Bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT Module 13 (Vai trò của nhu cầu và động cơ học tập của học sinh THPT trong xây dựng kế hoạch dạy học)
Vietjack.me tổng hợp, biên soạn giới thiệu đến thầy cô Bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT Module 13 với chủ đề Vai trò của nhu cầu và động cơ học tập của học sinh THPT trong xây dựng kế hoạch dạy học. Mời thầy cô và các bạn đón xem:
Bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT Module 13
(Vai trò của nhu cầu và động cơ học tập của học sinh THPT trong xây dựng kế hoạch dạy học)
I. Tìm hiểu nhu cầu và nhu cầu học tập của học sinh trung học phổ thông
1. Nhu cầu:
+ Nhu cầu là hình thức liên hệ giữa cơ thể sống và thế giới bên ngoài, nguồn gốc tính tích cực của cơ thể sống. Nhu cầu như là lực lượng bản chất bên trong thúc đẩy cơ thể tiến hành những hình thức hoạt động có chất lượng nhất định, cần thiết cho sự duy trì và phát triển của cá thể và loài. Trong các hình thức sinh học ban đầu, nhu cầu xuất hiện như là sự đòi hỏi của cơ thể đối với một cái gì đó nằm ngoài cơ thể và cần thiết cho hoạt động sống của cơ thể. Các nhu cầu của cơ thể có tính chất nội cân bằng: hoạt động mà nó thúc đẩy luôn hướng tới việc đạt được mức độ thực hiện chức năng tối ưu của các quá trình sống, nhu cầu tiếp tục xuất hiện khi các chức năng đi chệnh khỏi mức độ này và dừng lại khi đạt được mức độ đó.
Những đặc điểm quan trọng của nhu cầu là đặc điểm về tính đối tượng, tính chu kì, tính bền vững, nội dung và phương thức thoả mãn.
Nhu cầu, định nghĩa đơn giản nhất là sự cần thiết về một cái gì đó. Nhu cầu- điều đòi hỏi của đời sổng, tự nhiên và xã hội.
+ Mọi người có nhiều nhu cầu:
- Nhu cầu thực tế: những nhu cầu mà ý nghĩa của nó được xác định bởi các hình thức tác động qua lại với đổi tượng (ăn uổng, nhận thức).
- Nhu cầu chức năng: những nhu cầu thúc đẩy con người hoạt động vì chính bản thân quá trình hoạt động (vui chơi, sáng tạo).
- Các nhu cầu không phải lúc nào cũng hoàn toàn được thoả mãn, vì nhu cầu luôn thay đổi và phát triển, chẳng hạn: nhu cầu ăn, từ có cái ăn đến ăn no rồi phát triển tới ăn ngon...; tương tự, nhu cầu đi lại: từ đi bộ, đi xe đạp, đi ô tô, máy bay...
Dân gian có câu: “Có một thì muốn có hai
Có ba có bốn, lại nài có năm"
hoặc “có mới, nới cũ", “được đằng chân lân đằng đầu" để nói lên nhu cầu của con người là không có giới hạn.
- Nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy con người hoạt động, vì mọi hoạt động đều nhằm mục đích thoả mãn các nhu cầu. Thoả mãn nhu cầu cá nhân và động lực thúc đẩy học tập có mối quan hệ như thế nào?
* Nhu cầu của con người gồm 5 bậc:
- Nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định.
- Nhu cầu được kính trọng.
- Nhu cầu xã hội văn hoá.
- Nhu cầu về an toàn tính mạng, tài sản.
- Nhu cầu sinh lí cơ bản: ăn, ở, vệ sinh, tình dục...
+ Nhu cầu có vai trò trong cuộc sống của cá nhân và xã hội: Đặc trưng của nhu cầu con người được quy định ở chỗ con người không đối diện với thế giới như là một cá thể đơn độc mà là thành viên của các hệ thống xã hội khác nhau và là thành viên của nhân loại nói chung. Những nhu cầu cấp cao của con người, phản ánh mối liên hệ của con người với cộng đồng xã hội ở các mức độ khác nhau, cũng như những điều kiện tồn tại và phát triển của chính bản thân hệ thống xã hội. Điều này liên quan đến cả nhu cầu của nhóm xã hội và xã hội nói chung trên tổng thể và cả nhu cầu của mọi cá nhân riêng lẽ, trong các nhu cầu đó có bản chất xã hội.
2. Nhu cầu học tập của học sinh THPT:
+ Hoạt động học tập: là hoạt động đặc trưng cơ bản của con người, được điều khiển bởi mục đích tự giác là chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kĩ năng, kỹ xảo mới tương ứng và các phương thức khái quát của hoạt động học tập bằng phương pháp nhà trường.
Chủ thể hoạt động học tập là nguời học với sự giác ngộ về động cơ, mục đích của việc học đối với bản thân trở thành động lực thúc đẩy tiến hành hoạt động học tập. Chỉ khi nào nguời học say mê, tích cực học tập nhằm chiếm lĩnh đổi tượng thì mới thực sự là chủ thể đích thực của hoạt động học. Về cấu trúc, hoạt động học tập cũng bao gồm các thành tố cơ bản của hoạt động nói chung.
+ Nhu cầu học tập có những đặc điểm: Cũng như các loại nhu cầu khác ở người, nhu cầu học tập có những đặc điểm cơ bản là cường độ, tính chu kì của sự xuất hiện và phương thức thoả mãn. Một đặc điểm khác rất quan trọng, đặc biệt khi nói về nhân cách là nội dung đối tượng của nhu cầu. Những đặc điểm này thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau, với các mức độ khác nhau tạo nên những nét đặc trưng cho nhu cầu học tập của con người.
- Đặc điểm về cường độ của nhu cầu học tập:
Cường độ nhu cầu học tập là độ mạnh, độ gay gắt của những đòi hỏi về thông tin, về sự hiểu biết của con người. Cường độ nhu cầu học tập có thể được xem xét dưới các góc độ sau đây:
• Góc độ ý thức:
Ý hướng nhận thức:
Ở mức độ này, nhu cầu học tập được phản ánh trong ý thức chưa rõ ràng vì nhu cầu học tập còn yếu ớt. Những tín hiệu của nó không được phản ánh một cách đầy đủ và rõ ràng trong ý thức. Những tín hiệu này là những dấu hiệu khách quan của những đáp ứng nhu cầu học tập và của bản thân trạng thái có tính chất nhu cầu học tập, ngay cả trong trường hợp đơn giản nhất mà còn là những đòi hỏi sơ đẳng về nhận biết thế giới khách quan.
Ý muốn nhận thức:
Ở mức độ này, nhu cầu học tập đã được ý thức rõ ràng hơn. Những tín hiệu trên được phản ánh đầy đủ hơn và kích thích hoạt động của tư duy, hướng tư duy vào việc tìm tòi những phương tiện thỏa mãn nhu cầu. Tuy vậy, ở mức độ này, con người chưa xác định được con đường, cách thức thực hiện mục đích đó. Ở đây đã xuất hiện tình cảm ham muổn (tình cảm trí tuệ). Tình cảm này do những trải nghiệm trước đây kết hợp với biểu tượng về sự thỏa mãn nhu cầu này gây ra. Sự ước ao, mong mỏi được tiếp nhận thông tin xuất hiện.
Ý định nhận thức:
Ở mức độ này, nhu cầu học tập đã được ý thức đầy đủ. Con người đã xác định được đối tượng và phương thức thoả mãn nhu cầu học tập; có ý định tức là đã sẵn sàng tham gia một hành động học tập nhất định. Đến lúc này, nhu cầu học tập trở thành động cơ học tập đích thực. Biểu hiện cụ thể của động cơ này là con người say sưa, hứng thú tìm tòi, tiếp nhận, lĩnh hội, khám phá tri thức mới vì sức hấp dẫn của bản thân tri thức, của phương pháp và quá trình giành lấy tri thức ấy.
• Cường độ nhu cầu học tập dưới góc độ xúc cảm - tình cảm trí tuệ:
Xúc cảm - tình cảm trí tuệ là thái độ của con người đối với việc nhận thức các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội, được nảy sinh do sự thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người.
Rõ ràng tình cảm trí tuệ là một mặt không thể thiếu được của hứng thú nhận thức và chúng đều có cơ sở quan trọng là nhu cầu nhận thức. Bản chất của hứng thú nhận thức là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân trong quá trình nhận thức về đối tượng nào đó do ý nghĩa của nó trong đời sống và do sự hấp dẫn về tình cảm của nó. Như vậy, sự hấp dẫn về tình cảm của đối tượng, kể cả trong trường hợp mà có thể chủ thể không ý thức được, là cơ sở quan trọng của hứng thú nhận thức. Do đó, ở góc độ này một số nhà tâm lí học có lí khi cho rằng hứng thú là thái độ nhận thức của cá nhân đối với hiện thực (A-G. Ackhipôp, N.N. Miaxisôp, XL. Rubinstêin, V.G. Ivanôp).
Ở học sinh, trong những năm đầu tiên học tập ở trường phổ thông, hứng thú nhận thức phát triển khá rõ nét. Như các nhà tâm lí học đã nhận xét, ở trẻ, đầu tiên có xuất hiện những hứng thú đổi với sự việc riêng lẻ, những hiện tượng riêng biệt (lớp 1 – 2), sau đó đến các hứng thú gắn liền với sự phát hiện những nguyên nhân, quy luật, các mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc giữa các hiện tượng (lớp 3 - 4 - 5). Nếu ở lớp 1-2, học sinh hay quan tâm “cái đó là cái gì?" thì ở lớp 3, đặc biệt là lớp 4-5, các em quan tâm tới loại câu hỏi “tại sao?" và “như thế nào?". Do đó, có thể nói, ở học sinh tiểu học, hứng thú học tập dần dần chiếm ưu thế so với hứng thú trò chơi. Càng học lên lớp trên, hứng thú học tập của học sinh tiểu học càng có nội dung, hình thức phức tạp và phong phú hơn. Tuy thế, hứng thú của các em còn mang nặng tính chất gián tiếp, hứng thú trực tiếp gây nên bởi bản thân môn học chưa được hình thành đầy đủ. Hứng thú nhận thức của các em còn mang tính chung chung đổi với các lĩnh vực tri thức, thể hiện ở tính ham hiểu biết, tính tò mò khoa học, còn hứng thú chuyên biệt, sâu sắc đối với một khoa học nào đó chưa được hình thành rõ rệt. Có thể nói, ở học sinh tiểu học, tính ham hiểu biết đã hình thành và biểu hiện rõ trong hứng thú nhận thức mà cội nguồn của chúng là những khát khao hiểu biết thế giới xung quanh, lòng mong muổn thích nghi với thế giới, là nhu cầu nhận thức. Ở học sinh THCS, hứng thú nhận thức bộc lộ rõ hơn, mang tính trực tiếp hơn và có độ bền vững cao hơn. Ở các em bộc lộ rõ hứng thú với các môn học cụ thể.
Tóm lại, những biểu hiện ở các mức độ khác nhau của các xúc cảm - tình cảm trí tuệ là những dấu hiệu của mức độ phát triển nhu cầu học tập của học sinh. Tính chất của tình cảm trí tuệ phản ánh mức độ gay gắt của sự đòi hỏi thông tin - cường độ của nhu cầu học tập.
- Độ bền vững của nhu cầu học tập:
Độ bền vững của nhu cầu học tập được đặc trưng bằng chu kì xuất hiện của nó. Chu kì xuất hiện càng liên tục, mật độ càng dày phản ánh độ bền vững càng cao. Nhu cầu học tập bền vững luôn có tác dụng chi phối hoạt động nhận thức của con người trong một thời gian dài và ít phụ thuộc vào hoàn cảnh xuất hiện một cách ngẫu nhiên vào một lúc nào đấy. Biểu hiện cụ thể nhất của nhu cầu học tập bền vững là tự nguyện, tự giác thực hiện các nhiệm vụ nhận thức, nhiệm vụ học tập.
Ở học sinh, tính bền vững của nhu cầu học tập được hình thành và phát triển ngay trong chính hoạt động học tập. Về bản chất, học tập chính là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh. Đối với học sinh, hoạt động học tập là phương thức chủ yếu nhằm thoả mãn một nhu cầu cơ bản có rất sớm ở con người là muốn hiểu biết về thế giới xung quanh, và khác với nhu cầu cơ thể, nhu cầu này khi được thoả mãn sẽ không tạm thời lắng dịu xuống mà trái lại, càng được củng cố và tăng lên rõ rệt. Mặt khác, cũng chính hoạt động học tập đã phát triển hoàn thiện các chức năng cao cấp của hệ thần kinh và đặc biệt hơn, tạo ra khả năng thực hiện thành thạo các thao tác và hành động trí tuệ, tức là hình thành nên phương thức hoạt động nhận thức. Trong khi đó, phương thức của hoạt động hay hành vi do học tập mang lại có tính chất vững chắc trở thành một thuộc tính của hoạt động hay hành vi. Xét về mặt bản thể vật chất, những thuộc tính này được thể hiện ra trong những hoạt động quen thuộc nhằm vào một hướng nhất định nào đó của tế bào thần kinh vỏ não. Đó chính là những phản xạ có điều kiện đã được củng cố như quá trình học tập. Theo I.P. Pavlop, chính phản xạ này thể hiện nhu cầu nhận thức của con người. Do đó hoạt động học tập đã tạo nên ở học sinh nhu cầu học tập ngày một bền vững hơn, kích thích ngày càng mạnh hơn tính tích cực, tự giác thực hiện các nhiệm vụ học tập. Độ bền vững của sự đòi hỏi về thông tin và của hoạt động trí tuệ là đặc điểm đặc trưng trong nhu cầu nhận thức của con người.
- Mặt nội dung đối tượng của nhu cầu học tập:
Tâm lí học Macxit đã khẳng định nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Là một loại nhu cầu tinh thần đặc trưng của người, nội dung đổi tượng của nhu cầu học tập là tập hợp những khách thể của nền văn hoá vật chất và tinh thần có khả năng thỏa mãn nhu cầu đó, khi được phản ánh vào đầu óc con ngựời thì trở thành động cơ nhận thức, thúc đẩy hoạt động nhận thức vươn tới chiếm lĩnh hoặc làm thay đổi nó. Như vậy nhu cầu học tập không trực tiếp dẫn đến hành vi, hoạt động nhận thức. Nhu cầu học tập ảnh hưởng đến hành vi, hoạt động nhận thức thông qua các động cơ học tập. Chính động cơ học tập là nhịp cầu nối liền nhu cầu học tập với hiện thực khách quan như một kinh nghiệm điều chỉnh hành vi xác định. Chính đối tượng mà động cơ học tập hiện thân trong đó là đối tượng thoả mãn nhu cầu học tập. Trong trường hợp này, đổi tượng thoả mãn nhu cầu đồng thời là đối tượng của động cơ. Do đó nội dung đối tượng của động cơ học tập được hiểu là nội dung đối tượng của nhu cầu học tập được phản ánh trong lâm lí con người. Nội dung đối tượng của nhu cầu học tập được con người ý thức và thể nghiệm dưới dạng những động cơ xác định. Những động cơ này được bộc lộ ra với tư cách là những tác nhân thúc đẩy hành động học tập qua những mối liên hệ xúc cảm trí tuệ do sự thoả mãn hay không thoả mãn gây nên. Những mối liên hệ xúc cảm này đã có trong kinh nghiệm truớc đây của con người. Điều đó có nghĩa là các động cơ thúc đẩy được hành vi học tập là nhờ nhu cầu học tập và kinh nghiệm cảm xúc trước đây về sự thoả mãn nhu cầu đó được gắn chặt với nhau theo một cách xác định, vì vậy, nhu cầu học tập càng gay gắt, những mối liên tưởng ngày càng mạnh thì ảnh huởng của động cơ học tập đến hành vi, hoạt động tương ứng càng lớn. Cường độ của động cơ học tập được biểu hiện trực tiếp ở mức độ của tính tích cực học tập.
- Đặc điểm về phương thức thỏa mãn nhu cầu học tập:
Như ta đã biết, cùng một nhu cầu, có thể được thoả mãn bằng những phương tiện, cách thức khác nhau. Nhưng việc thoả mãn nó bằng phương tiện, cách thức như thế nào lại liên quan mật thiết đến bản thân nhu cầu. Tùy theo phương tiện thoả mãn nào đó, nó có thể phát triển lên hoặc suy thoái đi, thậm chí biến chất đi. Sự biến hoá của nhu cầu hay những đặc điểm cơ bản của nhu cầu đều phụ thuộc vào thành phần sổ lượng và chất lượng của các phương tiện, phương thức thoả mãn nhu cầu.
Là một nhu cầu cơ bản của con người, nhu cầu học tập có thể được thoả mãn bằng nhiều phương thức khác nhau như học tập, vui chơi, giải trí, giao tiếp, lao động, tự học... Trong đó các dạng hoạt động đó, nhu cầu học tập có chức năng kích thích hoạt động, đặc biệt là hoạt động nhận thức. Vì vậy nhu cầu học tập là nguồn gốc bên trong của tính tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề học tập - nhận thức. Nó vừa là mục đích hoạt động, vừa là phương tiện, là điều kiện để đạt được mục đích, vừa là kết quả của hoạt động. Nó là phẩm chất hoạt động của cá nhân. Do đó, mức độ tích cực nhận thức của cá nhân quyết định trực tiếp kết quả hoạt động nhận thức cửa họ.
+ Cơ chế phát triển của nhu cầu học tập:
- Mỗi lần thỏa mãn nhu cầu kiến thức lại nảy sinh nhu cầu mới về kiến thức ở mỗi học sinh, nhu cầu học tập phát triển phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện và phương thức thoả mãn nhu cầu ấy và nhu cầu học tập chỉ có thể được thoả mãn bằng hoạt động học tập. Biết được cơ chế này, người giáo viên phải thường xuyên tạo mọi điều kiện để thoả mãn nhu cầu của học sinh về kiến thức.
- Thái độ học tập của học sinh ảnh hưởng lớn đến kết quả của quá trình dạy học. Nếu học sinh thiếu trách nhiệm, không tự giác, vô kỉ luật, lười biếng sẽ không bao giờ đạt được kết quả cao trong học tập. Giáo viên cần thường xuyên cảnh báo rằng, tính chất quan hệ này của trẻ trong học tập không cho phép các em nhận được kết quả tốt, thậm chí cả những em có năng lực tâm lí về trí tuệ tốt.
- Nhu cầu cá nhân và động lực thúc đẩy (động cơ) học tập:
Thực hiện động lực thúc đẩy học tập là khi học sinh dồn mọi nổ lực vào tìm hiểu sự kiện, hầu như thực hiện mục đích không chỉ vì phần thuởng mà điều quan trọng là tiếp nhận kiến thức sâu rộng của sự kiện để thoả mãn nhu cầu bản thân.
Trong nghiên cứu “An Introduction to Motivation" (Tổng quan về động lực thúc đẩy) xuất bản năm 1964, Atkinson cho rằng, cá nhân có nhu cầu gặt hái thành tích thi thường có khuynh hướng cổ gắng, dù gặp khó khăn để đạt mục đích. Ngược lại, cá nhân có nhu cầu né tránh thất bại mạnh hơn mong muổn thành công thì những khó khăn nguy hiểm trên đường thực hiện mục đích sẽ đe dọa và động lực thúc đẩy ở đây sẽ yếu kém, không đủ khả năng để khuyến khích cá nhân hoàn thành mục đích.
Nhu cầu học tập - là sự cần thiết đối với mọi học sinh nhằm hoàn thiện, trang bị những kiến thức chuyên môn, có mối quan hệ chặt chẽ với các nhu cầu khác. Nhu cầu học tập là nhu cầu bậc cao, thuộc về nhu cầu nhận thức, chi phối mạnh mẽ sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
+ Ý nghĩa của nhu cầu học tập trong hoạt động học tập:
Trong hoạt động học tập, nhu cầu học tập là nguồn gốc tính tích cực nhận thức (học tập) của người học và ảnh hưởng lớn tới kết quả của hoạt động này. Tính tích cực học tập có ảnh hưởng trước tiên đối với hành động định hướng trong học tập của chủ thể. Trong hệ thống lí luận của P.Ia. Galperin, định hướng vừa là bước đầu tiên của hành động trí tuệ, vừa là hành động độc lập, kiểm tra và điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện hành động. Đây là khâu quyết định cả quá trình hành động, có vai trò quan trọng nhất trong cơ chế tâm lí của hành động. Chính ở đây, nhu cầu học tập tham gia vào hành động trí tuệ với chức năng hướng dẫn và kích thích hành động. Bởi lẽ “Nhu cầu chỉ có được chức năng hướng dẫn khi có sự gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể. Muốn được vậy, đương nhiên chủ thể phải thực hiện một hoạt động tương ứng với khách thể mà trong đó có nhu cầu đối tượng hóa”. Rõ ràng khi nhu cầu học tập bắt gặp đối tượng thỏa mãn là tri thức, kĩ năng, kĩ xảo...thì nó lập tức biến thành động cơ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm tòi, nhận thức, học tập. Nhu cầu học tập làm cho hành động định hướng mang tính tự giác hơn, diễn ra thuận lợi hơn.
Không chỉ trong quá trình định hướng hành động, nhu cầu học tập còn có ảnh hưởng không nhỏ đối với quá trình thực hiện hành động. Nhu cầu học tập đóng vai trò như một đòn bẩy, một sức mạnh bên trong duy trì tính tích cực của chủ thể.
Nhu cầu học tập với tư cách là một thành tố bên trong hướng dẫn, kích thích và điều chỉnh hoạt động học tập, là nguồn gốc tính tích cực học tập, lòng ham hiểu biết cũng như khát vọng nhận thức của người học, thúc đẩy người học thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. Việc thỏa mãn nhu cầu học tập là điều kiện thiết yếu đối với sự tồn tại, sự thành đạt, tự khẳng định của mỗi cá nhân, đồng thời làm cho nhu cầu nhận thức của họ không ngừng nâng cao về mức độ và cấp độ. Như vậy, nhu cầu học tập có mối quan hệ chặt chẽ với tính tích cực học tập và kết quả học tập.
* Vận dụng: Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông đóng vai trò không nhỏ trong sự phát triển chung của nhân loại. Con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng muốn hòa nhập vào cuộc sống hiện đại ngày nay đòi hỏi bản thân phải có kiến thức về Tin học. Ở bậc THPT môn Tin học còn là công cụ để học sinh học tốt hơn nhiều môn khác, giúp học sinh có cách học hiện đại hơn, hiệu quả hơn, mở mang thêm nhiều kiến thức. Ví dụ: việc vào Internet tìm kiếm thông tin có thể giúp học tốt hơn những môn như: Toán, Địa Lý, Lịch Sữ,…(nhưng phải có giới hạn). Vì vậy, nhu cầu học tập môn Tin học là rất lớn đòi hỏi giáo viên phải là những người có tâm huyết, có chuyên môn cao cho việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ thích nghi tốt với công nghệ hiện đại. Trên tinh thần đó, từ năm 2011 đến nay hàng năm Tổ Tin học đều tổ chức dạy chứng chỉ A, B Tin học cho học sinh và mọi người vào dịp hè và đầu năm học.
II. Tìm hiểu động cơ và động cơ học tập của học sinh. Động lực (động cơ) là gì? Học sinh THPT có những động cơ học tập nào?
1. Động cơ
Động cơ là đối tượng vật chất hay tinh thần, tư tưởng kích thích, thúc đẩy và định hướng hoạt động. Nguồn gốc lực kích thích của động cơ là nhu cầu. Hoạt động luôn có động cơ. Hoạt động có thể có một vài động cơ, khi đó nó hướng đến thỏa mãn cùng một lúc một số nhu cầu.
Ngoài chức năng kích thích và định hướng hoạt động, động cơ còn thực hiện chức năng tạo ý, làm cho mục đích và một số đơn vị cấu trúc của hoạt động có được ý thức cá nhân nhất định và làm cho các tình huống tạo điều kiện hay ngăn trở việc thực hiện động cơ cũng có ý cá nhân. Hiệu quả và đặc điểm định tính của diễn biến phụ thuộc vào hoạt động được thúc đẩy bởi động cơ nào. Động cơ cũng xác định tính chất của các quá trình nhận thức và cơ cấu nội dung của tri giác, trí nhớ, tư duy,..Động cơ thường xuyên bị thay thế bởi nguyên nhân, chẳng hạn: lập luận hợp lý hành động không thể hiện những kích thích thực tế nhưng có thể trở thành động cơ thúc đẩy hoạt động. Con người càng nhận thức đầy đủ và chính xác động cơ, thì càng có khả năng chỉ đạo hành động của chính mình.
Có thể hiểu động cơ là mong muốn của con người làm một cái gì đó. Đó là cái xung lực thúc đẩy con người hành động để thoả mãn nhu cầu.
Đóng vai trò quan trọng đối với động cơ là mối quan hệ của nhu cầu và hứng thú, khát vọng và cảm xúc, tâm thế và lý tưởng. Vì vậy động cơ là một tổ chức vô cùng phức tạp, làm thành hệ thống động lực, trong đó có sự phân tích, đánh giá các giải pháp trái nhau, sự lựa chọn và ra quyết định. Động cơ thường mang tính hệ thống và có thứ bậc. Trong quá trình giáo dục, chúng ta không bao giờ chỉ gặp một động cơ hành động độc lập. Các động cơ cũng có sức ảnh hưởng không giống nhau đối với sự nảy sinh và kết quả của quá trình dạy học. Động cơ tạo ra tâm thế tích cực. Tâm thế tích cực càng cao, ý thức càng cao, hoạt động được khởi đầu càng hết mình thì khi bị ách tắt, hụt hẫng càng cao, càng đau, nó gây ra tâm trạng nặng nề, căng thẳng.
2. Động cơ học tập của học sinh THPT.
Dựa trên cơ sở mối quan hệ của động cơ với động cơ học tập, có thể phân loại động cơ học tập như sau:
+ Động cơ học tập bao gồm động cơ hoàn thiện tri thức và động cơ quan hệ xã hội
+ Động cơ học tập bao gồm động cơ bên trong và động cơ bên ngoài.
+ Động cơ học tập bao gồm động cơ tạo ý và động cơ kích thích.
Người ta còn có thể phân loại động cơ học tập thành động cơ được ý thức và không được ý thức, động cơ nhận thức và động cơ thực tế.
Các cách phân loại động cơ trên được gọi bằng tên khác nhau, nhưng về bản chất không có sự khác nhau đặc biệt. Hoạt động học tập là một loại hình hoạt động đa động cơ được thúc đẩy bởi động cơ bên ngoài và động cơ bên trong.
+ Động cơ bên ngoài là những động cơ kích thích hoạt động học tập không liên quan trực tiếp tiếp đến hoạt động đó. Động cơ này không hiện thân vào đối tượng của hoạt động học. Đối tượng đích thực của hoạt động học chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản khác. Trong trường hợp động cơ ngoài chiếm ưu thế trong hệ thống động cơ học tập, học sinh thực hiện động cơ này chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội như sự thưởng và phạt, đe dọa và yêu cầu, thi đua và áp lực, lòng hiếu danh, sự hài lòng của cha mẹ, thầy cô giáo hay sự khâm phục của bạn bè...và ngay cả sự trốn tránh thất bại cũng được xem như là xuất phát từ động cơ bên ngoài.
+ Động cơ bên trong là động cơ nhận thức là động cơ đặc thù, có ý nghĩa hơn. Động cơ bên trong là động cơ có liên quan trực tiếp với hoạt động nhận thức- là động cơ đích thực của hoạt động nhận thức- học tập. Trong hoạt động học tập, nếu động cơ này chiếm ưu thế thì học sinh có lòng khát khao mở rộng tri thức, mong muốn hiểu biết cái mới, hứng thú với quá trình giải quyết nhiệm vụ, với sự tìm kiếm cách giải quyết, hứng thú với kết quả đạt được. Chủ thể của hoạt động học tập thường không có những căng thẳng về tâm lý.
* Vận dụng: Từ việc xác định động cơ học tập như: học sinh hệ GDTX học chứng chỉ A Tin học để được cộng điểm vào kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp, học sinh các cấp còn lại học chứng chỉ Tin học nhằm nâng cao sự hiểu biết và tăng cường khả năng sử dụng các phần mềm ứng dụng trên máy tính, học Tin học để có thể tham gia và đạt giải trong các kỳ thi giải Toán, Tiếng Anh,… trên máy tính, công nhân viên chức học chứng chỉ Tin học để đủ điều kiện cho công việc và đủ khả năng hội nhập. Giáo viên Tin học là người giúp các em và mọi người thực hiện được mục tiêu này.
III. Tìm hiểu các đặc điểm của động cơ học tập ở học sinh THPT
Khi thực hiện hoạt động giáo dục, để có kết quả tốt giáo viên không những phải nắm rõ các yêu cầu kiến thức, có nhiều phương pháp khác nhau để truyền đạt các kiến thức đó đến học sinh của mình mà còn phải biết cách khơi dậy các thái độ, động cơ học tập cho học sinh của mình vì động cơ học tập không có sẵn hay tự phát, mà được hình thành dần dần trong quá trình học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Vậy đặc điểm cơ bản của động cơ học tập của học sinh THPT là gì?
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì một trong những đặc điểm cơ bản của động cơ học tập của học sinh THPT là sự xuất hiện ở học sinh hứng thú bền vững đối với môn học cụ thể. Hứng thú này không xuất hiện một cách tự nhiên ,bất ngờ gắn với một tình huống trong một bài học cụ thể mà nảy sinh dần dần khi tích lũy kiến thức và dựa vào logic bên trong .Có thể gọi đây là một dạng hứng thú nhận thức. Hứng thú nhận thức là nhận thức mang tính cảm xúc của hoạt động và trực tiếp gây ra động cơ. Hứng thú nhận thức chiếm vị trí lớn trong động cơ của các học sinh học giỏi. Những học sinh này có kì vọng lớn và xu hướng vươn lên chiếm lĩnh cái mới. Ở các em, động cơ học tập – nhận thức được củng cố, nổi bật là hứng thú đối với cách thức chiếm lĩnh tri thức. Động cơ tự giáo dục được nâng lên một trình độ cao hơn, dễ nhận thấy xu hướng tích cực của các em đối với hình thức độc lập của hoạt động học tập, xuất hiện hứng thú đối với phương pháp tư duy khoa học. Những học sinh yếu kém cũng có thể nhận thức được động cơ học tập của mình. Nội dung học tập đã lôi cuốn các em nhưng nhu cầu học tập bộc lộ còn yếu ,ở chúng bộc lộ động cơ “ lẫn tránh những khó chịu” và mức độ kì vọng không cao. Các thầy cô đánh giá thấp động cơ học tập của họ.
Động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông còn là chuẩn bị bước vào các trường chuyên nghiệp. Chọn nghề - đó là sự lựa chọn con đường sống, tìm vị trí của mình trong xã hội mà nó đòi hỏi kĩ năng phân tích khả năng,thiên hướng, tri thức, năng lực quyết định và hành động. Việc chọn trường thi, khối thi đại học và cao đẳng có ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu – động cơ học tập của học sinh THPT.
- Nhu cầu - động cơ học tập cửa học sinh THPTcòn phụ thuộc vào thiên hướng, vào dạng trí tuệ của các em. Theo lí thuyết của Howard Gardner, có dạng trí tuệ sau:
- Trí tuệ ngôn ngữ: Đó là khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các từ ngữ, hoặc bằng phát âm (như một người kể chuyện, một thuyết khách hay một nhà chính trị), hoặc bằng chữ viết (như một nhà thơ, nhà soạn kịch, ............). Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng xử lí văn phạm hay cẩu trúc ngôn ngữ, khoa phát âm hay âm thanh, âm tiết của ngôn ngữ; nội dung hay ý nghĩa của ngôn ngữ, quy mô thực tế hay công dụng thiết thực của ngôn ngữ.
- Trí tuệ lôgic - toán học: Đó là khả năng sử dụng có hiệu quả các con số (như nhà toán học, người lập biểu thuế, nhà thống kê) và để lí luận thông thạo (như nhà khoa học, lập trình viên máy tính hay nhà lôgic học). Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm với các quan hệ và các sơ đồ logic, các mệnh đề và tỉ lệ thức (nếu - thì, nguyên nhân - hệ quả) các hàm số và các dạng trừu tượng hoá có liên quan. Các loại quá trình ứng dụng trong dịch vụ trí tuệ lôgic - toán học bao gồm thuật xếp loại, phân lớp, suy luận, khái quát hoá, tính toán và kiểm nghiệm giả thuyết.
- Trí tuệ không gian: Đó là khả năng tiếp nhận một cách chính xác thế giới không gian qua nhìn (ví dụ, của một người đi săn, một hướng đạo sinh hay một người dẫn đường) và thực hiện thành thạo các hoạt động thay hình đổi dạng trên cơ sở các năng khiếu đó (chẳng hạn với tư cách một nhà trang trí nội thất một kiến trúc sư, một nghệ sĩ hay một nhà phát minh). Dạng trí tuệ này liên hệ chặt chẽ với tính nhạy cảm về màu sắc, đường nét và hình dạng và các tương quan vốn có giữa những yếu tố đó. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng nhìn, khả năng thể hiện bằng đồ thị và các ý tưởng về không gian thị giác và cả khả năng tự định hướng một cách thích hợp trong một ma trận không gian.
- Trí tuệ hình thể động năng: Đó là sự thành thạo trong việc sử dụng toàn bộ cơ thể để thể hiện các ý tưởng và cám xúc (chẳng hạn như một diễn viên kịch, một tài tử kịch câm, một lực sĩ hoặc một diễn viên múa) cũng như sự khéo léo trong việc sử dụng hai bàn tay để sản xuất hay biến đổi sự vật (chẳng hạn như một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, một thợ cơ khí hay một bác sĩ phẫu thuật). Dạng trí tuệ này bao gồm các kỉ năng cơ thể đặc biệt như sự phối hợp cử động, khả năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức mạnh cơ bắp, sự mềm dẽo (tài uốn éo) và tốc độ, cũng như các năng khiếu tự cảm, sờ mó, chẩn đoán bằng tay.
-Trí tuệ âm nhạc: Đó là khả năng cảm nhận (như người mê nhạc), phân biệt (như nhà phê bình âm nhạc), biến đổi (như nhà soạn nhạc) và thể hiện (như một nhạc công) các hình thức âm nhạc. Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc trầm bổng, âm tần của một bản nhạc. Một người có thể nắm bắt âm nhạc một cách chung chung, tổng quát “từ trên xuống dưới" (sành nhạc theo lối trục giác) hoặc nắm bắt âm nhạc một cách chính quy, có bài bản, “từ dưới lên trên” (sành nhạc theo lối phân tích, qua nhạc lí). Trí tuệ âm nhạc còn có thể là một kết hợp của hai dạng thuờng thức vừa kể trên.
-Trí tuệ giao tiếp: Đó là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, động cơ và cảm nghĩ của người khác. Dạng trí tuệ này bao gồm năng khiếu nắm bắt những thay đổi về nét mặt, giọng nói, động tác, tư thế; khả năng phân biệt các biểu hiện giao lưu giữa người và người và đáp ứng các biểu hiện đó một cách thích hợp, thiết thực (chẳng hạn tác động định hướng cho một nhóm người hưởng ứng một đường lối hành động nào đó ).
-Trí tuệ nội tâm: Đó là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một cách thích hợp trên cơ sở tự hiểu mình. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng có một hình ảnh rõ nét về mình (về các ưu điểm, hạn chế và nhược điểm của chính mình), ý thức đầy đủ và đúng về tâm trạng, ý đồ, động cơ, tính khí và ước ao của riêng mình, kèm theo khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát (tính kỉ luật, tự kỉ), lòng tự trọng.
-Trí tuệ tự nhiên học: Đó là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài đông đảo (thực vật chí và động vật chí) có mặt trong môi trường sống của chúng ta. Dạng trí tuệ này cũng bao gồm sự nhạy cảm đối với các hiện tượng thiên nhiên (chẳng hạn, sự hình thành mây, sự tạo núi...).Đối với những ai sống trong môi trường đô thị, đó còn là năng khiếu phân biệt giữa các vật bất động, vô tri như xe cộ, giầy thể thao và vỏ bọc ngoài (bìa), đĩa CD...
Động cơ học tập của học sinh THPT còn là mong muốn tìm vị trí của mình trong số bạn bè, là sự thi đua với các bạn trong lớp, trong trường, là sự noi gương những người đi trước và cả sự giữ gìn danh dự truyền thống của gia đình, dòng họ, của nhà trường…..Trong tâm lí học gọi đây là những động cơ bên ngoài, song nó cũng là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động học tập của học sinh.
Động cơ học tập – nhận thức với tư cách là những tổ chức cá nhân mới của quá trình dạy học. Chương trình dạy học, con đường và hình thức phải phù hợp với mức độ động cơ học tập - nhận thức và cho phép chuyển hóa chúng vào động cơ tự giáo dục và tự phát triển bền vững.
Động cơ học tập có vai trò rất quan trọng, nó là nguồn động lực và là kim chỉ nam cho hoạt động học. Vậy thì chúng ta phải làm gì để hình thành và kích thích động cơ học tập cho học sinh đặc biệt là học sinh THPT?
* Vận dụng: Nhu cầu và động cơ học tập môn Tin học thể hiện ở lòng ham muốn hiểu biết và khám phá những điều mới lạ để phục vụ cho cuộc sống trong hiện tại và tương lai. Khi nhu cầu học tập rõ ràng thì động cơ học tập sẽ tích cực. Khi động cơ học tập tích cực sẽ dẫn tới hứng thú trong học tập .Dạy học là quá trình giáo viên với vai trò chủ đạo là tổ chức học tập cho học sinh. Bản thân tôi là một giáo viên, tôi tự nhận thấy nếu muốn học sinh hứng thú trong học tập, giáo viên phải giúp học sinh thấy được tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của Tin học đối với sự phát triển của nhân loại cũng như của bản thân mỗi người. Ví dụ: Ngày nay hầu hết ở những công ty, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, ngân hàng,…đều có văn phòng điện tử và ngày càng nhiều nơi hình thành văn phòng không giấy, viết. Các em muốn sống, làm việc trong môi trường hiện đại đó và không muốn bị xã hội đào thải thì đòi hỏi bản thân phải tự giác học hỏi để trao dồi kiến thức Tin học.
IV. Tìm hiểu phương pháp và kĩ thuật xác định nhu cầu và động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông
1. Tìm hiểu nhu cầu, động cơ - học tập qua quan sát hoạt động học tập của học sinh
Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, tính tích cực nhận thức - biểu hiện của nhu cầu học tập của học sinh thường bộc lộ qua các dấu hiệu sau:
- Có chú ý học tập hay không?
- Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập hay không? (phát biểu ý kiến xây dựng bài, ghi chép…?
- Có hoàn thành các nhiệm vụ được giao hay không?
- Có ghi nhớ tốt nhưng điều đã học hay không?
- Có hứng thú học tập hay không?
- Có tự giác học tập không hay bị bắt buộc bởi tác động bên ngoài?
- Tích cực nhất thời hay thường xuyên, liên tục?
- Chủ động hay bị động khi thực hiện các nhiệm vụ học tập?
- Công việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp có chu đáo hay không?
- Có kiên trì vượt khó hay không?
- Có những cảm xúc trí tuệ mang tính tích cực hay không?
- Mức độ hiểu biết về mục đích, nhiệm vụ học tập như thế nào?
2. Tìm hiểu nhu cầu, động cơ học tập qua điều tra bằng phiếu hỏi (phương pháp Ăngkét)
Phiếu hỏi được xây dựng theo mục tiêu tìm hiểu của giáo viên. Có thể tìm hiểu về hứng thú môn học, về mục đích học tập, về mức độ nhu cầu động cơ qua sắc thái xúc cảm trí tuệ hoặc qua nội dung đối tượng nhu cầu học tập theo cách phân chia của Marcova.
Ta xét hai ví dụ sau:
Ví dụ 1: Nghiên cứu hứng thú học tập của học sinh bằng phương pháp Ăngket.
Ví dụ 2: Nghiên cứu hứng thú của học sinh bằng Ăngkét của A.E, Gôlômstốc.
3. Tìm hiêu nhu cầu - động cơ học tập qua điều tra bằng hình thức trắc nghiệm.
Xây dựng các trắc nghiệm khách quan làm bộc lộ ở nghiệm thể những nhu cầu - động cơ học tập. Chẳng hạn:
- Xây dựng tình huống: Giáo viên bị mất tiếng, yêu cầu học sinh tự nghiên cứu tài liệu, sau đó kiểm tra xem học sinh có chủ động, tự giác trong học tập hay không.
- Giới thiệu một số tài liệu tham khảo, sau 1-2 tuần, kiểm tra xem học sinh có tự giác tìm hiểu hay không.
- Trong giờ kiểm tra, cho hai đề để học sinh tự chọn, trong đó có đề có nhiều cách giải, chọn đề nào là tùy thuộc vào mong muốn của học sinh, điểm số không phụ thuộc vào số cách giải. Nếu học sinh chọn đề có nhiều cách giải thì chứng tỏ có nhu cầu.
* Vận dụng: Tin học là môn học mới với những khái niệm và từ ngữ mới rất dễ gây chán nản trong đại đa số học sinh. Vì vậy, để tạo được hứng thú cho học sinh giáo viên phải kết hợp tốt lý thuyết và thực hành; phải biết học sinh thích và cần cái gì từ Tin học để tạo hứng thú cho học sinh. Ví dụ: ngay từ đầu năm học ta hãy quy định với mỗi lần phát biểu (kiến thức đơn giản và chủ yếu nằm trong SGK) mỗi học sinh sẽ được cộng 0.5 điểm vào cột kiểm tra miệng, đối với những câu hỏi khó và đòi hỏi sự tìm tòi tùy theo mức độ sẽ đạt điểm 8,9 hoặc 10 nếu thấy học sinh quá thụ động trong học tập. Giáo viên có thể tự làm hoặc tìm kiếm những hình ảnh hay clip vui nhộn liên quan đến môn Tin học hoặc bài học nào đó chiếu để học sinh xem trước khi bắt đầu bài học nếu không khí lớp học căng thẳng và nặng nề. Cuối mỗi bài nên chiếu và cho học sinh tham gia trò chơi xem hình đoán chữ, hoặc trả lời trắc nghiệm; với mỗi câu trả lời đúng giáo viên có thể thưởng cho học sinh một viên kẹo, cây viết hay quyển tập,… Sau mỗi giai đoạn dạy và học, giáo viên có thể tìm hiểu nhu cầu – động cơ học tập qua phiếu điều tra bằng hình thức trắc nghiệm, mức độ hứng thú học tập của các em. Từ kết quả khảo sát giáo viên sẽ thấy được bao nhiêu phần trăm học sinh rất thích học môn Tin học, bao nhiêu phần trăm học sinh thích hiểu biết nhưng không thích học, bao nhiêu phần trăm học sinh không thích và chán học môn Tin học, những lí do thích và không thích học môn Tin học, thái độ học tập chung của cả lớp và những đề nghị với giáo viên dạy bộ môn. Phân tích kết quả điều tra để rút ra kết luận về hứng thú học tập bộ môn Tin học của học sinh. Từ đó khắc phục những nhược điểm, phát huy những ưu điểm và đổi mới các phương pháp dạy trong đó học sinh là chủ thể của quá trình dạy học.
V. Vận dụng phương pháp và kĩ thuật xác định nhu cầu và động cơ học tập của học sinh trong quá trình xây dựng kế hoạch dạy học.
Kế hoạch dạy học là văn bản chuẩn bị của giáo viên về các hoạt động dạy học. Nếu sự chuẩn bị cho từng tiết học, từng bài học, từng chương thì gọi là giáo án, nếu chuẩn bị dài hơn cho học kì, cho cả năm gọi là kế hoạch năm học.
- Xây dựng kế hoạch dạy học bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở mục tiêu, chương trình chung và trên cơ sở đặc điểm tâm lí học sinh - trong đó có đặc điểm nhu cầu- động cơ học tập của các em.
Dạy học có hiệu quả luôn phải bắt đầu từ người học. Nếu người học không có nhu cầu, hoặc không mong muốn học, quá trình học tập trong điều kiện tốt nhất sẽ bị chậm, và nếu bạn chỉ quan tâm đến khía cạnh nhận thức mà không chú ý đến điều mà người học muốn biết thì cũng giống như việc bạn xếp hàng gạch thứ 5 lên bức tường mà không biết liệu hàng gạch thứ 4 có đúng vị trí hay không.
Vì thế bước đầu tiên trong bất kì một chương trình học nào cũng phải tìm hiểu để biết được người học đến từ đâu, họ có nhu cầu gì, cũng như họ đã biết cái gì, họ có sẵn sàng biết hay không. Sau đó quá trình dạy học sẽ tiếp tục xem xét những hiểu biết trước đây của người học và các nhu cầu trên. Nói cách khác, dạy học phải trên cơ sở hoạt động của học sinh, hướng vào học sinh, bởi lẽ điều kiện bắt buộc cho sự hình thành nhu cầu là kinh nghiệm đối với hoạt động đó, đồng thời cần chú trọng tới việc tác động vào vùng phát triển gần nhất để kích thích tính tích cực nhận thức của học sinh.
- Một điều đáng lưu ý là nhu cầu - động cơ học tập của học sinh phụ thuộc nhiều vào đặc điểm trí tuệ cá nhân (năng khiếu hay thiên hướng cá nhân). Lí thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner khẳng định: “Điều cực kì quan trọng là ta phải thừa nhận và bồi dưỡng mọi trí tuệ đa dạng của con người, cũng như mọi kết hợp của các dạng trí tuệ. Tất cả chúng ta khác nhau đến thế là vì mọi người chúng ta đều có những kết hợp trí tuệ rất khác nhau. Nếu chúng ta thừa nhận điều đó, ít nhất chúng ta sẽ có những cơ may tốt hơn để xử trí một cách thích đáng mọi vấn đề mà ta phải đối phó trong thế gian này".
Với từng dạng trí tuệ chiếm ưu thế, học sinh sẽ hứng thú với những môn học liên quan tới sở trường của mình và cần được sự giúp đỡ của giáo viên. Trước tình hình đó, khi xây dựng kế hoạch dạy học, giáo viên phải nắm bắt được đặc điểm tâm lí nói chung, đặc điểm về nhu cầu- động cơ học tập nói riêng của học sinh, để trên cơ sở đó phát huy được tính tích cực học tập của học sinh. Điều đó có nghĩa trong kế hoạch dạy học, bên cạnh việc thực hiện yêu cầu chung, tối thiểu còn có chuơng trình cá biệt hoá- dạy học phù hợp với nhu cầu- động cơ học tập hiện có và mở rộng khách thể đáp ứng nhu cầu của từng nhóm học sinh, của từng học sinh nhằm nâng cao thứ bậc và độ bền vững của nhu cầu- động cơ nhận thức của học sinh. Cụ thể là: lựa chọn và áp dụng các phương pháp, các hình thức tổ chức dạy học tích cực phù hợp với từng đối tượng trong điều kiện dạy học tập thể trên cơ sở đảm bảo mục tiêu chung (tổ chức dạy học phân hoá theo trình độ, nhịp độ, nhu cầu, hứng thú của học sinh; dạy học theo nhóm nhỏ; hướng dẫn học sinh học tập ở nhà; tổ chức phụ đạo cá biệt...).
- Một điều đáng quan tâm khi xây dựng kế hoạch học tập là cần tập trung vào việc chuẩn bị cho các hoạt động của học sinh. Tránh trường hợp đưa học sinh vào tình trạng thụ động, giáo viên là người độc diễn, dễ gây nhàm chán. Bởi lẽ nhu cầu được hoạt động của học sinh là rất cao, việc thoả mãn nhu cầu này luôn kích thích các em tích cực học tập và làm nảy sinh các nhu cầu mới cao hơn. vì vậy, trong kế hoạch dạy học phải thể hiện được sự đổi mới phương pháp, hình thức dạy học theo hướng tích cực để học sinh thực sự trở thành chủ thể của quá trình dạy học.
- Xây dựng kế hoạch dạy học không chỉ có dự kiến hoạt động dạy học dựa trên nhu cầu - động cơ học tập của học sinh mà còn có cả dự kiến hoạt động hình thành và phát triển chính nhu cầu và động cơ ấy. Có hai con đường hình thành động cơ học tập cho học sinh:
+ Con đường thứ nhất - Từ dưới lên: là bằng cách dựa vào những nhu cầu đang có của học sinh, giáo viên tổ chức hoạt động nhất định để tạo cho các em những cảm xúc về sự thoả mãn, vui sướng, tự hào. Nếu học sinh thể nghiệm những cảm xúc này đủ lâu thì ở các em sẽ nảy sinh một nhu cầu mới về chính hoạt động đó - cái hoạt động tạo ra ở chúng những trải nghiệm cảm xúc dễ chịu. Do đó, một động cơ mới ổn định đối với hoạt động ấy được đưa vào hệ thống động cơ chung của học sinh.
+ Con đường thứ hai – Từ trên xuống: được biểu hiện ở sự lĩnh hội cùa học sinh đối với các kích thích, mục đích, nội dung của nhân cách được đề ra cho chúng dưới dạng "có sẵn" mà theo ý đồ của giáo viên thì những điều đó phải được hình thành ở học sinh và bản thân học sinh phải dần dần chuyển những điều đó từ sự nhận thức từ bên ngoài thành những điều được chấp nhận ở bên trong và có tác động thực tế. Con đường này gắn liền với các phương pháp thuyết phục, giải thích, ám thị, thông tin, nêu gương.
Trong chương trình bồi dưỡng phương pháp dạy học tích cực của Dự án WOB có đưa ra mẫu sổ KẾ HOẠCH DẠY HỌC như sau:
Trường: ..................................Tổ: ............... Kế hoạch dạy học môn:
Lớp: .................. Học kì: ….…..... Năm học:
1. Môn học:
2. Chương trình: ……………......Học kì: …… Năm học:
3. Họ và tên GV:
4. Địa điểm văn phòng tổ bộ môn: Điện thoại: …..............Email:
Lịch sinh hoạt tổ:.................................... Phân công:
5. Các chuẩn của môn học: (theo chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành)
Chủ đề |
Kiến thức |
Kĩ năng |
|
|
|
6. Yêu cầu về thái độ: (theo chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành)
7. Mục tiêu chi tiết:
Mục tiêu Nội dung |
Mục tiêu chi tiết |
||
Bậc 1 |
Bậc 2 |
Bậc 3 |
8. Khung phân phối chương trình: (theo chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành)
Học kì:......................., Tuần:.................., Tiết:........................
Nội dung bắt buộc/ số tiết |
Nội dung tự chọn |
Tổng số tiết |
Ghi chú |
|||
Lí thuyết |
Thực hành |
Bài tập |
Kiểm tra |
|||
|
|
|
|
Có hướng dẫn riêng |
|
|
9. Lịch trình chi tiết:
Bài học |
Tiết |
Hình thức tổ chức dạy học |
Phương tập/ công cụ dạy học |
Kiểm tra |
Đánh giá cải tiến |
Chương I: .......... (...tiết lí thuyết + .....tiết bài tập: .........+ tiết thực hành = .....tiết) |
10. Kế hoạch kiểm tra, đánh giá:
+ Kiểm tra thường xuyên (cho điểm/ không cho điểm): Kiểm tra bài làm, hỏi trên lớp, làm bài test ngắn...
+ Kiểm tra định kì:
Hình thức kiểm tra, đánh giá |
Số lần |
Trọng số |
Thời điểm/ nội dung |
Kiểm tra miệng |
|
|
|
Kiểm tra 15 phút |
|
|
|
Kiểm tra 45 phút |
|
|
|
Kiểm tra 90 phút |
|
|
|
Lưu ý: Phân bổ hợp lý các bài kiểm tra 45 phút vào cuối chương/ phần hoặc cách nhau ít nhất khoảng từ 10 - 15 tiết.
11. Kế hoạch triển khai các nội dung chủ đề tự chọn (bám sát, nâng cao)
Tuần |
Nội dung |
Chủ đề |
Nhiệm vụ học sinh |
Đánh giá |
|
|
|
|
|
12. Kế hoạch triển khai các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, tích hợp:
Tuần |
Nội dung |
Chủ đề |
Nhiệm vụ học sinh |
Đánh giá |
|
|
|
|
|
Tổ trưởng bộ môn: (TN/XH) Hiệu trưởng: (Duyệt)
Qua đó cho thấy khi xây dựng kế hoạch dạy học phải dựa trên nhu cầu, đặc điểm và năng lực của học sinh.
* Vận dụng: Dạy học là một công việc vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật nó đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên trong quá trình giảng dạy. Để làm tốt công việc này thì giáo viên phải thực hiện tốt 3 giai đoạn chính đó là giai đoạn chuẩn bị trước khi lên lớp, giai đoạn lên lớp, giai đoạn sau khi lên lớp.
* Việc chuẩn bị dài hạn cho cả năm học hoặc từng học kỳ bao gồm những công việc sau:
- Trước khi lên lớp:
Tìm hiểu học sinh lớp mình giảng dạy và những hứng thú của học sinh về môn học mình đang phụ trách
Giáo viên nghiên cứu kĩ chuẩn kiến thức kĩ năng, phân phối chương trình theo quy định từ đó xây dựng kế hoạch dạy học cho phù hợp.
Thiết kế ra phương pháp dạy học sinh động, phù hợp với bài học, tìm hiểu thêm những kiến thức bỗ trợ cho bài học.
- Lên lớp:
Trong tiến trình tiết học, giáo viên phải chú ý duy trì được không khí tích cực, hào hứng trong học sinh đối với bài học.
Tư thế, tác phong của người giáo viên phải đúng mực, ăn mặc gọn gàng, giản dị, ngôn ngữ rõ ràng, trong sáng, truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, biết cách thay đổi giọng nói.
Kết thúc tiết học phải làm sao đạt được mục đích, yêu cầu của tiết học.
- Sau khi lên lớp:
Sau tiết học, người giáo viên phải phân tích sư phạm một cách tổng hợp: Kết quả đã đạt được, những thiếu sót trong khâu lên lớp,…
Từ sự phân tích tiết học đó, những kinh nghiệm thành công và thất bại rút ra cần ghi lại phía dưới giáo án để những tiết học lần sau được tiến hành với những kết quả cao hơn.
Xem thêm các chương trình khác:
- Các dạng bài tập Tiếng Anh thông dụng nhất
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Tiếng Anh có đáp án
- Toàn bộ kiến thức về cụm động từ | Định nghĩa và cách dùng
- 500 đoạn văn Tiếng Anh thông dụng nhất và cách làm
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Công nghệ có đáp án
- 1000 câu hỏi ôn tập Giáo dục công dân
- 15000 câu hỏi ôn tập môn Toán có đáp án
- Wiki Toán | Khái niệm, định lí, tính chất, dạng bài, công thức
- Tuyển tập đề thi + chuyên đề ôn thi Toán Kangaroo các cấp độ (có đáp án 2024)
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Vật lí có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Vật lí
- Phương trình hóa học | Tổng hợp PTHH của các chất hữu cơ, vô cơ chính xác nhất
- Đồng phân & Công thức cấu tạo của các chất hữu cơ
- Nhận biết các chất Hóa học
- Cấu hình electron
- So sánh bán kính nguyên tử và bán kính ion
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Hóa có đáp án
- Wiki các chất hóa học | Định nghĩa, tính chất, nhận biết, điều chế, ứng dụng
- Cách đọc danh pháp hóa học (chương trình mới) đầy đủ nhất
- Công thức Lewis của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức electron của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức cấu tạo của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức hợp chất khí với hidro của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hợp chất khí với hidro
- Công thức hidroxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hidroxit cao nhất
- Công thức oxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức oxit cao nhất
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Tin học có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Lịch sử có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Địa lí có đáp án
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Sinh học có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Sinh học
- Tổng hợp về các tác giả văn học
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Ngữ văn có đáp án
- Tổng hợp kiến thức Ngữ Văn
- Trò chơi Powerpoint | Game Powerpoint