Bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non Module 14 (Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em)

Vietjack.me tổng hợp, biên soạn giới thiệu đến thầy cô Bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non Module 14 theo Thông tư 12 với chủ đề Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em. Mời thầy cô và các bạn đón xem:

1 1,193 24/01/2024


Bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non Module 14

(Tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ/tăng cường tiếng Việt cho trẻ em)

I. LÝ DO CHỌN BIỆN PHÁP

Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ của giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo viên Mầm non được xem là người thầy đầu tiên đặt nền móng cho việc đào tạo nhân cách con người mới cho xã hội chủ nghĩa, tuỳ theo mỗi độ tuổi mà nội dung giáo dục khác nhau. Trẻ ở độ tuổi mầm non là tuổi học nói, những nhu cầu của trẻ thông qua lời nói để đến với người lớn, chính vì thế cung cấp Tiếng việt cho các cháu, nhất là trẻ người dân tộc thiểu số là rất quan trọng. Phần đa các cháu dân tộc thiểu số thường hay dùng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, nên khi đến lớp các cô giáo của cháu là người kinh cháu không biết tiếng kinh nên trong quá trình cô giáo giảng dạy bằng tiếng việt thì trẻ rất khó tiếp thu bài giảng cũng như những chỉ dẫn, khẩu lệnh của cô trẻ không hiểu để thực hiện, cháu trở nên nhút nhát, thụ động, thậm chí tự ti, mặc cảm, dẫn đến khả năng tiếp thu bài rất chậm. Bởi thế nên việc tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề đáng để tất cả chúng ta quan tâm, việc làm này sẽ góp phần vào việc hình thành và phát triển toàn diện cho trẻ.

Trong thực tế cuộc sống hằng ngày, con người chúng ta sử dụng lời nói để trao đổi, thảo luận, yêu cầu, trò chuyện, bày tỏ, thuyết trình, nói lên những suy nghĩ, hiểu biết của mình, giải thích những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống: như trò chuyện, trao đổi kinh nghiệm, nói lên suy nghĩ của mình để chia sẽ, giúp đỡ mọi người xung quanh…

Bản thân tôi là giáo viên trực tiếp giảng dạy các cháu lớp 5 tuổi của trường mẫu giáo .........với số lượng trẻ hàng năm của lớp tôi là ........cháu trong đó số trẻ con em dân tộc thiểu số chiếm ....... Đa số các cháu là người dân tộc ê đê, các cháu lên lớp đều nói bằng tiếng mẹ đẻ, không hiểu được tiếng Việt, vì trình độ dân trí thấp nên bố mẹ các cháu chưa thực sự quan tâm đến việc việc học tập của con em mình, còn các cháu thì vì không hiểu tiếng việt nên các hoạt động trên lớp của giáo viên chưa cảm hóa, thu hút được trẻ đến lớp đầy đủ.

Cùng một môi trường học tập như nhau, cũng bài học đó, lượng kiến thức đó, phương pháp đó sao sự chênh lệch về khả năng tiếp thu của trẻ người kinh và trẻ người dân tộc thiểu số lại cách xa nhau đến vậy? phải chăng là bất đồng ngôn ngữ, là vốn tiếng việt của trẻ dân tộc thiểu số quá ít, bởi vì mọi cử chỉ, hành động của con người đều thông qua ngôn ngữ để hiểu và làm theo nhưng chính vì trẻ không hiểu nên không biết để làm theo.

Đứng trước thực trạng đó tôi rất băn khoăn, lo lắng phần vì ngay từ đầu năm mồi giáo viên đã kí cam kết chất lượng với hiệu trưởng phải thực hiện đúng yêu cầu mục tiêu giáo dục độ tuổi. Trẻ 5 tuổi khi ra lớp một trong những mục tiêu đó là trẻ phải thuộc 29 chữ cái, 10 chữ số thuộc một số bài thơ, biết kể một số câu chuyện … làm thế nào để tất cả các cháu cuối năm học đều đạt được yêu cầu cần đạt theo bộ chuẩn đây? Khi các cháu con em dân tộc thiểu số đến lớp chưa biết nghe, nói và chưa hiểu tiếng kinh? đó là câu hỏi, là nổi lo lắng, băn khoăn mà hàng đêm tôi trăn trở, phần nữa là lương tâm trách nhiệm của người giáo viên tôi không thể hàng ngày đến lớp hết giờ ra về mặc cho các cháu với một hành trang trống rỗng khi ra trường, vậy nên bản thân tôi tự thấy mình cần tìm cách nghiên cứu, chọn lọc một số phương pháp, biện pháp để cho các cháu học sinh dân tộc trong lớp của tôi biết nghe, nói và hiểu tiếng việt. Để các cháu không tự ti, mặc cảm, thích thú đến lớp, vốn tiếng việt được tăng lên, biết giao tiếp băng tiếng việt để từ đó thu hút trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động trong lớp để cuối năm trẻ có một hàng trang vững bước vào lớp 1.

II. NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP

*Giải pháp thứ nhất: “Tạo hứng thú cho trẻ đi học chuyên cần

+ Nội dung:

Ngay từ đầu năm học tôi lên kế hoạch để duy trì sĩ số học sinh, duy trì tỉ lệ các cháu đi học chuyên cần 97%. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi đã huy động phụ huynh động viên trẻ đến trường, tuyên truyền cho cha mẹ trẻ về nội dung của các môn học, các hoạt động ở bậc học mẫu giáo nhất là lớp 5-6 tuổi, đó là gốc rễ, nền móng cho các cháu trong chương trình của tiểu học mà gần nhất là lớp 1 trong năm học tới của các cháu.

+ Cách thực hiện:

Phải làm sao để các cháu thực sự thích đến lớp mỗi ngày để các cháu được tiếp thu, được lĩnh hội đầy đủ kiến thức là hành trang theo cháu vào lớp 1. Trong khi các cháu phần đông là năm đầu đi học mẫu giáo lớp 5 tuổi mà không qua lớp mầm, chồi, rồi ngôn ngữ tiếng việt của các cháu thì hạn chế, bố mẹ đưa đến lớp các cháu còn khóc nhè đòi về, cô dỗ cháu không hiểu tiếng kinh, nên không nín. Phụ huynh thì chiều con thấy con khóc thì không muốn cho con học nữa, còn mong muốn con lớn lên có đất, có rẫy làm là được rồi. Trước cách nghĩ đó tôi thật sự rất lo lắng tôi đã tự nhủ mình phải thu hút được các cháu đến lớp đã sau đó rồi tính tiếp, hàng ngày phụ huynh đưa trẻ đến lớp tôi trò chuyện với họ, kể cho họ nghe một số trường hợp các cháu ở trong buôn năm học 2018-2019 đủ tuổi vào lớp 1 mà chưa qua mẫu giáo vào học lớp 1 được một thời gian rồi gia đình đến gặp hiệu trưởng trường mẫu giáo xin gửi vào học mẫu giáo để cho biết chữ cái đã chứ chưa biết chữ cái vào học lớp 1 không theo được các bạn…

Tôi cũng đưa ra một số gương mặt các cháu người dân tộc thiểu số đi học chuyên cần từ lớp 3-4, 4-5 tuổi giờ đang học lớp 5-6 tuổi thì cháu rất mạnh dạn, trong năm học cô cho cháu tham gia các hội thi mà nhà trường tổ chức cháu đạt kết quả cao như cháu..................

Về phía các cháu trong thời gian cô trò chuyện với phụ huynh thì cháu cũng nguôi ngoai, không khóc nữa và thấy cô trò chuyện thân mật với bố, mẹ mình thì hình như cháu có cảm giác an toàn, tự tin hơn, lúc bố mẹ trẻ giao trẻ cho tôi để ra về thì trẻ ngoài nhìn theo và mếu máo nhưng bằng tình yêu thương, nhiệt tình, một chút kinh nghiệm sẵn có của mình tôi ôm trẻ vào lòng, xoa đầu và ân cần, thì thầm với trẻ vài tiếng dân tộc bảo trẻ nín đi chiều mẹ đến đón về, giờ con hãy giúp cô xếp ghế, cho các bạn cùng ngồi, giúp cô trải chiếu, lấy đồ chơi, lấy kéo cắt hình bông hoa, tô màu cái ô tô này cho đẹp chiều mang về cho mẹ xem… vậy là trẻ khuây khỏa và quên đi cảm giác sợ hãi, rụt rè, yên tâm ngồi làm những việc cô nhờ. hết việc này tôi lại bày việc khác cho cháu và tôi không quên xen kẽ các cháu người kinh, các cháu mạnh dạn để chơi cùng cháu nhút nhát. Đến cuối buổi học thời điểm bố mẹ các cháu sắp đến đón cháu về tôi lấy những món đồ chơi mới ra ví dụ: bịch bóng bay, búp bê với chén muỗng đồ chơi, ô tô… nói với trẻ là các con ơi cô có bong bay đẹp lắm mà cô chưa thổi lên được cô muốn nhờ bạn ...... thổi bóng bay cho cô, ...... cho búp bê ăn cháo để em búp bê mau lớn…, ....... lái ô tô chở gạch để xây nhà cho búp bê ở nè…các con biết làm không? Trẻ rất thích thú trả lời là có. Tôi nói: Nhưng giờ đã đến giờ bố mẹ các con đón về rồi vậy sáng mai các con nhớ bảo bố mẹ đưa đến lớp sớm để cùng chơi với cô nhé…

– Những việc làm đó thật đơn giản nhưng với những trẻ không hiểu tiếng kinh thì với tôi đó lại là một thách thức lớn bởi bản thân tôi là một giáo viên người kinh vậy nên để làm được điều đó tôi đã phải nhờ cô giáo ........ (Một đồng nghiệp chủ nhiệm lớp chồi bên cạch lớp tôi) chỉ cho tôi một số tiếng dân tộc như: ‘Nín đi, đừng khóc nữa, học ngoan chiều bố mẹ đón về, muốn đi tiểu con hãy xin cô, lúc vào học không được nói chuyện….” . Những việc làm đó tôi không quên thực hiện thường xuyên xen kẽ một cách sáng tạo đi kèm những lời nói, việc làm đó ngoài tình yêu thương trẻ như con cháu của mình rồi thì cần phải mày mò làm thêm đồ dùng đồ chơi lạ mắt, bữa thì những con bướm, con trâu làm từ lá cây, bữa thì mua bột cho trẻ cùng cô nặn bánh, bữa thì thiết kế trang phục cho trẻ làm người mẫu để cô đo đo, cắt cắt để cố tình cho trẻ đứng đợi cô mà quên đi sự nhút nhát e dè.

Cứ thế và kết quả thật đáng ghi nhận là các cháu sau 2 tuần đến lớp đã không khóc nữa, qua trò chuyện với phụ huynh tôi được biết trẻ về nhà không còn sợ phải đến lớp như trước nữa mà cháu thích thú khi bố, mẹ chuẩn bị chở đi học, không còn đòi quà bánh trước khi vào lớp, đến lớp cháu biết chào cô đi cất đồ dùng cá nhân đúng chỗ và vào chơi cùng các bạn một cách hòa đồng.

* Giải pháp thứ hai:Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua các môn học”

* Nội dung:

Đầu năm học tôi lên kế hoạch năm, tháng và đặc biệt là cụ thể vào kế hoạch tuần những nội dung tăng cường tiếng việt cho trẻ qua các môn học cụ thể tôi có kế hoạch hàng ngày từ thứ 2 đến thứ 6 mỗi ngày tôi tăng cường cho trẻ 3-4 từ mới đồng thời trẻ được ôn luyện lại vốn từ cũ một cách thường xuyên.

Khi tổ chức hoạt động tôi đã mời các cháu người đồng bào tham gia vào các hoạt động. Nhưng kết quả chưa được như mong đợi, so với trước đây trẻ đã nghe và hiểu cô giáo nói và làm theo yêu cầu của cô giáo nhưng vẫn còn bỡ ngỡ, chưa thật tự tin, mạnh dạn.

* Cách thực hiện:

Phải làm sao đây để các cháu thực sự hứng thú, nghe hiểu và nói thành thạo tiếng việt để các cháu tiếp thu bài một cách tốt hơn. Tôi lên kế hoạch một hoạt động trong ngày tôi tăng cường cho trẻ dân tộc một số từ có liên quan trong bài dạy của tôi bởi vì cách làm đó rất thuận tiện bởi khi tổ chức bất kì một hoạt động nào cho trẻ giáo viên cũng cần chuẩn bị tranh ảnh, đồ dùng để phục vụ cho hoạt động của trẻ nên việc kết hợp tăng cường tiếng việt vào trong hoạt động là rất thích hợp để trẻ hứng thú và qua đó trẻ dân tộc nghe, thấy và hiểu từ tiếng việt.

Ví dụ: Xây dựng kế hoạch tuần có nội dung tăng cường tiếng việt cụ thể

KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG TRONG TUẦN

Chủ đề nhánh: GIA ĐÌNH BÉ

Tên hoạt động Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6
Đón trẻ, thể dục sáng – Đón trẻ vào lớp, hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân, trò chuyện với bố mẹ trẻ về tình hình của cháu khi ở nhà.– Cho trẻ quan sát sự thay đổi nổi bật ở góc của chủ đề: “Gia đình Bé ”.– Trò chuyện với trẻ về GĐ có những ai, mọi người trong GĐ làm gì?….
Hoạt động ngoài trời – Dạo chơi hít thở không khí trong lành.– Trò chuyện về quang cảnh, khí hậu, dự báo thời tiết.– Đàm thoại kết hợp giới thiệu chủ đề nhánh: “Gia đình Bé”, về những người thân, tình cảm của mọi người trong gia đình.– Ôn cũ hoặc gợi mớiTCVĐ: Gia đình gấu.* Mục đích: Rèn luyện phản xạ nhanh, khéo léo* Chuẩn bị: Vẽ 3 vòng tròn rộng giữa lớp làm nhà của gấu mũ 3 màu trắng, đen, vàng* Cách chơi: Cô qui định vòng tròn 1 là nhà của gấu trắng, vòng 2 là nhà của gấu đen, vòng 3 là nhà của gấu vàng– Chia trẻ thành 3 nhóm, mỗi nhóm đội một loại mũ khác màu phân biệt gấu trắng, gấu vàng, gấu đen.– Nghe nhạc các chú gấu đi chơi, bò qua cổng, qua hầm khi có hiệu lệnh trời mưa các chú gấu về đúng nhà của mình.– TCDG: Nu na nu nống+ Mục đích: Trẻ dân tộc thiểu số được luyện đọc, biết chơi cùng nhau, củng cố thêm kĩ năng đếm, phân biệt bên phải, bên trái, ở giữa…và phát triển ngôn ngữ.– Chơi tự do với đồ chơi đã chuẩn bị sẵn.
HĐ Tăng cường tiếng việt Các từ: bố, mẹ, anh, chị, em Các từ: ông, bà, cháu, con Các từ: thôn, buôn Các từ: đi rẫy, lên nương Ôn tập các từ trong tuần
Hoạt động có chủ đích PTNT– Bé biết gì về GĐ mình.PTTC: Bò theo đường dích dắc PTNNTập tô chữ e, ê PTNN“Chia bánh”.PTTM– Vẽ các thành viên trong GĐ PTNTĐếm đến 6, nhận biết số 6, nhận biết nhóm có 6 đối tượng.. PTTM– Hát và vận động bài “Ai thương con nhiều hơn”.

Hoạt động góc
– Góc phân vai: Gia đình: Bố mẹ và con.* Chuẩn bị: Một số đồ dùng như: Giày dép, túi ba lô, mũ, kính đeo mắt, đồ dùng nấu ăn, đồ dùng bán hàng.(tiếng dân tộc để gọi tên đồ dùng)* Hoạt động: Trẻ đóng vai bố mẹ đưa các con đi chơi, tổ chức chơi vui vẻ, trẻ xưng hô lễ phép. Bố mẹ chăm sóc các con, đi mua thực phẩm, nấu ăn, mang theo 1 số thức ăn nhẹ.– Góc xây dựng: Xây nhà cho bé.* Chuẩn bị: Các khối gỗ, cổng, hộp giấy… để xây nhà, cây cối, hoa…* Hoạt động: Trẻ biết xếp chồng các hộp giấy, khối gỗ để xây nhà, xung quanh có trồng cây xanh, có chuồng nuôi một số con vật như gà vịt….– Góc nghệ thuật: Làm album về gia đình. Hát múa theo chủ đề.– Góc học tập: Ôn chữ cái chữ số đã học, chơi lô tô.* Chuẩn bị: . Vở bài tập chưa thực hiện xong. Nhóm chữ cái chữ số đã học.* Hoạt động: Ôn chữ cái chữ số đã học, trẻ làm tiếp vở chưa xong– Góc thư viện: Xem tranh truyện theo chủ đề.* Chuẩn bị: Tranh, chuyện, sách về chủ đề gia đình.* Hoạt đông: Trẻ xem tranh, “Đọc truyện”, thảo luận về chủ đề trong tranh.
Hoạt động trưa – Vệ sinh– Ăn trưa– Ngủ trưa
Hoạt động chiều – Ôn kiến thức buổi sáng, làm quen kiến thức mới.– Trò chơi học tập: “Đoán xem đó là ai”.– Tập các bài thơ bài hát trong chủ đề ( Ôn luyện cho các cháu dân tộc thiểu số đọc, hát thành thạo, lưu loát, rõ ràng)– Vệ sinh, nêu gương, bình cờ, trả trẻ.

+ Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học môi trường xung quanh:

Tôi nắm được tâm lí của trẻ là thích tìm tòi khám phá, thích những cái mới lạ và trực quan hình ảnh, trực quan hành động chiếm ưu thế ở trẻ nên ngay trong môn khám phá tùy vào từng đề tài tôi chuẩn bị tranh ảnh động đẹp mắt, đa dạng để thu hút trẻ tập trung chú ý kết hợp cho trẻ đọc từ dưới tranh, đồ dùng, tôi ưu tiên những cháu dân tộc được đọc trước, cho các cháu đọc theo từ, tôi tăng cường và cho trẻ nói theo tôi câu có từ.

Vd: Dạy trẻ về chủ đề thực vật đề tài cây xanh và môi trường sống tôi đã chuẩn bị tranh ảnh về cây xanh, và tôi không quên nhờ đồng nghiệp của tôi là cô ............ người dân tộc .........cung cấp cho tôi những tiếng mẹ đẻ của các từ tôi có ý định tăng cường cho trẻ dân tộc trong mỗi hoạt động để tôi dùng 2 thứ tiếng khi nói chuyện với trẻ, hỏi trẻ, trò chuyện với trẻ để trẻ hiểu nội dung câu hỏi của cô và trẻ tự tin gần gũi và cách này cũng làm cho trẻ chủ động hơn trong giao tiếp. Khi trò chuyện với trẻ tôi cho trẻ được thoải mái nói lên điều trẻ suy nghĩ và tôi luôn tôn trọng ý kiến của trẻ, tạo môi trường thân thiện để trẻ không cảm thấy tự ti, mặc cảm phân biệt dân tộc trong lớp

– Và không chỉ gợi ý cho các cháu bằng lời, tôi đã hành động để các cháu nắm vững cách : Thường xuyên tổ chức theo nhóm, theo tổ, xen kẽ các cháu người Kinh và các cháu đồng bào dân tộc. Hay những giờ sinh hoạt ngoài trời, giờ vui chơi, nói chuyện với trẻ bằng tình cảm chân tình và gần gũi. Ví dụ như: “bạn ......... mới cắt tóc phải không, đẹp quá nhỉ, ai đưa cháu đi cắt tóc đó, bạn ........ sáng đi học quần áo, đầu tóc thật gọn gàng đẹp thật đấy phải không các bạn…” Những lần quan tâm hỏi han trẻ tô thấy trẻ rất thích thú, gần gũi, tôi xoa đầu âu yếm trẻ. Để trẻ cảm nhận được tình thương yêu của cô giáo đối với mình.

– Những buổi sinh hoạt cuối tuần tôi thường đưa ra những tấm gương các bạn chăm phát biểu, sáng tạo, nói tiếng kinh giỏi…Để thúc đẩy sự cố gắng , phấn đấu hơn của các cháu trong thời gian tới, tạo cho trẻ vui tươi, mạnh dạn, tự tin, tôi luôn gần gũi trò chuyện cùng trẻ không rầy la khi cháu làm sai. Mà ngược lại tôi luôn tôn trọng, yêu thương cháu. Không phân biệt đối xử bất công bằng với trẻ. Thường xuyên để ý giao tiếp và tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động.

Các hoạt động cô giáo sử dụng tiếng kinh trẻ không hiểu thì giáo viên sử dụng cả hai thứ tiếng hoặc vừa nói vừa cho trẻ nhìn, chỉ vào sự vật.

VD: Cô nói từ “Hạt nẩy mầm” thì phải có tranh minh họa và cho trẻ biết đó là hiện tượng nẩy mầm của hạt, Qua những câu chuyện đơn giản bằng cách gợi cho cháu trả lời bằng những ngôn ngữ thông dụng, dần dần các cháu hết bị gò bó, không còn nhút nhát nữa và còn thấy rằng cô giáo thật hiền dịu và tin yêu.

+ Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học Làm quen chữ cái:

Sau mỗi tiết học làm quen chữ cái tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi với chữ cái như trẻ nói từ có chứa chữ cái đã học thi đua tìm, nói tên các bạn trong lớp ví dụ học chữ e, ê trẻ tìm tên bạn lê, bạn sen…và không chỉ là tên các bạn mà những đồ dùng, những bức tranh, những món đồ chơi có tên chứa chữ cái tôi đều khai thác để cho trẻ được luyện đọc vừa tăng cường cho trẻ phát âm chữ cái để ghi nhớ chữ cái tôi còn có mục đích cho trẻ được luyện âm tiếng việt và hơn nữa qua đó trẻ có ý thức thi đua và làm sôi nổi hơn các hoạt động. Với đặc điểm của trẻ mầm non là học qua chơi, chơi mà học nên tôi luôn có gắng chuyển thể các bài học sang hình thức vui chơi để trẻ được: thứ nhất là nhẹ nhàng không áp lực, thứ 2 là huy động được tính tích cực, hứng thú tự giác của trẻ. Tôi thường cho trẻ chơi các trò chơi với chữ cái như: trò chơi bánh xe chữ cái (vòng quay kì diệu)., nối chữ cái trong từ về chữ cái tương ứng, xếp chữ cái bằng hội hạt, nặn chữ cái, gắn chữ cái lên đồ dùng có tên chứa chữ cái theo yêu cầu của cô…ví dụ: gắn chữ u lên cái xích đu, chữ e lên tranh em bé, chữ a lên mái nhà… bên cạnh đó tô thường cho trẻ được trải nghiệm thực tế như cho trẻ đi dao chơi tham quan tìm chữ cái trong các bảng hiệu, cổng thôn… thiết nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi, tiếp xúc thực tế ngoài xã hội sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn, tập phát âm Tiếng việt một cách chính xác hơn. Chính những việc làm đó đã góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ.

Vd: Tôi cho trẻ đi thăm nhà văn hóa cộng đồng tôi giải thích cho trẻ hiểu đó là nơi sinh hoạt văn hoa, văn nghệ của tất cả mọi người trong buôn vào những dịp lễ, cho trẻ nhận biết, tự hào về buôn làng của mình và tôi không quên cho trẻ nhận biết, tìm chữ cái đã học trong những bảng hiệu, những dòng chữ trong nhà văn hóa, vô tình những lần trẻ theo bố mẹ đến sinh hoạt văn nhóa, văn nghệ trẻ khoe với bố me, với các bạn là trẻ đã biết được các chữ cái trên dòng chữ kia…

Qua một thời gian thực hiện lớp tôi tiến bộ rõ rệt, cháu hứng thú trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm chuẩn chữ cái khi đã được làm quen.

+ Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua môn học làm quen văn học:

Muốn trẻ giao tiếp, tiếp thu được kiến thức cô giáo truyền thụ trước hết thì trẻ phải nghe hiểu được yêu cầu của cô giáo nên việc giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống là vấn đề cần thiết. đối với trẻ 5 tuổi môn văn học là môi trường, là cơ hội cho trẻ tiếp xúc với nhiều nhân vật trong thơ, chuyện…qua tên các nhân vật trẻ được gọi tên, được đọc, được thể hiện lời thoại…và được phát triển ngôn ngữ, với đặc điểm tình hình trẻ lớp tôi phần đông là học sinh người dân tộc thiểu số nên mỗi lúc lên kế hoạch tôi đã chú ý tới việc lựa chọn những bài thơ, câu chuyện không quá dài, nội dung dễ hiểu, nhân vật gần gũi với trẻ vì vốn từ cũng như thời gian tập trung chú ý của các cháu không được như những trẻ người kinh, khi lên tiết tôi luôn tạo tình huống bất ngờ để thu hút trẻ trẻ tập trung chú ý, khơi gợi ở trẻ tính tò mò dể tạo tâm thế cho trẻ trước khi vào học. trước lúc vào giờ học tôi trò chuyện dẫn dắt trẻ bằng những câu hỏi gần gũi, thân thiện vào bài một cách nhẹ nhàng không gây áp lực cho trẻ, trong quá trình đọc, kể tôi thường dừng lại trực tiếp ở những câu, từ khó để giải thích cho trẻ hiểu ngay trong quá trình tôi đọc một cách kịp thời, kết hợp tranh, ảnh, đồ dùng trực quan để giải thích là một cách làm tôi thấy rất hiệu quả, ngoài ra tôi không quên phối hợp các động tác minh họa đơn giản phù hợp, và tôi cho trẻ thực hiện động tác minh họa cùng với cô nhằm lôi cuốn, khích lệ trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô mà không bị mệt mỏi, uể oải, có thể nói đó là chất xúc tác, tiếp sức cho các cháu một cách hiệu quả.

Vd: khi tôi kể chuyện cáo, thỏ gà trống cho các cháu nghe đến những lời thoại các nhân vật tôi cho trẻ nói theo như “gâu gâu cáo ở đâu” của bầy chó, cúc cù cu cu cu của anh gà trống… tôi cho trẻ nói và làm điệu bộ và trẻ đã rất thích. Khi đã lôi cuốn được sự chú ý của trẻ tôi tiến hành các công việc tiếp theo và không quên gọi những cháu dân tộc đọc từ, đọc câu với nhiều hình thức như là tôi đố trẻ, nhờ trẻ, gợi ý cho trẻ, cho các cháu thi đua, cho trẻ nói tiếp…và tất nhiên là sử dụng những câu từ gần gũi, cụ thể để giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để trẻ có thể tiếp thu một cách nhẹ nhàng sau đó tôi cho trẻ nói tên nhân vật trong thơ, chuyện qua tranh ảnh, và không quên khuyến khích trẻ bằng những món quà hay những tràng pháo tay động viên, bởi thế nên học sinh lớp tôi ngày càng mạnh dạn, tự tin, ham thích học thơ, kể chuyện và nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, qua những việc làm đó học sinh dân tộc của lớp tôi so với trước vốn từ được tăng lên rất nhiều, trẻ nghe, hiểu được lời của cô, nắm được yêu cầu của bài và tôi nghĩ mình đã gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước.

* Giải pháp thứ ba:Tăng cường tiếng việt cho trẻ qua hoạt động vui chơi”

* Nội dung:

Hoạt động vui chơi đóng vai trò chủ đạo, không thể thiếu ở lứa tuổi mầm non. Nhận thức được điều đó, bản thân tôi luôn thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mà ngành đề ra. Ngoài việc dạy và học thì hoạt động vui chơi luôn diễn ra trong các ngày trẻ được đến lớp, tôi luôn sáng tạo làm nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động vui chơi của trẻ. Bởi vì đối với trẻ những món dồ chơi mới mẻ, lạ mắt là điểm đến, là động lực thu hút trẻ nhiều nhất và qua hoạt động vui chơi này phát huy cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Trẻ thể hiện hết cái tôi của mình trẻ biết và độc lập trong suy nghĩ và dám khẳng định chính bản thân mình và đó cũng là cơ hội giúp trẻ được tăng cường tiếng việt, trong khi các cháu chơi thì trẻ vô tư thể hiện hết những gì trẻ biết, trẻ có và cô giáo qua đó phát hiện được khả năng của trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ để thuận tiện trong việc phát triển các lĩnh vực khác ở trẻ. Nhờ sự tích cực hứng thú trong hoạt động vui chơi mà trong năm học này chúng tôi đã đạt được những thành tích đáng kể về chiến lược tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc.

  • Cách thực hiện:

Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp hàng ngày của trẻ không chỉ là trong quá trình học mà ngay cả khi trẻ vui chơi thì ngôn ngữ giúp trẻ phân, nhận vai chơi, thể hiện vai chơi của mình trong quá trình chơi. Vui chơi là trẻ được tái tại lại những hành động, việc làm lời nói của người lớn ở môi trường xã hội bên ngoài vào trong các góc chơi của trẻ, ở đây thành phần trẻ được thể hiện, giao tiếp rất đa dạng và phong phú nên chính ở môi trường này ngôn ngữ của trẻ được cung cấp nhiều hơn, trẻ được thoải mái thể hiện mình qua vai chơi. Tận dụng thời gian này tôi đã thực hiện ý đồ tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc bằng cách: tôi làm nhiều đồ chơi ở các góc tạo môi trường mới lá, đẹp mắt thu hút sự hứng thú của trẻ, cho trẻ được tự chọn góc chơi, vai chơi, lúc trẻ chọn vai chơi tôi luôn gợi ý cho trẻ đổi vai hàng ngày để tất cả trẻ đều có cơ hội vào vai các thành viên trong xã hội hôm nay bé là bác sĩ, mai bé làm bệnh nhân, ngày kia là người đầu bếp, ….VD: khi cháu .......... về chơi ở góc phân vai làm cô bán hàng lần đầu khi chơi tôi trực tiếp làm người đi mua hàng đến cữa hàng tôi chào bác .......... hôm nay cửa hàng có bán những thứ gì? Tất nhiên là lúc đầu cháu sẽ e dè thì tôi gợi ý cho trẻ cầm các món hàng lên và nói tên các món hàng đó bằng 2 thứ tiếng vừa tiếng kinh và tiếng dân tộc, những lần sau tôi gợi ý rủ các bạn khác đi chợ và hỏi mua những món đồ theo nhu cầu…giải thích cho trẻ những từ (mua, bán, trả tiền…) kèm theo những hàng động mô phỏng cụ thể cho trẻ hiểu từ tiếng việt và cho trẻ nói theo.

Đến góc xây dựng cũng như những góc chơi khác tôi hỏi cháu ........ hôm nay bác thợ xây gì? (xây nhà cho gia đình ở) vật liệu, dụng cụ xây dựng có những gì? (viên gạch, cái bay, cái thước, …) cho cháu cầm viên gạch và đọc nói từ viên gạch, cái bay…những lần chơi sau tôi cho trẻ tập nói cả câu dài hơn và cứ như vậy tôi ghé đến các góc chơi khác xin tham gia chơi với trẻ vài phút để tìm hiểu nhận ra điểm mạnh và hạn chế của từng trẻ và qua đó tôi thực hiện công việc tăng cường tiếng việt cho những trẻ thiếu hụt tiếng việt, nhắc nhở, khuyến khích, hướng dẫn các cháu giao tiếp với bạn chơi bằng tiếng việt. Khi trẻ đã hòa nhịp được với các bạn, các cháu dân tộc đã tự tin, mạnh dạn tôi không cần nhập vai chơi với trẻ nữa mà gợi ý để trẻ giao lưu với nhau liên kết với các nhóm chơi khác để trẻ mạnh dạn, tự tin trao đổi trong lúc chơi cùng bạn, khi trẻ tham gia các góc chơi là thế giới người lớn được trẻ tái tạo lại trong trò chơi của trẻ tất cả mối quan hệ, giao tiếp của xã hội được trẻ thể hiện hơn nữa hoạt động vui chơi của trẻ là hoạt động diễn ra thường xuyên trong quá trình trẻ đến lớp nên đây chính là thời điểm tốt nhất để trẻ được tiếp thu, tăng cường vốn từ tiếng việt với phương châm “Mưa dầm thấm lâu” song hành với việc trẻ chơi tôi kết hợp tăng cường tiếng việt cho trẻ, với trẻ đây là lúc trẻ thoải mái thể hiện bản thân, thể hiện vốn có của mình, với cô đây là thời điểm thuận lợi để nắm bắt tình hình, thực tế sử dụng ngôn ngữ của các cháu nên việc cung cấp ngôn ngữ ở hoạt động vui chơi rất hiệu quả.

* Giải pháp thứ tư:Tăng cường tiếng việt cho ở mọi lúc, mọi nơi”

* Nội dung:

Hoạt động mọi lúc, mọi nơi là hoạt động theo ý thích của trẻ là lúc thích hợp để giáo viên quan sát trẻ một cách chình xác nhất, qua thời gian này giáo viên theo dõi và nhận biết được mức độ ngôn ngữ của từng trẻ, vì lúc này trẻ thường hoạt động theo nhóm bạn tự chọn của mình và các cháu dân tộc thường chơi cùng nhau và sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình để giao tiếp, tôi đã tranh thủ thời gian này để khai thác ở trẻ tính tự giác và nắm bắt được khả năng tiếp thu của trẻ đến đâu, và qua trò chuyện với trẻ tôi nhận thấy rằng khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc rất chậm, mau quên nhiều trẻ thậm chí còn không sử dụng tiếng kinh đứng trước thực tế đó tôi rất lo lắng bởi lẽ ngôn ngữ là phương tiện để trẻ tiếp nhận kiến thức mà trẻ không thông thạo ngôn ngữ thì lời nói của cô giáo, kiến thức của cô giáo ai sẽ được nghe, được tiếp thu đây?

  • Cách thực hiện:

Phải làm sao đây để các cháu dân tộc thực sự mạnh dạn và giao tiếp với nhau bằng tiếng việt ngoài những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả, tôi tiến hành cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi. Trong giờ đón trẻ tôi luôn vui vẻ, trò chuyện thân thiện với trẻ sửa sang quần áo, chải tóc cho trẻ và không quên kèm theo những câu hỏi giao lưu như: sáng nay ai chở con đi học? quàn áo của con đẹp thật đấy, ai mua cho con vậy? cái áo của con có màu gì? mẹ có mua áo quàn đẹp cho em của con không? nhà con có những con gì? con gà nó ăn gì?…qua các cuộc trò chuyện như thế tôi đã biết được khả năng phát âm của từng trẻ như cháu ........ nói rõ ràng nhưng hay e dè, không tự nhiên, cháu ......thì hay nói mạnh dạn nhưng vốn từ của cháu không nhiều, cháu..........thì nói không rõ âm tiếng việt … qua đó tôi đã dành nhiều thời gian giúp trẻ phát âm đúng, cung cấp thêm vốn từ cho trẻ, tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc và mạnh dạn tự tin hơn bằng cách tôi dẫn trẻ đi dạo chơi, tham quan, đến các góc trò chuyện và phát âm các từ chỉ sự vật, hiện tượng xung quanh như cỏ cây, hoa lá, thời tiết nóng lạnh, những từ có trong các bức tranh mà tôi chuẩn bị để cho trẻ quan sát, rồi những buổi đầu của một chủ đề mới tôi tạo môi trường lớp học khác lạ cho trẻ vừa đến lớp là đã nhận ra sự thay đổi của lớp học, tôi hỏi trẻ hôm nay con thấy lớp mình có gì khác hôm trước trẻ phát hiện và tôi đã tạo ra một sự kiện để trò chuyện với trẻ và mục đích làm cho trẻ mạnh dạn, hay nói, tự tin và tăng vốn từ lại được phát huy, cứ như thế trẻ dân tộc lớp tôi, phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến hỏi cô, từ đó trẻ không còn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra trong giờ hoạt động ngoài trời, giờ trả trẻ tôi tăng cường cho trẻ đọc đồng dao, ca dao để giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn, tạo ra một không khí thân thiện giữa cô và trẻ, sự tin yêu, gần gũi đó chính là điều kích thích cho trẻ thể hiện mình một cách tự tin bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không có trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ.

* Giải pháp thứ năm:Kết hợp với phụ huynh để tăng cường tiếng việt cho trẻ”

* Nội dung:

Bên cạnh sự nỗ lực chung sức của cô và trẻ khi trẻ ở lớp, ở trường, chúng ta phải phối kết hợp với phụ huynh khi trẻ về nhà bởi vì khi về nhà đa số trẻ được sinh hoạt trong môi trường giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, qua các buổi thăm nhà phụ huynh học sinh tôi thấy rằng người gia và phụ nữ trong mỗi gia đình người thiểu số ít khi biết nói tiếng kinh, mọi nhu cầu, hoạt động trong gia đình họ sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp mà hàng ngày thời gian đến lớp của trẻ cô giáo khó khăn lắm mới cho trẻ nói vài từ tiếng việt bập bẹ trong khi thời gian trẻ về nhà thì bố mẹ ông bà chú bác lại sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ một cách đại trà, đó cũng là cái khó khăn tôi gặp phải, để đẩy lùi khó khăn này tôi phải tranh thủ thời gian buổi tối đến nhà gặp gỡ phụ huynh, tận dung những buổi sinh hoạt cộng đồng để tuyên truyền đến các bậc phụ huynh.

  • Cách thực hiện:

Đồng ý là mỗi chúng ta phải nhớ cội nguồn, tôn vinh bản sắc vùng miền, những cần phải đảm bảo được cái chung để đáp ứng với nhu cầu học tập của thế hệ trẻ. tôi đã tuyên truyền tới phụ huynh tầm quan trọng của việc nghe, hiểu và giao tiếp bằng tiếng phổ thông, tôi trò chuyện giải thích với phụ huynh rằng các cháu nhà mình đến lớp không được mạnh dạn như những cháu người kinh, vì cháu nói tiếng kinh không thành thạo, nên những bài giảng của cô cháu nghe không hiểu được hết các yêu cầu nên kho cô hỏi trẻ chưa trả lời được, chưa làm được bài tập theo yêu cầu của cô nếu các cháu biết nói, nghe hiểu thành thạo tiếng kinh thì các cháu cũng học rất giỏi…vậy nên rất mong phụ huynh tạo điều kiện, môi trường cho trẻ được giao tiếp bằng tiếng kinh, khi ở lớp cô đã cho cháu nghe, nói tiếng kinh thì về nhà phụ huynh nên sử dụng tiếng kinh để giao tiếp với cháu, kềm cặp cháu các môn hoặc chữ cái, số, cho cháu đọc thơ, kể chuyện, khuyến khích cháu hát để rèn luyện cách phát âm cho cháu như thế cháu đến lớp cháu sẽ nghe cô giáo giảng bài và biết trả lời thành thạo các câu hỏi của cô, tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp học mầm non và cũng là tiền đề tốt cho các cấp học sau này và đúng như mong muốn của tôi phụ huynh đã biết quan tâm đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Không những thế mà phụ huynh còn tuyên truyền tới những người khác trong buôn qua những dịp gặp gỡ nhau bên những ché rượu cần, họ khoe nhau những thành tích con em mình đạt được mà cứ cuối tuần, cuối tháng tôi vẫn báo cáo về cho phụ huynh những tiến bộ của con em họ việc làm đó của tôi đã mang lại hiệu quả cao hiện nay trẻ dân tộc thiểu số lớp tôi nói tiếng kinh lưu loát, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô giáo, cùng bạn bè và mọi người xung quanh.

III. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ RỊ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chỉ thị của bộ chính trị là việc làm mà chi bộ, ban giám hiệu trương tôi luôn chỉ đạo sát sao tới đảng viên, giáo viên trường.

Tôi nhận thấy rằng đây chính là một tài sản vô giá của dân tộc và là cơ sở bền vững cho mỗi người Đảng viên, cán bộ giáo viên học tập và noi theo. Tuyệt đối không vi phạm đạo đức nhà giáo, luôn luôn là tấm gương sáng cho các cháu noi theo “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Bởi vì lẽ đó, tôi tự nhủ rằng mình phải làm gì để chuẩn bị cho các cháu một hàng trang tốt nhất khi bước vào lớp 1. Nhất là những cháu dân tộc thiểu số, cuối năm học nhận biết, phát âm chuẩn 29 chữ cái, 10 chữ số, biết nói tiếng phổ thông thành thạo, đạt được các yêu cầu phát triển 5 lĩnh vực, đảm bảo chất lượng cuối năm để từ cái nền móng cơ ban đó các cháu sẵn sàng tiến bước vào cấp học tiếp theo. Và bản thân cũng góp phần nhỏ vào sự thành công của nhà trường, vào sự nghiệp giáo dục mầm non của xã nhà, tiến lên đáp ứng nhu cầu hiện tại. Với bao khó khăn vất vả khi trường lớp ở xa trung tâm đa số là người dân tộc tại chỗ, trình độ nhận thức của người dân chưa cao, kinh tế bà con còn nghèo nàn, lạc hậu, phụ huynh học sinh còn coi nhẹ ngành học mầm non các cháu đi học không đều, đến lớp còn khóc nhè, ngôn ngữ giao tiếp còn hạn chế, trẻ chư hòa đồng với bạn, nhút nhát rụt rè nên trẻ không dám thể hiện mình, đến lớp trẻ thụ động cũng chính vì ngôn ngữ thứ 2 của trẻ còn quá ít ỏi, Cơ sở vật chất quá nghèo nàn thiếu thốn, giáo viên nhà xa đi lại rất vất vả.

Nhưng trong một thời gian ngắn, với sự quan tâm của ban giám hiệu, chính quyền địa phương, và nhất là với sự sự băn khoăn, lo lắng trước sự thiếu hụt, thiệt thòi của các cháu đã thúc đẩy sự nổ lực, tận tâm của bản thân một lòng tâm huyết với nghề cho đến nay lớp là 1chúng tôi đã đi vào ổn định. Các cháu đã đi học chuyên cần, đến lớp hòa đồng với các bạn, thể hiện tốt cái tôi của mình, chất lượng các môn học đối với các cháu tăng lên rõ rệt qua bảng theo dõi đánh giá hàng tháng. Cho đến thời điểm này đã có trên 95% cháu nhận biết nhanh và phát âm đúng chữ cái Tiếng việt đã được học. 96% cháu biết cách tô các nét cơ bản và tô đúng quy trình. 97% cháu hiểu được ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng ngôn ngữ Tiếng việt để diễn đạt thành câu có nghĩa, trẻ nói lưu loát bằng ngôn ngữ Tiếng việt. Ngoài việc học trẻ đã mạnh dạn tự tin khi giao tiếp với cô giáo, với bạn bè lúc ở nhà cũng như lúc mọi nơi.

Kết quả theo dõi sau khi áp dụng các phương pháp, biện pháp tăng cường tiếng việt cho trẻ của lớp tôi thì kết quả về 5 lĩnh vực phát triển cuối tháng 12 của lớp tôi cụ thể như sau:

Lớp TS nữ DT NDT Êđê Nữ Êđê DTK Hộ nghèo Măm mặt phát triển
TC TCXH NN NT TM
Lá 1 38 21 31 19 14 8 7 12 36 37 37 36 36
TỈ LỆ % TRẺ ĐẠT 94 % 97% 97% 94% 94%

– Tỉ lệ phần trăm của năm mặt phát triển tăng lên rõ rệt, nhất là về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, thẩm mĩ, phát triển ình cảm xã hội…

– Giò đây trẻ rất thích thú khi đến trường, với trẻ hình như thực sự “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” lớp học được ô giáo trang trí đẹp mắt, đồ dùng, đồ chơi ở các góc được bổ sung đầy đủ đảm bảo chủ đề nào cũng mới lạ cho trẻ hứng thứ vui chơi, học tập, trong phòng học đã kết nối internet. Để cô giáo đưa cả thế giới vào trong lớp học cho các cháu.

Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện, hổ trợ kinh phí để giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi, trang trí các góc đẹp mắt thu hút sự chú ý của trẻ cũng như sự nhìn nhận của phụ huynh để càng ngày càng tin tưởng vào giáo viên và cũng từ đó phụ huynh đã nhận thức rõ việc đưa con em đến trường là cần thiết vậy nên tỷ lệ huy động trẻ đi học 98%..

Học kì I lớp luôn đứng đầu trong các phong trào về nề nếp thói quen của trẻ, duy trì sĩ số, phong trào làm đồ dùng trang trí lớp, và đặc biệt là không còn tình trạng học sinh dân tộc thiểu số bỏ học theo bố mẹ đi nương đi rẫy theo thời vụ như những năm học trước vẫn thường diễn ra. Phụ huynh nhiệt tình trong việc tạo môi trường tiếp xúc cho trẻ, để trẻ được giao lưu với các bạn, nên tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường tiếng việt cho trẻ. Cụ thể là những buổi tập văn nghệ các bậc cha mẹ trẻ rất nhiệt tình bớt thời gian chở các cháu đến lớp tập, nhìn thấy con em của họ được hát, múa họ rất vui và tự hào.

Khi các cháu đến lớp vệ sinh rất sạch sẽ, biết chào hỏi, thưa gởi lễ phép, các hoạt động trẻ hứng thú tham gia và tạo mối quan hệ hòa đồng, đoàn kết trong lớp. các cháu manh dạn giao lưu, tham gia tích cực vào các giờ học, như tham gia kể chuyện, đoạn thơ, biểu diễn văn nghệ…

IV. KẾT LUẬN

Để làm tròn nhiệm vụ của một người giáo viên chủ nhiệm nhất là đối tượng học sinh phần đông là trẻ con em dân tộc thiểu số người giáo viên phải là người có tâm huyết với nghề có chuyên môn vững vàng, kinh nghiệm dày dặn, đạo đức trong sáng, có uy tín với phụ huynh, bà con trong thôn buôn tin tưởng, phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, biết xây dựng kế hoạch giáo dục, tạo môi trường lớp học phù hợp chủ đề, mới lạ để thu hút trẻ, tập thể sư phạm có tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong công tác, đối tượng nghiên cứu là trẻ em trong độ tuổi Mẫu Giáo.

Vận dụng một số biện pháp giúp tăng cường tiếng việt cho các cháu học sinh con em dân tộc thiểu số tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp giúp cho trẻ sử dụng tiếng việt một cách thành thạo bản thân tôi đã nghiên cứu những nội và áp dụng linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động vui chơi, học tập, mọi lúc mọi nơi phù hợp với hoàn cảnh thực tế tình hình của lớp, của địa phương. Giáo viên luôn tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trò chuyện với cô, với bạn nghe hiểu lời nói của cô, của bạn. tăng cường công tác làm đồ dùng đồ chơi đẹp, tạo ra môi trường mới lạ để thu hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngôn ngữ thực sự hứng thú, thực hiện thông qua các hoạt động ở lớp và mọi lúc mọi nơi. Với vốn kinh nghiệm tích lũy ít ỏi về việc tăng cường tiếng việt ấy tôi đã áp dụng và có hiệu quả cao, tại lớp của mình. Tôi tin rằng cuối năm học này 97% trẻ dân tộc thiểu số nói được tiếng việt thành thạo.

Xác định mục tiêu nhận ra tầm quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ trong trường Mẫu Giáo để giúp trẻ nghe hiểu tiếng việt, Phải coi trọng những hành động, suy nghĩ của trẻ dù là nhỏ nhất và luôn đạt câu hỏi “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” lên hàng đầu. Tạo được nề nếp hoạt động thường xuyên, liên tục, mang tính tự giác, tự nguyện cao, và quyết tâm thực hiện không ngại khó khăn.

Luôn luôn làm tốt công tác tham mưu, công tác xã hội hóa giáo dục để toàn xã hội chung tay xây dựng trường học ngày càng đi lên.

1 1,193 24/01/2024


Xem thêm các chương trình khác: