Top 6 mẫu So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (2024) SIÊU HAY

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau lớp 12 Kết nối tri thức gồm dàn ý và 6 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 196 11/07/2024


So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau

Đề bài: So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu được sáng tác theo những phong cách nghệ thuật khác nhau.

Top 5 mẫu So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (2024) SIÊU HAY (ảnh 1)

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (mẫu 1)

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm và Tố Hữu là hai nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn 1945-1975, thời kỳ đầy biến động và chiến tranh. Cả hai đều chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, và tác phẩm của họ nhiều lúc trở thành bản ghi chép đầy cảm xúc về đất nước và nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là một nhà thơ và nhà văn nổi tiếng, ông có nhiều đóng góp lớn cho văn học Việt Nam. Trích đoạn từ "Đất Nước" trong trường ca "Mặt đường khát vọng" không chỉ tập trung vào khía cạnh lịch sử và chiến tranh mà còn nêu bật sự quan trọng của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình tượng đất nước không chỉ là một vùng đất trải dài mà còn là nguồn cảm hứng vô tận và nguồn năng lượng bất tận từ tâm hồn nhân dân. Tố Hữu, một nhà thơ và chính trị gia nổi tiếng, đã để lại nhiều tác phẩm với chủ đề Đất Nước và cuộc chiến tranh giành độc lập. Bài thơ "Việt Bắc" của ông tập trung vào mảnh đất nổi tiếng với cuộc kháng chiến chống Pháp, và qua đó, ông tạo nên một bức tranh hùng tráng về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương.

Nét chung về hình ảnh đất nước trong hai đoạn trích. Cả hai tác giả đều chú trọng vào hình ảnh của một đất nước độc lập, tự do, nơi con người tự hào làm chủ đất nước của mình. Hình ảnh đất nước không chỉ là một địa lý mà còn là nguồn tình yêu và tự hào, đặc biệt trong những trang sử hào hùng của dân tộc. Cả hai tác giả đều nhấn mạnh truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đất nước không chỉ là một vùng đất mà còn là sự hiện thân của những người dân yêu nước, họ là những người làm nên vẻ đẹp, hùng vĩ của đất nước.

Đất nước trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một đề tài mà là biểu tượng của tình yêu, niềm tự hào, và tâm huyết của mỗi người con Việt Nam. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ mỹ thuật để tạo ra những hình ảnh sống động, cảm xúc sâu sắc, và lời thơ sâu sắc. Đất nước không chỉ là một không gian địa lý mà còn là không gian tinh thần, mang theo những giá trị văn hóa, lịch sử và tình nghĩa đồng bào. Từ những đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước không chỉ là hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên, những dòng sông, núi non, mà còn là những kí ức lịch sử, những trận chiến anh hùng, và tình cảm tương thân tương ái giữa những con người Việt Nam.

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước"

Đất nước không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh và đoàn kết mà còn là nơi gắn bó tâm linh, nơi chứa đựng những giá trị tinh thần cao quý. Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự nhạy bén trong việc chọn lọc ngôn ngữ, hình ảnh, và biện pháp diễn đạt để làm cho đất nước trở nên thực tế và gần gũi với độc giả. Những đường văn của ông không chỉ là những câu thơ đơn lẻ, mà là một sự kết hợp tinh tế của từ ngữ, âm nhạc, và tâm trạng. Cuối cùng, qua những bài thơ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về tình yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ đất nước, và niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đất nước trong thơ ông không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là một thực tế sống động, đầy sức sống và ý nghĩa sâu sắc.

Trong bài thơ "Việt Bắc," Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ để thể hiện sức mạnh và hào hùng của đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến.

" Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sang như ngày mai lên"

Các đường Việt Bắc được mô tả như những dải đất "rầm rập như là đất rung," tượng trưng cho sự chấn động và mạnh mẽ. Hình ảnh quân đội và dân công điệp điệp trùng trùng, ánh sao đầu sung cùng mũ nan, tạo nên một bức tranh sống động về sự đoàn kết và sự quyết tâm. Bằng cách sử dụng từ láy và biện pháp so sánh cường điệu, Tố Hữu tạo ra những hình ảnh mạnh mẽ và lãng mạn, như bước chân nát đá muôn tàn, lửa bay, sương dày. Những tượng tươn này không chỉ thể hiện sự hy sinh và kiên trì của nhân dân Việt Nam mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và lòng yêu nước. Cuối cùng, hình ảnh "đèn pha bật sang như ngày mai lên" thể hiện hy vọng và ánh sáng trong tương lai, tạo nên một tác phẩm thơ đầy tính chất tâm linh và ý nghĩa. Tố Hữu đã thành công trong việc kết hợp các yếu tố này để tạo ra một bức tranh hùng vĩ về sức mạnh của đất nước trong kháng chiến.

Nét riêng – đóng góp của mỗi nhà thơ. Tố Hữu tập trung vào mảnh đất Việt Bắc, tạo nên một bức tranh anh hùng về chiến tranh chống Pháp. Ông thể hiện sự lưu luyến và nhớ nhung giữa những người chiến sĩ và những người ở lại. Nguyễn Khoa Điềm trình bày Đất Nước như một thực thể toàn vẹn, kết hợp lịch sử, văn hoá và tâm hồn dân tộc. Ông tập trung vào ý nghĩa của nhân dân trong việc xây dựng và giữ gìn đất nước.

Nhìn chung, cả hai bài thơ của Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đều mang đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đất nước Việt Nam trong giai đoạn lịch sử quan trọng. Cảm hứng về độc lập, tự do, tình yêu Tổ quốc, truyền thống bất khuất và vai trò quan trọng của nhân dân làm nên đất nước đã được thể hiện một cách độc đáo qua từng nét văn hóa, nghệ thuật của hai nhà thơ tài năng.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (mẫu 2)

So sánh tác phẩm thơ Tây Tiến (Quang Dũng) và Việt Bắc (Tố Hữu)

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 có một nguồn cảm hứng bao trùm đó là cảm hứng sử thi và lãng mạn. Cảm hứng ấy hướng về cuộc kháng chiến của nhân dân chống thực dân và đế quốc xâm lược. Trong nguồn cảm hứng bất tận ấy, hình tượng người lính là hình tượng được khắc họa rõ nét để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Hai đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu đã phần nào mang đến cho chúng ta vẻ đẹp sáng ngời ấy:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

(Tây Tiến – Quang Dũng)

Và:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống một đời lính oanh liệt hào hùng. Có lẽ chính vì vậy mà đời lính đã ăn sâu vào đời thơ. “Tây Tiến” là bài thơ của lính viết về lính nên khi đọc lên ta đã thấy ngay chất hào hùng bi tráng của những chàng trai “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Bài thơ được viết năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô”.

Tố Hữu đến với thơ sớm hơn Quang Dũng, ông là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa…Trong đó, “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Việt Bắc được viết trong cảm hứng về buổi chia tay lịch sử sau chiến thắng Điện Biên Phủ, cán bộ về xuôi, kẻ ở người đi.

Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập năm 1944 tại Tân Trào, Tuyên Quang do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo. Trải qua bao năm tháng đầy khó khăn, thiếu thốn, quân đội ta đã trưởng thành và lớn mạnh. Trong văn học, hình ảnh người lính cụ Hồ và quân đội nhân dân Việt Nam trở thành đề tài trung tâm, đối tượng phản ánh của các ngòi bút. Qua mỗi trang thơ văn khác nhau, hình ảnh ấy để lại bao nét vừa hài hòa vừa có những nét riêng, độc đáo, hấp dẫn.

Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội trong đó có Quang Dũng. Hơn ai hết, Quang Dũng là nhà thơ của lính, đã sống hết đời lính với Tây Tiến. Vậy nên bao khó khăn gian khổ, bao thiếu thốn, bao tự hào đã dệt nên những vần thơ đẹp về lính:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ mở đầu gợi lên vẻ đẹp bi tráng. Đầu tiên đó là cái bi thương gợi lên từ ngoại hình của người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân trông thật kì dị. Hai câu thơ có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất: Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ thì héo úa như tàu lá. Những cơn sốt rét rừng ác tính ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung:

“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”

(Chính Hữu)

“Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà”

(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu)

Cách hiểu thứ hai: Đó là hình ảnh bộ đội ta cạo trọc đầu để dễ dàng trong sinh hoạt và đánh giáp lá cà. Thời kháng Pháp những anh lính như vậy còn gọi là anh “Vệ túm”, “Vệ trọc”. “Quân xanh màu lá” là trang phục màu xanh áo lính, màu xanh của lá ngụy trang, màu của núi rừng. Hai cách hiểu ấy, hiểu theo cách thứ nhất là hay nhất, ấn tượng nhất và chính xác nhất.

Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn bên trong đã làm nên khí chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui, hóm hỉnh: không cần tóc mọc. Lại có thêm “Quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cách nói ấy cho thấy những người lính Tây Tiến rất lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ. Hãy nhìn kỹ ta sẽ thấy ở họ: nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà họ vẫn quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Mặt khác cái hào hùng còn hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “Đoàn binh”. Chữ “đoàn binh” chứ không phải là đoàn quân đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng”, của “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt. Qua đó ta thấy người lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ.

Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn lãng mạn của những chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Hai chữ “Mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: “mắt trừng” là mắt mở to nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ thề sống chết với kẻ thù. Nhưng đôi mắt trừng ấy còn “gửi mộng qua biên giới” là đôi mắt có tình, đôi mắt thao thức nhớ về quê hương Hà Nội về một dáng kiều thơm trong mộng trong mơ. Với ý nghĩa ấy ta thấy, người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động, nhớ nhung về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng của những người bạn gái Hà Nội, thanh lịch, yêu kiều, diễm lệ. Có một thời người ta hiểu rằng câu thơ này mang mộng tiểu tư sản quá nhiều làm giảm đi chất chiến đấu. Nhưng thời gian đã chứng minh rằng đó là một vẻ đẹp của tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi nhưng lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội, về quê hương. Chính quê hương tăng thêm cho họ sức mạnh để đi “Lấy máu nó trả thù này”.

Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng đã khắc họa bao gương mặt nỗi nhớ như thế. Đó là nỗi nhớ ruộng đồng “Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh/ Luống cày đất đỏ/ Tiếng mõ đêm trường/ Ít nhiều người vợ trẻ / Mòn chân trên cối gạo canh khuya” (Hồng Nguyên). Đó là nỗi nhớ “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Mỗi gương mặt nỗi nhớ ấy là lính nông dân hay lính thành thị thì nỗi nhớ ấy cũng là nỗi nhớ của những tâm hồn luôn hướng về đất nước, tổ quốc, quê hương. Vì thế càng khó khăn gian khổ, càng hi sinh mất mát, họ càng quyết tâm:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Ra đi chiến đấu là “đầu không ngoảnh lại”, là “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” nên “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Vì nợ nam nhi thời loạn là nợ nước thù nhà. Thật cao đẹp thay lý tưởng sống trọn tình, trọn nghĩa ấy của người chiến binh.

Sáu câu thơ trong bài Tây Tiến là sáu câu thơ được viết bằng bút pháp sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ngòi bút Quang Dũng thường hướng về những con người phi thường trong hoàn cảnh phi thường. Nhiều biện pháp nghệ thuật khác như: đối lập, tương phản, ẩn dụ… cũng được sử dụng một cách triệt để mang đến hình ảnh đoàn quân thời chống Pháp gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.

Với Tố Hữu, nhà thơ trữ tình chính trị, thường lấy những sự kiện chính trị làm đề tài cho thơ. Cuộc chia tay giữa cán bộ, chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc cũng trở thành đề tài của ông. Bài thơ “Việt Bắc” là cảm hứng từ cuộc chia tay ấy. Trong bài thơ Tố Hữu tự sự về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Những kỉ niệm ấy được diễn tả bằng những câu thơ mang đậm dấu ấn ca dao dân ca đậm đà tình nghĩa. Trong hồi ức đầy nghĩa tình ấy, nhà thơ không quên nhắc đến bức tranh ra trận đầy khí thế của quân và dân ta :

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”

Đoạn thơ đã tập trung miêu tả cuộc thánh chiến của dân tộc “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”. Đoạn thơ là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân từ hình ảnh những đoàn dân công, hình ảnh những đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến.

Trước hết đó là ấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong kháng chiến qua hai câu thơ đầu:

“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Câu thơ đầu tiên vang lên rất đỗi tự hào. Đó là niềm tự hào về những con đường Việt Bắc. Hai chữ “của ta” vang lên khẳng khái, chắc nịch, hùng hồn. Khi tác giả nói “Những đường Việt Bắc” đó là những con đường vừa rất thực như tác giả từng viết:

“Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước.
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến…
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!”

Đó là những con đường mở ra cùng với chiến thắng của quân dân ta, nhưng cũng là con đường đầy ý nghĩa tượng trưng khái quát cả một quá trình đi lên của kháng chiến và cách mạng. Con đường ấy đang mở tới chiến công.

Con đường đầy lửa máu ấy đã trở thành con đường chiến thắng trong Việt Bắc. Vì thế ấn tượng chung về sức mạnh của dân tộc đã gắn liền với ấn tượng về con đường chiến thắng này, một con đường “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Đó chính là sức mạnh của quân và dân ta, sức mạnh đã được đo bằng thước đo sông núi. Đọc câu thơ ta đã thấy ngay âm hưởng hết sức hùng tráng của bài ca kháng chiến vang lên từ những điệp từ “đêm đêm”, từ láy “rầm rập”. Và từ gợi tả hình ảnh “đất rung”. Những từ ấy đều là những từ được cấu tạo bởi phụ âm nổ (đ – “đêm đêm”), những phụ âm rung (r – “rầm rập”). Tất cả đã tạo nên bức tranh tổng hợp của sức mạnh Việt Nam “Nước Việt Nam từ trong biển máu/ Người vươn lên như những thiên thần”.

Hình ảnh một Việt Bắc trong những năm tháng hào hùng bỗng trở nên rực sáng và hùng vĩ bởi hình ảnh của những đoàn quân ra trận. Đó là sức mạnh của quân đội nhân dân Việt Nam :

“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

Còn nhớ ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Khi đó quân đội ta mới chỉ 34 người. Đến thời điểm Điện Biên Phủ quân đội ta đã trưởng thành với “Quân đi điệp điệp trùng trùng”. Sự hùng tráng, sự mạnh mẽ của đoàn quân được thể hiện qua nghệ thuật điệp từ “điệp điệp”, “trùng trùng” tạo ấn tượng về một sự lớn mạnh khổng lồ của quân đội nhân dân Việt Nam có thể đương đầu đáp trả và đập tan mọi hành động gây hấn của kẻ thù. Đoàn quân nối dài trên những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ đông đảo như trải dài vươn rộng khắp mọi nẻo đường Việt Bắc.

Hình ảnh đoàn quân ra trận đã được cảm hứng lãng mạn tạo nên tầm vóc vũ trụ bởi hình ảnh “ánh sao đầu súng”, một hình ảnh rất thật nhưng cũng rất lãng mạn. Đó là hình ảnh những người lính trong đêm hành quân. Đi dưới trời sao, ánh sao trời soi vào đầu súng thép ánh lên lấp lánh, cũng có thể hiểu là những ngôi sao trên mũ người chiến sĩ ánh lên dưới sao trời. Có lẽ vì vậy mà ta như thấy cả đất trời đang hành quân cùng người lính ra trận. Khẩu súng tượng trưng cho ý chí đánh giặc của người lính, chiếc mũ là cách nói hoán dụ để nói về người lính nhưng đồng thời lại để chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người lính. Quang Dũng cũng có cách nói tương tự “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra trận mà như một dải ngân hà lấp lánh cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.

Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu đã khái quát thêm một sức mạnh. Đó là sức mạnh của đoàn dân công, những con người đã cùng quân đội ta làm nên trang sử vàng cho dân tộc:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đã muôn tàn lửa bay”

Dân công là những người đi mở đường, xẻ núi, lăn bom góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang.

Qua việc phân tích ở trên ta thấy: Cả hai bài thơ đều viết trong thời chống Pháp. Đều sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để miêu tả đoàn quân. Nhất là cảm hứng lãng mạn được hai nhà thơ khai thác triệt để. Người lính trong thơ Quang Dũng có cái đẹp vừa bi vừa hùng, có cái đẹp lãng mạn hào hoa mang chất lính tiểu tư sản không trộn lẫn. Tố Hữu chủ yếu miêu tả cái đẹp toàn thể, hướng tới số đông. Tầm vóc của câu thơ lãng mạn đẩy hình ảnh người lính chống Pháp sánh với sao trời. Từ hai đoạn thơ mà ta vừa phân tích, người lính hiện lên thật đẹp, thật hào hùng biết bao.

Nét riêng ở đây là, Quang Dũng viết bài thơ “Tây Tiến” trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Do đó, hình ảnh người lính hiện lên rất hiện thực với nhiều khó khăn gian khổ, đói cơm, đói áo, sốt rét đến xanh da trọc tóc. Nhưng không vì thế mà mất đi chất thép vốn có của lính. Dưới ngòi bút ấy, người lính cụ Hồ thật “dữ oai hùm” trong bộ dạng dị thường mà cũng rất đỗi mộng mơ đượm chất lính Hà Thành. Qua đó thấy hồn thơ Quang Dũng thiên về miêu tả cái phi thường trong hoàn cảnh phi thường. Bài thơ “Việt Bắc” thì được Tố Hữu viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ trữ tình chính trị nên thiên về ngợi ca, biểu dương nên hình ảnh thơ bay bổng, tự hào. Hình ảnh đoàn quân ra trận trong Việt Bắc vì thế mà mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ của “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”.

Cùng biểu hiện hình ảnh những đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng từ hai nhà thơ rất khác nhau. Chính vì vậy mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện lên trong hai đoạn thơ vừa có điểm chung vừa có điểm riêng biệt mang đến cho người đọc những ấn tượng khó phai nhòa.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (mẫu 3)

So sánh tình yêu được thể hiện trong Vội Vàng (Xuân Diệu) và Sóng (Xuân Quỳnh)

Tình yêu và khát vọng luôn là những "nguyên tố" cần thiết trong cuộc đời mỗi con người. Bởi chỉ khi khao khát yêu và được yêu, khát khao khát sống và trân quý cuộc sống thì đó mới chính làm nên giá trị của cuộc sống. Và có lẽ vì vậy, hơn ai hết, mỗi nhà thơ, những con người thiết tha với cuộc đời và nhạy cảm trước thời cuộc lại càng hiểu rõ hơn điều đó. Bởi vậy, mà có những vần thơ được viết ra như thay lời muốn nói cho bao kiếp người, bao tình cảm thiết tha và mãnh liệt của con người muốn được thể hiện. "Sóng" và "Vội vàng" là những bài thơ như thế, những bài thơ của khát vọng tình yêu, khát vọng sống và cống hiến.

Cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều ý thức rất lớn về sự chảy trôi của thời gian, dù muốn nhưng vẫn không thể ngưng lại sự chảy trôi ấy.

"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi quá"

Cuộc đời có dài thật, nhưng thời gian nào có chậm, vẫn lặng lẽ vụt qua rút ngắn cái hữu hạn của đời người. Đó là nỗi lo âu trước thời gian, nỗi ngậm ngùi trước năm tháng cuộc đời, vừa lo sợ, lại vừa luyến tiếc.

"Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa"

Biển kia có rộng và bao la vô tận cũng không thể ngăn cản được mây bay, cả hai vẫn chẳng thể nào gặp gỡ. Và Xuân Diệu cũng thế, cũng lo sợ trước thời gian, cũng vội vàng, cuống quýt:

"Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,"

Ông lo sợ trước tuổi trẻ rồi sẽ dần qua đi, sau tất thảy còn lại sự luyến tiếc, ngậm ngùi mà thôi. Thời gian vốn vẫn vậy, cứ chảy dài, mùa xuân vẫn vậy, cứ tuần hoàn, tới rồi đi, để rồi người chợt nhận ra thanh xuân không còn mãi, tuổi tác ngày một lớn thêm và khi xuân hết nghĩa là tôi cũng mất. Càng nhận ra thời gian không chờ đợi ai, càng nhận ra sự ngắn ngủi của cuộc đời của tuổi trẻ. Tác giả lại càng ý thức được việc sống của mình hơn, lại càng khát khao yêu và khát khao sống để không phải hối tiếc cuộc đời, hối tiếc về những năm tháng đã qua. Xuân Quỳnh mang mối tình đằm thắm, chân thành, một mối tình mãnh liệt của một người con gái vốn e dè, ngại ngùng, nhưng vẫn thể hiện được sự dũng cảm trong tình yêu:

"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Của biển lớn tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ"

Một con sóng thôi làm sao có thể làm nên đại dương bao la, mà con sóng ấy phải hoà cùng nhịp điệu của biển sóng, của muôn ngàn con sóng mãnh liệt, vỗ bờ đến biển lớn. Sóng được hoà mình du ngoạn giữa đại dương để mãi mãi trường tồn, bất tử, ngàn năm sóng vẫn vỗ, vẫn đến bên bờ. Cũng như tình yêu của em dành cho anh, không thể giữ cho riêng mình được, phải là tình yêu lớn như biển cả kia, mênh mông như đại dương kia, phải là tình yêu của hai ta, của nhân loại, của người người trên thế gian. Đó không chỉ là biển của thiên nhiên mà còn là biển của tình yêu, là đại dương của tình yêu và tình yêu ấy mãi mãi trường tồn, bất tử, không hữu hạn như đời người, kiếp người. Một khát khao yêu thật cao đẹp và đầy phi thường. Tình yêu dường như là một khát vọng vĩnh hằng, rất đỗi mãnh liệt, thổn thức trong trái tim mỗi con người, trong trái tim tuổi trẻ.

Thông qua hai đoạn thơ trên đây chúng ta cảm nhận được lòng ham sống và cái tôi vô cùng lãng mạn của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Mặc dù, họ sinh ra ở hai thời điểm, hai thế hệ khác nhau nhưng họ đều có chung một cái tôi lãng mạn và lòng tin yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.

Top 5 mẫu So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (2024) SIÊU HAY (ảnh 1)

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (mẫu 4)

So sánh tác phẩm thơ Đất Nước ( Nguyễn Khoa Điềm) và Việt Bắc (Tố Hữu)

Hai nhà thơ lừng danh Nguyễn Khoa Điềm và Tố Hữu đã góp phần tạo nên những trang vàng son trong văn học Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn lịch sử đầy biến động và đấu tranh của dân tộc từ năm 1945 đến 1975. Từ những cảm xúc và suy tư sâu sắc, họ đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm mang màu sắc thời đại, khắc họa sinh động hình ảnh của một đất nước độc lập, tự do và dân chủ.

Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ và nhà văn nổi tiếng, đã để lại nhiều đóng góp to lớn cho văn học Việt Nam. Trong trích đoạn "Đất Nước" của trường ca "Mặt đường khát vọng", ông đã khắc họa đất nước không chỉ là một không gian địa lý, mà còn là một biểu tượng của tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc và những giá trị tinh thần cao quý. Đất nước trong thơ ông không chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên mà còn là những kỷ niệm lịch sử, truyền thống bất khuất của dân tộc.

Tố Hữu, nhà thơ và chính trị gia nổi tiếng, đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ về Đất Nước và cuộc chiến tranh giành độc lập. Bài thơ "Việt Bắc" của ông tập trung vào mảnh đất nổi tiếng của cuộc kháng chiến chống Pháp, qua đó ông đã tạo nên một bức tranh hùng tráng về tinh thần chiến đấu kiên cường và lòng yêu nước sâu sắc của nhân dân Việt Nam.

Cả hai tác giả đều dùng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ, lãng mạn để khắc họa đất nước Việt Nam như một thực thể sống động, chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử và tình cảm đồng bào. Họ đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả hai tác phẩm đều truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về tình yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ Đất Nước và niềm tự hào về lịch sử dân tộc.

Nhìn chung, những sáng tác về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm và Tố Hữu đã góp phần lưu giữ và ca ngợi những giá trị thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam, truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ độc giả. Những tác phẩm này không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là những di sản văn hóa quý giá của dân tộc.Đất nước trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một đề tài mà là biểu tượng của tình yêu, niềm tự hào, và tâm huyết của mỗi người con Việt Nam. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ mỹ thuật để tạo ra những hình ảnh sống động, cảm xúc sâu sắc, và lời thơ sâu sắc. Đất nước không chỉ là một không gian địa lý mà còn là không gian tinh thần, mang theo những giá trị văn hóa, lịch sử và tình nghĩa đồng bào. Từ những đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước không chỉ là hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên, những dòng sông, núi non, mà còn là những kí ức lịch sử, những trận chiến anh hùng, và tình cảm tương thân tương ái giữa những con người Việt Nam.

"Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước"

Đất nước không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh và đoàn kết mà còn là nơi gắn bó tâm linh, nơi chứa đựng những giá trị tinh thần cao quý. Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự nhạy bén trong việc chọn lọc ngôn ngữ, hình ảnh, và biện pháp diễn đạt để làm cho đất nước trở nên thực tế và gần gũi với độc giả. Những đường văn của ông không chỉ là những câu thơ đơn lẻ, mà là một sự kết hợp tinh tế của từ ngữ, âm nhạc, và tâm trạng. Cuối cùng, qua những bài thơ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về tình yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ đất nước, và niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đất nước trong thơ ông không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là một thực tế sống động, đầy sức sống và ý nghĩa sâu sắc.

Trong bài thơ "Việt Bắc," Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ để thể hiện sức mạnh và hào hùng của đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến.

" Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sang như ngày mai lên"

Các đường Việt Bắc được mô tả như những dải đất "rầm rập như là đất rung," tượng trưng cho sự chấn động và mạnh mẽ. Hình ảnh quân đội và dân công điệp điệp trùng trùng, ánh sao đầu sung cùng mũ nan, tạo nên một bức tranh sống động về sự đoàn kết và sự quyết tâm. Bằng cách sử dụng từ láy và biện pháp so sánh cường điệu, Tố Hữu tạo ra những hình ảnh mạnh mẽ và lãng mạn, như bước chân nát đá muôn tàn, lửa bay, sương dày. Những tượng tươn này không chỉ thể hiện sự hy sinh và kiên trì của nhân dân Việt Nam mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và lòng yêu nước. Cuối cùng, hình ảnh "đèn pha bật sang như ngày mai lên" thể hiện hy vọng và ánh sáng trong tương lai, tạo nên một tác phẩm thơ đầy tính chất tâm linh và ý nghĩa. Tố Hữu đã thành công trong việc kết hợp các yếu tố này để tạo ra một bức tranh hùng vĩ về sức mạnh của đất nước trong kháng chiến.

Nét riêng – đóng góp của mỗi nhà thơ. Tố Hữu tập trung vào mảnh đất Việt Bắc, tạo nên một bức tranh anh hùng về chiến tranh chống Pháp. Ông thể hiện sự lưu luyến và nhớ nhung giữa những người chiến sĩ và những người ở lại. Nguyễn Khoa Điềm trình bày Đất Nước như một thực thể toàn vẹn, kết hợp lịch sử, văn hoá và tâm hồn dân tộc. Ông tập trung vào ý nghĩa của nhân dân trong việc xây dựng và giữ gìn đất nước.

Nhìn chung, cả hai bài thơ của Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đều mang đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đất nước Việt Nam trong giai đoạn lịch sử quan trọng. Cảm hứng về độc lập, tự do, tình yêu Tổ quốc, truyền thống bất khuất và vai trò quan trọng của nhân dân làm nên đất nước đã được thể hiện một cách độc đáo qua từng nét văn hóa, nghệ thuật của hai nhà thơ tài năng.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (mẫu 5)

Hàn Mặc Tử và Quang Dũng là những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) và Tây Tiến (Quang Dũng) là hai thi phẩm xuất sắc, mang dấu ấn đậm nét của người nghệ sĩ sáng tạo. Đặc biệt, trong cảm hứng về vẻ đẹp thiên nhiên, hai nhà thơ đã có cách thể hiện khác biệt nhưng thống nhất ở cảm hứng sáng tạo và điểm nhìn nghệ thuật hết sức sắc sảo. Cả Tây Tiến và Đây thôn Vĩ Dạ đều đã vẽ nên những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, mang dáng nét, mang cái hôn xứ sở.

Đoạn thơ trong bài thơ “Tây Tiến” là cảnh sông nước miền Tây hoang sơ, thơ mộng, trữ tình.
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ. “Tây Tiến” cũng là một trong những bài thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, bài thơ đã trở thành khúc ca bi tráng phản ánh chân thực cuộc sống, chiến đấu gian khổ, sự hy sinh anh dũng và vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của người chiến sỹ Tây Tiến. Cảm hứng lãng mạn thường tô đậm cái “tôi” tràn đầy cảm xúc, tô đậm sự phi thường, dữ dội, những vẻ đẹp thơ mộng, tuyệt mỹ, thường lý tưởng hóa, thi vị hóa hiện thực. Cảm hứng lãng mạn luôn sử dụng bút pháp đối lập để tạo ra những hình tượng tương phản, đem đến những ấn tượng sâu đậm cho người đọc. Cảm hứng bi tráng là sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sỹ Tây Tiến.

Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến , Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ, vùng Mai Châu có hương vị cơm nếp thật hấp dẫn ,… thì Châu Mộc cũng thật lãng mạn, trữ tình. Giữa khói sương của hoài niệm, Quang Dũng nhớ về một “chiều sương ấy”- khoảng thời gian chưa xác định rõ ràng nhưng dường như đã khắc sâu thành nỗi nhớ niềm thương trong tâm trí nhà thơ:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Hình ảnh “người đi” trong “chiều sương ấy” là một ý thơ độc đáo vô cùng. Độc đáo bởi chiều sương ấy cho ta hiểu là khung cảnh của quá khứ. Cùng cảnh sông nước, tưởng như, người đi ấy đang chèo thuyền ngược dòng ký ức để trở về bờ Châu Mộc hoài niệm. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Khi sương nhòa vào dòng nước khiến sương thêm bồng bềnh, khiến dòng nước càng bảng lảng. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “ thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng.

Quá khứ vọng về là những hình ảnh mờ mờ ảo ảo, lung linh huyền hoặc: “hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc” và “hoa đong đưa”. “Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”.

Điệp ngữ “có thấy”, “có nhớ” dồn dập như gọi về biết bao kỷ niệm của một thời đã xa, nhữ khắc vào ấn tượng về miền Tây Bắc. Trước hết là thấy lau ở nẻo bến bờ. Hồn lau là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối. Nơi ấy cảnh vật vô tri đã hoá tâm hồn trong những người lính.

Trong chia phôi còn có nhớ, nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong tâm tưởng của nhà thơ, cây lau tưởng như vô tri vô giác cũng mang hồn. Cách nhân hoá có thần đã khiến thiên nhiên trở nên đa tình thơ mộng hơn. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy. Có lẽ là cả hai, cả thiên nhiên và con người đều là những bông hoa kỷ niệm tuyệt đẹp, luôn bung nở hương sắc trong trí nhớ người lính ấy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa.

Thiên nhiên mang “hồn” là bởi nhà thơ có cái nhìn hào hoa nhạy cảm hay bởi nơi đây còn vương vất linh hồn của những đồng đội của nhà thơ? Sự cảm nhận tinh tế hoà quyện với thanh âm da diết của nỗi nhớ đã làm vần thơ thêm chứa chan xúc cảm. Có thể thấy, cảnh vật hiện lên qua nét vẽ của Quang Dũng dù rất mong manh mơ hồ nhưng lại rất giàu sức gợi, rất thơ, rất thi sĩ, rất đậm chất lãng mạn của người lính Hà thành.

Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người thấp thoáng trở về trong hồi ức của Quang Dũng. “trên độc mộc” – chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, bóng dáng con người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà tài hoa khéo léo giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ đặc trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng?.

“Dáng người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào, dáng người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người. Nhà thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá đến như thế.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng, tâm hồn và sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Có thể khẳng định rằng, đây là một trong những chi tiết đắt nhất mà Quang Dũng tạo nên cho bức tranh thiên nhiên miền Tây, đoá hoa giữa dòng là hội tụ của cái nhìn đa tình vốn có trong tâm hồn người lính Hà Thành trẻ tuổi và vẻ thơ mộng của cảnh sắc nơi đây. Nói như thế là bởi, ta nghiệm ra rằng, hình ảnh “hoa đong đưa” khi đang “trôi dòng nước lũ” là hình ảnh không thể có trong thực tại nhưng lại rất hợp lý khi đặt giữa mạch cảm hứng trữ tình của bài thơ. Cánh hoa như đôi mắt đong đưa, lúng liếng với người lính trẻ hay bởi tâm hồn các anh quá hào hoa, quá lãng mạn yêu đời nên mới có thể nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn đa tình đến như thế?

Bằng bút pháp lãng mạn với phép nhân hoá, Quang Dũng đã vẽ nên nét vẽ thần tình, thâu tóm trọn vẹn vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, gửi gắm vào đó cả nỗi nhớ niềm thương luôn cháy bỏng trong trái tim ông. Phải yêu lắm đồng đội, yêu lắm thiên nhiên và con người nơi đây thì Quang Dũng mới có thể diễn tả tinh tế vẻ đẹp của chiều sương cao nguyên đến như vậy! Bút pháp lãng mạn hào hoa, phép nhân hoá thần tình, cách dùng điệp từ khéo léo đã quyện hoà với nỗi nhớ chưa bao giờ nguôi ngoai trong sâu thẳm tâm trí nhà thơ về đồng đội và thiên nhiên miền Tây Tổ quốc, tất cả tạo nên điểm sáng lấp lánh của tâm hồn một người chiến sĩ thiết tha với Tây Tiến, với quê hương. Xin nhắc mãi vần thơ của ông trong nỗi nhớ chơi vơi da diết!

Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ là khung cảnh sông nước xứ Huế qua cảm nhận của cái tôi trữ tình đầy tâm trạng. Khác với bài thơ Tây Tiến, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử sáng tác dựa trên cảm hứng lãng mạn thuần túy. Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ mà tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Cũng vì thế mà tứ thơ phát triển không theo một dòng chảy liên tục và có lúc như gián cách, như bất ngờ xuất hiện những ý tứ và hình ảnh mới. Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ.

Nếu khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thôn Vĩ khi “nắng mới lên” … thì đến khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “gió theo lối gió”. Cũng có mây, nhưng “mây đường mây”. Mây gió đôi đường, đôi ngả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây”.

Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi ta một không gian gió, mây chia lìa, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ “gió” và “mây” được điệp lại hai lần trong mỗi vế tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thoáng đãng, mênh mông. “Dòng nước buồn thiu” trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết. Đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả. Thi nhân đã và đang sống trong cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đôi ngả đôi đường như tình và lòng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.

Không có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”. Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trôi xuôi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hóa thành “dòng nước buồn thiu”, càng thêm mơ hồ, xa vắng. “Buồn thiu” là buồn héo hon cả gan ruột, một nỗi buồn day dứt triền miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy “hoa bắp lay”. Chữ “lay” gợi tả hoa bắp đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và hồn người.

Hai câu thơ 14 chữ với bốn thi liệu (gió, mây, dòng nước, hoa bắp) đã hội tụ hồn vía cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hôm? Hàn Mạc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.

Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương Giang ngày nào. “Dòng nước buồn thiu” đã biến hóa kì diệu thành “sông trăng” thơ mộng.

“Thuyền, ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”.

Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ “đó” cuối câu 3 bắt vần với chữ “có” đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm “có chở trăng về kịp tối nay?”. “Thuyền ai” phiếm chỉ, gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xôi. Con thuyền mồ côi nằm trên bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo.

Cả hai câu thơ của Hàn Mạc Tử, câu thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dòng sông, con thuyền và bến đò. Những chi tiết thực (thuyền sông, trăng) đã góp phần tạo lên cảnh ảo: một con thuyền một dòng sông bọc trong trăng, vạn vật như rũ bỏ hết màu sắc đường nét phàm trần để thấm đẫm ánh trăng. Con thuyền không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ “chở trăng về” phải “về kịp tối nay” vì đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng lặng vì “thuyền ai”: Con thuyền vô định. Phiếm chỉ – là con thuyền mồ côi. Còn đâu cô gái Huế diễm kiều, e ấp, mà chơ vơ còn lại con thuyền mồ côi khắc khoải đợi chờ trăng!

Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng. Cảnh đẹp một cách mộng ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đối với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Người đọc cũng không quên trong thơ Hàn Mặc Tử, trang là hình tượng luôn trở đi trở lại, là máu thịt là tài sản của thi nhân. Thi sĩ chẳng đã từng rao bán:

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho,
Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò”.

Tuy nhiên bên trong bức tranh phong cảnh rất mộng ảo lại chứa đựng những từ ngữ cụ thể, mộc mạc: kịp- tối nay. “Tối nay” như thu bớt quỹ thời gian cho thấy một thực tại ngắn ngủi. Chữ “kịp” gợi cảm giác khắc khoải âu lo vì sợ muộn. Câu thơ thẫm đẫm cảm giác mong manh, chứa đầy linh cảm về sự mất mát lỡ làng.

Khổ thơ cho thấy cảnh chuyển từ rất xa rất nhanh – một đặc điểm của thơ Hàn Mặc Tử. Dẫu cuộc đời lìa bỏ phũ phàng, vẫn níu kéo tha thiết cuộc đời, đó chính là thông điệp nhân văn của khổ thơ này. Chính vì lẽ đó mà gần 80 năm qua, “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn xanh tươi trong vườn thơ Việt Nam. Nó góp phần đưa Hàn Mặc Tử vào vị trí là một trong những đỉnh cao của Thơ mới. Với bài thơ này, ta hiểu vì sao Chế Lan Viên lại nhận xét: “Tôi dám chắc với các người rằng, sau này những gì tầm thường mực thiết kia sẽ tan biến đi, còn lại một chút gì của thời này đó là Hàn Mặc Tử”.

So sánh hai tác phẩm thơ cùng thể hiện chủ đề thiên nhiên, đất nước hoặc tình yêu theo những phong cách nghệ thuật khác nhau (mẫu 6)

Trong hoài niệm của kí ức, bức tranh vạn vật thiên nhiên tứ bình của núi rừng Tây Bắc hiện lên thật sinh động và chân thực trong thơ của Tố Hữu

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh rao cài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng ….

Bằng sự ướm hỏi chân thành đầy tinh xảo, người ra đi đã biểu lộ sự lưu luyến và nhớ nhung với kẻ ở lại. Với hình thức tu từ mang dấu hỏi ở cuối câu thơ, lời giãi bày đã được bộc lộ đầy tâm tình mà không cần lời đáp. Hoa núi của rừng sâu là hình ảnh quen thuộc từng gắn bó với kháng chiến gian nan chống Pháp, ta nhớ hoa nhớ người chính là nhớ vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên của Việt Bắc và tình người nồng ấm nơi đây. Những câu sau là một loạt những hình ảnh thân mật và thân thương của đất trời và vạn vật thiên nhiên Việt Bắc. Một bức tranh tứ bình đẹp tuyệt được trải ra trước mắt người đọc. Khunh cảnh vạn vật thiên nhiên thật thơ mộng. Đầu tiên là sắc xanh bạt ngàn của núi rừng khi Việt Bắc vào đông. Những ngọn đuốc tượng trưng sáng rực được hình thành bởi hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi. Trong cái nền khoảng trống đẹp tươi của vạn vật thiên nhiên, vẻ đẹp và khí thế của con người hiện lên vững chãi với gài thắt lưng:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Xuân qua, hạ đến, vạn vật thiên nhiên của Việt Bắc được tổ điểm bởi tiếng ve râm ran nơi rừng phách hổ vàng. Hình ảnh thiếu nữ hiện lên gắn bó giao hòa với vạn vật thiên nhiên, cùng sự cần mẫn hái măng một mình. Bức tranh mùa hạ như một bức sơn mài vừa mang chất văn minh lại đậm chất cổ xưa .

Khép lại bộ tranh tứ bình ấy chính là những đường nét về mùa thu nên thơ cùng tiếng hát chia tay giã biệt bạn hữu:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Bức tranh vạn vật thiên nhiên đẹp xiết bao với trăng thu được tưới bởi không khí tự do. Sự thân thương, thân mật và mộc mạc của con người và vạn vật thiên nhiên như đã hòa làm một. Vẻ đẹp của con người hiện lên qua tiếng hát ngọt ngào đầy nghĩa tính với kháng chiến và cách mạng. Sự trong trẻo của giọng hát, sự thủy chung ân tình của đồng bào dân tộc bản địa. Đây phải chăng chính là nghĩa tình mười lăm năm gắn bó mặn nồng … Cảm nhận vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên và con người trong Việt Bắc Đây thôn Vĩ Dạ qua việc nghiên cứu và phân tích lối thớ của Tố Hữu khiến người đọc cảm nhận được thâm thúy và cụ thể .

Khi nghiên cứu và phân tích Việt Bắc Đây thôn Vĩ Dạ, tất cả chúng ta thấy thi nhân họ Hàn cũng sử dụng câu hỏi tu từ ngay trong những tiến trình thơ của mình nhưng lại mang ý niệm trách mọc nhẹ nhàng. Sự mộc mạc thân mật thân quen của làng quê Việt hiện lên chân thực trong những câu thơ của Hàn Mạc Tử. Đó là một miền quê nơi sông Hương thơ mộng và trữ tình. Hiện lên trên cả là hình ảnh những hàng cau thẳng tắp vươn lên trong nắng sớm, sau đó là một khu vườn mướt xanh của lá với sắc ngọc tinh khôi. Trong khoảng trống bình dị ấy, vẻ đẹp của con người hiện lên quá đỗi mộc mạc với khuôn mặt chữ điền ẩn hiện xa xa sau những chiếc lá trúc. Khung cảnh thôn Vĩ hiện lên ấm ấp thân quên chỉ sau vài nét phác họa của người thi nhân. Vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên dung dị ẩn sau từng câu chữ tả cảnh. Xa xa hơn chính là đất trời, là sông nước và gió mây. Vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng của con người, có chút gì đó là buồn thương, là xa cách, là chia tay. Gió mây vốn xa nhau giờ đây lại như xa hơn bởi cách dùng từ độc lạ của Hàn Mặc Tử. Biện pháp nhân hóa được nhà thơ sử dụng tài tính với hình ảnh dòng nước buồn thiu. Tâm hồn còn người đã thổi vào cảnh một sự luyên tiếc xa xăm, một nỗi nhớ u hoài không dứt.

Việt Bắc Đây thôn Vĩ Dạ đều mang vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên và con người, đều mang màu sắc tâm trạng về khung cảnh sông nước quê hương và thiên nhiên. Bút pháp điêu luyện đã chắp cánh và thổi hồn cho thiên nhiên hiện lên sinh động, chân thực và có chút thơ mộng. Cả hai tác phẩm đều thể hiện sự tài hoa trong ngòi bút của Tố Hữu và Hàn Mặc Tử.

Đây thôn Vĩ Dạ mang màu sắc chia ly, xa cách, tâm trạng nhớ nhung trong tình yêu. Việt Bắc thể hiện nỗi nhớ da diết nhẹ nhàng của người ở với người đi sau mười lăm năm gắn bó qua việc khơi lại những kỉ niệm và kí ức trong quá trình gian khổ chống Pháp. Đều là những cây bút tài hoa, mang màu sắc thơ trữ tình, mặc dù với Tố Hữu đó là chất trữ tình cách mạng, còn trong thơ Hàn Mặc Tử lại là chất trữ tình lãng mạn điển hình. Đây thôn Vĩ Dạ cho thấy sự khắc khoải nhớ nhung khôn cùng mang màu sắc bi ai và chia ly. Việt Bắc thể hiện nghĩa tình gắn bó qua giọng thơ nhẹ nhàng, qua vẻ đẹp và những khung cảnh quen thuộc gần gũi của núi rừng Việt Bắc.

Có thể nói, Việt Bắc Đây thôn Vĩ Dạ là hai tác phẩm biểu lộ thâm thúy và rõ nét vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên và con người, trải qua đó cũng cho thấy sự tài hoa phát minh sáng tạo trong phong thái của hai nhà thơ. Dù sống ở những thời đại khác nhau, với tiến trình lịch sử dân tộc cũng khác nhau, nhưng ở họ là sợi dây liên kết, là những cảm hứng phát hiện về vạn vật thiên nhiên và con người.

1 196 11/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: