TOP 10 mẫu Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (2024) SIÊU HAY

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc lớp 11 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.

1 830 18/07/2024


Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc

Đề bài: Hãy giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 1)

TOP 10 mẫu Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Chào thầy/cô và các bạn. Mình tên là Nguyễn Văn A, hôm nay mình xin được phép giới thiệu một tác phẩm kịch Lời thề thứ 9 của Lưu Quang Vũ.

Trong 10 lời thề của Quân đội nhân dân Việt Nam, lời thề thứ 9 chính là: "Kính trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân", "Không lấy của dân, không quấy nhiễu dân, không dọa nạt dân". Dựa trên lời thề này, Lưu Quang Vũ đã sáng tác ra vở kịch "Lời thề thứ 9". Tác phẩm kể về Đôn và Xuyên - hai anh bộ đội trong một lần làm nhiệm vụ đã gặp một ông chú, nghi là buôn lậu nên tịch thu túi xách của ông chú này. Sau đó, khi trở về, hai người mới biết đó là bố của Hiến - bạn thân hai người. Bố Hiến chính là Chủ tịch Tỉnh đương nhiệm, Cựu chỉ huy trưởng của Trung đoàn. Trong lúc này, ở quê nhà, bố Xuyên bị Chủ tịch Xã ức hiếp, bắt giam trong hầm tối. Mẹ Xuyên đi kêu oan khắp nơi không được. Ba người Đôn, Xuyên, Hiến quyết định dùng số tiền tịch thu được từ bố Hiến để về quê giúp đỡ gia đình Xuyên. Mọi chuyện vỡ lở, trung đoàn quyết định truy nã ba anh lính về chịu kỉ luật. Vở kịch kết thúc khi Trung đoàn trưởng, bố Hiến, mẹ Xuyên và mọi người gọi họ trở về, tất cả mọi người nhận ra lỗi lầm của mình.

Các diễn viên trong đoàn kịch đã thể hiện cực kì tròn vai. Đôn có tính cách tếu táo, hay ca cải lương nhưng trong chiến đấu cực kì anh dũng, dám đánh giáp la cà với địch và lưu lại vết sẹo trên mặt. Xuyên hiền lành, yêu thương gia đình nhưng cũng rất dũng cảm, đã lấy thân mình che chắn để cứu Hiến trong một trận đánh. Hiến là cậu con trai của Chủ tịch Tỉnh, Cựu chỉ huy trưởng của Trung đoàn với tính cách cương trực, thẳng thắn, luôn chiến đấu hết mình. Điểm sáng của vở kịch nằm ở diễn xuất của hai diễn viên NSƯT Đức Khuê trong vai bố Hiến - Chủ tịch Tỉnh và NSƯT Lê Khanh trong vai mẹ Xuyên. NSƯT Đức Khuê rất ra dáng một vị thủ trưởng cũ, hơi cứng nhắc, bảo thủ, hay phê bình mọi người và không nhận ra lỗi sai của mình. Cô Lê Khanh cũng toát lên mình dáng vẻ của một bà mẹ bộ đội lam lũ, kiên cường, giàu lòng yêu thương và nhân hậu. Từ cách hóa trang, dáng đi, điệu bộ cử chỉ, nhất là trong những lời thoại đầy triết lí đều cho người xem thấy rõ điều đó.

Xung đột kịch là sự xung đột giữa bộ đội và người dân, giữa nhân dân và chính quyền. Khi những người lính đang chiến đấu bảo vệ đất nước thì chính gia đình họ lại bị ức hiếp. Đau đớn, mất niềm tin, họ phải thốt lên rằng: "Thế mà bảo nhân dân ta anh hùng, đất nước ta tươi đẹp", "Không, đất nước không đẹp, nhân dân cũng không anh hùng. Nhân dân nhát... Nhân dân thế này, quê hương đất nước thế này, chúng con không tha thiết giữ đâu. Đấy, ai có giỏi thì lên biên giới mà đánh giặc.". Những suy nghĩ đó đã được mẹ Xuyên gỡ rối trong phân cảnh cuối: "Khó mấy rồi cũng xong, rối mấy rồi cũng sẽ gỡ ra, nhưng hễ động một tí chúng mày về thì bỏ nước cho ai?". Ngoài ra, nhân vật này cũng có những câu nói giàu tính hiện thực. Khi bị Chánh văn phòng Tỉnh hỏi "Nếu lên Trung ương không kiện được, bà định lên giời à", người mẹ này đã trả lời "Vâng, nếu như lên được. Nhưng khốn nỗi, không có giời. Xưa thì còn đổ lỗi cho giời được, nhưng nay biết rằng chỉ toàn con người thôi.". Câu nói vang lên vừa đanh thép, vừa thể hiện sự chua chát, đắng cay về hiện thực đáng buồn của xã hội. Từ xung đột ấy, tác giả muốn đặt ra câu hỏi cho mọi người, nhất là cho những người nắm quyền: Vậy ai phải là người chịu trách nhiệm cho câu chuyện này, khi mà quân và dân không còn chung một lòng, chính quyền thờ ơ, vô cảm với nỗi oan của nhân dân?

Rất nhiều vấn đề đã được đặt ra trong "Lời thề thứ 9". Những điều đó đều mang tính thời đại mà đến ngày nay, chúng ta vẫn còn phải suy ngẫm rất nhiều. Chính bởi vì nội dung của vở kịch đã quá đặc sắc nên phần âm nhạc, phối cảnh sân khấu cũng không cần cầu kì. Những chiếc thùng gỗ được phủ vải xanh quân đội cùng hàng cây chằng chịt cho người đọc biết đấy là khung cảnh chiến trường. Hay bàn làm việc của ông Chủ tịch Xã có chiếc điện thoại mới, chiếc đồng hồ xịn to oành nhưng chẳng có mấy công văn giấy tờ đã cho ta biết đây là người như thế nào. Hay như khi mới gặp mẹ Xuyên, Chủ tịch Tỉnh vẫn ung dung ngồi trên ghế, chỉ đến khi nghe lời bà bộc bạch, ông mới đứng dậy, thể hiện thái độ tôn trọng.

Tuy đã có tuổi đời đến 35 năm nhưng những vấn đề mà vở kịch nói đến vẫn còn giữ nguyên giá trị. Tính thời đại tác phẩm mang lại cũng chính là minh chứng cho tài năng nghệ thuật độc đáo của Lưu Quang Vũ.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 2)

Lưu Quang Vũ là một trong các nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Một trong những vở kịch tiêu biểu nhất trong con đường sự nghiệp của ông là “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong lòng độc giả đồng thời gửi gắm rất nhiều bài học, tư tưởng nhân văn ý nghĩa và sâu sắc. Sau đây em sẽ giới thiệu về tác phẩm kịch này.

Trương Ba có tài đánh cờ rất giỏi nhưng bị chết oan do trong lúc làm việc không chú ý, Nam Tào đã nhầm lẫn và gây ra sự việc ngoài ý muốn làm cho Trương Ba phải chết. Vì muốn sửa sai, chuộc lại lỗi lầm nên Nam Tào và Đế Thích đã bàn nhau cho hồn Trương Ba sống lại và nhập vào thân xác của anh hàng thịt mới chết không lâu. Tưởng chừng như mọi việc đã êm xuôi, nhưng không. Trong thời gian trú nhờ xác anh hàng thịt, Trương Ba đã không ít lần gặp phải nhiều việc phiền toái như lí trưởng sách nhiễu, vợ anh hàng thịt đòi chồng, hay ngay đến cả gia đình– những người thương yêu và quý trọng nhất giờ đây cũng làm cho ông cảm thấy thật xa lạ... Bản thân Trương Ba cũng dằn vặt và đau khổ rất nhiều vì phải sống trái với quy luật tự nhiên. Đặc biệt là khi mà xác anh hàng thịt đã gây ảnh hưởng, làm cho hồn Trương Ba nhiễm một vài thói quen xấu. Đoạn trích trong sách giáo khoa kể về cuộc đối thoại giữa Trương Ba cùng với các nhân vật.

Đầu tiên là cuộc đối thoại gay gắt, nảy lửa giữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt. Bản thân Trương Ba, ông cho rằng từ trước tới giờ, kể cả khi đã chết thì bản thân mình vẫn có một đời sống trong sạch, nguyên vẹn, thẳng thắn. Ông coi thường và cho rằng xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài với sự âm u, đui mù, “không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc” nếu có thì cũng chỉ là “những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: Thèm ăn ngon, thèm rượu thuốc”. Nhưng xác hàng thịt thì lại khác, cái xác cho rằng Hồn Trương Ba sẽ không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, đồng nghĩa với mọi việc làm, mọi hành động của Hồn Trương Ba sẽ đều chịu sự chi phối của cái xác anh hàng thịt. Đây chính là một cuộc đấu tranh khốc liệt giữa phần con và phần người cũng giống như giữa khát vọng và dục vọng, giữa đạo đức và tội lỗi. Qua cuộc đối thoại này, nhà văn đã gửi gắm tới độc giả thông điệp: Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người chúng ta được sống một cách tự nhiên với sự hài hòa giữa phần xác và phần hồn.

Tiếp đến, Hồn Trương Ba đã có cuộc trò chuyện và giãi bày những tâm sự cùng với người thân trong gia đình. Trước tình cảnh éo le mà Trương Ba gặp phải, mỗi một thành viên lại có một thái độ khác nhau. Trước sự thay đổi đột ngột của chồng mình, vợ Trương Ba đau đớn mà thốt lên : “Ông đâu còn là ông”, bà cho rằng ông một mực muốn rời khỏi gia đình này để đi cày thuê làm mướn để được tự do với vợ anh hàng thịt. Còn cái Gái, đứa cháu thương ông nhất nhưng giờ đây nó cũng chẳng chịu nhận ông, và cho rằng ông nội của mình đã chết thay vào đó là một người vô cùng thô lỗ, vụng về “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!... chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”. Duy nhất trong nhà chỉ có chị con dâu là cảm thông, chia sẻ và yêu thương với người ba chồng đáng thương này Trương Ba, nhưng dù vậy chị ấy vẫn không nhận ra ông Trương Ba của ngày. Ở một vị trí khác nhau, một thái độ, cảm nhận khác nhau nhưng họ đều có một điểm chung là thấy sự thay đổi rõ rệt của Trương Ba, ông đã chẳng còn nguyên vẹn, trong sạch hay thẳng thắn. Để rồi, từ đó Trương Ba mới vỡ lẽ, mới nhận ra sự thay đổi của bản thân đồng thời cũng là sự lấn át của phần xác đối đối với phần hồn trong ông. Vậy nên ông đã đưa ra quyết định, Trương Ba sẽ trả lại xác cho anh hàng thịt.

Chính cái quyết định đó đã dẫn đến cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích. Trương Ba đã chỉ rõ ràng cái sai mà Đế Thích đã gây ra: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”. Trương Ba bày tỏ mong ước của mình: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” và “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”. Nhưng Đế Thích lại chẳng cho là vậy mà đáp: “Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi dây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!”

Và mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn khi nghe tin cu Tị chết, Đế Thích đã đề nghị cho hồn Trương Ba được nhập vào cu Tị, nhưng trải qua bao sự việc, Trương Ba đã thẳng thừng từ chối. Ông đã nhận ra sẽ có một loạt những rắc rối tồi tệ đằng sau việc này: phải giải thích cho chị Lụa và những người thân trong gia đình mình biết đầu đuôi câu chuyện và đặc biệt là cái Gái – dù là cháu gái của mình nhưng với nó, cu Tị là người bạn thân nhất. Hoặc có khi sẽ phải sang nhà chị Lụa ở, tạo ra cơ hội để bọn lý trưởng sách nhiễu, thu lợi về mình… Cuối cùng, Trương Ba đã từ chối ý tốt ấy và yêu cầu Đế Thích để cho cu Tị được sống lại còn bản thân mình sẽ chết cùng phần xác. Đây quả thật là một cái kết rất hợp lí và có hậu, nếu ta xét theo ý nghĩa đó thì đó chính kết quả của cuộc đấu tranh giữa khát khao được sống, nhưng lại không chấp nhận một cuộc sống giả tạo, không được là chính mình.

Qua vở kịch “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm tới độc giả thông điệp: Được sống được là người là một điều thật quý giá nhưng chỉ khi ta được là chính mình, sống một cách trọn vẹn với theo đuổi và phát huy những giá trị tốt đẹp của bản thân còn là một điều quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi mà con người được sống đúng với quy luật của tự nhiên với sự hài hòa, đồng điệu giữa thể xác và tâm hồn.

Bài trình bày đến đây là kết thúc, cảm ơn mọi người đã lắng nghe. Em rất mong nhận được sự đóng góp để bài trình bày được tốt hơn.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 3)

Các bạn thân mến! Nguyễn Huy Tưởng, một cây bút sáng tác văn học thiên về những đề tài lịch sử, thể hiện nguồn kiến thức rộng lớn về con người và xã hội. Kịch “Vũ Như Tô” là một trong những hòn ngọc sáng chói trong sự nghiệp văn chương của ông. Trong đó, đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” được trích từ hồi thứ V của tác phẩm. Với cách xây dựng tầng lớp mâu thuẫn hợp lý, tác giả đã liên kết câu chuyện không chỉ khéo léo mà còn đẩy mạch truyện lên đỉnh cao, tạo tình huống hấp dẫn đến người đọc.

Có ý kiến cho rằng, “Vũ Như Tô” không chỉ là một vở kịch đơn thuần mà là kịch lịch sử, lấy cốt lõi từ một sự kiện có thật, viết về sự kiện trong khoảng thời gian năm 1516 – 1517 dưới triều vua Lê Tương Dực, vị vua thứ chín của thời Hậu Lê. Tác phẩm được hoàn thiện vào mùa hè năm 1941. Lấy bối cảnh một sự kiện diễn ra tại thành Thăng Long, khi mâu thuẫn giữa nhân dân và triều đình vô cùng căng thẳng thì Vũ Như Tô – một kiến trúc sư đại tài lại xây dựng Đài Cửu Trùng, công trình rất đồ sộ và tốn kém.

Đứng trước áp lực dư luận và sự nổi loạn đòi đốt Đài của nhân dân, Vũ Như Tô bất lực và đau đớn nhìn đứa con tinh thần của mình bị thiêu rụi. Mâu thuẫn trong vở kịch được xây dựng giữa phe nổi loạn với phe vua Lê Tương Dực, giữa phe Trịnh Duy Sản với Kim Phượng và các cung nữ, nổi bật nhất là những mâu thuẫn nội tâm của Vũ Như Tô.

Chính sự triều đình lúc bấy giờ rơi vào cảnh nhiễu nhương, các phe nổi loạn thi nhau giành giật ngôi vị. Phe nổi loạn gồm hầu hết những tầng lớp trong xã hội, từ dân chúng đến thợ xây dựng Cửu Trùng Đài. Nhân dân lao động mâu thuẫn với tên vua bạo chúa Lê Tương Dực suốt ngày chỉ ăn chơi sa đọa. Đây là mâu thuẫn giai cấp cơ bản của chế độ phong kiến đương thời. Mâu thuẫn này đã tồn tại từ trước đó, cho đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì mâu thuẫn càng trở nên căng thẳng.

Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình đã tăng sưu thuế, bắt thợ giỏi, hành hạ những người chống đối. Chính sách của vua khiến dân cùng nước kiệt, nhân dân thợ thuyền từ đó sinh ra căm ghét cả Vũ Như Tô vì ông chính là kiến trúc sư xây dựng Cửu Trùng Đài. Các nhân vật nổi loạn này chỉ xuất hiện qua lời kể của nhân vật Đan Thiềm, nhưng chính mâu thuẫn này đã gây ra hậu hỏa kinh hoàng cho triều đình.

Mâu thuẫn trong kịch Vũ Như Tô còn bắt nguồn từ phe nội phản trong triều đình. Phe cánh đứng đầu là Trịnh Duy Sản, sau Trịnh Duy Sản là Ngô Hạch, An Hòa Hầu nhân dịp thợ thuyền dân chúng chống đối. Trịnh Duy Sản cầm đầu phe đối nghịch dấy binh nổi loạn, lôi kéo người làm phản, giết Vũ Như Tô, Lê Tương Dực, Đan Thiềm, tiêu diệt Cửu Trùng Đài. Mâu thuẫn này đã đẩy đoạn trích lên đến cao trào.

Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch giết chết Lê Tương Dực, giải quyết mâu thuẫn đồng thời làm mâu thuẫn tăng lên. Ngoài ra, còn có mâu thuẫn giữa phe Trịnh Duy Sản với Kim Phượng và các cung nữ trong triều đình. Đối với Trịnh Duy Sản, Kim Phượng và các cung nữ là con rối của vua Lê Tương Dực. Kim Phượng và các cung nữ vì thế mà tìm cách đổ lỗi, căm ghét Đan Thiềm, Vũ Như Tô để mong được phe nổi loạn bỏ qua.

Nổi bật nhất trong tác phẩm là mâu thuẫn giữa Vũ Như Tô và nhân dân lao động, đồng thời là mâu thuẫn trong chính suy nghĩ của nhân vật Vũ Như Tô. Một bên là nhân dân với tầm nhìn thực tế, lợi ích nhất thời, thiết thực, một bên là người nghệ sĩ, người yêu cái đẹp Vũ Như Tô với quan điểm nghệ thuật siêu thuần túy, nghệ thuật vị nghệ thuật.

Người nghệ sĩ thiên tài với nhiều hoài bão, tâm huyết nhưng không thể thi thố tài năng của mình để đem lại cái đẹp cho đời, mang tới niềm tự hào cho dân tộc khi cả xã hội, cả chế độ đã quá thối nát, mục ruỗng. Nhân dân phải sống cơ cực, lầm than trong khi nhà vua lại sa đọa, rượu chè bê tha. Hoàn cảnh đất nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện khát vọng sáng tạo của mình.

Nghe theo lời khuyên của cô cung nữ Đan Thiềm, một người cũng “mắc bệnh” yêu cái đẹp giống ông để mượn uy quyền, tiền bạc của Lê Tương Dực nhằm xây Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô không ý thức được hậu quả khôn lường xuất phát từ phía đại chúng. Trớ trêu thay, chính niềm khát khao cống hiến tài năng của mình để đem lại vinh quang cho đất nước đã đẩy ông vào trạng thái đối nghịch với lợi ích trực tiếp, thiết thực của người dân. Cho nên, mặc dù vốn gần gũi, yêu thương và quý trọng nhân dân nhưng Vũ Như Tô lại bị dân coi như kẻ thù.

Sự đối lập trong tâm trạng của Vũ Như Tô bắt nguồn từ chính những người dân và thợ thuyền. Họ phải sống một cuộc đời đói khổ, bị bóc lột, hành hạ và áp bức nên sự oán giận nhà vua cũng như kẻ xây dựng công trình kia là điều dễ hiểu. Với họ, Vũ Như Tô và Đan Thiềm chính là nguồn cơn của sự đau khổ khi đòi xây dựng Cửu Trùng Đài.

Trong khi đó, kiến trúc sư lại chỉ say sưa với tác phẩm nghệ thuật của mình, mong để lại cho đời sau một di tích lịch sử văn hóa mà quên mất thực tế nhân dân. Đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Cửu trùng Đài bị thiêu rụi, Vũ Như Tô vẫn không khỏi bàng hoàng, vẫn nghĩ mình vô tội, thậm chí còn muốn thuyết phục An Hòa Hầu, một lòng sống chết bảo vệ công trình dang dở. Một người nghệ sĩ nhân cách cao cả, lý tưởng đẹp đẽ, tôn sùng nghệ thuật chân chính và muốn để lại cho nhân dân, cho hậu duệ bức tượng đài kiến trúc.

Một nhân vật bi kịch khi thoát li khỏi thực tế, đưa cái nghệ thuật lên quá mức cho phép mà không nhìn lại cuộc sống đói khổ của nhân dân. Đến phút cuối, khi quần chúng nổi dậy đòi giết mình, đốt đài, người nghệ sĩ vẫn không nghĩ việc xây dựng Cửu Trùng Đài là gây tội ác, vẫn khăng khăng tin mình quang minh chính đại. Vũ Như Tô là một nghệ sĩ đại tài, họa chăng chỉ là không sinh ra đúng thời đại mà thôi.

Kịch nghệ thú vị ở chính những mâu thuẫn đối lập mà nó mang lại, ở đây, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng nghệ thuật trọn vẹn và đặc sắc. Ngôn từ điêu luyện, khắc họa tính cách và diễn biến tâm trạng nhân vật để đẩy cao những mâu thuẫn giữa các tuyến nhân vật, dẫn dắt vở kịch đến nút thắt và nút mở hợp lý. Mâu thuẫn được giải quyết tuy không triệt để nhưng lại là lối thoát duy nhất cho tầng lớp mâu thuẫn chồng chất.

Đọc kịch của Nguyễn Huy Tưởng, ta không hoàn toàn có khái niệm chiêm nghiệm văn chương mà còn là phân tích lịch sử, đặt tình huống và thực tế đương thời để thấu hiểu và tri âm với tác giả.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 4)

Chào mọi người, em tên là… học sinh lớp… Hôm nay em sẽ giới thiệu trích đoạn chèo Thị Mầu lên chùa là một trích đoạn đặc sắc của nghệ thuật chèo nói riêng và của nghệ thuật kịch hát Việt Nam nói chung. Sự đặc sắc của Thị Mầu lên chùa là sự đặc sắc đến từ đề tài, nội dung đến hình thức nghệ thuật thể hiện.

Cái hay trong đề tài của trích đoạn Thị Mầu lên chùa nằm ở chỗ, Thị Mầu đã say đắm và tìm cách hãm hại tiểu Kính Tâm. Nghĩa là, giữa lề cấm, lễ giáo phong kiến đè nặng lên người con gái, vẫn có một Thị Mầu dám khát khao và bộc lộ tình cảm của mình ra bên ngoài. Thị Mầu đã là một sự đặc sắc, sự khác biệt với Thị Kính. Cái độc đáo khác ở đây là, Thị Mầu đã đi yêu tiểu Kính Tâm! Thật ngược đời, éo le. Nhưng dẫu trớ trêu như thế nào thì trích đoạn này cũng tràn đầy sự vui tươi, đặc sắc so với các trích đoạn khác trong vở chèo Quan âm Thị Kính. Quan điểm của tác giả dân gian, như cách để cởi trói những người đàn bà trong xã hội cũ, khỏi các ràng buộc của vòng nô lệ, đã được thể hiện thông qua nhân vật Thị Mầu.

Nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật của trích đoạn chèo được thể hiện rõ ràng nhất chính là ở sự thể hiện. Nói một cách khác là nghệ thuật sân khấu. Nếu chỉ soi xét về cốt truyện của Thị Mầu lên chùa, ta sẽ thấy được những điều đáng tiếc. So với nghệ thuật Tuồng, ngôn ngữ trong Chèo dễ hiểu hơn, gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Đó là những câu thơ, điệu hò mà có thể lồng ghép, chèn vào được thơ cổ, mang nặng tâm tình người Việt.

Cái hay là của chèo cũng khác biệt với kịch nói ở chỗ đó là có thêm nhạc đệm. Tiếng gọi này là sự đồng cảm của khán giả, là một sự cộng hưởng, thuộc tác giả. Giới hạn của nghệ sĩ và khán giả ở Việt Nam bị bó hẹp. Trong khi đó, ở kịch nói mà chủ yếu là tác động từ phương Tây, khán giả không được quyền lên tiếng, đồng sáng tác với vở kịch ấy. Điều này cũng đã được thể hiện trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa.

Có thể thấy, những nét độc đáo trong nghệ thuật chèo đã được thể hiện khá rõ ràng qua trích đoạn Thị Mầu lên chùa. Những sự độc đáo ấy đến từ đề tài trữ tình có phần trái ngược (một cô gái đang tán tỉnh chú tiểu), và từ sự thể hiện của loại hình chèo. Kịch nói là sự ảnh hưởng, du nhập của phương Tây trong quá trình hiện đại hoá văn học, nghệ thuật ở Việt Nam. Thế nhưng, kịch hát cũng có sức hút riêng biệt, không chỉ bởi đó là nét riêng, mà còn bởi giá trị nghệ thuật của nó.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 5)

Những vở kịch của Sếch-xpia luôn là nguồn tài nguyên giá trị để các thế hệ sau khai thác, khám phá. Không chỉ lột tả được bức tranh chân thực của thời đại, ông còn đem đến cho nhân loại vô vàn thông điệp, giá trị nhân sinh sâu sắc. Điều đó cũng được thể hiện rất rõ qua văn bản "Sống hay không sống - đó là vấn đề", trích trong vở bi - hài kịch "Bi kịch của Hăm-lét, hoàng tử Đan Mạch".

Về nội dung, tác phẩm mang đến rất nhiều thông điệp giá trị, ý nghĩa đối với nhân loại. Theo các nhà nghiên cứu nhận xét, "Sống hay không sống - đó là vấn đề" đã phản ánh được tinh thần của thời đại. Trong xã hội nơi sự mưu mô, xấu xa bao trùm, vẫn có những con người luôn hướng tới cái lương thiện, tốt đẹp. Ở đó, ta thấy cuộc đấu tranh không hồi kết giữa cái thiện và cái ác, giữa lí tưởng sống cao cả của con người với thực tại đổ vỡ, tối tăm. Qua đây, tác giả muốn hướng con người tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Đồng thời, đưa ra được câu hỏi mang bản chất triết học của loài người: "Sống hay không sống?". Đây là vấn đề đề cập đến mục đích sống của từng cá nhân. Để trả lời câu hỏi ấy, con người cần ý thức được thực tại vô định, bất công. Từ đó suy xét và hình thành suy nghĩ: "Hành động hay không hành động?". Tất cả đều nhằm hướng tới một cuộc sống tốt đẹp, công bằng và hạnh phúc cho nhân loại.

Về nghệ thuật, đầu tiên phải kể tới nghệ thuật xây dựng nhân vật vô cùng tài hoa của Sếch-xpia. Đó là Hăm-lét- người suy nghĩ bằng cả trái tim và trí óc, dám lên tiếng hoài nghi cả xã hội; là tên vua Clô-đi-út nham hiểm, được ngụy tạo bằng những lời nói đường mật; tên Pô-lô-ni-út giả dối, độc đoán hay nàng Ô-phê-li-a thủy chung nhưng sợ lễ giáo, cường quyền;... Tất cả đã tạo nên một hệ thống các nhân vật điển hình với những màu sắc rõ ràng, riêng biệt. Ngôn ngữ kịch cũng được Sếch-xpia sử dụng vô cùng điêu luyện. Nhìn vào những cuộc đối thoại trong văn bản, ta thấy rất rõ sự biến chuyển linh hoạt: từ đau đớn, tự vấn đến giễu cợt, gay gắt, mỉa mai. Bên cạnh đó, ngôn ngữ độc thoại đặc sắc đã góp phần quan trọng thể hiện tư tưởng, góc nhìn của nhân vật cũng như của tác giả. Không chỉ vậy, những xung đột trong kịch cũng được gắn liền với xung đột nội tâm nhân vật Hăm-lét. Từ niềm tin mãnh liệt vào con người, Hăm-lét dần chuyển sang hoang mang, lo sợ trước thực tại đổ vỡ. Từ đó, có thái độ hoài nghi, chán nản với nhân sinh. Sau cùng, trải qua bao sóng gió, chàng đã nhận thức lại thế giới và nảy sinh nghị lực phản kháng.

Như vậy, có thể nói tác phẩm "Sống hay không sống - đó là vấn đề" đã thể hiện vô cùng rõ nét tài năng cũng như tầm nhìn mang tính vĩ mô của đại văn hào Sếch-xpia. Qua đó, để lại cho nhân loại một kiệt tác mà đến tận bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 6)

Nhắc tới nền văn học Phục hưng, người ta thường nhớ ngay tới tên tuổi của William Shakespeare, người được mệnh danh là linh hồn của thời đại. Dường như không một tác phẩm nào của ông không đề cập đến tình yêu, những tình yêu muôn hình vạn trạng như chính cuộc sống. Trong đó, Romeo và Juliet là vở bi kịch thành công nhất của Shakespeare. Qua vở kịch, tác giả đã làm nổi bật được sức mạnh của tình yêu, đồng thời, tác phẩm cũng đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật kịch.

Kịch bản văn học là một tác phẩm văn học, mang đầy đủ đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ. Đặc trưng của kịch thường là các yếu tố: xung đột và cách giải quyết xung đột, hành động kịch, ngôn ngữ kịch,… Dựa theo nội dung, ý nghĩa có thể phân loại kịch thành ba loại: hài kịch, bi kịch, chính kịch. Romeo và Juliet là vở bi kịch tình huống, ở đó, nhân vật do hoàn cảnh éo le, ngang trái mà dẫn đến những nỗi đau và cái chết. Nói đến bi kịch là nói đến sự thắt nút và mở nút của xung đột kịch - mà kết thúc bao giờ cũng là sự tiêu vong của nhân vật chính.

Chủ đề của vở kịch là tình yêu, đó là bản tình ca bất tử ca ngợi sức mạnh của tình yêu đã chiến thắng oán thù và những thế lực đen tối trong xã hội. Nội dung vở kịch xoay quanh mối tình của đôi trai gái thành Veron. Tình yêu của Romeo và Juliet là một tình yêu trong sáng, thơ mộng và mãnh liệt, thủy chung. Tình yêu đó rất mực giản dị, đời thường nhưng cũng rất cao thượng, đối lập với những dục vọng thấp kém. Romeo đã bất chấp mối thù truyền kiếp, vượt bức tường thành lễ giáo phong kiến. Juliet cũng không để cho những hận thù vô nghĩa ngăn cản, đã mạnh mẽ, dám bộc lộ tình yêu của mình, thứ tình yêu mãnh liệt mà duyên dáng, táo bạo mà thơ ngây. Vượt lên mọi ràng buộc, mọi quy định của gia đình quý tộc, nàng dám nói lên một cách thành thực tình yêu say đắm của mình: “Chàng Môngtaghiu tuấn tú ơi, em yêu chàng say đắm,... ngờ em là kẻ trăng hoa”. Lời nói của Juliet cũng là lời tuyên ngôn của những người trẻ tuổi. Romeo và Juliet đã biết cách trân trọng từng khoảnh khắc ngắn ngủi mà quý giá khi gặp nhau và cũng sẵn sàng hi sinh để bảo vệ lời thề chung thủy. Đồng thời, Romeo và Juliet đã cho thấy cuộc đấu tranh quyết liệt cho hạnh phúc và tình yêu chống lại những thành kiến và uy quyền của lễ giáo phong kiến. Tác phẩm khép lại bằng cái chết của cả hai nhân vật, song lại mở ra chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn, điều đó được minh chứng bởi cái bắt tay của hai dòng họ Môngtaghiu và Capiulet để đời đời ghi nhớ câu chuyện tình yêu bất tử ấy. Thắng lợi của vở kịch là thắng lợi của chủ nghĩa nhân văn đối với tính vô nhân đạo của nền phong kiến trung cổ. Cái chết đã cảm hóa lòng người, biến đổi được mối quan hệ giữa hai dòng họ, vậy nên nhà nghiên cứu Mecanxki vẫn gọi đây là “vở bi kịch lạc quan”.

Bút pháp lãng mạn và chất liệu hiện thực đã tạo ra một vẻ đẹp kì diệu trong tình cảm của Romeo và Juliet. Cuộc gặp gỡ của họ chan chứa sức mạnh của thơ trữ tình, xen lẫn những đoạn “bi” đầy khổ đau, lâm li. Shakespeare đã khiến vở kịch trở nên chân thực, giống với cuộc đời hơn cả khi kết hợp tính đa dạng và biến hóa của hành động kịch, xen lẫn cái bi với cái hài, cái cao cả với cái thấp hèn, giữa vui - buồn, hạnh phúc - đau khổ,... Ông cũng rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, những tính cách vô cùng sinh động và chân thực. Ngoài ngoại hình lý tưởng, tác giả cũng chú trọng mô tả nội tâm nhân vật sao cho phù hợp với chuỗi hành động. Ngôn ngữ kịch đặc sắc, vốn từ đồ sộ nhưng rất đỗi giản dị, thân thuộc - đó là những từ nhân dân hiểu, là ngôn ngữ của quần chúng nhưng không vì vậy mà tầm thường.

Bằng thiên tài nghệ thuật của mình, Shakerpeare đã tỏa sáng và ghi dấu ấn sâu đậm, chiếm lĩnh ngôi chủ soái kịch trường. Chủ đề tình yêu với cách khai thác riêng biệt, nghệ thuật kịch đặc sắc đã làm nên chất trữ tình thi vị, chất men say ngây ngất có sức cuốn hút kì diệu của Romeo và Juliet. Khi đọc kiệt tác này, độc giả nhớ tới biết bao mối tình ngang trái không đi tới được cái kết viên mãn song đều đẹp đẽ, thiêng liêng:

“Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan,...”

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 7)

Chào mọi người, em tên là… học sinh lớp… Trong làng kịch hiện đại Việt Nam, bên cạnh Lưu Quang Vũ tài năng, vực dậy cả một nền văn học kịch đang trên đà tụt dốc, ta cũng không thể không nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng một trong những nhà viết kịch và tiểu thuyết xuất sắc. Các tác phẩm của ông thường đi khai thác các đề tài lịch sử và tác phẩm Vũ Như Tô là tác phẩm nổi bật nhất. Xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào và được giải quyết ở hồi thứ 5 “Vĩnh biệt cửu trùng đài” qua đó thể hiện quan niệm sâu sắc của ông về cuộc đời và nghệ thuật.

Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết. Nhưng Đam Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu, lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi dụng tình thế đó Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là sự tiếp nối các sự kiện đang bị đẩy lên đến cao trào đó.

Mở đầu tác phẩm là tiếng hoảng hốt của Đam Thiền, khuyên Vũ Như Tô hãy mau trốn đi. Cơn biến loạn xảy ra ở kinh thành nên tình trạng của Vũ Như Tô hết sức nguy hiểm, nhưng Vũ Như Tô lại nhất định không trốn, không nghe lời khuyên của Đam Thiền bởi “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả ở đây, thì tôi chạy đi đâu?”. Ông hi sinh hết mình cho nghệ thuật, ông cố thủ ở lại cũng mong Cửu Trùng Đài sẽ được hoàn thiện, để tranh tinh xảo với hóa công. Nhưng ông nào biết, chính quyết định đó đã khiến ông nhận lấy cái chết oan nghiệt, đến cả lúc chết ông vẫn không thể lí giải vì sao mình phải chết.

Khi nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài bản thân Vũ Như Tô đã mắc phải sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện giấc mộng Cửu Trùng Đài. Nhưng tiền bạc đó chính là công sức, của cải của nhân dân, ông chỉ nhìn thấy cái bề nổi khi xây dựng xong Cửu Trùng Đài, mà không nhận ra phần sâu của sự việc. Cửu Trùng Đài càng đến ngày hoàn thiện thì mâu thuẫn giữa ông với nhân dân càng lớn dần, họ căm ghét Vũ Như Tô bởi ông đã hạ lệnh giết chết những người bỏ trốn để duy trì kỉ luật trên công trường. Đó là hành động hết sức tàn nhẫn, đặt công trình lên trên tính mạng của thợ thuyền. Vũ Như Tô đã biến thành một kẻ đáng sợ, người dân không còn thấy hình ảnh của Vũ Như Tô gần gũi với nhân dân đâu nữa. Vì xây Cửu Trùng Đài mà cuộc sống của nhân dân ngày càng cực khổ. Vũ Như Tô là một thiên tài nhưng không phải là một hiền tài. Ông không thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân.

Vũ Như Tô bị đặt vào mâu thuẫn không thể hóa giải, điều hòa: một bên là khát vọng nghệ thuật, một bên là đời sống của nhân dân. Bởi vậy, cuối cùng ông đã nhận lấy cái kết vô cùng bi thảm. Vũ Như Tô bị hiểu lầm và bị kết tội: Nhân dân coi bạo chúa và Vũ Như Tô là một là hai người gây ra tội ác: “Bạo chúa đã chết, còn thằng Vũ Như Tô đem phanh thây thành trăm mảnh”. Ông không chỉ bị nhân dân kết tội mà giấc mộng cuộc đời ông, ông đã dồn biết bao tài năng và tâm sức xây dựng Cửu Trùng Đài giờ cũng rơi vào tuyệt vọng, Cửu Trùng Đài bị phá hủy. Trước cảnh tượng Cửu Trùng Đài rực cháy, Vũ Như Tô rú lên kinh hoàng, tất cả giấc mộng đẹp tan tành, sụp đổ, đó là tiếng rú kinh hoàng, sợ hãi. “Thông thế là hết, dẫn ta đến pháp trường” – Vũ Như Tô người sáng tạo cái đẹp cũng bị giết. Cái chết của Vũ Như Tô là một kết cục tất yếu vì Cửu Trùng Đài là một công trình đẹp, tuyệt mĩ nhưng nó lại là biểu hiện của cái xấu, cái ác, nên tất yếu nó sẽ bị hủy diệt. Qua đó Nguyễn Huy Tưởng cũng nêu lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và phục vụ con người mới có thể tồn tại nếu không nó tất yếu sẽ bị diệt vọng.

Ngoài nhân vật Vũ Như Tô, ta cũng không thể không nhắc đến Đam Thiền. Bà là một cung nữ xinh đẹp, tài năng nhưng bị bỏ rơi. Đam Thiền là người yêu cái đẹp, cái thái độ “biệt nhỡn liên tài”, chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô nên ở lại để xây dựng Cửu Trùng Đài điểm tô cho đất nước, cũng chính bà đã khuyên Như Tô trốn đi khi xảy ra biến loạn. Và bà tình nguyện ở lại để bảo vệ Cửu Trùng Đài bởi “tôi chết đi không thiệt hại cho đời”. Cũng như Vũ Như Tô, Đan Thiềm cũng rơi vào bi kịch vỡ mộng: hi sinh tất cả danh dự tính mạng để bảo vệ Cửu Trùng Đài nhưng cuối cùng vẫn phải chết. Đau đớn hơn trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan tành. Người bà hết lòng bảo vệ là Vũ Như Tô cũng bị đưa ra pháp trường.

Hồi năm của vở kịch Vũ Như Tô đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ngôn ngữ kịch điêu luyện, mang tính tổng hợp cao. Nhịp điệu lời thoại nhanh, gấp gáp, sử dụng những câu văn ngắn cho thấy tình thế cấp bách. Tính cách, tâm trạng nhân vật được bộc lộ rõ nét.

Với các lớp kịch linh hoạt, tự nhiên tác giả đã tái hiện thành công hồi kịch thứ năm. Qua hồi kịch này ông gửi gắm sự cảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô, đồng thời đặt ra vấn đề mối quan hệ hài hòa giữa nghệ thuật và con người. Không chỉ vậy xã hội cần trân trọng, nâng niu những tài năng nghệ thuật, để họ có thể phát huy tài năng của bản thân, xây dựng sự giàu đẹp cho đất nước.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 8)

Trong đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, chúng ta chứng kiến sự phô diễn của tài năng vĩ đại của William Shakespeare, một nhà viết kịch có tầm nhìn nhân đạo sâu sắc, khát khao giải phóng con người khỏi những giới hạn xã hội. Tác phẩm của ông không chỉ là những bức tranh chân thực về xã hội thời đó, mà còn tạo ra những câu chuyện thấm đượm thông điệp phản ánh những quan niệm cổ hủ, chế độ phong kiến và những ràng buộc vô lý đối với con người. Tầm nhìn tiến bộ của ông đã tạo nên những tác phẩm thể hiện tình cảm rung động, lòng tốt, yêu thương và sự đồng cảm với nhân loại trong hoàn cảnh khó khăn.

“Rô-mê-ô và Giu-li-ét” là một trong những tác phẩm kịch nổi tiếng và đáng nhớ của Shakespeare. Dựa trên câu chuyện về một mối nợ máu truyền kiếp giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét ở thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung cổ, Shakespeare đã xây dựng nên một bi kịch tình yêu. Vào năm 1595, ông cho ra mắt tác phẩm này, đánh dấu sự xuất hiện của một câu chuyện về tình yêu đầy xung đột giữa lòng yêu thương mãnh liệt và hoàn cảnh thù địch. Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, tuy áp đặt của xã hội và mối thù truyền kiếp đã cản trở. Mối tình của họ chứng minh sức mạnh của lòng yêu và sự khả năng vượt qua mọi rào cản của con người. Tác phẩm này cũng là một bài học châm biếm về xã hội phong kiến và những giới hạn của chúng, là một tuyên ngôn về tình yêu và nhân văn.

Thông qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận” với những cuộc đối thoại giữa Romeo và Juliet, người đọc có cơ hội chứng kiến tình yêu mãnh liệt của hai người trẻ, tình yêu vượt qua số phận và mối thù truyền kiếp. Họ gặp nhau tình cờ trong một buổi vũ hội và từ đó, tình cảm mạnh mẽ của họ đã được thể hiện. Romeo vượt qua khó khăn và nguy hiểm để đến gặp Juliet, thể hiện động cơ mạnh mẽ đẩy anh vượt qua mọi trở ngại. Mười sáu câu thoại trong đoạn “Tình yêu và thù hận” không chỉ là lời đàm thoại, mà còn là những tấm thư tình tuyệt đẹp, lãng mạn. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng những lời này được viết ra dưới cảm xúc đau khổ, thất vọng và thậm chí cả tính mạng của cả hai nhân vật.

Đoạn trích “Tình yêu và thù hận” diễn ra trong bầu không gian của một đêm khuya, khi trăng sáng rọi lên bầu trời, tạo nên bối cảnh lãng mạn cho tình yêu mãnh liệt của đôi tình nhân. Mặc dù khung cảnh đêm tối có sự thận trọng và kín đáo, nhưng tình cảm giữa Romeo và Juliet lại không thể công khai vì mối tình của họ bị cản trở. Romeo nhìn thấy Juliet đứng ẩn sau lùm cây, lặng ngắm cô trên ban công, nơi cô trở nên đẹp như một bức tranh thơ mộng. Trong bầu không gian đó, ánh trăng tỏa sáng tôn lên vẻ đẹp mĩ miều và thuần khiết của Juliet. Khi nghe những lời độc thoại của Juliet, Romeo mới dám lên tiếng. Anh hiểu rõ tấm lòng chân thành mà Juliet dành cho mình và sẵn sàng từ bỏ danh phận và tài sản để theo đuổi tình yêu.

Tâm trạng của Romeo khá đơn giản và trực tiếp. Anh ta đang trải qua một tình yêu mạnh mẽ và không do dự. Khi nghe những lời tâm sự của Juliet, Romeo chứng tỏ sự băn khoăn trong lời thoại thứ năm: “Nên mình tiếp tục nghe, hay nên nói gì đó?”. Romeo không ngần ngại thể hiện tình cảm của mình và tỏ ra rất dũng cảm.

Trong khi đó, tâm trạng của Juliet phức tạp hơn. Cô mang trong mình những nỗi niềm riêng biệt. Cô không còn kiềm chế được cảm xúc và thổ lộ tình yêu mãnh liệt một cách ngượng ngùng: “Rô-mê-ô chàng ơi, chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi… đổi lấy cả em đây!”. Khi nhận ra rằng có người đang lắng nghe tâm sự của mình, Juliet ban đầu tưởng người đó là người xa lạ. Nhưng sau đó, cô nhận ra rằng đó chính là Romeo và đặt câu hỏi: “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là họ nhà Môn-ta-ghiu đấy ư?”. Juliet thể hiện sự ám ảnh bởi mối thù hận của dòng họ, nhưng cũng không ngừng thể hiện tình yêu của mình. Mặc dù cô tạm gác lại những ràng buộc gia đình, nhưng ám ảnh này vẫn còn đọng trong tâm hồn cô.

Như vậy, qua những đoạn đối thoại, chúng ta thấy rõ sự phát triển tâm trạng của hai nhân vật. Romeo mang trong mình một tình yêu đơn giản và mạnh mẽ, trong khi Juliet đối diện với nhiều xung đột nội tâm do tình yêu và thù hận. Sự giao đồng và hỗ trợ lẫn nhau của họ đã giúp vượt qua mọi khó khăn, tạo nên một tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi rào cản và đồng thời mang thông điệp về sức mạnh của tình người.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 9)

Rô-mê-ô và Giu-li-et là vở bi kịch về tình yêu mãnh liệt của cặp trai tài gái sắc Rô-mê-ô và Ju-li-ét, dựa trên một câu chuyện tình yêu có thực thời trung cổ tại nước Ý. Vở kịch được chắp bút bởi nhà viết kịch đại tài của nước Anh, Uy-li-am Sếch-xpia. Nội dung đề cao tình yêu trong sáng và cao đẹp của cặp nhân vật chính, tình yêu ấy đã vượt qua mọi rào cản cách biệt là mối thâm thù đại hận giữa hai gia tộc bao đời nay.

Tình yêu của họ trải qua nhiều khó khăn trắc trở, ngăn cấm và có một kết thúc đầy bi thương, nhưng cho đến ngày hôm nay nó vẫn là một biểu tượng huyền thoại cho tình yêu của những đôi lứa yêu nhau, là biểu trưng cho tình cảm thời kỳ chớm nở và nồng nhiệt nhất của tuổi trẻ. Một trong những phân cảnh giúp độc giả nhìn nhận rõ tình yêu cao đẹp giữa hai con người tưởng chừng ngăn cách mà loại hòa hợp ấy là trích đoạn Tình yêu và thù hận trích hồi 2, lớp 2 của vở kịch.

Vẻ đẹp tình yêu ấy trước hết là đến từ sự mâu thuẫn, mà mâu thuẫn này lại chính là nguyên nhân của những bi kịch mãi về sau. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà hai con người trẻ tuổi thuộc hai thế lực chống đối nhau, hai dòng họ có mối hận thù sâu sắc lại dần trở nên thấu hiểu, thông cảm và yêu thương lẫn nhau bằng thứ tình cảm trong sáng và mãnh liệt nhất.

Vượt qua mọi rào cản và các mối quan hệ xung quanh để đến được với nhau, dường như chính tình yêu và sự rung động mãnh liệt từ sâu thẳm trong tâm hồn đã chắp cho họ một đôi cánh thật mạnh mẽ để có thể tự do bay đến bên nhau, mà quên đi những ràng buộc đang níu giữ, trói gô những đôi chân đang khao khát hạnh phúc.

Điều ấy đã thể hiện một tinh thần khao khát được hạnh phúc, được tự do mang màu sắc thời đại Phục Hưng, với quan niệm rất mới về quyền con người, quyền hạnh phúc, quyền được yêu thường, chia sẻ, đề cao cảm xúc của con người. Đối lập với quan niệm cổ hủ của Trung cổ, tình yêu thường bị ngăn trở và áp đặt, con người không có quyền tự do yêu đương mà phải phụ thuộc vào gia tộc, không làm ảnh hưởng đến lợi ích gia tộc.

Thứ hai đó là tình yêu của đôi trẻ xuất phát từ những rung cảm, sự đồng điệu, thấu hiểu sâu thẳm trong tâm hồn. Tình huống kịch đặt ra là đôi chỉ chỉ mới gặp nhau lần đầu trong buổi dạ vũ, ấy thế mà bằng một cách nào đó họ đã nhanh chóng phải lòng nhau. Để rồi ngay đêm hôm ấy, chàng Rô-mê-ô đã can đảm quay lại nhà nàng, trèo lên bức tường trước cửa sổ phòng nàng để bày tỏ nỗi lòng.

Và nàng Giu-li-ét cũng chấp nhận lời tỏ tình ấy, thậm chí đôi trẻ còn bí mật làm phép cưới, đủ để hiểu đó là thứ tình cảm mãnh liệt, nồng nàn đến mức nào. Đừng vội nghĩ rằng, đó chỉ là những cảm xúc nhất thời của những chàng trai cô gái chưa trưởng thành, bởi họ yêu mến nhau không chỉ từ những vẻ đẹp ngoại hình, mà còn là sự đồng điệu trong tâm hồn, chỉ những người yêu nhau mới có thể nhìn sâu vào mắt nhau để thổ lộ, để cảm nhận vẻ đẹp trong tâm hồn của nhau.

Họ có cùng một đích đến, một khát khao mãnh liệt về tình yêu, về hạnh phúc về sự tự do mà trước đây không ai có thể cho họ. Tình yêu của họ thật trong sáng và tràn đầy sức sống, đến từ những trái tim son trẻ, không có sự sắp đặt, ràng buộc, vượt qua cả ranh giới hận thù, giờ đây đứng trước tình yêu cao đẹp ấy, hận thù đã chẳng còn nghĩa lý gì nữa.

Cuối cùng, tình yêu của đôi trẻ còn là vẻ đẹp của một tình yêu trong sáng, tôn trọng lẫn nhau, không vị lợi, không ích kỷ, họ yêu nhau chỉ bởi vì đó là đối phương mà không phải ai khác. Trong trích đoạn kịch, có thể thấy tình yêu của đôi trẻ thăng hoa và đẹp hơn nhờ những lời nói hoa mỹ, bay bổng, gạt bỏ đi cái sự đen tối hận thù giữa hai gia tộc. Họ luôn lắng nghe nhau, tôn trọng những lời nói của nhau và luôn tin tưởng vào tình yêu của mình.

Những lời nói và tình cảm ấy xuất phát từ chính trái tim ngập tràn tình yêu và một tâm hồn trong sáng. Họ lo lắng cho nhau, nàng thì sợ chàng bị bắt gặp sẽ có bất trắc, còn chàng chỉ mong muốn nàng có thể hiểu được tình cảm chân thành này thì dẫu tường cao, mối thù gia tộc cũng chẳng gì ngăn được đôi cánh tình yêu chở chàng đến bên nàng.

Như vậy qua trích đoạn Tình yêu và thù hận chúng ta đã phần nào cảm nhận được những vẻ đẹp tiềm ẩn, nằm sâu trong mối tình có khởi đầu khác thường và kết thúc oan trái của Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Những vẻ đẹp ấy cho đến ngày hôm nay vẫn còn để lại những giá trị sâu sắc, là chuẩn mực cho tình yêu của đôi lứa, không phân biệt tôn giáo, văn hóa và quốc gia nào cả.

Giới thiệu một tác phẩm kịch mà em thấy tâm đắc (mẫu 10)

Xin chào quý cô và các bạn thân mến!

Chắc chắn ai cũng đã từng nghe về 'Romeo và Juliet', một tác phẩm văn học vĩ đại của William Shakespeare. Kể từ khi ra đời, câu chuyện này vẫn luôn thu hút sự quan tâm của đông đảo người đọc và khán giả trên khắp thế giới.

Tác phẩm kể về một tình yêu đầy bi kịch giữa Romeo (nhà Montague) và Juliet (nhà Capulet), hai người đến từ hai dòng họ thù oán. Mặc dù bị cản trở bởi sự xung đột của gia tộc, Romeo và Juliet vẫn dũng cảm yêu nhau và quyết định sống với nhau. Nhưng số phận không mỉm cười với họ khi bi kịch liên tục ập đến, cuối cùng dẫn đến cái chết của cả hai. Tuy nhiên, cái chết của họ đã làm thức tỉnh sự nhân từ và lòng tha thứ của hai gia tộc.

Câu chuyện tình yêu giữa Romeo và Juliet không chỉ là một câu chuyện cổ tích, mà còn là một thông điệp về sức mạnh của tình yêu và sự quan trọng của việc hoà giải xung đột trong xã hội. Đó là một bài học về lòng dũng cảm và sự hy sinh, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.

Tác phẩm không chỉ xuất hiện trên sân khấu kịch mà còn được chuyển thể thành phim và opera. Với giá trị vô song, tác phẩm sẽ mãi mãi sống trong lòng công chúng ngày hôm nay và mai sau.

Đây là phần kết của bài giảng của tôi. Rất mong được nhận những ý kiến đóng góp từ cô và các bạn trong lớp!

1 830 18/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: