TOP 5 mẫu Nghị luận về Anh hùng tiếng đã gọi rằng (2024) SIÊU HAY
Nghị luận về Anh hùng tiếng đã gọi rằng lớp 11 Cánh diều gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Nghị luận về Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Đề bài: Viết một bài văn nghị luận về Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Dàn ý Nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng
a, Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả và hoàn cảnh ra đời tác phẩm
b, Thân bài
- Hình tượng anh hùng Từ Hải qua lời nói của Thúy Kiều
- Khí phách ngang tàn, oai phong của bậc anh hùng càng nổi bật qua lời tự bộc bạch của Từ Hải
- Từ Hải – vị anh hùng đích thực khi dành cả giang sơn, mở rộng bờ cõi chỉ để cho Kiều gặp lại gia đình, song thân.
c, Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
- Cảm nhận của em về lý tưởng cao đẹp, khát khao công lý mà Nguyễn Du gửi gắm.
Nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng (mẫu 1)
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương bất hủ. Trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn gửi gắm trong tác phẩm này một giấc mơ anh hùng, giấc mơ về tự do công bằng xã hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” với bút pháp lãng mạng, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đồ đi
Đối mặt với Tù Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa mà như một nạn nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và che trở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải là giấc mơ của Nguyễn Du thì ngay đến mơ Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một bậc từ bi giáng thế cứu đỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi thường, mang tầm vóc vũ trụ: “Trồm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều vô cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp không thể nào quên:
Chạm xương Chép dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời nói của Kiều mà còn được khắc họa rõ nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều, việc Từ Hải đã cứu đỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân là một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó là việc quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, coi Kiều là “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều là việc nghĩa khí đương nhiên mà bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ Hải không có hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào ở xã hội. Chỉ với một câu nói đĩnh đạc mà bậc anh hùng đã thể hiện lý tưởng cao đẹp như một lời thách đấu với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì xem đó là “việc nhà” đó chính là sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn lao, vĩ đại hơn. Đó phải chăng cũng là nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng là sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình mà còn rất biết người. Bậc anh hùng này là người có tình có nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau và ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với tư cách là tri ân, tri kỉ. Tuy nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều có mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn bình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chè mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như vũ bão “trúc chè mái tan”, binh uy thì “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”, bày binh bố trận rõ ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, bọn gian thần triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm” mà thôi. Từ Hải hiện lên dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời mà còn hi sinh vì Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, bá vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian vũ trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ cô đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Với màu sắc sử thi và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu đỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu đỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
Nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng (mẫu 2)
Nguyễn Du, với tác phẩm “Truyện Kiều”, đã góp phần làm cho văn học Việt Nam thêm phần phong phú và đa dạng. Đoạn trích trên là một phần nhỏ trong câu chuyện đầy cảm xúc và tình cảm của Kiều. Nó là một tấm gương sáng cho cuộc sống, mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu, số phận và khát vọng của con người.
Truyện Kiều xoay quanh cuộc sống của Thúy Kiều – một người con gái thông minh, tài năng và xinh đẹp. Nhưng số phận đã đưa cô vào những trường đau khổ và thử thách khắc nghiệt. Qua những biến cố và gian nan, Kiều trở thành biểu tượng của sự kiên cường và lòng dũng cảm.
Trong đoạn trích, chúng ta được chứng kiến cuộc gặp gỡ đầy ý nghĩa giữa Kiều và Từ Hải. Với cái nhìn sâu sắc và tình cảm mãnh liệt, Kiều nhìn thấy Từ Hải như một người anh hùng, người đã cứu rỗi cô khỏi cảnh đau khổ và che chở cô khỏi những gian nan. Từ Hải, với tấm lòng nhân hậu và lòng dũng cảm, đã trở thành người bảo vệ của Kiều, như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.
Từ Hải không chỉ là một người anh hùng trong mắt Kiều, mà còn là biểu tượng của sự công bằng và tự do trong xã hội. Với tấm lòng cao thượng và tình yêu thương vô điều kiện, Từ Hải đã truyền cảm hứng và khích lệ cho những người xung quanh. Bằng cách giúp đỡ Kiều, anh đã khẳng định rằng một người anh hùng không chỉ là người có sức mạnh vật chất mà còn là người có tấm lòng nhân ái và sẵn sàng hy sinh cho người khác.
Qua những lời nói và hành động của Từ Hải, chúng ta cảm nhận được sự bình dị và siêu phàm của một người anh hùng. Anh ta không chỉ đơn thuần là một người hùng vĩ đại, mà còn là người sống đạo đức và có trách nhiệm xã hội. Từ Hải không chấp nhận sự bất công và luôn đấu tranh cho sự công bằng trong xã hội. Ông đã thể hiện sự cao đẹp của mình trong những lời nói đầy ý nghĩa: “Quốc sĩ xưa nay, chọn người tri kỉ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng: giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! Huống chi việc cũng việc nhà, lọ là thâm tạ với là tri ân?”.
Với sự tương phản giữa Kiều và Từ Hải, Nguyễn Du đã tạo nên một câu chuyện đầy cảm xúc và ý nghĩa. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học nổi tiếng mà còn là một tấm gương sáng cho con người, cho cuộc sống. Nó khơi dậy trong chúng ta những suy ngẫm về tình yêu, sự hy sinh và ý nghĩa của cuộc sống.
Từ Hải không chỉ là một anh hùng vĩ đại mà còn là một người có trái tim nhân ái và sự hiểu biết sâu sắc về con người. Anh không chỉ biết về bản thân mình mà còn có khả năng ấm áp và chia sẻ tình yêu đối với những người xung quanh, như trường hợp của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận và đáp ứng với lòng biết ơn và tình cảm. Dù Kiều không thể nói ra, nhưng Từ Hải đã tự mình nhận thức và hiểu rõ mong muốn đó. Anh biết rằng Kiều khao khát được trở về quê hương, được ôm trong lòng gia đình và người thân. Vì thế, anh đã tự nguyện đáp lại mong muốn ấy, mặc dù theo một cách khác thường. Anh chỉ muốn thấy Kiều hạnh phúc, và bởi vậy “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
…
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với quân đội mạnh mẽ của mình, Từ Hải đã tỏ ra mạnh mẽ và oai phong như một cơn bão. Anh đã xây dựng một triều đình vững mạnh và trở thành chủ nhân của “một góc trời”. Anh đã sắp đặt quân đội và tạo ra những chiến thuật rõ ràng: “Gồm hai mặt văn và võ, chia đôi trời đất”. Từ Hải đã chiến thắng ở mọi nơi anh đi qua, giống như “gió quét mưa sa”, quét sạch “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, các quan lại và triều đình chỉ là “những người mặc áo và ăn cơm” thôi. Từ Hải được miêu tả bởi Nguyễn Du với những từ ngữ uy nghiêm như binh uy, bá vương, sơn hà,… hay những động từ mạnh mẽ như trúc chẻ, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,… Không gian vũ trụ trở thành một không gian rộng lớn, nơi Từ Hải tỏ ra mạnh mẽ và oai phong hơn người.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thông qua những câu từ tường thuật sắc sảo, ước lệ và vĩ đại của một anh hùng đích thực. Với sự mô tả sử thi và hình tượng kỳ vĩ, Nguyễn Du đã thành công khi đưa nhân vật Từ Hải từ một anh hùng hảo hán trở thành một anh hùng sử thi. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải giống như một con đại bàng, mỗi khi bay lên, nó che chở và cứu rỗi những con người yếu đuối, giải cứu những nạn nhân của xã hội tăm tối như cuộc đời của Thúy Kiều.
Nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng (mẫu 3)
“Một nước không thể không có quốc hoa, “Truyện Kiều” là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta” - đó là lời nhận xét của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”, “quốc túy” và “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta có thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước mơ của nhân dân về hạnh phúc và công lí trong xã hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường” do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt. Sự xuất hiện của Từ Hải là nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều có cơ hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính vì thế, những lời Kiều bày tỏ với Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng và hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”
Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải - ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ là người bạn tri âm mà còn là vị ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình là “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám mơ tới sẽ có ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng mà còn thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí công đường là điều xưa nay chưa từng có tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh của mình mà Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn trước Từ Hải. Từ Hải được ví với “sấm sét” uy vũ vô cùng.
“Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi dòng tạc dạ ơn nghĩa này như khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh cũng là một người có ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”. Gấm, bạc đều là những vật vô cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh. Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể bằng những vật chất hữu hình. Ở đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều có “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn dĩ không gì có thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện rõ ràng:
“Từ rằng: 'Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Từ Hải đã tự coi minh là bậc “Quốc sĩ' trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức rõ ràng về tài năng và phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân là kẻ hàm ơn thì với Từ Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề cao ngạo mà hết mực khiêm tốn và quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong trần ở nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” có chàng Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng có một Từ Hải phi phàm “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”. Đây chính là quan niệm sống và lối ứng xử cao đẹp, thể hiện rõ “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải chính là người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân là động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực là người anh hùng mà nhân dân hằng ao ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm và chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc giúp Kiều báo ân báo oán chỉ là một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó là “việc nhà”, đồng nhất lý tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều là hiện thân cho những con người hồng nhan mà bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị đày đọa bởi xã hội đồng tiền nên tư tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. Có thể thấy, từ mục đích đến cách hành động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa và giàu tình thương. Là một quan võ nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng mà trái lại, rất mực nho nhã và tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt người Tần” có ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay biết chút tin tức gì về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu” ấy không phải là một con người ngồi trên vị thế cao cao tại thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận cá nhân, mong muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời nói của Kiều và để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên ở nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”
Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ mái tan” đã khắc họa rõ sức mạnh vô song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh hùng là đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại nhũng của con người văn võ song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam
Phong trần mải một lưỡi gươm
Những loài giả áo túi cơm sá gì
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ
Thiếu gì cô quả, thiểu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải là nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi Nam”, “một phương hải tần”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình ảnh thiên nhiên kì vĩ với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà” cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,... khiến chân dung Từ Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những cụm từ “Đòi cơn”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc ở người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng lưỡi gươm công lí của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ là hạng “giả áo túi cơm” thấp kém, hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét cả thái độ và hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất ở Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm sét, làm đảo lộn giang sơn. Một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn là ước mơ của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian có chàng Thạch Sanh diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện ở người anh hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng nghĩa, có sức mạnh và quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc. Nhân vật là đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân trong bất kì thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”
Có Nguyễn Du và chỉ một “Truyện Kiều”'
(Nguyễn Bính)
Nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng (mẫu 4)
Có lẽ, Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du - giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do và công lý. Cho nên Từ Hải phải là một con người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong "Truyện Kiều" như một nhân cách sử thi, Từ Hài đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sáng nhất, trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của "Đoạn trường tân thanh". Khắc họa một nhân vật như thế, không dùng bút pháp lãng mạn hoá, lý tưởng hoá, thì khó mà nổi bật. Để tô đậm tầm vác phi thường của hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du đã khác chạm bằng nhiều cách, từ nhiều phía. Ông đã giới thiệu lai lịch, đã mô tả ngoại hình, đã phô bày những cá tính... ở đây trong đoạn trích "Anh hùng tiếng đã gọi rằng..." này, phẩm chất Từ Hải được hiện lên chủ yếu bằng ngôn ngữ hùng tráng và kỳ tích anh hùng. Tuyên ngôn và hành động bao giờ cũng là một Phát ngôn được nấu nướng, kết tình từ hành động, còn hành động là sự thể hiện, là thước đo của phát ngôn. Nhờ đó mà Từ Hải thực sự là một vẻ đẹp lý tưởng và hoàn hảo
Đoạn thơ tự nó hình thành hai phần: cuộc trò chuyện Thuý Kiều - Từ Hải và cuộc khởi binh đầy kỳ tích của Từ Hải ở phần một, nhân cách anh hùng của Từ Hải trong lời nói, phần hai - phẩm cách anh hùng trong hành vi xuất chúng Từ không gian màn trướng khuê phòng ra không gian giang sơn trời đất, Từ Hải đã bước thẳng đền chính mình bằng những bước siêu phàm.
Mở đầu cuộc đối thoại là lời Thuý Kiều. Trước Từ, Kiều không hiện ra như một người bạn trăm năm, mà như một nạn nhân được cứu vớt che chở trước một ân nhân đã ra tay tế độ. Kiều càng tự thấy nhỏ bé bao nhiêu, Từ càng suy nghĩ, kỳ vĩ bấy nhiêu. Đôi với Nguyễn Du, Từ Hải là một giấc mơ, thì đối với Kiều, ngay đến mơ cũng không dám nghĩ rằng mình có Từ Hải. Tự nhận mình hèn mọn, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên. Bằng những lời ước lệ, thậm xưng, Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tầm vóc vũ trụ, phi phàm: "Trộm nhờ sấm sét ra tay", "Dế đem gan óc đền nghì trời mây". Có thể nói đó là cách gián tiếp để khắc họa Từ Hài, nghĩa là lối mượn lời nhân vật này để tạo dựng nhân vật khác.
Nhưng có lẽ, chính trong lời Từ Hải, phẩm cách anh hùng ở nhân vật này được bộc lộ nhiều hơn: vừa bình dị vừa siêu phàm. Cái việc Từ đã làm cho Kiều là một cuộc đổi đời, hồi sinh vô cùng lớn lao. Từ đã đưa Kiếu từ tận cùng ô nhục ("Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần") lên tột bậc danh giá! Từ gái lầu xanh lên bậc mệnh phụ phu nhân, tạo điều kiện cho nàng được ân đền oán trả. Những việc phi phàm ấy lại được Từ lý giải bằng những động cơ rất thường tình, rất tự nhiên đối với minh:
Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỳ một ngày được chăng
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lo là thầm tạ mới là tri ân!
Kiều cảm nhận sự việc bằng tâm thế một nạn nhân, ngưỡng vọng ơn trời bể. Còn Từ Hải lại xem là một việc vẫn thường làm đối với mình. Cả hai cách nói cũng như hai cách nhìn nhận đánh giá sự việc đều đạt một hiệu quả là làm cho Từ Hải hiện ra càng lớn lao hơn. Nhưng trong lời Từ, xét ra không phải chỉ có sự khiêm nhường: người này thực ra ý thức khá sâu sắc về giá trị và uy vũ của mình. Từ coi minh là "quốc sĩ", nghĩa là kẻ sĩ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình là "anh hùng". Vậy là văn võ song toàn! Chẳng phải sự hào hoa như một nghệ sĩ hài hoà với sự ngang tàng hào hùng của bậc trượng phu vốn đã là vẻ đẹp của Từ từng được Nguyễn Du trực tiếp khắc hoạ: "Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo" đấy ư. Từ đâu chỉ là kẻ biết người, Từ cũng là một kẻ rất biết mình!.
Lý tưởng anh hùng của Từ Hải đối với đời thể hiện trong hành vi nghĩa hiệp đối với một con người cụ thể ấy là Thuý Kiều. Cứu đời, trước hết là cứu Thuý Kiều. Thực hiện công lý cho đời, trước hết là cho nàng Kiều. Sở nguyện, khao khát chân chính của những nạn nhân trở thành lý tưởng mục đích của người anh hùng. Người anh hùng đứng lên là sống cho họ, sống vì họ. Ước ao thầm kín của Kiều đã được Từ cảm nhận như một tri kỷ, tri âm. Nàng không nói, nhưng chàng tự coi mình có bổn phận đáp ứng. Kỳ tích anh hùng đã nảy sinh từ tấm lòng tri âm.
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
Kiều có một mong ước thầm kín mà da diết, đó là được trở về cố hương, đoàn tụ với gia đình, gặp lại song thân. Để đáp ứng sở nguyện ấy, người anh hùng đã thực hiện theo cung cách thật là khác thường: không phải tìm đường hộ tống nàng hổi hương, mà khởi binh, dựng nghiệp, lập ra cả một triều đình, đánh chiếm hàng loạt huyện thành, vạch đôi sơn hà, để dẹp đường cho hồng nhan tri kỷ gặp lại song thân... Thế đấy, Từ Hải không chỉ đổi đời cho Kiều mà còn vì Kiều, đem hạnh phúc đến cho biết bao sinh linh khác. Để đáp ứng một nguyện vọng bé mọn, Từ sẵn sàng làm những chuyện lớn lao. Hạnh phúc của Từ Hải là đem được hạnh phúc đến cho Thuý Kiều. Thấy Kiều hạnh phúc thì Từ mới cam lòng. "Sao cho thấy mặt là ta cam lòng” Qua lời Từ Hài, chúng ta đã có thể thấy nhân cách anh hùng của Từ là một sự hài hòa tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ...
Phần sau, Từ Hải hiện ra qua lời trần thuật trực tiếp của Nguyễn Du về hành động của Từ Hài. Không còn là cuộc đối thoại trong màn trướng mà là cuộc dấy binh trên chiến trường, giữa dọc ngang trời đất. Nhân cách anh hùng được khắc hoạ trong không gian sử thi
Trong cuộc đối thoại nói trên, Từ đã tôn vinh Thuý Kiều bằng cách phá vỡ, xoá sạch khoảng cách giữa mình và Kiều: tương quan sang - hèn, ân nhân - nạn nhân đã được Từ Hải nâng lên thành quan hệ tri kỷ - tri âm. Kiều đã được đặt ngang tầm, bình đẳng với Từ. Họ trở thành một cặp "Trai anh hùng gái thuyền quyên", "Người quốc sắc kẻ thiên tài". Ấy là một phía của nhân cách anh hùng
Ở đây ta thấy một phía khác. Từ quyết tạo ra một tương quan bình đẳng khác: bình đẳng với quyển uy tột đỉnh của nhà nước phong kiến. Từ cúi mình cứu vớt nạn nhân, nhưng cũng sẵn sàng tranh tài đọ sức, tranh hùng tranh bá với triều đình!
Để khác hoạ tầm cỡ đó của Từ Hài, Nguyễn Du đã dùng đến một hệ thống ngôn từ cũng đầy quyền uy: binh tướng, binh uy, bả vương, sơn hà, tranh cường, hùng cứ... và viết về hành vi của Từ Hài dứt khoát phải dùng những động từ chỉ động Từ Hải mạnh mẽ: Vội truyền, trúc chẻ, ngôi tản, gió quét mưa sa, huyện thành đạp đổ..., những giọng điệu đấy ngang tàng thách thức mang khẩu khí anh hùng: đòi phen,. Không gian vũ trụ, không gian sử thi trở thành khoảng không gian tung hoành phù hợp với khí phách Từ Hài. Những đơn vị địa lý, địa vực cứ được nới rộng đến cực đại để cho tính cách anh hùng của Từ được vùng vẫy, và có lẽ phải tạo một không gian như thế thì mới thể hiện được tầm vóc của Từ: Triều đình riêng một góc trời, huyện thành đạp đổ, năm tòa côi nam, gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà, nghênh ngang một cõi biên thuỳ, năm năm hùng cứ một phương hải tần... Những thi liệu ấy được phối hợp với những tiết tấu mạnh mẽ, âm điệu dồn dập, sôi động, biểu hiện binh lực hùng hậu. khi thế bách chiến bách thắng của Từ Hài. Và sâu xa hơn. nó biểu hiện được chi khí dám đương đầu, dám sông mái, đua tranh với thế lực thượng thời phong kiến. Nói theo giọng đời thường hiện Đại là cái chi khi "không ngán gi!" của Từ Hải.
Thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải, Nguyễn Du đã luôn cô đúc ngôn ngữ của mình thành những câu thơ có tầm khái quát hào hùng và lãng mạn: cánh hồng bay bông tuyết với Giang hồ quen thói vẫy vùng. Dày lâu bể Sở sông Ngô tung hoành. Đội trời đạp Đất ở đời, Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Năm năm trời biền ngang tàng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng biển khơi, Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng.v.v... Những khái quát mang tính ước lệ, cách điệu ấy đã làm cho cái lai lịch anh hùng của Từ Hải có một tầm vóc hoành tráng. Còn riêng ở đoạn thơ này, hướng mô tả của Nguyễn Du có phần khác. Nhà thơ gắn với những biến cố thực tại, những hành động có phần cụ thể hơn của Từ Hải nhằm giao tranh, đạp đổ, phủ định cái trật tự phong kiến của triều đình, tự tay lập nên một trật tự của riêng mình. Bản lĩnh của Từ Hải hiện ra ở đây bằng hàng loạt hành động đảo lộn thời thế, cải tạo thực tại: Huyện thành đạp đổ, rạch đôi sơn hà, năm năm hùng cứ v.v... Và ở đây cũng không thiếu những câu thơ tự nó đã là những nét chân dung khái quát về tầm vóc, cốt cách anh hùng của Từ Hải:
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ
Trước cờ, ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Nhưng đặc sắc hơn cả, có sức kết tình hơn cả vần là hình ảnh này
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
Ấy là một. hình tượng thuộc về tầm vóc sử thi. Và đó là một sự tương phản gay gắt và tráng lệ. Sự tương phản đối chọi giữa một cá thể và cả một tập đoàn, sự đối lập giữa cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp và sự phàm tục. Hình tượng lưỡi gươm công lý. mũi kiếm tự do biểu hiện ý chí và khát vọng cao quý của Từ Hài. Ta đã được thấy cảnh "mài gươm dưới trăng” của Đặng Dung, giờ lại được chiêm ngưỡng "phong trần mài một lưỡi gươm" của Từ Hải. Vậy là ở Tù Hải còn có một sự hài hoà khác: sự hài hoà giữa cốt cách hào hoa của một bậc quốc sĩ và vẻ phong trần của một tráng sĩ Hai chữ "phong trần" làm hiện lên gương mặt dài dấu từng trải, cuộc đời phong trần cát bụi. ngày tháng phong trần nấu nung ý chí, lưỡi gươm phong trần vì mục đích thanh cao... "Phong trần mài một lưỡi gươm" Từ Hải sừng sững giữa không gian và thời gian một cốt cách kiêu hùng.
Vâng, phải là con người ấy mới có thể thực hiện được khát vọng tự do, công lý của Nguyễn Du. Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi vỗ cánh lại làm xáo động cả đất trời. Chi có đôi cánh áy mới che chở được cho những nạn nhân như Thuý Kiều. Chỉ có đôi cánh ấy mới mang chồ được khát vọng nghìn đời của những con người thấp cổ bé họng sống dưới cái gầm trời tăm tối của thế giới "Truyện Kiều".
Nghị luận Anh hùng tiếng đã gọi rằng (mẫu 5)
Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc đóng góp nhiều tác phẩm nổi tiếng cho nền văn chương nước nhà. Có thể nói, những tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn sâu sắc không chỉ trong lòng công chúng trong nước và còn gây tiếng vang lớn trong cộng đồng quốc tế. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du, ta không thể không nói đến đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” trong tác phẩm “Truyện Kiều” với hình tượng nhân vật Từ Hải – hình tượng nhân vật người anh hùng lí tưởng cao cả.
Nhân vật văn học được các nhà cầm bút thể hiện qua nghệ thuật ngôn từ để hình tượng hóa con người. Văn chương ở thời kì nào cũng vậy, để phản ánh thế giới hiện thực muôn hình vạn trạng, ắt cần đến hình tượng nhân vật. Hình tượng nhân vật đại diện cho một thế hệ người tại chính giai đoạn đó. Nhân vật lão Hạc hay chị Dậu khái quát lên hiện trạng xã hội Việt Nam thuở bấy giờ với những bất công, số phận hẩm hiu, bất hạnh của những con người dưới đáy xã hôi, những kẻ thấp cổ bé họng không biết bấu víu vào ai. Thông qua nhân vật, tác giả thể hiện thái độ, tâm tư, tình cảm của mình đồng thời mở ra những quan điểm, những bài học nhân sinh, nhân đạo sâu sắc.
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng” là phần tiếp theo sau cảnh Thúy Kiều báo ân, báo oán. Đoạn trích đã thể hiện người anh hùng Từ Hải giàu nghĩa khí, qua đó nói lên khát vọng tự do của con người thời đại.
Lời nói đanh thép, hùng hồn của Từ Hải đã chứng minh được khí phách ngùn ngụt. Từ Hải xem mình là “anh hùng”, mà đã là anh hùng thì tất, đó là người hội tụ tất cả tinh hoa, vừa mạnh về sức lực, vừa giỏi về trí tuệ. Người anh hùng đấy luôn đứng dậy đấu tranh để bảo vệ chính nghĩa, nhận thấy bất bình lập tức ra tay. Chí khí người anh hùng Từ Hải khó ai có thể có được. Cách Từ Hải nói chuyện với Thúy Kiều sau hơn nửa năm chung sống mặn nồng, dù không muốn chia li nhưng vì việc lớn, Từ Hải buộc lòng phải ra đi. Lời nói gãy gọn, chắc nịch cho chúng ta cảm nhận khí thế đang chảy cuộn trào trong Từ Hải.
Không chỉ vậy, về lí tưởng, có thể khẳng định, Từ Hải là người mang đậm khí phách lớn của người anh hùng:
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”
Từ Hải đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi lầu xanh, đó là một trong nhiều minh chứng rõ ràng nhất cho lí tưởng của chàng. Từ Hải không dung tha mọi “bất bằng”, sẵn sàng đứng dậy đấu tranh chống lại cái xấu, những điều bất bình trong lòng xã hội. Đó là một khí phách lớn, hiên ngang, lẫy lừng. Hành động của anh đã cứu Thúy Kiều thoát khỏi bao điều nguy hiểm phía trước. Không nhờ Từ Hải, liệu rằng, Thúy Kiều có được những phút giây chung sống mặn nồng êm đềm như hôm nay? Cuộc sống chốn lầu xanh vốn dĩ đầy thị phi, rập rình hiểm nguy, không ngoa khi nói rằng, Từ Hải đã cứu Kiều thay đổi cuộc đời.
Qua đoạn trích, hình ảnh Từ Hải hiện lên là một người oai phong lẫm liệt. Từ Hải xem vua quan triều đình là “loài giá áo túi cơm”. Từng bước đi của chàng, đi đến đâu, quân đánh thắng đến đấy. Đó không chỉ là sức mạnh thể chất mà còn thể hiện được trí khôn chiến lược hành quân của Từ Hải. Mọi hành động của anh, suy cho cùng đều nói lên khí phách ngang tàn, một dũng sĩ được mọi người nể trọng.
“Hình tượng nhân vật được sinh ra từ tâm trí của nhà văn nhưng chỉ thực sự sống bằng tâm trí của người đọc”, quả vậy, bằng chứng là từ nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng gọi đã rằng”, độc giả tận mắt chứng kiến người anh hùng với lí tượng cao đẹp không thua kém bất kì người anh hùng nào khác trong mỗi thời đại, ở Từ Hải thậm chí có phần nhỉn hơn khi toát lên vẻ đẹp từ ngoại hình đến tính cách đều cao quý, cao thượng. Song hơn tất cả, tính cách của nhân vật là thứ để lại dấu ấn lớn trong lòng độc giả nhất. Bởi lẽ, người anh hùng Từ Hải đã đứng lên bảo ệ những người yếu thế trong xã hội, bảo vệ chính nghĩa, lẽ phải. Với anh, những thứ bất công trong xã hội đều phải loại bỏ, trừ khử. Anh không ngần ngại chê trách những điều xấu xa mà nhiều người dẫu biết nhưng không dám lên tiếng. Một người chính trực, quả cảm, ngang tàn như Từ Hải, xứng đáng là tấm gương cho nhiều thế hệ noi theo. Văn học và cuộc sống không biết từ lúc nào đã hòa quyện lại với nhau, để cùng xây dựng nên con người với những điều tốt lành trong cuộc sống. Và đây, chính là chức năng lớn nhất của văn chương, hướng con người đến “chân – thiện – mĩ”.
Như vậy, qua đoạn trích “Anh hùng tiếng gọi đã rằng” đã thể hiện được hình tượng nhân vật Từ Hải – người anh hùng với lí tưởng cao cả.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Toán 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Toán 11 - Cánh diều
- Giải sbt Toán 11 – Cánh diều
- Giải sgk Tiếng Anh 11 – ilearn Smart World
- Giải sbt Tiếng Anh 11 - ilearn Smart World
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 11 ilearn Smart World đầy đủ nhất
- Giải sgk Vật lí 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Vật lí 11 – Cánh diều
- Giải sbt Vật lí 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 11 – Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Hóa học 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Hóa 11 - Cánh diều
- Giải sbt Hóa học 11 – Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Sinh học 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 11 – Cánh diều
- Giải sbt Sinh học 11 – Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Kinh tế pháp luật 11 – Cánh diều
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 11 – Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Lịch sử 11 - Cánh diều
- Giải sbt Lịch sử 11 – Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Địa lí 11 - Cánh diều
- Giải sbt Địa lí 11 – Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sbt Công nghệ 11 – Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sbt Tin học 11 – Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng an ninh 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 11 – Cánh diều
- Giải sbt Giáo dục quốc phòng 11 – Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 – Cánh diều