TOP 16 mẫu Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (2025) SIÊU HAY

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan lớp 11 gồm 16 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 17 19/12/2024


Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan

Đề bài: Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan.

Dàn ý Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan

1. Mở bài:

Chiều hôm nhớ nhà Bà Huyện Thanh Quan đã khẳng định tài hoa thơ phú của mình.

Nội dung: Bài thơ chứa một niềm tâm sự hoài cổ, nuối tiếc thời xưa được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh để bộc lộ tình của tác giả.

2. Thân bài:

Giới thiệu: Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng trong thời kỳ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Bà sáng tác thơ rất ít nhưng hầu hết những tác phẩm của bà đều có giá trị to lớn.

=> bộc lộ tài năng độc đáo của mình: sâu lắng, hoài cổ, buồn nhớ trong nỗi niềm tâm sự cùng với nghệ thuật đặc sắc "tức cảnh sinh tình" thật trang nhã, đầy hình tượng.

Đặc sắc:

Ở bài thơ, ta đều bắt gặp một quang cảnh buồn, hoang vắng, cô tịch. Đó là cảnh buổi hoàng hôn tím sẫm, cái khoảng không gian và thời gian buồn, gợi nhớ nhất trong một ngày.

Cả hai bài thơ đều có hình ảnh con người nhưng chỉ thoáng bóng thôi, và quang cảnh chỉ có thế. Đó là những người dân lao động nghèo, vất vả làm ăn, sinh hoạt của họ thật tẻ nhạt, thiếu sinh động.

Bà luôn hoài cổ để chối bỏ thực tại và bày tỏ sự chán ghét thực tại. Đó là nỗi nhớ nước, nhớ nhà bà luôn giấu kín trong lòng

Trước cảnh, bà bộc lộ được niềm tâm sự của mình, một tâm sự hoài cổ, đầy nuối tiếc, muốn níu giữ những kỉ niệm xa xưa.

=> Chính nét đặc sắc đó về nội dung cũng như nghệ thuật "tức cảnh sinh tình" trong thơ bà đã nâng bà vượt lên, có một phong cách riêng, không thể lẫn vào đâu được với những Hồ Xuân Hương đầy trần tục mà rất Việt Nam, Nguyễn Du mang tư tưởng định mệnh... Tóm lại bà có một phong cách thơ rất đặc biệt.

3. Kết bài:

Qua Chiều hôm nhớ nhà Bà Huyện Thanh Quan đã khẳng định tài hoa thơ phú của mình. Hai bài thơ chứa một niềm tâm sự hoài cổ, nuối tiếc thời xưa được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả cảnh để bộc lộ tình của tác giả. Cả hai mặt nội dung và nghệ thuật hoà quyện vào nhau thật nhuần nhuyễn, điêu luyện, mang một sắc thái riêng biệt, đặc sắc.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 1)

Trong làng thơ Việt Nam, có những nữ sĩ để lại cho thơ ca dân tộc những dấu ấn đẹp. Nếu thơ Hồ Xuân Hương tài ba, ngạo mạn thì thơ bà Huyện Thanh Quan lại trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Đọc thơ bà, ta thấy nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ thật thanh cao đượm sự cô đơn, trống vắng. Một trong những bài thơ đó là tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Tìm hiểu bài thơ ta sẽ thấy tài thơ điêu luyện của Bà:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn Gác mái, ngư ông về viễn phố Gõ sừng, mục tử lại cô thôn Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Ở hai câu đề, khoảng thời gian là trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn. Ánh sáng vẫn còn đó, nhưng chỉ còn là ánh lờ mờ của ngày tàn và đêm sắp tới. Câu thơ chỉ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm thấy cả không gian một vùng quê rộng lớn. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một cái gì đó tràn ngập con người nhạy cảm. Buổi chiều là thời gian dễ buồn nhất và đó cũng là khoảng thời gian thường xuất hiện trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người trong cuộc sống hỗn độn, ồn ào vẫn có một lúc nào đó trở về với cái bình yên muôn thuở của thiên nhiên, về với chính lòng mình. Và lúc này chính là khoảnh khắc đó của nữ sĩ.

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Âm thanh từ xa vẳng đến như thúc giục, nhưng vẫn có cái trầm lặng trong đó báo hiệu cho mọi người: ngày sắp hết. Ta như gặp một nét thân quen, man mác của câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Tâm trạng của tác giả đã phần nào được ngầm hiểu trong cách lựa chọn thời gian, không khí và thanh âm. Trong cảnh chiều, trong tiếng gọi tàn ngày đó, con người hiện ra:

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Câu thơ với nhịp 2/5 làm cho ta có cảm giác hoạt động con người đang giảm dần, đang đi tới kết thúc. Phép đối rất chuẩn cùng với những từ Hán Việt đã góp phần tạo nên vẻ trang nhã, cổ kính của hai câu thơ gợi tả này. Trước cảnh thiên nhiên to lớn, con người thật nhỏ, yếu thế và có phần đơn độc. Đó cũng là đặc điểm của thơ Thanh Quan. Gặp cảnh và người ở đây ta không thể không liên tưởng đến cảnh và người.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Trong Qua đèo Ngang của cùng tác giả, cảnh và người đều vậy: lặng lẽ, đượm buồn. Ta có cảm giác nhà thơ cũng đang lặng lẽ, thẩn thờ. Và con đường trước mắt bà thì sao, hai câu luận đã vẽ ra khung cảnh:

Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Khoảng đường trước mắt như vô tận. Chim bay mỏi mà chưa tới nơi, khách bước dồn mà chưa tới chốn. Con đường đi hay con đường đời đang dàn trải? Phép đối từng cặp hình ảnh ngàn mây dặm liễu, gió cuốn - sương sa, chim bay mỏi - khách bước dồn làm ý thêm nhấn mạnh. Những từ ngữ bước dồn, bay mỏi cho thấy tâm trạng chán chường, mỏi mệt của nhà thơ. Tâm trạng ấy tất dẫn đến hai câu thơ kết thúc:

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Không có ai để tâm sự, trời đất thì bao la, vắng lặng, trống trải, khiến tác giả quay về với nội tâm, với lòng buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối, vừa như một câu cảm, vừa như một câu hỏi. Ta đã từng bắt gặp những câu thơ tài ba đó trong thơ bà:

Dừng chân đứng lại, trời non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta

(Qua đèo Ngang)

Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường

(Thăng Long hoài cổ)

Qua đó, ta càng hiểu được nỗi niềm tâm sự của tác giả. Mang tiếng nói của tầng lớp quý tộc phong kiến đang trên đường suy thoái, thơ Thanh Quan biểu hiện một khía cạnh tư tưởng của văn chương thế kỉ 18 - 19, phản ánh tâm tư của lớp nho sĩ chán nản bế tắc. Tiếng thơ đó cũng biểu hiện tâm trạng hoài cổ, thiết tha nhớ nhà Lê đã suy vi. Phải chăng đó cũng là tâm tình của tập đoàn phong kiến đã hết thời vàng son, hết vai trò lịch sử? Đặt bài thơ của nữ sĩ vào bối cảnh lịch sử như thế, ta có biểu hiện sâu thêm cái buồn trong lòng bà: cái buồn thời đại.

Thơ bà buồn, nhưng không vì thế mà mất vẻ đẹp gợi cảm. Trái lại, nhờ vậy càng tăng thêm phần đặc sắc. Thơ bà đẹp một cách trầm lặng như chính tâm hồn bà.

Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi đưa đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành, đậm đà trước nét buồn thanh tao, đưa đến những suy nghĩa sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng còn mở ra, tạo nên một dư âm trong lòng người đọc.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 2)

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong nền thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ này thể hiện nỗi buồn, lòng nhớ nhà của những người xa xứ, một chủ đề phổ biến trong văn hóa Việt. Bà Huyện Thanh Quan mở đầu bài thơ bằng cảnh chiều tà buông trên quê hương, một thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm. Tận dụng vẻ đẹp của cảnh hoàng hôn để tạo nên bức tranh đẹp và u buồn, hòa mình vào không khí dễ thương của làng quê. Người làm thơ biểu lộ sự đau khổ và nhớ nhà qua việc nhắc nhở về hương sắc của làng quê, làm đẩy lực người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc với quê hương. Bài thơ không chỉ là bức tranh về cảnh đẹp của chiều hôm, mà còn là biểu tượng cho tâm hồn những người xa xứ, những kẻ lưu lạc, những người mang theo nỗi nhớ về quê hương trong lòng.

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

Câu thơ mở đầu với hình ảnh ánh hoàng hôn trên bức tranh của một buổi chiều viễn xứ. Tác giả sử dụng hai chữ "bảng lảng" để mô tả ánh sáng của hoàng hôn, tạo nên một bức tranh tinh tế và độc đáo. Từ "bảng lảng" có ý chỉ sự mơ hồ, không rõ ràng, tạo ra một hiệu ứng ánh sáng lờ mờ. Trong bức tranh của tác giả, ánh hoàng hôn bao phủ cả không gian gần xa, làm cho mọi thứ trở nên mơ hồ và mịn màng. Điều này không chỉ tạo nên một bối cảnh đẹp mắt mà còn làm nổi bật sự huyền bí và thấm đẫm cảm xúc của buổi chiều.

Hình ảnh ánh hoàng hôn "bảng lảng" cũng mang theo sự biến đổi của thời gian, từ ánh sáng chói lọi của ban ngày sang sự bí ẩn và nhẹ nhàng của buổi hoàng hôn. Đây có thể là biểu tượng cho sự chuyển giao giữa ngày và đêm, tạo ra một không khí buồn bã và thư thái đồng thời. Từ ngữ tinh tế này giúp độc giả hình dung một cách sống động về không khí và cảm xúc của buổi chiều, nâng cao giá trị nghệ thuật của bức tranh mà tác giả muốn truyền đạt.

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".

Chữ "bảng lảng" trong bài thơ là một nhãn tự đặc sắc, như là ánh mắt sáng lạc của bức tranh thi ca. Nguyễn Du đã khéo léo lựa chọn từ ngôn ngữ để tạo nên một hình ảnh tươi đẹp, sống động về hoàng hôn. Chữ "bảng lảng" không chỉ là một mô tả đơn thuần, mà còn là cầu nối giữa văn hóa và nghệ thuật, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật cho bài thơ.

"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)

Thông qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ, Bà Huyện Thanh Quan đã khéo léo diễn đạt không khí của khoảnh khắc hoàng hôn một cách tinh tế và điêu luyện. Trong bức tranh thơ, ánh hoàng hôn không chỉ là sự chuyển động của ánh sáng khiến cho không gian trở nên mơ hồ và đẹp đẽ, mà còn là nguồn gốc của một nỗi buồn lê thê, một cảm xúc sâu sắc trong lòng người đi xa. Tác giả chọn từ "bảng lảng" để mô tả ánh hoàng hôn, tạo ra hình ảnh mềm mại và mơ mộng, giúp độc giả cảm nhận được sự dịu dàng của khoảnh khắc đó.

Ngoài ra, sự chuyển động của thời gian và không gian cũng được thể hiện qua tiếng ốc và tiếng trống đồn. Tiếng ốc "xa đưa vẳng" như là giọng hát của khoảnh khắc, một âm thanh buồn bã và xa vời, tăng cường thêm vào cảm xúc của người đọc. Tiếng trống đồn trên chòi cao càng làm cho không gian trở nên lớn lên, khiến nỗi buồn của lữ khách trở nên sâu sắc hơn. Bà Huyện Thanh Quan đã tận dụng ngôn từ và âm thanh một cách khéo léo, để lại ấn tượng sâu sắc về cảm xúc và vẻ đẹp của hoàng hôn trong lòng người đọc.

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "

Phần thực và phần luận của bài thơ này tạo nên một tác phẩm vô cùng phong phú và sâu sắc, mô tả một thế giới đầy hương vị văn hóa và tình cảm. Các thi liệu được chọn lựa với sự tinh tế, giúp bức tranh thơ trở nên sống động và giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách là những nhân vật quen thuộc nhưng vẫn được tác giả xử lí một cách độc đáo, làm nổi bật những khía cạnh tâm lý và con người đặc biệt của họ. Các đối tượng này không chỉ là cá nhân mà còn là biểu tượng cho những giá trị văn hóa, tâm hồn, và cuộc sống của người Việt Nam.

Cảnh vật trong bài thơ không chỉ là hình ảnh mà còn là nguồn cảm hứng sâu sắc. Ngàn mai, gió, sương, "chim bay mỏi" tất cả đều được sử dụng một cách tinh tế, không chỉ làm giàu hình ảnh mà còn tạo nên một không khí ước lệ, mơ mộng. Các từ ngữ như ngư, tiều, phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều... đều là những từ ngữ thường thấy trong thi pháp cổ, nhưng tác giả đã sáng tạo vô cùng tinh tế, tạo ra một bức tranh thơ mới mẻ, đầy sức sống. Tính cách sáng tạo của tác giả thể hiện qua việc chọn từ, tạo hình ảnh, và đối câu, đối từ, đối thanh. Mỗi chi tiết trong bài thơ đều được chăm chút kỹ lưỡng, từ việc chọn từ ngữ đến cách sắp xếp cấu trúc câu. Tất cả đều hòa quyện để tạo nên một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã.

Qua bức tranh thơ, cảnh vật không chỉ là nền nã cho câu chuyện mà còn trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Hồn người Việt, bản sắc dân tộc được tái hiện qua cảnh vật, tạo nên một tác phẩm văn hóa đậm đà và lôi cuốn.

Cuối cùng, chiều tà với hình ảnh ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi về viễn phố đã mở ra một khía cạnh nhàn hạ, thoải mái của ngư ông, người sống ở miền quê và đã thoát khỏi vòng xoay của danh lợi. Động từ "gác mái" không chỉ là một hành động đơn thuần mà còn là biểu tượng cho sự nhàn hạ, sự tự do mà ngư ông đang trải qua.

"Gác mái, ngư ông về viễn phố".

Lũ trẻ, như những đóa hoa cỏ mơn mởn, thể hiện sự tươi trẻ và hồn nhiên. Việc họ "gõ sừng" của mục đồng là biểu tượng cho sự vui đùa và yêu đời trong cuộc sống thôn quê. Hình ảnh này làm nổi bật tinh thần lạc quan, hạnh phúc, và sự gắn bó mạnh mẽ với quê hương, nơi mà mỗi hành động đều chứa đựng niềm vui và ý nghĩa sâu sắc.

Câu thơ này chính là một góc nhìn đẹp và ý nghĩa về cuộc sống nông thôn, với sự giản dị, tình tự, và hạnh phúc tại "cô thôn". Nó là lời tri ân, gửi gắm tình yêu thương đặc biệt của tác giả đối với quê hương và những giá trị truyền thống

"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".

Bức tranh về con người trong bài thơ là những nét vẽ đặc sắc, tuyệt đẹp, mang đến cho độc giả một trải nghiệm tinh tế về cuộc sống thôn dã đồng thời thể hiện sự thân thuộc và đáng yêu của những hình ảnh được mô tả. Hai câu luận tiếp theo tạo nên một khung cảnh hình ảnh đầy cảm xúc về cái lạnh lẽo, cô liêu của người lữ khách trên đường xa. Mô tả về trời sắp tối, những mái xào xạc trong "gió cuốn", gió ngày càng mạnh, và cánh chim mỏi bay vội về rừng để tìm tổ, tất cả đều là những chi tiết tinh tế, tạo nên không khí u ám, lạnh buốt. Sương mù dày đặc, liễu cong khói bao phủ cả con đường, tăng cường cảm giác cô đơn và mệt mỏi.

Hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là những nét vẽ đôi đặc biệt, nó không chỉ mô tả về sự mệt mỏi, cô đơn của người lữ khách mà còn làm tăng thêm sự u buồn, hối hả trong bức tranh. Bức tranh này không chỉ là một miêu tả cảnh vật, mà còn là một bức tranh tâm lý, thể hiện những tình cảm sâu sắc của con người trước những khó khăn, trên con đường dài nghìn dặm xa xôi. Câu thơ "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ là hình ảnh tuyệt vời, nhấn mạnh sự bất an, hoang mang của người lữ khách giữa dòng đời hối hả và bất lực. Đảo ngữ được sử dụng một cách tinh tế, làm nổi bật sự bao la và xa xôi của nẻo đường, tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ về sự vô tận và khó khăn của cuộc hành trình.

"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".

Qua những câu thơ, Bà Huyện Thanh Quan tái hiện hình ảnh của chiều hôm, nơi mà bóng hoàng hôn đọng lại trên cảnh quan và tâm hồn. Việc sử dụng từ ngữ mô tả và hình ảnh của cảnh hoàng hôn giúp tác giả truyền đạt một cảm xúc đặc biệt, nỗi nhớ nhà và tình cảm bồi hồi.

Câu kết hợp hai vế tiểu đối "Kẻ chốn / Chương Đài người lữ thứ" là sự tận dụng điển tích của "Chương Đài" trong văn hóa để tạo nên một khung cảnh lãng mạn và đầy ý nghĩa. "Chương Đài" ở đây không chỉ là điểm phân ly mà còn là biểu tượng cho tình yêu và gặp gỡ. Tình cảm "lữ thứ" gợi lên hình ảnh của người đi xa, cảm giác lạc lõng giữa nơi xa xôi. Câu hỏi cuối cùng "Hàn ôn làm chi lữ thứ?" thể hiện sự thắc mắc và tâm sự của người lữ thứ. "Hàn ôn" có thể hiểu là niềm nhớ nhà và nỗi buồn cô đơn trong những cảnh trời xa xôi. Sự đặt câu hỏi tạo nên một bức tranh của tâm trạng và nỗi nhớ thương chôn sâu trong lòng người lữ thứ, thể hiện sự tận thức về sự xa cách và lẻ loi.

"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?"

"Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" là hai tác phẩm thơ thất ngôn bát cú của Bà Huyện Thanh Quan, những bức tranh tinh tế và đầy nghệ thuật mà bà sáng tác trong thời kỳ nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế, khi nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Những bài thơ này có thể xem như những bút kí tuyệt vời, độc đáo với sự tư duy sâu sắc và khả năng diễn đạt tinh tế của bà. Nghệ thuật thơ của Bà Huyện Thanh Quan thường mang đậm nét buồn, hoài cổ, và thương nhớ, đặc biệt là khi bà đề cập đến hoàng hôn. Lời thơ của bà được xây dựng với sự trang nhã, sử dụng nhiều từ ngữ Hán Việt như "bảng lảng", "hoàng hôn", "ngư ông", "viễn phố", tạo nên một phong cách trang trọng, cổ điển và nhạc điệu trầm bổng, lôi cuốn người đọc vào thế giới tưởng tượng của bà.

"Chiều hôm nhớ nhà" là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, chứa đựng tình cảm thương nhớ và bâng khuâng. Bài thơ này là như một bức tranh sống động về không gian quê hương, với những hình ảnh đẹp nhưng buồn bã về ngôi nhà cũ, con đường quen thuộc và những kỷ niệm hạnh phúc. Bà Huyện Thanh Quan biểu đạt tâm trạng như một bức tranh với những chi tiết tinh tế, sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh để làm đậm chất lãng mạn và thơ mộng của bức tranh này. "Qua Đèo Ngang" là một tác phẩm khác của Bà Huyện Thanh Quan, tiếp tục mang đến cho độc giả những cảm xúc sâu sắc và đằm thắm. Bài thơ này tả cảnh đi qua Đèo Ngang, nơi có thể được hiểu như là một biểu tượng cho cuộc hành trình của cuộc đời. Bà sử dụng những hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên để thể hiện sự huyền bí và đầy bí ẩn của đèo núi, kết hợp với cảm xúc của người đi ngang qua nơi này, tạo nên một bức tranh tâm lý phong phú.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 3)

Ai đã từng đọc "Truyện Kiều" chắc không thể nào quên được câu thơ của Nguyễn Du nói về hoàng hôn:

"Sông sa vò võ phương trời,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng".

Cũng nói về hoàng hôn và nỗi buồn của kẻ tha hương, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một kiệt tác của nền thơ Nôm Việt Nam trong thế kỉ XIX:

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

Câu thơ đầu tả ánh hoàng hôn một buổi chiều viễn xứ. Hai chữ "bảng lảng" có giá trị tạo hình đặc sắc: ánh sáng lờ mờ lúc sắp tối, mơ hồ gần xa, tạo cho bức tranh một buổi chiều thấm buồn:

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".

Hai chữ "bảng lảng" là nhãn tự - như con mắt của câu thơ. Nguyễn Du cũng có lần viết:

"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)

Chỉ qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ thôi, người đọc cũng cảm nhận được ngòi bút thơ vô cùng điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan.

Đối với người đi xa, khoảnh khắc hoàng hôn, buồn sao kể hết được? Nỗi buồn ấy lại được nhân lên khi tiếng ốc (tù và) cùng tiếng trống đồn "xa đưa vẳng" lại. Chiều dài (tiếng ốc), chiều cao (tiếng trống đồn trên chòi cao) của không gian được diễn tả qua các hợp âm ấy, đã gieo vào lòng người lữ khách một nỗi buồn lê thê, một niềm sầu thương tê tái. Câu thơ vừa có ánh sáng (bảng lảng) vừa có âm thanh (tiếng ốc, trống đồn) tạo cho cảnh hoàng hôn miền đất lạ mang màu sắc dân dã:

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "

Phần thực và phần luận, các thi liệu làm nên cốt cách bài thơ được chọn lựa tinh tế, biểu đạt một hồn thơ giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách... thế giới con người được nói đến. Cảnh vật thì có ngàn mai, có gió và sương, có "chim bay mỏi" ... Những thi liệu ấy mang tính chất ước lệ của thi pháp cổ (người thì có: ngư, tiều; cảnh vật, cây cỏ, hoa lá thì có: phong, sương, mai, liễu, cánh chim chiều...) nhưng với tài sáng tạo vô song: chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh, ở phương diện nào, nữ sĩ cũng tỏ rõ một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã. Vì thế cảnh vật trở nên gần gũi, thân thuộc với mọi con người Việt Nam. Cảnh vật mang hồn người đậm đà bản sắc dân tộc.

Chiều tà, ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi theo dòng sông về viễn phố (bến xa) với tâm trạng của một "ngư ông" - ông chài nhàn hạ, thoải mái. Động từ "gác mái" biểu đạt một tâm thế nhàn của ngư ông đang sống ở miền quê, đã thoát vòng danh lợi:

"Gác mái, ngư ông về viễn phố".

Cùng lúc đó, lũ trẻ đưa trâu về chuồng, trở lại "cô thôn", cử chỉ "gõ sừng" của mục đồng thật hồn nhiên, vô tư, yêu đời.

"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".

Đó là hai nét vẽ về con người, hai bức tranh tuyệt đẹp nơi thôn dã vô cùng thân thuộc đáng yêu.

Hai câu luận tiếp theo mượn cảnh để tả cái lạnh lẽo, cô liêu, bơ vơ của người lữ khách trên nẻo đường tha hương nghìn dặm. Trời sắp tối. Ngàn mái xào xạc trong "gió cuốn"; gió mỗi lúc một mạnh. Cánh chim mỏi bay gấp về rừng tìm tổ. Sương sa mù mịt dặm liễu. Và trên con đường sương gió ấy, lạnh lẽo ấy chỉ có một người lữ khách, một mình một bóng đang "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ. Hai hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là hai nét vẽ đăng đôi, đặc tả sự mỏi mệt, cô đơn. Con người như bơ vơ, lạc lõng giữa ”gió cuốn" và "sương sa", đang sống trong khoảnh khắc sầu cảm, buồn thương ghê gớm. Câu thơ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đảo ngữ làm nổi bật cái bao la của nẻo đường xa miền đất lạ:

"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".

Bằng sự trải nghiệm của cuộc đời, đã sống những khoảnh khắc hoàng hôn ở nơi đất khách quê người, nữ sĩ mới viết được những câu thơ rất thực miêu tả cảnh ngộ lẻ loi của kẻ tha hương hay đến thế!

Hai câu kết hội tụ, dồn nén lại tình thương nhớ. Nữ sĩ cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Câu thứ bảy gồm hai vế tiểu đối, lời thơ cân xứng đẹp: "Kẻ chốn

Chương Đài người lữ thứ". Chương Đài là điển tích nói về chuyện li biệt, nhớ thương, tan hợp của lứa đôi Hàn Hoành và Liễu thị đời nhà Hán xa xưa. Bà Huyện Thanh Quan đã vận dụng điển tích ấy một cách sáng tạo. "Chương Đài" và "lữ thứ" trong văn cảnh gợi ra một trường liên tưởng về nỗi buồn li biệt của khách đi xa nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. Khép lại bài thơ là một tiếng than giãi bày một niềm tâm sự được diễn tả dưới hình thức câu hỏi tu từ. "Ai" là đại từ phiếm chỉ, nhưng ai cũng biết đó là chồng, con, những người thân thương của nữ sĩ. "Hàn ôn” là nóng lạnh, "nỗi hàn ôn" là nỗi niềm tâm sự. Người lữ thứ trong chiều tha hương thấy mình bơ vơ nơi xa xôi, nỗi buồn thương không sao kể xiết:

"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".

"Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" hai kiệt tác thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Đó là chùm thơ của Bà Huyện Thanh Quan sáng tác trong những tháng ngày nữ sĩ trên đường thiên lí vào kinh đô Huế nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Có thể coi đó là những bút kí - thơ vô cùng độc đáo. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan thấm một nỗi buồn li biệt hoặc hoài cổ, hay nói đến hoàng hôn, lời thơ trang nhã, sử dụng nhiều từ Hán Việt (bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố...) tạo nên phong cách trang trọng, cổ kính, nhạc điệu trầm bổng hấp dẫn. "Chiều hôm nhớ nhà" là một bông hoa nghệ thuật chứa chan tình thương nhớ, bâng khuâng,...

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 4)

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm văn chương đặc sắc, mang đậm tình cảm và hình ảnh đẹp về quê hương, về tuổi thơ và những kỷ niệm ngọt ngào. Bài thơ đã tạo nên một không gian tĩnh lặng, êm đềm, khiến người đọc như được trở về quá khứ, nhớ về những kỷ niệm đáng quý.

Bài thơ bắt đầu bằng câu "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương", ngay từ đầu đã thể hiện sự nhớ nhung, tình cảm sâu sắc của tác giả đối với quê hương và tuổi thơ. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng những từ ngữ đơn giản, gần gũi để tạo nên một hình ảnh thân thuộc, như "mái tranh", "đồng quê", "con đường", "ngôi nhà",... Những từ ngữ này không chỉ đơn thuần là mô tả mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về quê hương, về tuổi thơ và những giá trị văn hóa truyền thống.

Bài thơ tiếp tục miêu tả những hình ảnh đẹp và tình cảm của tác giả với quê hương. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng nhiều biểu tượng và hình ảnh như "cánh đồng", "cánh đồng lúa chín vàng", "cánh đồng bát ngát",... để tạo nên một không gian mộc mạc, yên bình và thân thuộc. Những hình ảnh này không chỉ đơn thuần là mô tả mà còn mang ý nghĩa về sự phồn thịnh, sự bình yên và sự gắn kết của người dân quê hương.

Bài thơ còn thể hiện sự nhớ nhung và tình cảm của tác giả với tuổi thơ. Bà Huyện Thanh Quan đã miêu tả những kỷ niệm đáng quý trong tuổi thơ như "đường đi học", "bàn ghế trường xưa", "bài hát tuổi thơ",... Những hình ảnh này không chỉ đơn thuần là mô tả mà còn chứa đựng nhiều kỷ niệm, nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc của tác giả với những ngày tháng ngọt ngào đã qua.

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm văn chương đẹp, tạo nên một không gian tĩnh lặng, êm đềm và đầy tình cảm. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ đơn giản, gần gũi và những hình ảnh đẹp để miêu tả quê hương và tuổi thơ. Bài thơ đã gợi lên trong lòng người đọc những kỷ niệm đáng quý và những giá trị văn hóa truyền thống.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 5)

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

(Qua đèo Ngang)

“Nhớ nước” - “thương nhà” là hai dòng tình cảm sâu sắc của Bà Huyện Thanh Quan. “Nhớ nước”, bà có bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, “thương nhà”, bà có bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”. Dưới triều Tự Đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Sống trong cung đình, nhưng bà tự coi mình như kẻ “lữ thứ”, tấm lòng của bà luôn luôn hướng về chốn “Chương Đài”. Tâm sự “thương nhà” của bà được diễn tả một cách tài hoa trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:

“Chiều trời hảng lảng hóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim hay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn,
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.

Bà Huyện Thanh Quan đã chọn luật bằng vần bằng cho bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” (Bài “Thăng Long thành hoài cổ” là luật trắc vần bằng) hợp với điệu hoài cảm của tâm hồn thi nhân. Mở đầu bài thơ là hình ảnh buổi hoàng hôn với điệu nhạc chiều êm ái, thổn thức:

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa dưa vẳng trống dồn”

Trong cả ba bài thơ nổi tiếng, Bà Huyện Thanh Quan đều nói đến chiều tà.

“Bước tới đèo Ngang bóng xé tà”

(Qua đèo Ngang)

“Nền củ lâu đài bóng tịch dương”

(Thăng Long thành hoài cổ)

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”

Từ “bảng lảng” tả ánh sáng buổi hoàng hôn thật là đặc sắc. Cảm nhận về ánh sáng như vậy thật là thi sĩ. “Bảng lảng” là ánh nắng đã nhạt, loãng, yếu ớt của buổi chiều tàn. Ánh nắng hạ xuống thì nhạc chiều nổi lên. Điệu nhạc trầm buồn của tiếng ốc từ xa đưa lại, tiếng trống cũng xa, chỉ nghe văng vẳng nhưng dồn dập thổn thức. Cái tôi trữ tình của thi nhân lặng phía sau hình ảnh và âm thanh. Cái gì nữ sĩ nhìn thấy, gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng nghe, đón nhận những âm vang từ xa, cho nên khúc nhạc chiều trầm buồn đó cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân.

Nhà thơ mở rộng không gian của buổi hoàng hôn, trở về với những hình ảnh gần gũi thân quen của những người lao động:

“Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”

Bà Huyện Thanh Quan vẫn không thoát khỏi những đề tài “ngư, tiều, canh, mục” quen thuộc trong thơ cổ điển. Nhưng bà vẫn có sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai nhân vật cho buổi “chiều hôm” là “ngư ông” và “mục tử’. Nét linh hoạt của câu thơ là ở những cử chỉ của nhân vật. Hai cử chỉ nghịch nhau mà lại cùng diễn tả một ý tưởng. “Gác mái” là ngư ông nghỉ ngơi, đảo vị ngữ “Gác mái” càng nhấn mạnh sự nghỉ ngơi thư thái của ngư ông. “Gõ sừng” cũng được đảo ra phía trước để nhân mạnh cử động của mục tử (người chăn trâu) nhưng là cử động trở về, nghỉ ngơi. Nhưng cả ngư ông và mục tử trên đường trở về đều có khoảng cách “ngư ông về viễn phố”, ngư ông về bến xa, “mục tử lại cô thôn”, người chăn trâu về xóm lẻ loi. Khoảng cách ấy cũng là khoảng cách trong lòng thi nhân với quê hương xứ sở của mình, thành ra có ba con người, ngư ông, mục tử và nữ sĩ chẳng gắn bó gì với nhau cả lại cùng giông nhau ở một điểm là chiều hôm, mỗi người đều hướng về nơi chôn thân yêu của mình. Tóm lại, hai câu thực đã thể hiện một cách tài hoa chủ đề chiều hôm nhớ nhà.

Chuyển sang hai câu luận, không gian thơ được mở lên chiều cao với những hoạt động của thiên nhiên trong buổi chiều hôm:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

Hình ảnh thật đẹp, thật gợi cảm. Nhà thơ đã chọn được những tín hiệu thẩm mĩ có khả năng diễn tả tâm tình của thi nhân. Hình ảnh “ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn, thoáng, vừa sôi động. Rừng mai bạt ngàn càng thấy sự lẻ loi đơn chiếc của thi nhân, hình ảnh “gió cuốn” gợi sự xao động bên trong của nữ sĩ. Hình ảnh cánh chim chiều “bay mỏi” cũng gợi tâm trạng của thi nhân. Làm sao giữa không gian bạt ngàn của rừng mai mà nhận ra “chim bay mỏi”? Phải có con mắt rất tinh, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải là con mắt của tấm lòng. Còn “dặm liễu” thì thơ mộng mà “dặm liễu sương sa” thì vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo. Cái lạnh của sương chiều đã thúc bước chân của người đi đường “khách bước dồn”. Cái hay của hai câu luận là không gian được mở ra với những hình ảnh đẹp, thơ mộng, gợi cảm và chủ đề Chiều hôm nhớ nhà cũng mở ra đến chiều sâu thẳm. Chỉ tiếc là từ “dồn” (bước dồn) trong câu luận đã lặp lại từ “dồn” (trông dồn) trong câu thừa đề khiến cho bài thơ nghèo đi một chút.

Dòng tình cảm ngầm chảy suốt qua các hình ảnh và nhạc điệu đến đây lộ ra tha thiết, nồng nàn:

“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”

Nữ sĩ dùng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” vừa thuận với thi pháp “phi ngã” (không có cái tôi) thời bấy giờ mà cũng vừa hợp với tâm tình của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị (người trí mài), nồng nàn nhưng vẫn e ấp. “Kẻ chốn Chương Đài” là tác giả dùng điển cố. Xưa có người gửi thư về cho vợ là Liễu Thị hỏi: “Cây liễu Chương Đài xanh xanh trước kia nay còn không?”. Và từ đó “Chương Đài” thành ước lệ quê nhà trong văn chương. “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ” là kẻ ở quê nhà, người ở quán trọ (lữ thứ) xa xôi cách trở. Nữ sĩ dùng chữ “lữ thứ” thật bất ngờ. Bà đang dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung vua, còn đâu hoa lệ và sang trọng hơn? Vậy mà nữ sĩ coi đấy cũng chẳng qua là quán trọ. Tác giả dùng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào trung hòa được tinh thần ngạo mạn của bà. Cho nên trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của bà là tình nhớ nước. Bà chẳng tha thiết, chẳng gắn bó gì với triều đại đương thời, nữ sĩ cảm thấy như bị lưu đày nơi đất khách quê người. Và câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng trào dâng lên nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”.

Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” được Bà Huyện Thanh Quan viết theo bút pháp tả cảnh gợi tình quen thuộc trong thơ cổ điển. Từng bình ảnh, từng âm thanh đều gợi đến tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ. Nỗi nhớ nhà của nữ sĩ thật là thâm trầm, sâu sắc, nhân bản. Trong quan hệ xã hội, bà không được chia sẻ, sốhg với một triều đại mà bà chỉ hướng về ánh hào quang của quá khứ, “một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua đèo Ngang) nên bà dồn tình cảm nhớ thương cho gia đình, cho những người thân yêu. Trước tình trạng lỏng lẻo của những môi quan hệ gia đình hiện nay thì một tiếng thơ (cũng là tiếng lòng) của Bà Huyện Thanh Quan cũng có giá trị tinh thần nhân bản, cao quý của gia đình.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 6)

Nhớ nước” – “thương nhà” là hai dòng tình cảm sâu sắc của Bà Huyện Thanh Quan. “Nhớ nước”, bà có bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, “thương nhà”, bà có bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”.

Dưới triều Tự Đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Sống trong cung đình, nhưng bà tự coi mình như kẻ “lữ thứ”, tấm lòng của bà luôn luôn hướng về chốn “Chương Đài”. Tâm sự “thương nhà” của bà được diễn tả một cách tài hoa trong bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:

“Chiều trời bảng lảng hóng hoàng hôn
…..
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.

Bà Huyện Thanh Quan đã chọn luật bằng vần bằng cho bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” (Bài “Thăng Long thành hoài cổ” là luật trắc vần bằng) hợp với điệu hoài cảm của tâm hồn thi nhân. Mở đầu bài thơ là hình ảnh buổi hoàng hôn với điệu nhạc chiều êm ái, thổn thức:

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa dưa vẳng trống dồn”

Trong cả ba bài thơ nổi tiếng, Bà Huyện Thanh Quan đều nói đến chiều tà.

“Bước tới đèo Ngang bóng xé tà”
(Qua đèo Ngang)

“Nền củ lâu đài bóng tịch dương”
(Thăng Long thành hoài cổ)

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”

Từ “bảng lảng” tả ánh sáng buổi hoàng hôn thật là đặc sắc. Cảm nhận về ánh sáng như vậy thật là thi sĩ. “Bảng lảng” là ánh nắng đã nhạt, loãng, yếu ớt của buổi chiều tàn. Ánh nắng hạ xuống thì nhạc chiều nổi lên. Điệu nhạc trầm buồn của tiếng ốc từ xa đưa lại, tiếng trống cũng xa, chỉ nghe văng vẳng nhưng dồn dập thổn thức.

Cái tôi trữ tình của thi nhân lặng phía sau hình ảnh và âm thanh. Cái gì nữ sĩ nhìn thấy, gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng nghe, đón nhận những âm vang từ xa, cho nên khúc nhạc chiều trầm buồn đó cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân.

Nhà thơ mở rộng không gian của buổi hoàng hôn, trở về với những hình ảnh gần gũi thân quen của những người lao động:

“Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”

Bà Huyện Thanh Quan vẫn không thoát khỏi những đề tài “ngư, tiều, canh, mục” quen thuộc trong thơ cổ điển nhưng bà vẫn có sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai nhân vật cho buổi “chiều hôm” là “ngư ông” và “mục tử’.

Nét linh hoạt của câu thơ là ở những cử chỉ của nhân vật. Hai cử chỉ nghịch nhau mà lại cùng diễn tả một ý tưởng. “Gác mái” là ngư ông nghỉ ngơi, đảo vị ngữ “Gác mái” càng nhấn mạnh sự nghỉ ngơi thư thái của ngư ông. “Gõ sừng” cũng được đảo ra phía trước để nhân mạnh cử động của mục tử (người chăn trâu) nhưng là cử động trở về, nghỉ ngơi. Nhưng cả ngư ông và mục tử trên đường trở về đều có khoảng cách “ngư ông về viễn phố”, ngư ông về bến xa, “mục tử lại cô thôn”, người chăn trâu về xóm lẻ loi.

Khoảng cách ấy cũng là khoảng cách trong lòng thi nhân với quê hương xứ sở của mình, thành ra có ba con người, ngư ông, mục tử và nữ sĩ chẳng gắn bó gì với nhau cả lại cùng giông nhau ở một điểm là chiều hôm, mỗi người đều hướng về nơi chôn thân yêu của mình. Tóm lại, hai câu thực đã thể hiện một cách tài hoa chủ đề chiều hôm nhớ nhà.

Chuyển sang hai câu luận, không gian thơ được mở lên chiều cao với những hoạt động của thiên nhiên trong buổi chiều hôm:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

Hình ảnh thật đẹp, thật gợi cảm. Nhà thơ đã chọn được những tín hiệu thẩm mĩ có khả năng diễn tả tâm tình của thi nhân. Hình ảnh “ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn, thoáng, vừa sôi động. Rừng mai bạt ngàn càng thấy sự lẻ loi đơn chiếc của thi nhân, hình ảnh “gió cuốn” gợi sự xao động bên trong của nữ sĩ. Hình ảnh cánh chim chiều “bay mỏi” cũng gợi tâm trạng của thi nhân.

Làm sao giữa không gian bạt ngàn của rừng mai mà nhận ra “chim bay mỏi”? Phải có con mắt rất tinh, nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải là con mắt của tấm lòng. Còn “dặm liễu” thì thơ mộng mà “dặm liễu sương sa” thì vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo. Cái lạnh của sương chiều đã thúc bước chân của người đi đường “khách bước dồn”.

Cái hay của hai câu luận là không gian được mở ra với những hình ảnh đẹp, thơ mộng, gợi cảm và chủ đề Chiều hôm nhớ nhà cũng mở ra đến chiều sâu thẳm. Chỉ tiếc là từ “dồn” (bước dồn) trong câu luận đã lặp lại từ “dồn” (trông dồn) trong câu thừa đề khiến cho bài thơ nghèo đi một chút.

Dòng tình cảm ngầm chảy suốt qua các hình ảnh và nhạc điệu đến đây lộ ra tha thiết, nồng nàn:

“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”

Nữ sĩ dùng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” vừa thuận với thi pháp “phi ngã” (không có cái tôi) thời bấy giờ mà cũng vừa hợp với tâm tình của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị (người trí mài), nồng nàn nhưng vẫn e ấp.

“Kẻ chốn Chương Đài” là tác giả dùng điển cố. Xưa có người gửi thư về cho vợ là Liễu Thị hỏi: “Cây liễu Chương Đài xanh xanh trước kia nay còn không?”. Và từ đó “Chương Đài” thành ước lệ quê nhà trong văn chương. “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ” là kẻ ở quê nhà, người ở quán trọ (lữ thứ) xa xôi cách trở.

Nữ sĩ dùng chữ “lữ thứ” thật bất ngờ. Bà đang dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung vua, còn đâu hoa lệ và sang trọng hơn? Vậy mà nữ sĩ coi đấy cũng chẳng qua là quán trọ.

Tác giả dùng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào trung hòa được tinh thần ngạo mạn của bà. Cho nên trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của bà là tình nhớ nước. Bà chẳng tha thiết, chẳng gắn bó gì với triều đại đương thời, nữ sĩ cảm thấy như bị lưu đày nơi đất khách quê người. Và câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng trào dâng lên nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”.

Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” được Bà Huyện Thanh Quan viết theo bút pháp tả cảnh gợi tình quen thuộc trong thơ cổ điển. Từng bình ảnh, từng âm thanh đều gợi đến tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ. Nỗi nhớ nhà của nữ sĩ thật là thâm trầm, sâu sắc, nhân bản.

Trong quan hệ xã hội, bà không được chia sẻ, sống với một triều đại mà bà chỉ hướng về ánh hào quang của quá khứ, “một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua đèo Ngang) nên bà dồn tình cảm nhớ thương cho gia đình, cho những người thân yêu. Trước tình trạng lỏng lẻo của những môi quan hệ gia đình hiện nay thì một tiếng thơ (cũng là tiếng lòng) của Bà Huyện Thanh Quan cũng có giá trị tinh thần nhân bản, cao quý của gia đình.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 7)

Trong thế giới thơ Việt Nam, nữ sĩ đã để lại những dấu ấn đẹp, và Bà Huyện Thanh Quan là một trong số những nhà thơ nữ xuất sắc. So với tài năng ngạo mạn của Hồ Xuân Hương, thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại toát lên vẻ trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Trong những bài thơ của bà, ta cảm nhận được không khí của nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ cao quý đượm sự cô đơn và trống vắng. Một trong những tác phẩm nổi bật của bà là "Chiều hôm nhớ nhà," nơi tài thơ điêu luyện của bà thể hiện rõ. Trời chiều rơi bóng lảng vào bức tranh hoàng hôn, khiến không gian trở nên ấm áp và tràn ngập cảm xúc. Tiếng ốc xa vang, như một điệu nhạc trống dồn, đưa đến âm thanh nhẹ nhàng, êm đềm, như chính là giọng hòa nhạc của tự nhiên. Gác mái, ngư ông về viễn phố, tạo ra hình ảnh của sự quay về, của sự bình yên sau những ngày lao động. Gõ sừng, mục tử lại cô thôn, như một nét văn hóa sâu sắc, làm nổi bật nét truyền thống trong cuộc sống của những người dân quê mùa. Cảnh tượng này không chỉ là hình ảnh mà còn là ký ức, là sự đậm chất văn hóa.

Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi, mô tả một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, làm nổi bật sự mệt mỏi của đám chim sau những chặng đường dài. Bức tranh này không chỉ là về cảnh đẹp tự nhiên mà còn là về những nỗ lực, sự đối mặt với khó khăn của con người. Tất cả những hình ảnh này được Bà Huyện Thanh Quan sắp xếp một cách tinh tế, chọn từ ngữ một cách khéo léo, tạo nên một bức tranh thơ đầy ấn tượng và lôi cuốn. Thơ của bà không chỉ là sự sắp đặt các từ ngữ mà còn là sự thấu hiểu sâu sắc về tâm hồn con người và vẻ đẹp của tự nhiên. Đó chính là điểm mạnh của tài thơ điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan, để lại cho độc giả những trải nghiệm tâm linh sâu sắc và khó quên.

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Trong hai câu đề đầu tiên, Bà Huyện Thanh Quan tạo ra một không khí chiều tà bình yên và trữ tình, khiến người đọc cảm nhận được sự lảng mạng của hoàng hôn trên bảng trời. Dưới ánh ánh sáng dịu dàng, cảnh đẹp tự nhiên bắt đầu hiện lên với những gam màu ấm áp, làm nổi bật hình ảnh của một vùng quê yên bình. "Bảng lảng" tạo hình ảnh ánh sáng dịu dàng và lờ mờ, làm nổi bật không gian buổi chiều, nơi hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh, và ánh sáng trở nên mềm mại. Sự lảng mạng này không chỉ là một đặc điểm của thời gian, mà còn là bức tranh tĩnh lặng của tự nhiên, tạo ra một không khí lãng mạn và dễ chịu.

Việc sử dụng "bảng lảng" cũng có thể ám chỉ đến bức tranh tự nhiên, cảnh đẹp mà Bà Huyện Thanh Quan muốn truyền đạt. Từ ngôn ngữ này, người đọc có thể hình dung ra cảnh đẹp của một vùng quê yên bình, với ánh hoàng hôn tạo nên bức tranh mộng mơ và huyền bí. Khi nói đến buổi chiều, tác giả thường thể hiện một sự buồn bã, một cảm giác lẻ loi và suy tư. Buổi chiều chính là khoảnh khắc tĩnh lặng, khi con người có thể tìm lại sự bình yên và cảm nhận được vẻ đẹp tĩnh lặng của thiên nhiên.

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Âm thanh từ xa vang đến như một lời thúc giục, nhưng vẫn giữ nguyên cái trầm lặng kỳ diệu, đó là dấu hiệu rõ ràng cho mọi người biết rằng ngày đã gần kết thúc. Trước bức tranh này, chúng ta như đang chạm vào một nét thân quen, hòa mình trong không khí man mác của những câu ca dao quê hương. Âm thanh đó không chỉ đơn giản là một âm thanh, mà như một cảm xúc, là một lời nhắc nhở về thời gian, về sự tạm biệt và kết thúc một ngày. Nó giống như những giai điệu lấp lánh của những câu ca dao, vô tình đánh thức những ký ức tĩnh lặng, những giây phút êm đềm dưới bóng chiều tà. Bức tranh này không chỉ đưa ta đến với thế giới âm thanh mà còn làm cho chúng ta ngửi thấy hương vị của quê hương, cảm nhận được sự chấm dứt của một ngày. Nó là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự trôi qua của thời gian, về vẻ đẹp trong sự tĩnh lặng và lòng nhẹ nhàng như những câu ca dao dân gian.

Trong bức tranh này, người đọc không chỉ nghe thấy âm thanh mà còn nhận thức được tâm trạng sâu sắc, cái gì đó thân quen và trải lòng như hòa mình vào câu chuyện của quê hương. Đó chính là sức mạnh của từ ngữ, biến những âm thanh bình dị thành những cảm xúc sâu sắc, làm cho bức tranh thơ trở nên sống động và gần gũi hơn với trái tim của người đọc.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Tâm trạng của tác giả được tinh tế thể hiện thông qua sự chọn lựa kỹ thuật văn hóa, tập trung vào thời điểm, không khí và âm thanh. Trong khung cảnh hữu tình của buổi chiều, qua tiếng gọi mỏi mòn của tàn ngày, tác giả đã khéo léo tái hiện tâm lý phức tạp và đầy nghệ thuật. Thời điểm chọn lọc là chiều tà, nơi ánh sáng chuyển dịch, và hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh. Sự lựa chọn này không chỉ tạo ra bức tranh tự nhiên tuyệt vời mà còn chứa đựng sâu sắc nét buồn của tâm hồn tác giả. Sự lảng mạng của ánh sáng "bảng lảng" đã làm nổi bật không gian, tăng cường cảm nhận về vẻ đẹp mộng mơ và huyền bí. Tiếng gọi tàn ngày được mô tả một cách mở cửa rộng, không chỉ là âm thanh thông thường mà còn chứa đựng sự mệt mỏi và nhọc nhằn của cuộc sống. Sự lựa chọn này giúp tạo ra một không khí khó diễn đạt bằng từ ngữ, làm tăng cường hiệu ứng cảm xúc của bài thơ.

Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Câu thơ với nhịp 2/5 như một nhịp điệu nhẹ nhàng, làm cho ta dễ dàng cảm nhận được sự giảm dần, bí hiểm và tĩnh lặng của hoạt động con người, như một bức tranh tĩnh lặng của cuộc sống dần dần chìm vào bóng tối. Phép đối được sử dụng một cách tinh tế, tạo nên một sự cân bằng đối xứng, chuẩn xác, giúp bức tranh thơ trở nên uyển chuyển và trang nhã. Những từ Hán Việt được lựa chọn kỹ lưỡng, như bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, không chỉ làm tăng thêm vẻ trang nhã và cổ điển mà còn làm cho người đọc hòa mình vào không khí tinh tế và huyền bí của bức tranh thơ. Đó chính là sự sáng tạo vô song của Bà Huyện Thanh Quan, khiến cho những từ ngữ không chỉ là mô tả, mà còn trở thành những hình ảnh sống động, níu giữ tâm trí và tình cảm của độc giả.

Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, và có phần cô đơn. Sự đơn độc này không chỉ là của con người trước bản lãnh tự nhiên mà còn là của tâm hồn, khi mỗi bước chân của họ dường như trải qua những khoảnh khắc tĩnh lặng, giữa thế giới to lớn và vô tận của thiên nhiên. Điều này là nét đặc trưng của thơ Bà Huyện Thanh Quan, nơi con người và tự nhiên hòa mình vào một không gian tĩnh lặng và biểu tượng. Gặp cảnh và người ở đây, ta không thể không nhớ đến cảnh và người, như một liên tưởng tự nhiên, mở ra một thế giới tưởng tượng đẹp đẽ và lưu luyến. Đó chính là sức mạnh của từ ngữ và tưởng tượng trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, khiến cho độc giả không chỉ đọc thơ mà còn trải nghiệm và cảm nhận được sự đẹp tinh tế và sâu sắc của nghệ thuật thơ ca.

Lom khom dưới núi, tiều vài chú

Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Trong tác phẩm "Qua Đèo Ngang" của cùng tác giả, cảnh và con người đều chìm đắm trong sự lặng lẽ và đượm buồn, tạo nên một không khí tĩnh lặng và u sầu. Trong từng câu thơ, ta có cảm giác như nhà thơ đang lặng lẽ, thẩn thờ, chìm đắm vào hồn quê, trong sự trầm tư và nghệ thuật biểu đạt tinh tế. Câu thơ khéo léo vẽ nên bức tranh của con đường trước mắt bà, làm cho độc giả hình dung được một không gian đầy lịch sử và nỗi nhớ. Hai câu thơ này như những bức tranh lặng lẽ, tĩnh mịch về con đường ngoằn nghèo, đầy những kỷ niệm, những chuyến đi, và những câu chuyện lịch sử. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng từ ngữ một cách tinh tế, để làm cho từng chi tiết của con đường hiện lên như những dấu vết của thời gian, tô điểm bằng sự lặng lẽ và đọng lại trong lòng người đọc.

Nhà thơ không chỉ mô tả cảnh đẹp mà còn truyền đạt tâm hồn sâu lắng và nỗi nhớ thương của mình. Bức tranh không chỉ là hình ảnh mà còn là hồn quê, là sự khắc sâu của thời gian và ký ức. Nhà thơ lặng lẽ thẩn thờ giữa không gian quen thuộc, nơi mỗi chi tiết đều là một câu chuyện, một dấu ấn của quá khứ. Từng câu thơ trong "Qua Đèo Ngang" không chỉ là một mô tả, mà còn là một hành trình tìm về quê hương và chính mình. Sự lặng lẽ trong từng từ, từng hình ảnh làm cho độc giả không chỉ đọc mà còn trải qua cảm xúc, nhìn nhận sâu sắc về tình cảm và tâm trạng mà nhà thơ muốn truyền đạt.

Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Trên con đường trước mắt, bao la như vô tận. Những chú chim bay mỏi mệt giữa bầu trời, dù đã hành trình mệt mỏi nhưng vẫn chưa đạt tới nơi đích. Nhưng cũng như những khách du lịch, mặc dù bước đi đều nhưng vẫn chưa đến được đích đến của họ. Những hình ảnh này là những phản ánh hình tượng sâu sắc về con đường của cuộc sống, hay còn gọi là con đường đời. Sự lặp lại của từ "mỏi mệt" và "bước dồn" không chỉ thể hiện sự chán chường và mệt mỏi của người thơ, mà còn làm nổi bật sự đối lập giữa nỗ lực và mệt mỏi trong cuộc hành trình của con người. Nơi đây, ngôn ngữ tinh tế của nhà thơ như một bức tranh vẽ nên bức hình về những đau khổ và khó khăn trên hành trình của cuộc sống.

Câu hỏi về con đường đi hay con đường đời đang dần mở ra một tầm nhìn triết học, đặt ra nghi vấn về ý nghĩa của cuộc sống và hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa đó. Phép đối từng cặp hình ảnh như ngàn mây dặm liễu, gió cuốn, sương sa, chim bay mỏi, khách bước dồn là một sự tinh tế, làm tăng thêm sự huyền bí và nỗi mơ mộng của hành trình đời người.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

Bên cạnh hình ảnh vô tận của trời đất bao la, như một không gian lớn và tĩnh lặng, tác giả lại đối mặt với sự vắng lặng và trống trải trong cuộc sống, khiến cho trái tim ông quay về với nội tâm, chìm đắm trong cảm xúc buồn bên trong. Không ai để tâm sự, nguyên cảnh thiên nhiên khổng lồ vẫn đọng lại trong sự lặng lẽ, tạo nên một bức tranh tĩnh mịch, đầy hòa mình vào sự cô đơn và buồn bã.

Câu thơ cuối cùng, với vẻ ngoài của một câu cảm, đồng thời chứa đựng sự nghiệp hỏi, làm cho độc giả đồng cảm và suy ngẫm. Nó không chỉ là một biểu hiện của tâm trạng cá nhân mà còn là một câu hỏi hòa mình vào không gian thơ của bà Huyện Thanh Quan. Câu thơ này như một điểm dừng, làm cho người đọc dừng lại và cảm nhận sâu sắc về sự đơn độc và hỏi về ý nghĩa của cuộc sống.

Những câu thơ tài ba của bà Huyện Thanh Quan không chỉ là biểu hiện của một nghệ sĩ mà còn là hình ảnh của một tâm hồn đang lững thững trước vẻ đẹp và sự bất biến của tự nhiên. Nó là sự nối kết giữa cảm xúc cá nhân và những vấn đề lớn lao về cuộc sống và tồn tại, làm cho thơ của bà không chỉ là tuyệt tác nghệ thuật mà còn là dấu vết sâu sắc của con người trước sự huyền bí và phức tạp của thế giới.

Dừng chân đứng lại, trời non nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta

(Qua đèo Ngang)

Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường

(Thăng Long hoài cổ)

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn học đơn thuần mà còn là một tấm gương thấu hiểu tâm hồn, tư tưởng của những người phong kiến đang trải qua giai đoạn suy thoái. Cảm nhận của tác giả về nỗi buồn, sự chán nản, và tình cảm hoài cổ được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ trong bài thơ. Qua từng đoạn văn, người đọc được đưa về thời kỳ lịch sử, nơi mà tầng lớp quý tộc đang trên đường suy thoái. Thơ Thanh Quan không chỉ là tiếng nói của lớp nho sĩ mà còn là bức tranh sống động về tâm trạng, tư tưởng của họ. Sự chán nản, bế tắc trong tình thế lịch sử được thể hiện rõ qua tiếng thơ. Điều này làm nổi bật tâm tư buồn bã, thiết tha nhớ về nhà cũ, và cảm giác hoài cổ về thời kỳ phồn thịnh đã qua.

Mặt khác, bài thơ không chỉ mang tâm trạng buồn nỗi mà còn là một tác phẩm đẹp đẽ, trầm lặng, phản ánh tâm hồn sâu sắc của tác giả. Bức tranh thiên nhiên, ánh chiều tà, tiếng đàn chime làm cho thơ trở nên đặc sắc và cuốn hút độc giả. Sự kết hợp này giúp bài thơ trở nên phong cách, không chỉ là tác phẩm tâm lý mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Tóm lại, "Chiều hôm nhớ nhà" không chỉ là một bức tranh lịch sử mà còn là một tác phẩm thơ có độ sâu về tâm hồn con người, với sự kết hợp tinh tế giữa nỗi buồn, sự hoài cổ và vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bài thơ đọng lại nhưng lại mở ra nhiều cảm xúc và suy nghĩ, để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 8)

Hai cảm xúc sâu sắc nhất của Bà Huyện Thanh Quan là “nhớ nước” và “thương nhà”. Trong khi bà thể hiện lòng “nhớ nước” qua bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, thì nỗi “thương nhà” được gửi gắm qua bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”. Dưới triều đại Tự Đức, bà được bổ nhiệm về kinh đô làm Cung trung giáo tập để dạy dỗ các công chúa và cung phi. Dù sống trong cung đình, bà vẫn cảm thấy mình như một “lữ thứ”, luôn hướng về quê hương “Chương Đài”. Nỗi lòng “thương nhà” của bà được thể hiện tài tình qua bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà”:

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

…..

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”.

Bà Huyện Thanh Quan đã chọn vần bằng cho bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” (trong khi bài “Thăng Long thành hoài cổ” sử dụng luật trắc vần bằng), phù hợp với cảm xúc hoài cổ của tâm hồn thi nhân. Bài thơ mở đầu với hình ảnh hoàng hôn và âm điệu nhạc chiều mềm mại, thổn thức:

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn

Tiếng ốc xa dưa vẳng trống dồn”

Trong ba bài thơ nổi tiếng, Bà Huyện Thanh Quan đều miêu tả khoảnh khắc chiều tà:

“Bước tới đèo Ngang bóng xé tà”

(Qua đèo Ngang)

“Nền củ lâu đài bóng tịch dương”

(Thăng Long thành hoài cổ)

“Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn”

Từ “bảng lảng” mô tả ánh sáng hoàng hôn một cách tinh tế. Cảm nhận ánh sáng như vậy là đặc trưng của thi sĩ. “Bảng lảng” chỉ ánh nắng nhạt nhòa, yếu ớt của chiều tà. Khi ánh nắng giảm dần, nhạc chiều trở nên nổi bật với âm thanh trầm buồn từ xa. Âm thanh của tiếng ốc và tiếng trống vang vọng, nhưng lại lạc lõng và thổn thức. Cái tôi trữ tình của thi nhân ẩn sau hình ảnh và âm thanh. Những gì nữ sĩ thấy gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng nghe và đón nhận âm vang từ xa, vì thế khúc nhạc chiều trầm buồn cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân. Nhà thơ mở rộng không gian hoàng hôn bằng hình ảnh gần gũi của người lao động:

“Gác mái, ngư ông về viễn phố

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn”

Bà Huyện Thanh Quan vẫn giữ những chủ đề “ngư, tiều, canh, mục” truyền thống trong thơ cổ điển nhưng bà đã tạo ra sự sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai hình ảnh cho buổi “chiều hôm”: “ngư ông” và “mục tử”. Sự linh hoạt của câu thơ thể hiện qua cử chỉ của các nhân vật. Hai hành động trái ngược nhưng lại diễn tả cùng một ý tưởng. “Gác mái” của ngư ông nhấn mạnh sự nghỉ ngơi, còn “Gõ sừng” của mục tử nhấn mạnh hành động trở về và nghỉ ngơi. Dù cả ngư ông và mục tử đều đang trở về, họ vẫn có khoảng cách: “ngư ông về viễn phố” tức về nơi xa, và “mục tử lại cô thôn” tức về nơi xóm làng lẻ loi.

Khoảng cách này cũng phản ánh sự xa cách trong lòng thi nhân đối với quê hương xứ sở của mình. Ba nhân vật: ngư ông, mục tử và nữ sĩ đều không gắn bó với nhau nhưng đều cùng chia sẻ một điểm chung là chiều hôm, mỗi người đều hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tóm lại, hai câu thực thể hiện một cách tinh tế chủ đề chiều hôm nhớ nhà. Chuyển sang hai câu luận, không gian thơ mở rộng với những hoạt động của thiên nhiên trong buổi chiều:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn”

Hình ảnh thật đẹp và gợi cảm. Nhà thơ đã chọn những tín hiệu thẩm mỹ diễn tả tâm trạng thi nhân. “Ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn vừa động, rừng mai bạt ngàn làm nổi bật sự đơn độc của thi nhân, hình ảnh “gió cuốn” thể hiện sự xao động bên trong của nữ sĩ. Hình ảnh “chim bay mỏi” gợi tâm trạng của thi nhân, cần có con mắt nhạy bén và tấm lòng để nhận ra “chim bay mỏi” giữa không gian rộng lớn. “Dặm liễu sương sa” vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo, cái lạnh của sương chiều thúc đẩy bước chân của khách hành hương “bước dồn”.

Sự thú vị của hai câu luận là không gian mở rộng với những hình ảnh đẹp, thơ mộng và chủ đề “Chiều hôm nhớ nhà” được mở rộng đến chiều sâu. Tuy nhiên, từ “dồn” (bước dồn) trong câu luận lặp lại từ “dồn” (trông dồn) trong câu thừa đề làm cho bài thơ kém phong phú một chút. Dòng cảm xúc ẩn chứa trong các hình ảnh và âm điệu trở nên tha thiết và nồng nàn

“Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?”

Nữ sĩ sử dụng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” phù hợp với thi pháp “phi ngã” (không có cái tôi) của thời bấy giờ, đồng thời phản ánh tâm trạng của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị, nồng nàn nhưng vẫn e ấp. “Kẻ chốn Chương Đài” là điển cố, có nguồn gốc từ câu hỏi của một người gửi thư về cho vợ hỏi về cây liễu ở Chương Đài, từ đó “Chương Đài” trở thành biểu tượng của quê hương trong văn học. “Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ” là hình ảnh của người ở quê nhà và người ở nơi xa lạ. Việc nữ sĩ sử dụng từ “lữ thứ” rất bất ngờ, vì bà đang dạy học cho các công chúa và cung phi trong cung vua, một môi trường sang trọng. Dù vậy, bà vẫn xem đó chỉ là một quán trọ.

Sử dụng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào làm giảm bớt sự kiêu ngạo của bà. Trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của bà là tình yêu nước. Bà không gắn bó với triều đại hiện tại và cảm thấy như bị lưu đày. Câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng nhấn mạnh nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”. Bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” được viết theo phong cách tả cảnh gợi tình trong thơ cổ điển. Mỗi hình ảnh và âm thanh đều gợi đến tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ, thể hiện nỗi nhớ nhà sâu sắc và nhân bản.

Trong xã hội, bà không được chia sẻ, sống trong một triều đại mà bà chỉ nhớ về ánh hào quang của quá khứ, “một mảnh tình riêng ta với ta” (Qua đèo Ngang). Vì vậy, bà dồn hết tình cảm nhớ thương vào gia đình và những người thân yêu. Trong bối cảnh các mối quan hệ gia đình hiện nay đang lỏng lẻo, thơ của Bà Huyện Thanh Quan vẫn giữ giá trị tinh thần nhân bản và quý giá của gia đình.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 9)

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan là một tuyệt phẩm văn chương, là một hành trình đẹp về quê hương và tuổi thơ, đưa người đọc đắm chìm trong những hình ảnh tươi đẹp và ký ức ngọt ngào. Bức tranh tĩnh lặng và êm đềm được tạo nên như một chiếc cầu nối thời gian, khiến cho ta như lạc vào không gian của những ký ức và tình cảm ấm áp. Ngay từ câu đầu tiên, với bài ca "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương," tác giả đã khéo léo thể hiện sự đong đầy tình cảm, sự nhớ thương quê nhà và tuổi thơ ngọt ngào. Ngôn ngữ giản dị và gần gũi như "mái tranh", "đồng quê", "con đường,"... tạo nên một hình ảnh quen thuộc, mở cửa sổ cho người đọc nhìn thấy những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc sống nông thôn.

Bức tranh hùng vĩ của "cánh đồng lúa chín vàng," "cánh đồng bát ngát," là những biểu tượng của sự phồn thịnh và bình yên, nơi mà tâm hồn người dân quê hương đượm đà tình thương và gắn kết. Tác giả không chỉ mô tả vẻ đẹp của cảnh quê mà còn làm sống động hóa những giá trị văn hóa truyền thống, làm cho độc giả như đang đi bước chân qua từng con đường quen thuộc. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn là một cuộc hành trình tìm lại chính mình qua những góc khuất của quê hương và ký ức. Bằng những từ ngữ tinh tế, bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan đã khắc sâu tâm hồn người đọc, để lại những dấu vết đẹp và ấm áp trong trái tim.

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn chương đẹp mắt mà còn là một hành trình tri ân và tôn vinh tuổi thơ, nơi chứa đựng những kỷ niệm ngọt ngào và những giá trị văn hóa quý báu. Tác giả khéo léo kể về những hình ảnh và ký ức đặc biệt trong tuổi thơ của mình, mang đến cho độc giả một bức tranh tư duy và cảm xúc đẹp đẽ. Từ những câu đầu tiên, với bài hát "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương," tác giả đã mở ra cánh cửa của trái tim và hồn quê, làm cho độc giả lạc mình trong không khí ấm áp và bình yên của những ngày thơ ấu. Câu "đường đi học bằng cát trắng" không chỉ là một hình ảnh, mà là một cảm xúc đặc biệt, là hành trình vô tận của tuổi thơ, là những bước chân đầu tiên trên con đường của sự trưởng thành.

Những chi tiết nhỏ như "bàn ghế trường xưa," "bài hát tuổi thơ" là những hình ảnh quen thuộc, mô tả một thời kỳ tươi đẹp, nơi tác giả đã trải qua những kỷ niệm đáng nhớ và học hỏi. Cảm xúc và tình cảm sâu sắc của bà được gửi gắm vào từng từ ngữ, từng hình ảnh, làm cho độc giả cảm nhận được sự chân thành và tri ân của tác giả đối với quê hương và tuổi thơ. Bài thơ không chỉ là một bức tranh về quê hương mà còn là bức chân dung tình cảm và sự quý báu của những ngày thơ ấu. Bà Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc tái hiện và tôn vinh những giá trị văn hóa, làm cho "Chiều hôm nhớ nhà" trở thành một tác phẩm văn chương đẹp, sâu sắc và lưu luyến.

Phân tích Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan (mẫu 10)

Trong văn học Việt Nam thời kỳ trung đại, số lượng nữ sĩ nổi bật không nhiều. Ba gương mặt tiêu biểu thường được nhắc đến là Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và Bà huyện Thanh Quan. Mỗi người đều có phong cách riêng và những đóng góp đặc sắc cho thơ văn nước nhà.

Trong ba nữ sĩ này, Bà huyện Thanh Quan nổi bật với một số bài thơ Đường luật Nôm, trong đó bài thơ Chiều hôm nhớ nhà là tác phẩm nổi bật nhất, mặc dù có một vài bài còn tranh cãi về tác giả. Bài thơ này thể hiện nỗi nhớ quê của người nữ sĩ khi phải một mình bôn ba xa quê.

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn

….

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Bài thơ đưa chúng ta vào một không gian và thời gian vừa cụ thể vừa mơ hồ. “Trời chiều” và “bóng hoàng hôn” tạo ra một buổi chiều quen thuộc nhưng đầy nỗi nhớ của người xa quê:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

(Ca dao)

Buồn trông cửa bề chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

(Truyện Kiều)

Câu mở đầu gợi cảm giác mệt mỏi và chậm rãi của buổi chiều, một thời điểm đầy ám ảnh trong thơ cổ. “Trời chiều” và “bóng hoàng hôn” như rải ánh vàng của hoàng hôn lên cảnh vật và con người. Thường thì chiều là thời điểm sum họp gia đình, nhưng nhân vật trong thơ vẫn tiếp tục hành trình lẻ loi. Trong không gian ấy, những âm thanh quen thuộc như “tiếng ốc xa đưa” và “tiếng trống vẳng” trở nên đầy bâng khuâng khi ở đất khách quê người.

Hai âm thanh hòa quyện như muốn báo hiệu sự vội vã của thời gian khi chiều đang dần buông xuống. Chúng sẽ làm nền cho hai câu thơ tiếp theo:

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Hai câu thơ này làm nổi bật các hình tượng nghệ thuật của thơ Nho giáo xưa. Mặc dù Nguyễn Thị Hinh là nữ sĩ, nhưng bà vẫn chịu ảnh hưởng của văn học Nho gia. Xuân Diệu đã gọi bà là “Bà chúa hoàng hôn”. Hai câu thơ này làm rõ lời khen ngợi của Xuân Diệu, với các hình tượng quen thuộc như ngư ông và mục tử trong thơ xưa. Các động tác “gác mái” và “gõ sừng” nhắc nhở chúng ta về những hình ảnh như:

Ngư lão buông câu ngồi mép bến

Mục đồng té nước tắm đầu sông

hay:

Viễn tự chung thanh thôi khách bộ

Mục đồng xung địch dẫn ngưu qui

Nhà nho xưa đều coi trọng một cuộc sống thanh bình gắn bó với nông thôn và thiên nhiên qua các nghề ngư – tiều – canh – mục. Đây là những hình ảnh đẹp và cuốn hút trong thơ xưa, có ảnh hưởng từ thơ Đường của Trung Quốc như:

Cô chu soa lạp ông

Độc điếu hàn giang tuyết

(Liễu Tông Nguyên)

hay:

Tá vấn tửu gia hà xứ hữu

Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn

(Đỗ Mục)

Nhưng giữa mạng lưới hình tượng văn hóa đó, điều còn lại của Thanh Quan là gì? Có phải chỉ là cách sử dụng từ Hán Việt như “ngư ông”, “viễn phố”, “mục đồng”, “cô thôn” để tạo nên vẻ trang trọng và cổ kính? Điều này chỉ đúng một phần. Dấu ấn thực sự của Thanh Quan là ở hai từ “cô” và “viễn” mà bà đã đặt vào vị trí đăng đối trong hai câu thơ thực. Nhân vật trữ tình không biết “ngư ông” và “mục tử” nghĩ gì, họ đi về đâu, mà chỉ cảm nhận cảm xúc của mình qua hai hình tượng đó. Con người lẻ loi trong hành trình dài lại thấy cảnh vật quanh mình như phản chiếu nỗi cô đơn của chính mình, khiến chúng trở nên “cô”, “viễn”. Chúng ta có thể liên tưởng đến cảm xúc của người chinh phụ cô đơn trong đêm vắng với trăng và hoa:

Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm

Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông

Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.

Dấu ấn chủ quan của nhân vật trữ tình hiện lên rồi lại lẩn khuất giữa thiên nhiên mịt mù:

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Sự tương phản trong bức tranh thơ gợi lên vẻ nhỏ bé và yếu đuối của cánh chim và hình ảnh người khách trong chiều tà. Hình ảnh “ngàn mai” gợi sự rộng lớn của không gian, như muốn nuốt chửng cánh chim nhỏ bé, tương tự như hình ảnh “chim hôm thoi thót về rừng” trong Truyện Kiều và xa hơn là:

Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn

Trong thơ Lí Bạch. Con người luôn cảm thấy nhỏ bé trước thiên nhiên. Trước thiên nhiên, người xưa muốn hòa hợp và hòa tan vào đại vũ trụ bao la. Người “khách” đang “bước dồn” qua “dặm liễu” có còn ám ảnh về:

Tóc ai trao chửa bạc màu

Liễu ai bẻ tặng bên cầu còn tươi

(Nguyễn Bính)

Ở quê nhà, nơi xa cách và lưu luyến người thân, như “Tiễn đưa một chén quan hà, Xuân đình thoắt đã dạo ra Cao đình” (Truyện Kiều). Nhân vật trữ tình, hay hình tượng “khách” muốn giấu mình, là đặc trưng phi ngã trong thơ trung đại. Con người không hiện lên cá nhân, mà chỉ thể hiện trong mối quan hệ cộng đồng, gia đình, hoặc trở thành “Càn khôn nhất hủ nho” hay “Giang Hán tư quy khách” trong thơ Đỗ Phủ. Sự đơn chiếc, cô lẻ mang nỗi buồn khó tả. Nhịp “bước dồn” chỉ là vẻ bề ngoài che giấu nỗi lòng nặng trĩu của nhân vật trữ tình. Cảm xúc dồn nén bật ra thành câu hỏi:

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

Thơ Nho giáo thường chú trọng thế sự, đạo lý và ít đề cập đến tình cảm cá nhân. Tuy nhiên, thơ nửa cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX có sắc thái chủ tình rõ rệt, thể hiện những cảm xúc bị đạo đức Nho giáo kìm nén. Có lẽ tiếng nói tiên phong của Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương đã mở đường cho hai câu kết này. Qua điển tích “Chương Đài” và cặp đại từ “người – kẻ”, nhân vật trữ tình hướng tới nửa kia của mình.

Câu chuyện về bài thơ “Chương Đài liễu, Chương Đài liễu – Tích nhật thanh thanh kim tại phủ? – Túng sử trường điều tự cựu thuỳ – Giả ưng phan chiết tha nhân thủ” chứng minh cho khao khát đoàn viên và sống trong hạnh phúc lứa đôi của người lữ thứ. Cảnh lữ thứ càng làm tăng sự khao khát chia sẻ và “kể nỗi hàn ôn”. Nhu cầu sẻ chia này luôn hiện hữu trong mỗi con người từ xưa đến nay.

Bài thơ, dù gói gọn trong thể Đường luật thất ngôn bát cú, nhưng đã bộc lộ tiếng lòng của người nữ sĩ. Cảm giác nhớ quê khi “Lòng còn gửi áng mây vàng” (Truyện Kiều) là điều dễ hiểu. Trong không gian tha hương của thời trung đại, sự cô đơn khi bị tách ra khỏi quê nhà quen thuộc là điều dễ cảm nhận. Điều này không chỉ là một mã nghệ thuật mà còn phản ánh phần nào thực trạng tâm trạng con người.

1 17 19/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: