TOP 10 mẫu Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (2024) SIÊU HAY
Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hay hơn.
Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn
Đề bài: Em hãy viết bài văn giới thiệu về một tác phẩm kịch: Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn - mẫu 1
Chào các bạn, em tên là… học sinh lớp… Có thể nói rằng kịch là một trong những thể loại văn học đặc sắc và trong nền kịch Việt Nam không thể bỏ sót cái tên Nguyễn Huy Tưởng với vở kịch nổi tiếng “Vũ Như Tô”. Đây là tác phẩm đa được nhà văn thể hiện ra những quan điểm của mình về những mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và cường quyền và đó là sự phức tạp giữa nghệ sĩ và nhân dân và hơn nữa đáng nói đó là văn hóa dân tộc nữa. Và trong vở kịch “Vũ Như Tô” thì đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là một trong những đoạn trích hay thể hiện rõ nhất bi kịch cũng như quan niệm của tác giả được gửi gắm qua đoạn trích”.
Vở kịch đặc sắc và ấn tượng “Vũ Như Tô” được xem là một vở nói về lịch sử gồm có năm hồi. Và có thể thấy đoạn trích “Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài” là một đoạn trích thuộc hồi năm của vở kịch này. Nhân vật chính của vở kịch chính là Vũ Như Tô. Ông được xây dựng lên chính là một nhà kiến trúc tài giỏi, ông luôn có tính tình cương trực trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực được biết đến là một tên bạo chúa cũng đã sai cho Vũ Như Tô xây cửu trùng đài sao cho thật nguy nga để cho hắn lấy nơi vui chơi với những cung tần mĩ nữ. Và với vốn tính tình lại cương trực thẳng thắn thì nhân vật Vũ Như Tô dường như cũng đã từ chối sự sai khiến ấy mặc cho sự đe dọa về tính mạng. Thế nhưng, ta như thấy được Đan Thiềm một cô cung nữ tài sắc nhưng lại bị ruồng bỏ cũng như đã khuyên Vũ Như Tô xây cửu trùng đài để có thể cống hiến cho đất nước. Vì ở ông, ông lại khát khao và luôn luôn muốn cống hiến cho đất nước cho nên khi mà ông nghe thế ông quyết định xây Cửu Trùng Đài, thì lúc đó ông cũng đã dùng toàn tâm toàn lực để xây dựng. Nhưng có thể nói rằng chính cái Cửu Trùng Đài ấy dường như cũng đã làm khổ nhân dân khiến họ không thể chịu nổi khổ nhục và quyết tâm nổi dậy. Vũ Như Tô đã bị giết còn một Cửu Trùng Đài nguy nga kia cũng đã bị thiêu dụi hoàn toàn.
Bởi xây dựng được Cửu trùng đài thì đã có biết bao xương mu của nhân dân đã đổ xuống . Có thể thấy chính là những mâu thuẫn của đoạn trích này có thể nói được chính là khi nhân dân lúc này dường như lại không thể chịu nổi nữa bèn đứng lên nổi loạn. Và ta như có thể thấy được những người đứng đầu cho cuộc nổi loạn ấy chính là Trịnh Duy Khản. Và có thể nhận định được rằng chính là mâu thuẫn thứ nhất và đồng thời đây cũng chính là mâu thuẫn trực tiếp và thực tế nhất. Và thật đau xót khi nhân dân phải sống trong cảnh lầm than và cơ cực biết bao nhiêu. Hơn thế lại còn phải phục vụ biết bao công sức để giúp cho công việc xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua vô lại ăn chơi hưởng lạc. Và chính điều này thì không một người dân nào mà không căm phẫn. Nên có thể thấy được mâu thuẫn ở đây đó chính là mâu thuẫn giữ vua quan và nhân dân. Và mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi mà kết thúc bằng một cuộc đứng lên chiến đấu. Nhân dân nổi dậy bắt giết Lê Tương Dực và cả những cung tần mỹ nữ. Rồi cả Đan Thiềm cũng như cả Vũ Như Tô hay cả Cửu trùng đài cũng đã bị thiêu dụi.
Và có thể nói mâu thuẫn thứ hai trong đoạn trích này không đâu khác đó chính là mâu thuẫn giữa những quan niệm nghệ thuật thuần túy lâu đời đối với cả những lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân trong việc xây dựng lên một Cửu Trùng Đài. Có thể thấy được trong tác phẩm này dường như ta lại thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ và ông lại rất có tâm và hết lòng vì nghệ thuật. Có lẽ chính vì thế mà ông luôn luôn muốn cống hiến cho đất nước mình những công trình nghệ thuật đẹp đẽ. Thế nhưng bản thân ông chính là một người nghệ sĩ ông lại như không nhận thức cho ra được mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và cả đời sống cho nên chính ông cũng đã mắc sai lầm và dẫn tới cái chết thương tâm. Hay ở cả nhân vật Đan Thiềm cô đã cho lời khuyên Vũ Như Tô nhưng lại không hề vì một mục đích nào khác. Cô như một người bạn tri kỷ của Vũ Như Tô những cũng chính vì không nhận thức được mối quan hệ đó nên cũng đã có kết cục thảm hại.
Quả thật Cửu Trùng Đài được xem là một công trình nghệ thuật lớn vì thế cho nên nó rất tiêu tốn một lượng ngân khố của quốc gia. Mà dường như tất cả ngân khố quốc gia lại chính là nhân dân làm ra chứ phải là một ai hết. Chính vì lẽ đó mà việc xây dựng càng lớn, càng nguy nga thì nhân dân càng khổ nhiều hơn. Có thể nói cửu trùng đài được xâu dựng bằng xương máu của những người đan vậy. Còn Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ tài ba, ông có tài thật đó nhưng lại xa dời thực tế, chỉ lo cho lý tưởng của mình cho nên nhận lấy kết quả đáng buồn.
Có thể nói rằng thông qua đoạn trích này ta như thấy nó có đầy đủ các yếu tố để làm nên một vở kịch hấp dẫn, dường như tất cả các xung đột kịch được nhà văn tổ chức lôi cuốn hấp dẫn. Chính cái không khí nhịp điệu thì dường như cứ tăng tiến dần dần lên tạo nên một tính chất gay gắt của xung đột kịch. Nhà văn cũng đã thật tài tình khi thắt núi sau đó lại mở nút nhưng kết cục vẫn là bi kịch. Qua đây Nguyễn Huy Tưởng như cũng đã thể hiện quan niệm nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống đời thường. Nghệ thuật chân chính nhất thì không thể tách rời cuộc sống.
Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn - mẫu 2
Các bạn thân mến! Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng ở Việt Nam với một khối lượng tác phẩm và giá trị văn học phong phú. Triết lí sống và quan điểm sáng tác của ông là viết văn để bày tỏ lòng yêu nước: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”. Một trong những tác phẩm đặc sắc của ông không thể không kể đến vở kịch nổi tiếng “Vũ Như Tô”. Đoạn trích “Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài” đã thể hiện rất sâu sắc quan niệm nghệ thuật của ông.
Vở kịch “Vũ Như Tô” gồm 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517. Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941, tựa đề vào tháng 6 năm 1942. Vở kịch kể về Vũ Như Tô - một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Tuy nhiên, là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết. Nhưng Đan Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài. Việc Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu cũng đồng nghĩa với việc lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi dụng tình thế đó, quận công Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn triều đình. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là bức tranh tiếp nối các sự kiện cao trào ấy.
Thể loại kịch đã không còn xa lạ với kho tàng văn chương Việt Nam. Đây là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, có sự kết hợp ăn ý của nhiều ngành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, sân khấu điện ảnh,.... Và mâu thuẫn xung đột kịch được coi là yếu tố “linh hồn” của mỗi vở kịch, một yếu tố quan trọng góp phần khắc họa nhân vật và xây dựng cốt truyện.
Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được mâu thuẫn trực tiếp cho văn bản, được thể hiện ở cuộc nổi dậy của binh lính và nhân dân chống lại triều đình. Đó là mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của Lê Tương Dực với đời sống cơ cực thống khổ của nhân dân lao động. Những mâu thuẫn ấy đã có từ trước đấy, đè nén cuộc sống cực khổ của của người dân, nhưng đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài thì nó lại càng trở nên căng thẳng hơn. Để xây dựng cửu Trùng Đài, triều đình đã tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối, thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát. Người dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt, còn Vũ Như Tô bị thợ thuyền oán trách do nhiều người chết vì tai nạn hay chết vì bị chém đầu do chạy trốn. Khi ấy, Trịnh Duy Sản cũng đã can ngăn Lê Tương Dực, đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô nhưng không thành mà còn bị đánh đòn.
Mâu thuẫn thứ hai được tác giả xây dựng là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân thể hiện ở mục đích xây dựng Cửu trùng đài của Vũ Như Tô và của triều đình Lê Tương Dực.
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài năng, có khả năng "tranh tinh xảo với hóa công" nhưng ông không có đất dụng võ trong một xã hội thối nát, trong khi nhân dân còn đói khổ lầm than. Nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, Vũ Như đã Tô mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão xây dựng một công trình nguy nga, vĩ đại. Nhưng niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo chân thành đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân, bị những người thợ coi như kẻ thù.
Nguyễn Huy Tưởng đã mở đầu tác phẩm bằng cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô. Đan Thiềm đã thốt lên tiếng kêu hoảng hốt và khuyên Vũ Như Tô mau chạy trốn. Cung nữ Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu vào cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn đầy chân thành, tha thiết: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được”. Tất cả hành động của nàng đều chứng tỏ cô là một người quý trọng người tài, biết lo trước lo sau cho tài năng đất nước. Cô cầu xin, van nài, chắp tay lạy ông và khẳng định rằng: “Ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa”
Tình thế biến loạn ở kinh thành rất nguy hiểm và gay gắt nhưng ông lại nhất quyết không trốn và cho rằng: “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả ở đây, thì tôi chạy đi đâu?”. Cửu Trùng Đài là một thứ vô cùng quý giá đối với Vũ Như Tô, ông coi nó như là cả phần linh hồn và thể xác mà mình cùng với Đan Thiềm đã gây dựng nên. Tuy nhiên, nó cũng đã khiến ông mù quáng và mê hoặc đến mức không thể thoát ra khỏi ảo tưởng của mình để trở về tình thế thực tại. Ông tin rằng mình không có tội, vẫn cố cãi lý với đời: “Có lý gì để họ giết tôi?”, đứng trước quân khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người: “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỷ”. Lúc này, Vũ Như Tô đang đứng trên lập trường người nghệ sĩ mà vô tình bác bỏ lập trường của nhân dân. Ông không nghĩ mình bị nhân dân oán hận, căm ghét, ông vẫn nghĩ rằng Cửu Trùng Đài chẳng phải đang tô điểm cho đất nước đây sao?
Đến khi kinh thành bốc hỏa theo lệnh của An Hòa Hầu, Vũ Như Tô đã rơi vào tuyệt vọng khi tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì?”. Ông gào lên đầu đau đớn, đỉnh điểm sự tuyệt vọng và bất lực. Nhưng đến khi chết, ông vẫn không hiểu tại vì sao lại ra nông nỗi này: “Ta tội gì? Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài!”. Ông là một tài năng, một thiên tài có khát vọng hoài bão đem đến cái đẹp cho dân, nhưng chính vì không giải quyết được mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống nên ông đã phải trả một cái giá rất đắt. Mâu thuẫn đối lập ngay trong chính con người Vũ Như Tô.
Việc đưa ra hai mâu thuẫn trong vở kịch này, liệu đã thực sự được Nguyễn Huy Tưởng giải quyết?
Về mâu thuẫn giữa cuộc nổi dậy của binh lính và nhân dân chống lại triều đình đã được giải quyết một cách dứt khoát bằng cảnh quân nổi loạn đốt Cửu Trùng Đài và giết vua. Nhưng mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô vẫn chưa được giải quyết. Trong lời tựa đề vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng có viết: "Than ôi! Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Qua lời tựa ấy, Nguyễn Huy Tưởng đã bộc lộ chân thành những băn khoăn của mình: “Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô?”. Việc Vũ Như Tô có tội hay có công, cõ lẽ tác giả cũng không thể đưa ra một lời giải đáp thỏa đáng cho độc giả.
Bằng tài năng và cây bút tài hoa, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với hàng loạt hành động kịch dồn dập, kịch tính. Ông cũng sử dụng ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Từ đó, ông đã xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động. Tiêu biểu là Vũ Như Tô và Đan Thiềm.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy cao siêu muôn đời với lợi ích thiết thực của nhân dân. Thật đúng như Grandi từng khẳng định: “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Đây chính là một bài học đắt giá về nghệ thuật dành cho những người nghệ sĩ.
Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn - mẫu 3
Các bạn thân mến! Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình Nho giáo ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội). Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hoá cứu quốc do Đảng lãnh đạo và là đại biểu tham dự Quốc dân Đại hội ở Tận Trào tháng Tám năm 1945. Trong sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở các thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông giản dị, trong sáng và thâm trầm, sâu sắc. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Các vở kịch Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), kịch bản phim Lũy hoa (1960); các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì (1942), An Tư (1945), Sống mãi với Thủ đổ (1961); kí: Kí sự Cao - Lạng (1951),… Vũ Như Tô là vở kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.
Vũ Như Tô - một kiến trúc sư thiên tài bị vua Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ vốn là một nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực dọa giết, Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu Cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một tòa lâu đài vĩ đại bền như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hóa công để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện.
Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng tòa đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình gây biết bao tai họa cho nhân dân. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người đã chết vì tai nạn, vì ông cho chém đầu những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa trụy lạc với dân chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).
Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản - kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ đập phá và thiêu hủy (hồi V).
Đoạn Vĩnh biệt Cữu Trùng Đài là hồi V của vở kịch, thể hiện hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.
Trong cung cấm, Đan Thiềm đột ngột hớt hơ hớt hải chạy vào, mặt cắt không còn hột máu, giục giã Vũ Như Tô hãy trốn mau bởi loạn đến nơi rồi. Dân gian đói kém nổi lên, quận công Trịnh Duy Sản mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn. Nhưng Vũ Như Tô kiên quyết không chịu rời Cửu Trùng Đài một bước. Vừa lúc đó, Nguyễn Vũ lật đật chạy vào hỏi tình hình lo lắng cho tính mạng của nhà vua. Lê Trung Mại xuất hiện thông báo Duy Sản đã đốt lửa hiệu giả báo có giặc, nhà vua lẻn ra cửa Bảo Khánh chạy giặc thì bị Ngô Hạch võ sĩ của Duy Sản đâm chết. Khâm Đức hoàng hậu hay tin cũng nhảy vào lửa tự thiêu. Nguyễn Vũ khóc lóc và rút dao tự tử. Một bọn nội gián khác thông báo thêm sau khi giết vua Lê Tương Dực, triều đình đã lập vua khác lên ngôi. Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch đã bị chém đầu ngay lập tức. An Hòa Hầu ở bến Bồ Đề kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Đan Thiềm tiếp tục giục Vũ Như Tô đi trốn nhưng ông vẫn kiên quyết ở lại. Quân khởi loạn kéo vào. Đan Thiềm không thể xin tha được cho Vũ Như Tô, nàng bị chúng kéo đi nên chi còn biết Xin cùng ông vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô khăng khăng cho là mình không có tội, xin vào thưa với chủ tướng ý nguyện tốt đẹp khi xây Cửu Trùng Đài nhưng quân lính không nghe và cho biết chính An Hòa Hầu đã ra lệnh đốt sạch Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô đau đớn, vỡ mộng, chua chát chấp nhận cái chết bi thảm.
Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo chúa. Vì nó mà dù bị thương trên công trường, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo công việc. Cũng vì nó, để giữ gìn kỉ luật, ông buộc phải trị tội những người thợ bỏ trốn. Cũng lại vì nó mà ông quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để bảo vệ không phải mạng sống của mình mà là bảo vệ Cửu Trùng Đài - sinh mạng nghệ thuật của cả đời ông.
Tính cách nổi bật nhất ở Vũ Như Tô là tính cách của người nghệ sĩ tài hoa hiện thân cho niềm khao khát và đam mê sáng tạo Cái Đẹp. Nhưng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng, siêu đẳng, thậm chí cao cả và đẫm máu như một bông hoa ác. Vì thế, đi đến tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình: ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
Tài ba của Vũ Như Tô được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Tài nghệ của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là một thiên tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tưởng cầm quân. Trong hồi thứ V, những lo lắng, toan tính và thái độ của Đan Thiềm khi nói về Vũ Như Tô đủ cho thấy cái tài ấy quả là hiếm hoi: tài kia không nên để uổng..; Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa… Đừng để phi tài trời. Hồi V không nói nhiều đến tài năng của nhân vật (chỉ có Đan Thiềm nhắc đến) mà đặt Vũ Như Tô vào việc tìm kiếm một câu trả lời: Việc mình nhận xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Có công hay có tội? Nhưng Vũ Như Tô không trả tời được thỏa đáng câu hỏi đó bởi ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường Cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện. Hành động của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. Vũ Như Tô đã từng tranh tinh xảo vôi hóa công, giờ lại bướng bỉnh tranh phải – trái với số phận và với cuộc đời. Hành động kịch hướng vào cuộc đua tranh này và thể hiện tập trung qua diễn biến tâm trạng của Vũ Như Tô.
Vũ Nhự Tô vì chìm đắm trong khao khát, đam mê Cái Đẹp mà trở nên mơ mộng và ảo tưởng. Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một công trình tô điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu.
Ngay cả khi sự thật phũ phàng của Cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là loạn đến nơi rồi và bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông:., mà Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.
Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, nghe tên nội giám thông báo kẻ phá, người đốt cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vô Ií. Nghe tiếng quân lính reo hò truy tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố đấu lí với số phận và cuộc đời: Có lí gì để họ giết tôi? Đứng trước quân khởi loạn gươm giáo sáng lòe, Vũ Như Tô tự trấn an: Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ. Bị ra lệnh dẫn về trình chủ tướng, Vũ Như Tô vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta. Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời quát tháo của quân lính. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ. Ông vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…
Chỉ đến khi kinh thành phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hòa Hầu và tận mắt chứng kiến ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào, Vũ Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng: Đốt thực rồi! Đốt thực rồi ỉ ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Rơi xuống từ một cửu Trùng Đài vời vợi độ cao của mơ màng và ảo vọng, nỗi đau vỡ mộng trong Vũ Như Tô hoá thành tiếng kêu bi thiết, não nùng, khắc khoải. Cửu Trùng Đài đã biến thành một đài lửa rừng rực trong kinh thành Thăng Long đầy biến động, Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài Tất cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương tang tóc. Nỗi đau mất mát đã hòa vào làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm thánh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.
Khắc khoải trong lòng người đọc vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như Tô: Ta tội gì? Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Cảm giác ngột ngạt, bức bối tưởng như còn nguyên vẹn khi Nguyễn Huy Tưởng viết lời đề tựa: ôi khô khan! ôi gay gắt! Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Ngược lại với nhận thức của Vũ Như Tô, trong mắt dân chúng, Cửu Trùng Đài là hiện thân của thói ăn chơi xa xỉ, hiện thân của tội ác. Cửu Trùng Đài và cha đẻ của nó - Vũ Như Tô - chính là kẻ thù của họ. Vũ Như Tô, Cửu Trùng Đài, lũ cung nữ… bị quân phản nghịch xếp chung vào một hạng cần phải trị tội. Bởi vậy Cửu Trùng Đài bị thiêu cháy, Vũ Như Tô bị giải ra pháp trường và dân chúng reo hò, ăn mừng như ăn mừng chiến thẳng lớn.
Điểu gì đã tạo nên sự khác biệt đến đối lập khi nhìn nhận và đánh giá về công trình cửu Trùng Đài mà kiến trúc sư Vũ Như Tô từng kì vọng: móng phải đào sâu xuống dưới âm ti, nóc phải vờn mây? Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài với ao ước điểm tô cho đất nước, để lại cho dân tộc một công trình là hiện thân của cái đẹp cao cả, huy hoàng, đem hết tài ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ, thách thức cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với Hóa công. Ao ước, khao khát ấy là cao cả, là chân chính, bởi xuất phát điểm của nó là từ một cái Tâm tha thiết với dân tộc. Cho nên ngay từ đầu, nhiều người đã hiểu và ủng hộ Vũ Như Tô. Nhưng đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu Trùng Đài đã trở thành đại hoạ, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành một đóa hoa ác, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền tội.
Giới thiệu về Tôi muốn được là tôi toàn vẹn - mẫu 4
Lưu Quang Vũ là mội nhà thơ khá nổi tiếng trong những năm sáu mươi của thế kỉ XX, được nhiều bạn đọc yêu mến. Đến đầu những năm tám mươi thì Lưu Quang Vũ chuyển hẳn sang lĩnh vực sân khấu. Chỉ trong bảy, tám năm, ông đã sáng tác khoảng năm mươi kịch bản và hầu hết đều được dàn dựng. Kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người, đấu tranh khá quyết liệt với cái ác, cái xấu, nhất là đấu tranh chống tiêu cực để làm cho cuộc sống trong sạch hơn, tốt đẹp hơn. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, mà đặc biệt là trong lời thoại sau đây giữa Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích đã cho ta thấy cái khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp của Lưu Quang Vũ: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.... sống nhờ vào đồ đạc, cuả cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phảỉ sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhìn tôi sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.
Lời thoại này chính là những lời Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Như chúng ta đã biết Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác theo hướng khai thác, cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, thể hiện một triếi lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong cuộc sống hiện thời. Tuy khai thác đề tài từ cốt truyện dân gian, nhưng trong vở kịch này Lưu Quang Vũ có một sự sáng tạo rất độc đáo: trong truyện dân gian thì khi Hồn Trương Ba được tiên Đế Thích cho nhập vào xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba vẫn sống bình thản, còn trong vở kịch này thì Hồn Trương Ba sống quay quắt, luôn có những xung đột nội tâm rất căng thẳng. Hồn Trương Ba đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gay gắt với chính thể xác mà mình trú ngụ - thể xác đầy ham muốn bản năng của anh hàng thịt. Và Lưu Quang Vũ đã đẩy kịch tính lên tới điểm đỉnh là khi Hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt, suýt chút nữa sự thanh sạch của Hồn Trương Ba bị thân xác lấn át, công với sự xa lánh của những người thân trong gia đình khiến Hồn Trương Ba càng đau đớn, xót xa. Để gỡ nút thắt của tình huống kịch này, Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba đi đến một quyết định dứt khoát là không thể kéo dài mãi cuộc sống như thế nữa: “Không thế bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn'. Lời thoại này đã nói lên tấn bi kịch, sự trớ trêu trong Hồn Trương Ba, đó là sự mâu thuẫn giữa một tâm hồn đẹp với một thân xác thô lỗ, phàm phu tục tử. Lời thoại này đã cho ta thấy rõ quan điểm, triết lí về nhân sinh của Lưu Quang Vũ. Lưu Quang Vũ cho rằng: cuộc sống của con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác. Hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối hoàn toàn bởi những nhu cầu bản năng của thân xác, nghĩa là những nhu cầu vật chất chi phối hoàn toàn đời sống tinh thần thì không thể có một tâm hồn thanh cao trong sáng được. Nói như thế, ở đây Lưu Quang Vũ không phải phủ nhận hoàn toàn nhu cầu về đời sống vật chất, mà chỉ muốn trong cuộc sống chúng ta phải biết kết hợp hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến đời sống tinh thần mà không lo đến đời sống vật chất thì cuộc sống của chúng ta cũng chẳng mấy tốt đẹp, chúng ta sẽ sống trong ảo tưởng bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Vì vậy chúng ta đừng bao giờ để đời sống vật chất làm sa ngã đời sống tinh thần.
Và trong lời thoại tiếp theo, Lưu Quang Vũ lại tiếp tục trình bày quan điểm của mình về cuộc sống: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!'. Lời thoại này chứng tỏ Hồn Trương Ba đã ý thức rõ về hoàn cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình. Hồn Trương Ba đã thấm thía nỗi đau khổ vì nhận ra tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác. Sự chênh lệch này đã được thể hiện ngay từ khi Hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt, hình dạng biến đổi, hành động biến đổi và những người thân trong gia đình ngày càng xa lánh, Trương Ba bây giờ đâu còn là Trương Ba như ngày trước nữa: “đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” (lời vợ Trương Ba), 'Tôi không phải là cháu của ông', “ông nội tôi chết rồi”, “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy!”, “Ông xấu lắm, ác lắm! cút đi! Lão đồ tể, cút đi' (lời của cái Gái)... Hồn Trương Ba không thể sống mãi trong sự đau khổ, dằn vặt như thế nữa; nên đã phản kháng, không chấp nhận việc tiên Đế Thích cho mình sống nhờ vào thân xác anh hàng thịt. Lời phản kháng này chuẩn bị cho hành động quyết liệt, dứt khoát của Hồn Trương Ba là chọn cái chết, trả xác cho anh hàng thịt, để tâm hồn thanh thoát, không còn dằn vặt khổ đau.
Qua lời thoại này, Lưu Quang Vũ muốn bày tỏ quan điểm của mình về cuộc sống, đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: thế nào là một cuộc sống thật sự có ý nghĩa? Theo ông, sống thực sự cho ra con nsười không phải dễ dàng, đơn giản. Cuộc sống thật sự có ý nghĩa là cuộc sống do chính bàn tay, khối óc mình tạo lập ra, sống cho chính mình, một cuộc sống thật sự có ích cho gia đình và xã hội. Nếu sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, sống không được là mình thì cuộc sống ấy vô nghĩa, không đáng sống, thà chết còn hơn.
Tóm lại, hai lời thoại trên của Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích đã bộc lộ quan điểm rất đúng đắn của Lưu Quang Vũ về cuộc sống. Đó cũng chính là sự suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, là sự phê phán một số mặt tiêu cực trong lối sống của một số người trong xã hội đương thời của Lưu Quang Vũ. Thực tế trong cuộc sống hôm nay không ít những con người sống nhờ vào thân thể, uy quyền của kẻ khác, sống bằng luồn cúi, nịnh bợ để được thăng quan tiến chức, sống bằng đồng tiền không phải do năng lực của mình làm ra mà đó là những đồng tiền từ mồ hôi, nước mắt, xương máu của nhân dân, của đồng chí, đồng đội, làm băng hoại cuộc sống xã hội, sống như thế là một cuộc sống thật xấu xa, đê tiện, đáng lên án và phỉ nhổ. Lưu Quang Vũ đã thể hiện nỗi băn khoăn, trăn trở của mình về điều này qua những khổ đau, trăn trở của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt. Chính điều này đã lay động trái tim người đọc và người xem vở kịch này.
Giới thiệu Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (mẫu 5)
Có những tác phẩm ta đọc nhưng lại chẳng lưu một chút vấn vương, nhưng cũng có những tác phẩm, ta được soi mình trong đó, được đối thoại, được gợi mở giải quyết, được thức tỉnh tinh thần đến mức có thể thay đổi hành vi, nhận thức, lối sống ... Tôi đang muốn nhắc tới vở bi kịch nổi tiếng của nhà viết kịch xấu số mà xuất chúng bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Nếu bạn đọc đã đọc đến những trang cuối của tác phẩm, hẳn sẽ chẳng quên những câu nói quả quyết, mà cũng thật bi thương của Trương ba: Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đoạn trích “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” tập trung kể về cuộc đời của chàng Trương Ba, là một người có tài đánh cờ xuất chúng nhưng không may chết oan do sự nhầm lẫn của Nam Tào. Nhằm chuộc lại lỗi lầm của mình Nam Tào và Đế Thích đã cho Trương Ba sống lại nhưng trong một thể xác của người khác. Ban đầu mọi thứ có vẻ thuận lợi khi Trương Ba được sống lại trên trần thế, nhưng dần dần mọi thứ lại trở nên khó khăn, rắc rối vì thể xác và tâm hồn của Trương Ba không hòa nhập với nhau. Trương Ba vốn là một người có học thức còn anh bán thịt lại là người thô lỗ, phàm tục, điều này đã dẫn đến những mâu thuẫn, sự xô xát không thể tránh khỏi giữa phần xác và phần hồn. Những đòi hỏi vô lý của người vợ, sự xa lạ của gia đình và những người thân yêu… tất cả đã đẩy chàng Trương Ba vào bi kịch mới: sống còn đau khổ hơn cả cái chết. Với nội dung như vậy đoạn trích đặt ra rất nhiều vấn đề quan trọng giữa sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, về ý nghĩa cuộc sống của con người, về khái niệm sống toàn vẹn.
Đế Thích và Nam Tào tượng trưng cho khuôn phép, luật pháp của xã hội. Đế Thích cho rằng không ai có thể sống toàn vẹn, mỗi người đều phải tuân thủ những quy tắc và những khuôn khổ của xã hội. Nhưng Trương Ba lại khác ông không hề chấp nhận điều này, ông tin rằng con người cần phải được sống trọn vẹn cả phần hồn lẫn phải xác. Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi tâm hồn và thể xác hòa nhập thành một khối thống nhất. Nếu sống tầm gửi, sống bám vào thân xác của người khác thì thật tẻ nhạt, buồn chán, như vậy con người cũng sẽ đánh mất chính mình. Bởi thế ông đã từ chối được sống tiếp, chấp nhận cái chết để bảo toàn danh dự, giá trị của bản thân. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích xoay quanh những quan niệm của con người về giá trị đích thực của cuộc sống, về thế nào là sống toàn vẹn, những lời khẳng định mạnh mẽ của Trương Ba… đánh dấu cuộc đấu tranh của con người để chống lại những ràng buộc, định kiến của xã hội. Thể hiện khát khao khẳng định cái tôi của mình.
Linh hồn của đoạn trích này là Trương Ba, một nhân vật đã được tác giả tập trung khai thác. Trương Ba mang những nét tính cách điển hình, là tượng trưng cho một bộ phận con người trong xã hội. Họ biết sống với đúng giá trị của mình, quyết không thỏa hiệp, nhượng bộ mà đánh mất đi bản sắc của mình. Dẫu có phải chết thì vẫn kiên định với chính kiến, quan điểm của mình.
Tuy Trương Ba đã vĩnh viễn rời khỏi thế gian, thế nhưng cái kết của hàng loạt những bi kịch xảy ra lại là một cái kết hợp lý đem lại sự thỏa mãn cho người xem, người đọc. Đồng thời cũng nổi bật được một số tư tưởng nhân văn và Lưu Quang Vũ muốn truyền đạt trong tác phẩm bao gồm vẻ đẹp của tấm lòng đạo đức cao thượng không vì lối sống vị kỷ mà để ảnh hưởng tới người khác, hay nhận thức về việc sống thật sự, sự gắn kết biện chứng giữa hồn và xác, cuối cùng là một phương thức "sống" mới, đó chính là sống trong trái tim và ký ức của những người hằng thương yêu.
Giới thiệu Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (mẫu 6)
Trong tác phẩm Tôi muốn được và tôi toàn vẹn, Lưu Quang Vũ còn đề cập đến sự thay đổi trong tư duy và quan điểm của con người khi họ đối mặt với những tình huống khó khăn. Trương Ba sau khi nhập vào thân xác của người khác, trải qua những trải nghiệm mới và phải đối mặt với sự phản đối từ gia đình và những người xung quanh. Điều này khiến ông nhận ra sự thay đổi rõ rệt trong bản thân và mất đi sự nguyên vẹn, trong sạch mà ông từng tự hào.
Tôi muốn được và tôi toàn vẹn kể về câu chuyện của Trương Ba, một người có tài đánh cờ xuất chúng nhưng bị chết oan do một sai lầm của Nam Tào. Nhằm chuộc lại lỗi lầm, Nam Tào và Đế Thích đã đồng ý đưa linh hồn của Trương Ba nhập vào thân xác một người khác. Ban đầu, có vẻ như mọi thứ đã ổn định, nhưng trong thời gian ở trong thân xác mới, Trương Ba gặp phải nhiều rắc rối và xung đột như sự nóng nảy của xác, yêu cầu của vợ, cả sự xa lạ với gia đình và những người thân yêu. Qua cuộc trò chuyện với Đế Thích, tác giả đặt ra câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và khái niệm về việc sống toàn vẹn. Đế Thích cho rằng không ai có thể sống toàn vẹn và mỗi người đều phải tuân thủ những quy tắc và khuôn khổ xã hội. Nhưng Trương Ba không chấp nhận ý kiến này, ông tin rằng cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi mình sống theo đúng giá trị và tâm hồn của mình. Ông từ chối trở thành người khác và quyết định chấp nhận cái chết để trở về với trạng thái nguyên vẹn và tự nhiên của bản thân.
Tôi muốn được và tôi toàn vẹn cũng khai thác vấn đề về bản chất con người và ảnh hưởng của xã hội đối với cá nhân. Trương Ba cho rằng bản thân mình vẫn nguyên vẹn và không bị ảnh hưởng bởi xác hàng thịt, trong khi xác hàng thịt cho rằng hồn Trương Ba không thể tách rời xác và mọi hành động của ông đều chịu ảnh hưởng của xác. Cuộc đấu tranh này phản ánh mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa ý thức và áp lực xã hội. Từ đó, tác phẩm đặt câu hỏi về tình trạng tự do cá nhân và khả năng sống đúng với bản thân trong một xã hội có nhiều ràng buộc và quy tắc. Cuối cùng, Tôi muốn được và tôi toàn vẹn mang đến một cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa của cuộc sống và sự tồn tại của con người. Tác giả nhấn mạnh về việc sống đúng với giá trị và tâm hồn của bản thân, sống một cuộc sống tự nhiên và hài hòa. Việc sống đúng với bản thân và không bị mất đi nguyên vẹn, trong sạch của tâm hồn là điều quan trọng hơn việc chỉ sống một cuộc sống giả tạo, không chân thành với chính mình. Tôi muốn được và tôi toàn vẹn cũng khắc họa sự tương đồng và mâu thuẫn giữa con người và xã hội. Trương Ba đại diện cho sự tự do, cá nhân hóa và khao khát được sống đúng với bản thân, trong khi xã hội đại diện cho áp lực, quy tắc và khuôn khổ. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích đánh dấu sự đối đầu giữa cá nhân và xã hội, giữa quyền tự do và sự ràng buộc.
Tác phẩm Tôi muốn được và tôi toàn vẹn là một tác phẩm nghệ thuật đầy ý nghĩa và sâu sắc của Lưu Quang Vũ. Qua việc khắc họa câu chuyện của Trương Ba và cuộc đấu tranh của ông để sống đúng với bản thân, tác giả gửi đi thông điệp về tầm quan trọng của sự tự do, sự toàn vẹn và sự sống đúng với giá trị và tâm hồn của chính mình.
Giới thiệu Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (mẫu 7)
Lưu Quang Vũ được coi là một trong những hiện tượng đáng chú ý của nền văn học dân tộc trong những năm 80 của thế kỉ XX. Không chỉ ghi dấu ấn của mình với thơ, ông còn khẳng định vị thế của mình trong thể loại kịch với số lượng vở kịch được dàn dựng hầu hết thu hút công chúng đến từ mọi miền đất nước. Kịch của Lưu Quang Vũ viết về nhiều đề tài, giàu tính triết lí và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một vở kịch như thế. Ở đây ta dễ dàng bắt gặp tính triết lí ấy hiển hiện ngay trên lời thoại của nhân vật trong đó câu nói “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” đã thể hiện tình huống éo le của nhân vật Trương Ba.
Câu nói trên là lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba với Đế Thích,mang đậm tính triết lí, ấy là sự hài hòa, thống nhất giữa hồn và xác trong một con người. Nó thể hiện khát vọng sống khi nhân vật ý thức được bi kịch từ cuộc sống của chính mình- phải sống gán gửi, tạm bợ trên thân xác của anh hàng thịt. Nói như thế, có nghĩa là nhân vật muốn thoát ra khỏi thực tại, mong muốn được sống là chính mình mà không bị sự điều khiển, chịu sự chi phối của thân xác vốn không phải là của mình.
Tình huống éo le của nhân vật xuất phát từ việc sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khiến ông Trương Ba chết đi và Đế Thích rất có thiện ý muốn sửa sai. Đế Thích đã để ông Trương Ba sống lại trên xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày. Tưởng đâu được sống lại là hạnh phúc nhưng không ông Trương Ba luôn phải sống trong đau khổ trên thân xác anh hàng thịt. Ông bị người vợ nghi ngờ vì những ham muốn, những dục vọng đối với vợ anh hàng thịt. Rồi bị cái Gái xa lánh vì cái thân xác nặng nề vốn nâng niu cây cối mà làm gãy cả chồi non, chân giẫm nát cả cây sâm mới ươm, làm hỏng cả cái diều của cu Tị. Đến người con dâu cũng nhận thấy sự xa lạ của một ông Trương Ba trước kia với bây giờ dần dà cô cũng có lúc “không nhận ra thầy nữa”.
Nhận thấy bi kịch của mình, Hồn Trương Ba thể hiện khát vọng muốn được là mình toàn vẹn giống như trước kia. Nhân vật đã nói chuyện với Đế Thích giãi bày bi kịch sống nhờ, sống không đúng là mình : “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và từ chối cơ hội được sống quý giá của mình. Ngay cả khi Đế Thích đề cập tới việc sống trên thân xác cu Tị trong cơn thập tử nhất sinh, ông cũng nhất mực từ chối vì ông cho rằng một ông già nhập vào xác một đứa trẻ “chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vô tư” là không phù hợp, không tương thích.
Có thể nói, lời thoại trên của nhân vật Hồn Trương Ba đã thể hiện quan niệm của mình về hạnh phúc, về lẽ sống : Hạnh phúc không phải chỉ đơn giản là được sống mà quan trọng hơn đó là sống như thế nào. Bức thông điệp này được nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gửi gắm thông qua bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba : Đó là con người phải được sống là chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác - tâm hồn lương thiện, trong sạch và thân xác khỏe mạnh ấy mới chính là sống hạnh phúc.
Xây dựng được tình huống éo le của nhân vật trong vở kịch, Lưu Quang Vũ đã phát triển và sáng tạo cốt truyện dân gian. Chính tình huống éo le của nhân vật đã tạo nên nên khác biệt giữa cốt truyện dân gian và kịch bản của Lưu Quang Vũ. Nếu như cốt truyện dân gian hướng tới một kết thúc có hậu đó là khi Hồn Trương Ba sống trên xác anh hàng thịt hạnh phúc bên gia đình và người thân thì ở kịch của Lưu Quang Vũ, sự việc ấy lại làm nảy sinh bi kịch, những nỗi đau khổ của nhân vật. Bên cạnh đó, Lưu Quang Vũ còn dựng lên những kịch tích thông qua hành động, cử chỉ của nhân vật đặc biệt là lời nói của nhân vật vừa đậm triết lí vừa mang tầm khái quát cao.
Lời thoại trên của nhân vật đã thể hiện một quan niệm sống giàu giá trị nhân văn, không chỉ phản ánh đúng qua đời sống của nhân vật Trương Ba mà còn rất đúng đắn khi mỗi con người, mỗi cá nhân soi chiếu vào đời sống cụ thể của mình. Giờ đây, ta đã hiểu vì sao mà kịch của Lưu Quang Vũ có sức sống lâu bền, thu hút công chúng đến như vậy và chắc chắn vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng sẽ vẫn sống mãi với thời gian.
Giới thiệu Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (mẫu 8)
Lưu Quang Vũ là một trong số những nhà viết kịch hàng đầu và có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa nghệ thuật của Việt Nam. Với sự sáng tạo và tài năng của mình, ông đã tạo ra nhiều tác phẩm kịch độc đáo, trong đó có vở kịch đặc biệt mang tên Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Việc Lưu Quang Vũ có tầm ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa nghệ thuật của Việt Nam không chỉ đến từ những tác phẩm xuất sắc mà ông tạo ra, mà còn đến từ sự sáng tạo và tài năng của ông. Ông đã mở ra một cánh cửa mới cho nghệ thuật viết kịch tại Việt Nam, khám phá những chủ đề mới mẻ và độc đáo. Tác phẩm Tôi muốn được là tôi toàn vẹn là một minh chứng rõ ràng cho sự đa dạng và phong phú của nghệ thuật viết kịch dưới bàn tay của Lưu Quang Vũ.
Trương Ba, một tay cờ vô cùng giỏi, đã trải qua một bi kịch đau lòng khi anh bị mất mạng một cách oan trái. Trong một lần làm việc không chú ý, Nam Tào đã gây ra một sự nhầm lẫn không mong muốn, khiến Trương Ba phải đối mặt với cái chết. Với mong muốn sửa sai và chuộc lại lỗi lầm, Nam Tào và Đế Thích đã thỏa thuận để tái sinh linh hồn của Trương Ba vào thân xác của một người khác, người vừa mới qua đời. Dường như mọi chuyện đã trở nên êm đẹp khi Trương Ba sống trong thân xác mới, nhưng thực tế không phải như vậy. Trong quá trình ở trong thân xác mới, Trương Ba đã trải qua không ít khó khăn và phiền toái, từ việc bị quấy rối bởi lí trưởng sách, đến việc phải đối mặt với yêu cầu đòi chồng của vợ người đã qua đời, hay thậm chí là sự xa lạ trong gia đình – những người thân yêu và trân trọng nhất. Tất cả những điều này khiến Trương Ba cảm thấy lạ lùng và cảm thấy xa cách với cuộc sống mới. Bản thân Trương Ba cũng phải chịu đựng nhiều đau khổ và nỗi niềm vì sống không hòa hợp với quy luật tự nhiên. Đặc biệt, việc sống trong thân xác mới còn khiến Trương Ba bị ảnh hưởng và mắc phải một số thói quen xấu từ người trước đó. Đoạn trích trong sách giáo khảo này kể về cuộc đối thoại đầy cảm đồng giữa Trương Ba và các nhân vật khác, đưa ra những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống và ý nghĩa tồn tại.
Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc tranh luận gay gắt và nảy lửa. Trương Ba tỏ ra rằng suốt cuộc đời, ngay cả sau khi qua đời, bản thân anh vẫn sống một cuộc sống trong sạch, nguyên vẹn và thẳng thắn. Anh coi thường xác hàng thịt, xem nó chỉ là một vỏ bọc bên ngoài không có ý nghĩa, tư tưởng hay cảm xúc. Đối với anh, xác chỉ thể hiện những nhu cầu thấp kém như thèm ăn ngon, thèm rượu, điều mà bất kỳ con thú nào cũng có thể có. Tuy nhiên, xác hàng thịt lại cho rằng hồn Trương Ba không thể tách rời xác, và mọi hành động của anh đều bị xác anh hàng thịt chi phối. Cuộc đấu tranh giữa phần con người và phần xác được miêu tả như một cuộc đấu tranh khốc liệt giữa khát vọng và dục vọng, giữa đạo đức và tội lỗi. Từ cuộc đối thoại này, nhà văn truyền đạt thông điệp rằng cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng ta sống một cách tự nhiên, hài hòa giữa phần xác và phần hồn.
Tiếp đến, hồn Trương Ba đã có cuộc trò chuyện với người thân trong gia đình để giãi bày tâm sự. Mỗi thành viên trong gia đình đối diện với tình cảnh khó khăn của Trương Ba và có những thái độ khác nhau. Vợ Trương Ba đã đau đớn khi thấy chồng mình thay đổi đột ngột và cho rằng ông muốn rời khỏi gia đình để tự do với một người khác. Gái, đứa cháu yêu quý của ông, từ chối chấp nhận ông và cho rằng ông đã chết và thay thế bằng một người lạ lẫm và vụng về. Chỉ có chị con dâu là hiểu và yêu thương Trương Ba, nhưng cô ấy cũng không nhận ra ông trong tình trạng hiện tại.
Dù ở những vị trí và có những thái độ khác nhau, tất cả đều nhận thấy sự thay đổi rõ rệt của Trương Ba. Ông không còn nguyên vẹn, trong sáng và thẳng thắn như trước đây. Trương Ba nhận ra sự thay đổi của bản thân, cùng với sự lấn át của xác thịt đối với tâm hồn. Vì vậy, ông đã quyết định trả lại xác thịt cho người hàng thịt.
Điều này có thể là một quyết định khó khăn và đầy cảm xúc đối với Trương Ba. Tuy nhiên, đó cũng là cơ hội để ông tìm lại sự tự do, nguyên vẹn và thăng hoa của tâm hồn.
Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích đã bắt đầu từ quyết định quan trọng đó. Trương Ba không ngần ngại chỉ ra lỗi lầm mà Đế Thích đã gây ra: “Ông chỉ nghĩ rằng tôi muốn sống, nhưng ông không quan tâm đến cách tôi muốn sống.” Trương Ba thể hiện mong ước của mình: “Tôi muốn có một cuộc sống toàn vẹn” và “Không thể sống với bất kỳ giá nào. Có những điều quá quan trọng, không thể trả bằng cả tâm hồn để đạt được sự thanh thản, trong sáng như trước.” Tuy nhiên, Đế Thích không đồng ý và đáp lại: “Ông có nghĩ rằng mọi người đều có thể sống một cuộc sống toàn vẹn như ông sao? Ngay cả tôi cũng không thể. Bên ngoài, tôi không thể sống theo những suy nghĩ sâu thẳm bên trong của mình. Thậm chí cả Ngọc Hoàng cũng phải tuân thủ danh vị của Ngọc Hoàng. Dưới trần gian, trên thiên đình, đều vậy, và ông cũng vậy. Ông đã bị xoá tên khỏi danh sách Nam Tào. Thân thể thực sự của ông đã tan rã trong đất, không còn một dấu vết nào của ông!” Tình hình trở nên tồi tệ hơn khi Trương Ba nghe tin cu Tị qua đời. Đế Thích đề nghị cho hồn của Trương Ba nhập vào cu Tị, nhưng sau khi trải qua nhiều biến cố, Trương Ba kiên quyết từ chối. Ông nhận ra rằng việc này sẽ gây rắc rối lớn: phải giải thích cho chị Lụa và những người thân trong gia đình về tất cả chi tiết của câu chuyện, đặc biệt là với Gái – dù là cháu gái của ông nhưng với cô ấy, cu Tị là người bạn thân nhất. Hoặc có thể ông sẽ phải đến nhà chị Lụa, tạo cơ hội cho các lý trưởng làm phiền và lợi dụng ông… Cuối cùng, Trương Ba quyết định từ chối lời đề nghị đó và yêu cầu Đế Thích để cu Tị được sống lại, trong khi ông sẽ tự nguyện chết cùng với xác thân. Đây thực sự là một kết thúc hợp lí và ý nghĩa, nếu ta xem xét từ góc nhìn đó, đó chính là kết quả của cuộc đấu tranh giữa khát khao sống và khát khao không chấp nhận cuộc sống giả tạo, không thể là chính mình.
Trong tác phẩm “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” của Lưu Quang Vũ, thông điệp quan trọng mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả là về sự quý giá của cuộc sống và tầm quan trọng của việc sống một cách trọn vẹn và chính mình. Tác phẩm này nhấn mạnh rằng, chúng ta chỉ có thể tận hưởng và trân trọng cuộc sống thật sự khi chúng ta sống đúng với bản thân và phát triển những giá trị tốt đẹp mà chúng ta mang trong mình.
Lưu Quang Vũ nhấn mạnh về sự quan trọng của việc sống đúng với quy luật tự nhiên và tạo ra sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Chỉ khi con người sống theo quy tắc và cân bằng này, cuộc sống mới thực sự có ý nghĩa và mang lại niềm vui và hạnh phúc. Tác giả muốn khuyến khích độc giả khám phá và phát triển sự đồng điệu giữa cơ thể và tâm trí, tìm hiểu và khám phá những khía cạnh mới của bản thân.
Tác phẩm “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là một lời nhắc nhở cho chúng ta về sự quý giá của cuộc sống và tầm quan trọng của việc sống chính mình. Hãy đặt mục tiêu và theo đuổi những giá trị tốt đẹp của bản thân, tạo ra sự cân bằng và hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn. Chỉ khi chúng ta sống một cuộc sống trọn vẹn và đúng với chính mình, chúng ta mới có thể tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.
Giới thiệu Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (mẫu 9)
Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Ông được biết đến với vở kịch Tôi muốn được là tôi toàn vẹn – một tác phẩm đã tạo tiếng vang trong lòng độc giả và mang đến nhiều bài học về tư tưởng nhân văn. Câu chuyện xoay quanh Trương Ba, một kỳ thủ cờ vua tài năng. Anh gặp phải một bi kịch khi bị mắc kẹt trong tình huống không lường trước. Nam Tào và Đế Thích quyết định mang linh hồn của Trương Ba trở lại và nhập vào một thân xác mới của một người vừa mới qua đời. Nhưng mọi chuyện không dễ dàng như vậy.
Trương Ba đối mặt nhiều khó khăn trong thân mới. Anh gặp phiền toái từ người xung quanh như lí trưởng sách nhiễu, vợ đã qua đời đòi chồng, và gia đình. Điều này khiến Trương Ba khó khăn trong việc thích nghi với cuộc sống mới. Anh cảm thấy đau khổ và bất mãn khi sống trái với quy luật tự nhiên. Thân mới ảnh hưởng và truyền nhiễm thói quen xấu cho linh hồn của Trương Ba. Cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác đã gây tranh luận sôi nổi. Trương Ba cho rằng suốt đời, thậm chí sau khi qua đời, anh vẫn sống một cuộc sống trong sạch và chân chính. Anh coi thường xác, cho rằng nó chỉ là một lớp vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa hay cảm xúc. Xác chỉ đại diện cho khía cạnh thấp kém, mà con thú nào cũng có: ham muốn ăn ngon, ham muốn uống rượu. Tuy nhiên, xác lại cho rằng hồn Trương Ba không thể tách rời khỏi xác, và mọi hành động của hồn đều bị xác chi phối. Cuộc đấu tranh giữa con người và xác trở nên khốc liệt, như một cuộc đấu giữa khát vọng và dục vọng, giữa đạo đức và tội lỗi. Nhà văn muốn truyền đi thông điệp rằng sự sống chỉ có ý nghĩa khi ta sống tự nhiên, hài hòa giữa xác và tinh thần.
Trương Ba tiếp tục chia sẻ với người thân trong gia đình về tình hình của mình. Mỗi thành viên trong gia đình có quan điểm riêng khi đối mặt với tình huống khó khăn này. Vợ Trương Ba buồn lòng khi thấy chồng thay đổi đột ngột và nghĩ rằng ông muốn rời bỏ gia đình để tự do với người phụ nữ trẻ. Cháu gái của ông, người ông yêu quý nhất, không chấp nhận ông nữa và cho rằng ông đã thay đổi tính cách. Chỉ có con dâu hiểu và chia sẻ tình yêu với Trương Ba, nhưng cũng nhận ra sự thay đổi trong ông. Tất cả đều nhận thấy sự thay đổi rõ rệt của Trương Ba. Ông không còn nguyên vẹn và thẳng thắn như trước. Trương Ba nhận ra sự thay đổi của mình và quyết định trả lại thể xác cho người thân.
Quyết định đó đã dẫn đến cuộc trò chuyện giữa Trương Ba và Đế Thích. Trương Ba chỉ ra sai lầm mà Đế Thích đã gây ra và diễn đạt ước mong của mình. Tuy nhiên, Đế Thích không đồng ý và cho rằng không ai có thể tồn tại một cách toàn vẹn. Mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn khi Trương Ba nghe tin cu Tị qua đời. Đế Thích đề nghị để hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, nhưng Trương Ba từ chối rõ ràng. Ông nhận ra sẽ có rất nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến việc này và yêu cầu Đế Thích để cu Tị được sống lại trong khi ông sẽ chấp nhận chết cùng với xác thân. Đây là một cái kết phù hợp và đáng nhớ, thể hiện cuộc đấu tranh giữa khát khao sống và không chấp nhận một cuộc sống giả tạo.
Trong tác phẩm Tôi muốn được là tôi toàn vẹn, Lưu Quang Vũ truyền đạt một thông điệp sâu sắc: Sống đúng với bản chất của bản thân và khai thác tối đa những giá trị tốt đẹp bên trong mỗi người. Ý nghĩa của cuộc sống chỉ hiện diện khi ta tuân thủ quy luật tự nhiên và duy trì sự cân bằng giữa thể xác và tâm hồn. Chỉ khi chúng ta đạt được sự hòa hợp giữa cảm xúc và ý thức, tự do và trách nhiệm, cuộc sống mới thực sự trọn vẹn và đáng sống.
Giới thiệu Tôi muốn được là tôi toàn vẹn (mẫu 10)
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.
Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, cảnh VII, đoạn cuối vở kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.
Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.
Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển.
Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Toán 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Toán 11 - Cánh diều
- Giải sbt Toán 11 – Cánh diều
- Giải sgk Tiếng Anh 11 – ilearn Smart World
- Giải sbt Tiếng Anh 11 - ilearn Smart World
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 11 ilearn Smart World đầy đủ nhất
- Giải sgk Vật lí 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Vật lí 11 – Cánh diều
- Giải sbt Vật lí 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 11 – Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Hóa học 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Hóa 11 - Cánh diều
- Giải sbt Hóa học 11 – Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Sinh học 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 11 – Cánh diều
- Giải sbt Sinh học 11 – Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Kinh tế pháp luật 11 – Cánh diều
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 11 – Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Lịch sử 11 - Cánh diều
- Giải sbt Lịch sử 11 – Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Địa lí 11 - Cánh diều
- Giải sbt Địa lí 11 – Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sbt Công nghệ 11 – Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 – Cánh diều
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sbt Tin học 11 – Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng an ninh 11 – Cánh diều
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 11 – Cánh diều
- Giải sbt Giáo dục quốc phòng 11 – Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 – Cánh diều