìn khác nhau của người kể thứ ba đã làm nổi bật những phẩm chất anh hùng của Đan-kô. Tính cách của anh được thể hiện rõ ràng qua lời nói và hành động. Trái tim nhiệt huyết và tình yêu thương của Đan-kô đã xua tan bóng tối, trở thành ngọn lửa dẫn đầu, truyền bá những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Anh là hình ảnh đích thực của lòng vị tha. Từ nhân vật này, chúng ta càng nhận ra vai trò và tầm quan trọng của sự can đảm cùng tình yêu thương trong cuộc sống. Tình thương sẽ giúp con người có động lực để giúp đỡ những người xung quanh.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 7
Xin chào cô và các bạn. Mình là Phương Thảo. Dưới đây là sự giới thiệu về một tác phẩm văn học mà mình rất ấn tượng. Đó là truyện ngắn 'Chiếc lược ngà' của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Câu chuyện đặc sắc về tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Ông Sáu, người tham gia cách mạng từ khi con gái chỉ mới một tuổi. Trong chiến trường, ông luôn nhớ về con và ước ao được gặp bé. Khi về nghỉ, ông háo hức trở về, nhưng bé Thu lại đối diện với sự ngạc nhiên và chạy trốn. Điều này gây thất vọng sâu sắc cho ông. Trong những ngày ở nhà, ông Sáu chỉ muốn dành thời gian bên con. Nhưng trước sự lạnh lùng của bé Thu, ông buồn bã. Sau lời giải thích của bà ngoại, bé Thu hiểu ra rằng cha cũng là người phải chịu đựng sự chia xa. Ở chiến trường, ông Sáu nhớ mãi về con và tỉ mỉ làm một chiếc lược ngà. Trước khi trao cho con, ông đã hy sinh, để lại một ký ức đẹp cho người con.
Điểm đặc biệt đáng nhớ nhất trong tác phẩm có lẽ là khoảnh khắc hai cha con buộc phải xa cách. Lúc bé Thu 'nụ hôn tóc, vuốt cổ, ôm vai và thậm chí là hôn lên vết thương dài trên má của cha' là biểu hiện của tình yêu cha con mãnh liệt. Cô bé ôm hôn lên vết thương trên má như một hành động chuộc lỗi tuyệt vời. Chứng kiến tình cảm ấm áp giữa cha và con khiến người ta không khỏi bật khóc.
Điều mà tôi muốn chia sẻ với mọi người không chỉ là tình cảm cha con trong tác phẩm, mà còn là tình gia đình trong cuộc sống hàng ngày. Điều này là một giá trị thiêng liêng không thể so sánh. Vì vậy, chúng ta cần học cách yêu thương, trân trọng gia đình. Bởi vì có những điều mà khi mất đi sẽ không bao giờ quay lại được.
Bài nói của tôi kết thúc ở đây. Xin cảm ơn cô và tất cả mọi người đã dành thời gian lắng nghe. Mong rằng mọi người sẽ chia sẻ những ý kiến của họ.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật từng để lại cho bạn nhiều suy nghĩ - mẫu 8
Xin chào cô và các bạn, em tên là Uyên Nhi, hôm nay em sẽ giới thiệu cho mọi người một bộ phim điện ảnh mà em rất yêu thích. Đó chính là phim "Cô Ba Sài Gòn".
Ý tưởng sản xuất bộ phim "Cô Ba Sài Gòn" đến từ một cuộc nói chuyện giữa Ngô Thanh Vân và nhà thiết kế Thủy Nguyễn. Cả hai người đều muốn một bộ phim về phụ nữ Việt Nam. Vậy là "Cô Ba Sài Gòn" ra đời với mục đích tôn vinh tà áo dài Việt.
Câu chuyện lấy bối cảnh ở Sài Gòn năm 1969 và 2017. Năm 1969, nhà may Thanh Nữ ở Sài Gòn cực kì nổi tiếng với bộ áo dài tuyệt đẹp. Thế nhưng con gái của bà chủ nhà may là Như Ý lại không đam mê áo dài. Cô cho nó là lạc hậu, lỗi thời, chỉ có một kiểu và chỉ thích may đồ Tây. Thế nhưng sau đó, Như Ý vô tình xuyên không đến năm 2017. Nhìn thấy nhà may Thanh Nữ giờ đây đã trở nên hoang tàn, đổ nát, cô vô cùng đau lòng và mong muốn vực dậy nhà may. Với sự giúp đỡ của mọi người, Như Ý đã vượt qua những khó khăn, thử thách và tái sinh lại nhà may Thanh Nữ. Thông qua tác phẩm này, người phụ nữ được hiện lên với đầy vẻ mạnh mẽ, tự tin, chăm chỉ. Họ luôn mặc những bộ áo dài - đại diện cho nét đẹp truyền thống của người Việt Nam.
Có thể nhận thấy Như Ý chính là tấm gương phản chiếu của một bộ phận giới trẻ chúng ta. Những người đã quá mải mê chạy theo xu hướng mới mà quên đi văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Từ đó, bộ phim truyền tải thông điệp ý nghĩa về việc giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống, hòa nhập vào với thế giới nhưng đừng để bị hòa tan.
Ngoài nội dung chính và dàn diễn viên thì phim còn đặc biệt đầu tư. Những bối cảnh của Sài Gòn hoa lệ khi xưa được dàn dựng hết sức tỉ mỉ. Xem phim, khán giả như được quay trở lại với những ngày tháng khi nơi đây còn là "Hòn ngọc viễn Đông". Phần phục trang trong phim cũng được chuẩn bị rất chỉn chu. Tính riêng bộ sưu tập áo dài mà các nhân vật mặc trong phim cũng đã hơn 200 bộ. Ngoài ra, bộ phim còn mang thời trang thập niên 60 quay trở lại với những chiếc váy chữ A, họa tiết chấm bi, phong cách pop-art rất đặc trưng. Những thước phim có màu hơi trầm, mang hơi hướng phim cũ ố vàng, hơi retro cũng là một trong những điểm đặc biệt của bộ phim.
"Cô Ba Sài Gòn" không hẳn là một tác phẩm điện ảnh quá xuất sắc nhưng nó là một bộ phim đáng xem vì những thông điệp, giá trị mà nó gửi gắm. Nếu ai chưa xem thì nên xem một lần để hiểu hơn về thời trang và Sài Gòn những năm 60 của thế kỉ trước.
Bài nói của em xin phép được dừng lại tại đây, cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Toán 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Toán 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Toán 11 – Kết nối tri thức
- Bài tập Tiếng Anh 11 Global success theo Unit có đáp án
- Giải sgk Tiếng Anh 11 – Global success
- Giải sbt Tiếng Anh 11 - Global Success
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 11 Global success đầy đủ nhất
- Ngữ pháp Tiếng Anh 11 Global success
- Giải sgk Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Vật lí 11 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Giải sgk Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Hóa 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Hóa 11 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Giải sgk Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Lịch sử 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Địa lí 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Công nghệ 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Công nghệ 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Công nghệ 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Tin học 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng an ninh 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Giáo dục quốc phòng 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 – Kết nối tri thức