TOP 12 mẫu Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (2024) SIÊU HAY
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 Kết nối tri thức gồm dàn ý và 12 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Đề bài: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Dàn ý Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
a. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về hai bài thơ và nêu cơ sở lựa chọn để so sánh, đánh giá.
b. Thân bài:
Có nhiều cách trình bày nội dung so sánh, đánh giá. Người viết cẩn linh hoạt trong việc lựa chọn cách trình bày phù hợp với hiểu biết và hứng thú của bản thân, điểu này sẽ góp phần quan trọng vào thành công của bài viết. Có thể triển khai các nội dung so sánh, đánh giá theo những cách sau:
- Cách 1: Lân lượt phân tích từng bài thơ, sau đó chỉ ra điểm tương đồng, sự gặp gỡ và những điểm khác biệt, lí giải nguyên nhân của sự tuơng đồng và khác biệt đó; đồng thời đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này dễ làm nhưng nhiều khi bị trùng lặp ý và mục đích so sánh không được làm nổi bật.
- Cách 2: Phân tích bài thơ thứ nhất theo các phương diện đã xác định, khi phân tích bài thơ thứ hai sẽ so sánh với bài thơ thứ nhất theo từng phuơng diện và lí giải nguyên nhân của những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ, từ đó, đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này cũng dễ thực hiện và tránh bị trùng lặp, thể hiện được ý so sánh, nhưng mạch so sánh khi trình bày bài thơ thứ nhất dễ bị chìm.
- Cách 3: So sánh lần lượt các phương diện đã lựa chọn đối với hai bài thơ, chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt; lí giải nguyên nhân sự tương đồng và khác biệt đó; đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ từ các nội dung so sánh. Cách này làm nổi bật được tính chất so sánh nhưng dễ làm mờ tính liền mạch, chỉnh thể của mỗi bài thơ, đòi hỏi nguời viết phải có khả năng tư duy tổng hợp và lập luận chặt chẽ, có sự tinh nhạy trong phát hiện vấn để.
c. Kết bài: Khẳng định ý nghĩa của việc so sánh, đánh giá; nêu cảm nhận và ấn tượng của bản thân về các bài thơ.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 1)
Văn học từ muôn đời xưa, cho đến muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người. Dù chỉ tả một làn mây dòng suối, cành lá, tiếng chim, thì cũng nhằm nói về con người. Cho nên thiên nhiên trong văn học là những bức tranh tâm trạng. Người buồn thì cảnh buồn, người vui thì cảnh vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Mùa thu từ bao đời nay và sẽ mãi mãi là nguồn thi hứng, là đề tài hấp dẫn đối với các thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Rim-bô, Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã có những bài thơ rất đặc sắc dành cho mùa thu. Nhưng không vì thế mà thơ viết về mùa thu trở nên mòn sáo, đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng vậy, nhưng lòng người thì mỗi thời mỗi khác. Vì thế cảnh sắc mùa thu trong mỗi bài thơ đều có những vẻ đẹp riêng độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng. Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ trước mùa thu.
Cảnh sắc mùa thu trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ hoa cỏ, chim muông đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất trong không gian và trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu buồn như những cô gái xoã tóc chịu tang, cùng hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Các khổ thơ tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, lá rụng, cành cây khô gầy, vầng trăng bơ vơ. Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh ấy gợi lên sự chia ly, tàn tạ, phai nhạt làm nổi rõ nỗi buồn cô đơn).
Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn có cái gì đó dịu nhẹ, trẻ trung và rất đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng duyên dáng, tươi Bằng với tấm “áo mơ phai dệt lá vàng” vừa thực vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng cả không gian.
Như vậy mùa thu bên cạnh cái vẻ đìu hiu buồn, một cái buồn rất đẹp của cảnh vật, vẫn chứa đựng bên trong một sức sống trẻ trung. Ấy là cái chất trẻ trung được phát hiện bằng con mắt “xanh non” của tác giả là cái sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xốn xao trong cảnh vật.
Cảnh thu rất đẹp mà buồn vì lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân Diệu cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.
Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời chuyển vào thu:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Phải có tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới có thể đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình: Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc dù cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó là tư thế suy tư của người muốn đón nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.
Tóm lại: cảnh thu, lòng người trước mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá tuyệt vọng mà vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu là vẻ đẹp của một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện một niềm yêu đời, khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bài thơ về “Đất nước rũ bùn đứng dậy sáng loà” qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu là hình ảnh mùa thu “Sáng mát trong như sáng năm xưa”, “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó là cảnh sắc thân thuộc của mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu trong sáng, vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác giả khắc hoạ cảnh thu Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng mà xao xác buồn, buồn vì tưởng như thiếu hẳn bóng người. Buồn vì niềm bâng khuâng lưu luyến của sự chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra thì chẳng muốn rời:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Còn mùa thu hiện tại là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, lúc này đang là chiến khu tự do, căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp, nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập, niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra là ở chiến khu này. Đang trong tâm trạng vui, nên tác giả thấy cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng, đầy sức sống, đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như thay áo mới, cảnh vật như hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật và cuộc sống con người cũng ríu ran ríu rít đầy niềm vui.
Và không gian mùa thu như trải dài, mở rộng theo những con đường, dòng sông, đồng lúa, cánh rừng trùng điệp của đất nước.
Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước là cảm hứng tự hào làm chủ của một nghệ sĩ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Hà Nội 1946, tác giả có thể hiện tâm trạng buồn nhưng đó là nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương mà phải tạm biệt quê hương lên đường vì nghĩa lớn. Nỗi buồn này khác nỗi buồn của Xuân Diệu.
Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn là niềm vui, niềm tự hào về đất nước giang sơn gấm vóc, về độc lập chủ quyền vì vậy đoạn thơ viết về mùa thu chiến khu Việt Bắc vang lên sang sảng tự hào đầy kiêu hãnh.
Cùng viết về mùa thu mà Xuân Diệu chỉ thấy một mùa thu rất đẹp mà rất buồn. Còn Nguyễn Đình Thi lại tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh, màu sắc, đầy niềm vui, sức sống của cảnh vật và con người. Điều đó, xét cho cùng có nguyên nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định cảm hứng, qui định tình thu của nhà thơ và từ cảm hứng, tình thơ của nhà thơ lại qui định cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào nên cảnh thu cũng đã thay đổi.
Ba năm qua nay lại mùa thu tới
Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới
Thu từ nay không thu thảm thu sầu
Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát
Lá biếc xanh xanh
Trời thu bát ngát
Da tươi thịt thắm
Nở lại cùng sương
Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường
Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.
Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã là một người dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 2)
Tự tình II và Thuyền và biển là hai bài thơ tiêu biểu của hai nữ thi sĩ Việt Nam Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh. Mặc dù thuộc hai thế hệ nhưng quan điểm, những trăn trở suy tư của hai nhà thơ về thân phận, cảm xúc của người phụ nữ đều được thể hiện trọn vẹn qua hai tác phẩm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài. Cả ba bài đều thể hiện nhất quán nỗi tự thương mình trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt. Những vần thơ còn thể hiện sự vùng vẫy, bứt phá để dành hạnh phúc cho chính mình, nhưng cuối cùng vẫn phải nhận về thất bại cay đắng. Thân phận người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy cay đắng xót xa, họ ý thức về thân phận mình, ý thức về tuổi thanh xuân trôi nhanh mà hạnh phúc lứa đôi chưa được tròn vẹn.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Trước thực tại quá đỗi phũ phàng, dường như người phụ nữ cũng phải chấp nhận: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy ai oán chua xót. Trong một bài thơ khác Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” để cho thấy rõ hơn số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tuổi xuân người con gái có được là bao nhiều, xuân “lại lại” đồng nghĩa với thanh xuân người con gái ngày một ngắn lại, vậy mà mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Câu thơ với cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ - càng ít hơn và cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”.
Cũng thể hiện khát vọng của người phụ nữ, Xuân Quỳnh của thế kỷ XX đã thể hiện được những rung động, tha thiết trong tình yêu.
Em sẽ chia sẻ với anh
…
Đưa thuyền khắp nơi
Bài thơ bắt đầu với hình ảnh của thuyền và biển. Thuyền và biển là hai hình tượng hòa quyện với nhau, không thể tách rời, mang đến vẻ đẹp trữ tình giản dị và tạo nên sự gắn kết mạnh mẽ. câu chuyện của một tình yêu chung thủy “Từ ngày nào không biết. Thuyền nghe theo lời biển khơi”. Câu thơ như một sự thú nhận ngần ngại, e ấp, rằng từ lâu em đã thích anh, sẵn sàng xây dựng hạnh phúc lứa đôi với anh. Không biết từ khi nào em đã yêu anh, nhưng tình yêu ấy là chân thành và vĩnh cửu.
Thông thường, biển thường tượng trưng cho người con trai vì sức mạnh của nó, nhưng Xuân Quỳnh đã tạo ra một sự đảo ngược, sử dụng hình ảnh của biển để biểu hiện người con gái, vì biển cũng có sự dịu dàng, chân thật, đặc biệt là với sự rộng lớn như tình yêu của nhà thơ.
Khi yêu, chúng ta không thể dự đoán được hướng đi. Trong tình yêu, con người ta thường theo đuổi theo cảm xúc, để tình yêu dẫn đường.Cảm xúc của đôi lứa không ngừng chuyển động, không bao giờ có thể nén trong vài câu từ, nó là một thế giới sống động và tuyệt vời, tình yêu không phải ai cũng có thể diễn đạt được, nhưng Xuân Quỳnh đã thực hiện nhiệm vụ đó rất tốt. Với Xuân Quỳnh, tình yêu được định nghĩa bởi sự cảm thông, sự thấu hiểu và lòng hy sinh. Tình yêu là sự kết nối tất yếu với sự khao khát tìm kiếm, mong muốn hiểu rõ lòng nhau. Trong bài thơ, Xuân Quỳnh thông minh tách “hiểu” và “biết”, cùng lúc sử dụng hai lần từ “chỉ có”, làm nổi bật sự riêng tư của “thuyền và biển”, cũng như của “anh và em”, không có ai thứ ba nào thấu hiểu. Đó là cảm giác tự hào, tự tin trong tình yêu của chúng ta. Đó là cảm xúc và là khao khát của mỗi người khi yêu. Hình ảnh thuyền và biển vẫn liên quan chặt chẽ với nhau, biểu tượng cho tình yêu không thể chia rẽ. Trái tim của Xuân Quỳnh, khi “Thuyền và biển” ra đời, vẫn còn trẻ và ấm áp. Như một ước mơ, một định mệnh, Xuân Quỳnh trở thành thi sĩ của tình yêu, sống vì tình yêu. Có lẽ đó là sự bù đắp cho cuộc đời của Xuân Quỳnh, cũng như là cơ hội để Quỳnh có thể trở thành chính bản thân mình. Yêu thương và khao khát, cuộc sống của Xuân Quỳnh trở thành một hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Với trái tim hồn nhiên trong thời kỳ đó, Xuân Quỳnh mong muốn một tình yêu lý tưởng, chung thủy, duy nhất và hiểu biết tận cùng.
Qua đó có thể thấy, hai bài thơ Tự tình II và Thuyền và biển đều thể hiện rất tốt cảm xúc, tâm trạng của người phụ nữ trong các hoàn cảnh của cuộc đời. Nhưng có lẽ chính bởi hai tác giả thuộc hai thế hệ khác nhau nên dù cho cả hai đều có cách tân trong việc thể hiện nỗi lòng người phụ nữ nhưng ở Tự tình – khi tư tưởng còn bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến, người đọc thấy một tâm trạng bi ai, than thân trách phận của người phụ nữ thời xưa, khi họ khao khát được bày tỏ nỗi lòng nhưng không được chấp nhận và phải sống cuộc đời “tầm gửi”. Ngược lại, Thuyền và biển đã thể hiện rõ ràng tâm trạng, mong muốn, khát vọng tình yêu của người phụ nữ, để thấy được rằng, trong tình yêu, người phụ nữ cũng mạnh mẽ, sẵn sàng cho đi hơn bất kì ai khác.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 3)
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nhà thơ Thanh Hải và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng góp vào kho tàng thơ ca Việt Nam hai bài thơ về thiên nhiên rất hay đó là "Mùa xuân nho nhỏ" và "Sang thu". Hai bài thơ, hai cảm xúc nhưng lại chung nguồn cảm hứng và tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện qua những hình ảnh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ.
Nếu như bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải viết về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước cùng những khát vọng đẹp đẽ của nhà thơ thì thi phẩm "Sang thu" của Hữu Thỉnh lại viết về khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Tuy cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng mỗi thi phẩm lại có những nét đặc sắc riêng, độc đáo.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết về mùa xuân tươi đẹp xứ Huế. Ngay trong phần mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh mùa xuân tươi đẹp:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Thanh Hải đã không lựa chọn miêu tả chi tiết mùa xuân xứ Huế, ông chỉ sử dụng vài nét chấm phá để vẽ lên bức tranh mùa xuân của mình. Đó là một bông hoa nhỏ "tím biếc" "mọc " lên giữa "dòng sông xuân", đó là âm thanh chim "chiền chiện" đang ca hót líu lo giữa bầu trời cao rộng. Tất cả đều đang gợi lên hình ảnh về một mùa xuân tươi vui, rộn rã.
Ở ngay dòng thơ đầu tiên, nhà thơ đã cố ý đặt từ "mọc" lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự đột ngột, bất ngờ của những dấu hiệu về mùa xuân khi xuất hiện. Đóa hoa "tím biếc" phải chăng là một đóa lục bình đang trôi nhẹ trên sông Hương xanh biếc, một biểu tượng của xứ sở Huế thân yêu? Và những chú chim "chiền chiện" - kẻ báo tin của mùa xuân thì đang cất lên những tiếng hót rộn rã mừng mùa xuân đang về. Từ "ơi" được nhà thơ đặt ngay đầu câu thơ như tiếng gọi tha thiết, thân thương với những chú chim đang ca hót. Tiếng hót ấy khiến cho nhà thơ phải bồi hồi, xúc động mà trách cứ trong niềm thương mền:
"Hót chi mà vang trời"
Lời trách cứ ấy nghe thật đậm phong vị của xứ Huế. Tiếng chim trên cao gọi mùa xuân như đang cô đặc lại, lắng xuống, tạo thành những giọt mật của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời đang rơi xuống đất. Hay phải chăng đó là những giọt mưa xuân đang phấp phới bay trong không gian ngập sắc xuân? Nhưng dù đó là gì thì cũng khiến nhà thơ Thanh Hải vô cùng xúc động, bồi hồi mà đưa bàn tay "hứng" lấy từng "giọt long lanh" đó. Động tác "hứng" của nhà thơ thật nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi nó chứa đựng sự nâng niu, trân trọng mà ông dành cho mùa xuân. Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ông đã biến mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình để cầm, nắm, chạm, nếm thử một cách thích thú.
Bức tranh thiên nhiên được nhà thơ dựng lên trong tình yêu tha thiết với thiên nhiên, muốn tận hưởng mùa xuân từ những giây phút đầu tiên. Mùa xuân trên quê hương xứ Huế của ông là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi nhất, thân thương nhất, giản dị nhất.
Còn đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông lại chọn viết về mùa thu. Bức tranh chớm thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện lên với những hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, thân thương:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Mùa thu đối với Hữu Thỉnh được gợi mở bằng những dấu hiệu thật quen thuộc: đó là hương ổi chín đang lan toả trong làn "gió se" lành lạnh, là màn sương mù bao phủ khắp xóm thôn. Ổi vốn là thức quả quen thuộc của người dân Việt Nam, nó xuất hiện để báo hiệu cho mùa thu của thiên nhiên, đất trời. Và "hương ổi" là thứ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ, để ông nhận ra sự xuất hiện đột ngột của mùa thu:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se"
Từ "bỗng" được nhà thơ đặt ở đầu câu thơ cho thấy cảm giác đột ngột, bất ngờ, ngỡ ngàng của nhà thơ khi ông chợt nhận ra mùi thơm của "hương ổi" đang lan tỏa trong không khí. Đó là dấu hiệu của mùa thu, những dấu hiệu sớm nhất, quen thuộc nhất, thêm vào đó là làn gió se lạnh khô đang bao trùm lấy không gian.
Một dấu hiệu khác báo hiệu mùa thu về đó là màn sương mù đang "chùng chình" đi qua ngõ xóm. Động từ "chùng chình" diễn tả sự chậm rãi một cách cố ý. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương khiến nó như có linh hồn. Nó đang chậm chạp đi qua từng ngõ nhỏ, báo hiệu sự chớm thu của đất trời. Và cũng chính lúc này, nhà thơ mới giật mình, thảng thốt mà nhận ra rằng:
"Hình như thu đã về".
Hữu Thỉnh đã tinh tế nắm bắt những tín hiệu chớm thu của đất trời đồng thời ông cũng thấy những chuyển biến của thiên nhiên khi bước vào thu:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Mùa thu, thiên nhiên lại mang một vẻ đẹp thật khác biệt. Nếu như dòng sông mùa hạ cuồn cuộn chảy những nước thì giờ đây nó lại dịu lại, "dềnh dàng", chậm chạp, thong thả chảy trong êm đềm. Những chú chim nhỏ mùa hạ đã ca hót suốt mùa thì nay lại "vội vã" chuẩn bị để đi tránh rét. Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp đối lập cùng hai từ láy tượng hình "dềnh dàng", "vội vã" để diễn tả sự đối lập của vạn vật khi màu thu sang.
Nhưng đặc biệt nhất trong bức tranh thiên nhiên này phải kể tới hình ảnh "đám mây mùa hạ". Đám mây ấy chẳng còn mang hơi nóng của mùa hạ nhưng cũng chưa hoàn toàn có được sự thanh thoát, nhẹ nhàng của mùa thu. Đám mây mùa hạ ấy hình như còn tiếc nuối điều gì với mùa hạ mà mới chỉ "vắt nửa mình sang thu". Đây là hình ảnh miêu tả liên tưởng nhân hoá rất độc đáo trong các tác phẩm thi ca viết về thiên nhiên của Việt Nam
Mùa thu đã sang thế nhưng đất trời vẫn còn hơi nắng. Những cơn mưa mùa hè bất chợ cũng đã dần vơi đi. Cả những tiếng sấm cũng đã dịu bớt. Tất cả đều báo hiệu một mùa thu đã sang:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Hai bài thơ tuy được viết trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều khắc hoạ hình ảnh của thiên nhiên cùng tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, niềm cảm hứng dạt dào với cảnh sắc quê hương. Nếu như Thanh Hải cho ta cảm nhận một mùa xuân êm đềm, rộn rã của con người trong thời kì xây dựng đất nước thì Hữu Thỉnh lại mang đến cảm nhận về một mùa thu yên bình, dân dã, quen thuộc. Cả hai thi phẩm đều mang đến cho người đọc những cảnh sắc thiên nhiên quê hương đẹp đẽ, khó quên!
Hai bài thơ Sang thu và Mùa xuân nho nhỏ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc của hai nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh và Thanh Hải. Hai bài thơ đã góp phần vào những thi phẩm viết về thiên nhiên đặc sắc nhất trong thi đàn Việt Nam.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 4)
Viết về đề tài người lính trong cuộc kháng chiến Pháp, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm truyện và bài thơ được sáng tác về chủ đề này. Trong số các tác giả nổi tiếng, có Quang Dũng và Chính Hữu. Bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí vẫn là những tác phẩm được độc giả yêu thích và được đánh giá cao. Hãy cùng nhau viết về người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhưng không chỉ là những điểm tương đồng, mà còn là những khác biệt giữa họ.
Khác biệt đầu tiên là về xuất thân. Người lính trong hai bài thơ có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, điều này dẫn đến tính cách khác nhau.
Những chiến sĩ Tây Tiến dưới bàn tay nghệ sĩ Quang Dũng chủ yếu bắt nguồn từ tinh thần trẻ trí thức ở thủ đô Hà Nội. Họ bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính điều này làm nên tâm hồn lãng mạn của họ:
'Đêm Hà Nội vuốt mình trong giấc mơ'
Dù đối mặt với những khó khăn khốc liệt trong trận chiến, tinh thần lãng mạn không bao giờ phai mờ trong tâm hồn những lính trẻ. Họ khắc sâu hình ảnh những người phụ nữ yêu quý để làm phong phú thêm cuộc sống, tạo sự cân bằng với thực tại khốc liệt. Họ đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên, ngắm nhìn vẻ đẹp vĩ tuyến của núi rừng Tây Bắc, khẩu súng trong tay cao vút như đang chạm vào bầu trời. Và đặc biệt, những chiến sĩ này mang tâm hồn trẻ trung, hạnh phúc.
Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không phải là những tư nhân xuất thân từ tầng lớp trí thức, mà chính họ là những con người nông dân chân chất, sống giản dị ở những làng quê bình yên:
'Quê hương tôi, đất mặn sóng biển
Làng nghèo thân thương, đá sỏi nổi bần
Tôi và anh, hai kẻ xa lạ
Chẳng hẹn nhau, phương trời kết nghĩa'
Họ là những chiến sĩ nông dân đến từ những vùng quê nghèo, đất mặn sóng biển, nơi đá sỏi nổi bần. Họ vừa mạnh mẽ, vừa tràn đầy tấm lòng nhân ái. Nếu trước đây họ chỉ quen với cuộc sống cày cấy, làm ruộng nhưng vì tình yêu quê hương, vì sự căm thù với kẻ thù, họ đã bỏ qua mọi điều để 'mặc kệ' ngôi nhà yên bình, sẵn sàng bước vào chiến trường. Bỏ lại giếng nước thơm, bỏ áo vải nâu quen thuộc, những chiến sĩ nông dân khoác lên mình bộ áo xanh quân đội, tay cầm súng bảo vệ quê hương.
Sự khác biệt thứ hai giữa những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:
'Binh đoàn Tây Tiến, tóc không mọc
Quân phục xanh như lá, mạnh mẽ dữ oai
Mắt trừng nhìn vượt biên giới
Đêm mơ về Hà Nội, hình ảnh kiều diễm thơm lừng'
Với điều kiện chiến tranh thiếu thốn, môi trường chiến đấu trong những khu rừng núi hoang sơ, người lính Tây Tiến xuất hiện với hình ảnh đầu không có tóc, quân phục xanh lá cây ngụy trang hoặc có thể là màu của đồng phục quân đội, thậm chí là biểu tượng xanh vì thiếu chất. Tuy nhiên, họ không hề yếu đuối, ngược lại, họ mang vẻ 'dữ oai'. Bằng ánh mắt trừng, họ truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.
Ngược lại với người lính Tây Tiến, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:
'Áo anh rách vai
Quần tôi vá vài mảnh lụa
Cười buốt giá từ miệng buốt giá
Chân không đôi giày
Thương nhau, tay nắm chặt lấy bàn tay!'
Nét ngoại hình của lính nông dân không tập trung vào đặc điểm khuôn mặt mà đặt nặng vào thiếu thốn của bộ quần áo. Họ phải mặc chiếc áo vá vai rách, quần được vá lên từ những miếng lụa. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.
Cả hai bài thơ đều thể hiện tình đồng chí đồng đội, nhưng cách mà người lính thể hiện tình đồng chí khác nhau.
Người lính Tây Tiến, những người trí thức, thể hiện tình cảm của họ một cách tinh tế. Nhà thơ không mô tả trực tiếp sự quan tâm chăm sóc, nhưng thông qua những hồi ức, cảm nhận về đồng đội, nó thể hiện sự gắn bó. Nó là một liên kết chặt chẽ đến nỗi người lính Tây Tiến sẵn lòng:
'Ai lên Tây Tiến mùa xuân kia
Chốn về Sầm Nứa chẳng bao giờ trở lại'
Trong bức tranh tình đồng chí của nhà thơ Chính Hữu, người lính nông dân miêu tả một cách trực tiếp. Đối với họ, tình đồng chí là những người không hẹn trước, đến từ những nơi xa xôi nhưng:
'Súng kề súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét, chung chăn trở thành đôi tri kỷ
Đồng chí ơi!'
Hoặc:
Nắm tay nhau, đêm nay rừng hoang mặn
Dựa gần nhau, đợi giặc tới trong sương
Súng kề súng, trăng treo trên đầu súng'
Từ những bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí, ta thấy vẻ đẹp đặc sắc của người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được tạo nên bởi sự nghệ thuật của Quang Dũng và Chính Hữu. Dù mang những đặc điểm khác nhau, nhưng những điểm độc đáo ấy lại tạo nên một vẻ đẹp chung cho người lính Việt Nam. Dù ở đâu, là ai, hay xuất thân như thế nào, họ cùng chung lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh để mang lại hạnh phúc cho đồng bào.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 5)
Nỗi nhớ của người lính vốn là một điều gì đó thật đẹp. Nếu trong Tây Tiến, đó là nỗi nhớ tha thiết với vùng đất binh đoàn Tây Tiến – nơi nhân vật trữ tình đồng hành cùng những đồng đội, vượt bao gian khổ để tiến bước thì trong Tiếng hát con tàu, đó lại là nỗi nhớ Tây Bắc và và tình yêu, sợi dây kết nổi kì lạ với con người nơi đây.
Dòng cảm xúc và nỗi nhớ đã làm nên vẻ đẹp của hai bài thơ, để hai bài thơ trở thành tượng đài bất hủ của nền thơ ca cách mạng.
Đến với Tây Tiến, Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
..Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, để thành nỗi nhớ và tiếc nuối nữa. Những tiếng “xa rồi Tây Tiến ơi!” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc. Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!". Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ây có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật diệu vợi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài và cái tình ấy trong cầu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!".
Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ân tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung Thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi….. khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ân tượng nhiều chiều trung, tâm trí người đọc. Bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gia nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh nười lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Nếu Quang Dũng nhắc đến rừng núi mơ mộng thì Chế Lan Viên định hình rõ ràng và sâu sắc nỗi nhớ của mình. Biện pháp điệp từ “nhớ” vừa làm nổi bật, vừa thể hiện nỗi nhớ tràn ngập, như 'bản sương giăng', 'đèo mây phủ', là những vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Từ những cảm xúc cá nhân, tác giả nâng lên thành quy luật tình cảm, “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?. Tiếp theo, tác giả đưa ra một triết lý, “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”, tạo ra cặp đối lập 'khi ta ở-khi ta đi', làm cho đất trở thành một phần của tâm hồn khi rời đi.
Từ ký ức về nhân dân và cảnh vật Tây Bắc, tác giả chuyển sang suy ngẫm về tình yêu và sự kết nối đặc biệt với đất lạ.
“Anh đột nhiên hồi tưởng về em như dòng lạnh của mùa đông
Tình yêu ta giống như cánh kiến và hoa vàng
Như chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về
Tình yêu như làm cho đất lạ trở thành quê hương”
Anh và em nắm tay nhau cuối mùa chiến dịch
Xôi gói nuôi quân, giấu trong rừng mỗi ngày
Đất Tây Bắc không biết đến lịch trình
Mùi hương xôi đầu vẫn đọng mãi trong ký ức”.
Tiếp theo theo dòng cảm xúc nhớ về nhân dân, tác giả chuyển hướng đột ngột sang nỗi nhớ đột ngột về người yêu. Hình ảnh đặc sắc như “như đông về nhớ rét” diễn đạt sự khắc sâu của tình cảm, giống như giá rét gắn bó với mùa đông, làm nổi bật giá trị quan trọng của mối quan hệ. Nỗi nhớ này dẫn tới suy ngẫm về tình yêu, so sánh với 'cánh kiến và hoa vàng', 'chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về'. Cánh kiến và hoa vàng, như tình yêu đôi lứa, gắn bó không thể tách rời; và chim rừng trắng bạch, giống như tình yêu, làm cho mùa xuân trở nên rực rỡ. Cuối cùng, từ nỗi nhớ và tình yêu, tác giả đưa ra triết lý: “Tình yêu làm cho đất lạ trở thành quê hương”. Tình yêu giúp đất lạ trở nên thân thuộc và quan trọng như quê hương.
Qua đó có thể thấy, với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta. Còn Tiếng hát của con tàu là bài thơ thể hiện niềm khao khát và hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, để tìm lại nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo và cho hồn thơ của mình. Bài thơ tạo hình ảnh sáng tạo, đầy màu sắc và tinh tế, kết hợp trí tuệ và cảm xúc, mang lại cho độc giả những trải nghiệm thẩm mỹ đặc sắc của thơ Chế Lan Viên.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 6)
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng. Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn rằng: chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ hành động.Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, trở thành đồng đội, đồng chí của nhau. Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh mang bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Đi chiến đấu chống xâm lăng, các anh để lại sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc và mái tranh nghèo cùng với những người thân.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.”
Mặc kệ là lối nói tự nhiên, mộc mạc của người nông dân, bày tỏ thái độ dứt khoát trọng việc nước hơn việc nhà. Dứt khoát thế nhưng không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc, gia đình. Nỗi nhớ của các chiến sĩ đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh... gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn là những miền quê nghèo khó. Trong môi trường quân đội, các anh gắn bó, chia sẻ vui buồn, gian khổ, sông chết với nhau. Còn gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái siết tay của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau lúc gian nan, nguy hiểm?Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn tay trắng. Bộ đội có gì mặc nấy, có gì dùng nấy, đâu được trang bị đầy đủ như bây giờ. Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững chắc vào ngày mai chiến thắng. Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đó là hình ảnh đơn sơ mà tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc thời kì đầu kháng chiến, đồng thời cũng là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa những con người đang kề vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống thanh bình cho dân tộc. Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm, có sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng họ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, là tình cảm tất cả vì miền Nam ruột thịt, là chân lí "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men... để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào!Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh vật đối với sự cảm nhận của con người tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.
Mỗi vất vả, gian nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính. Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam - tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng... Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh, thời điểm khác nhau nhưng cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực và đều nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước. Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm chiến đấu... đó là những nét đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 7)
Hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận đều là những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Hai ông đều có những "cái tôi" riêng biệt góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm. Điều này được thể hiện rõ qua hai bài thơ "Tràng giang" và "Vội vàng".
“Tràng Giang” là một ngọn lửa rực rỡ trong tập thơ “ Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, một buổi chiều buồn khi ông đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ. Trước dòng sông hùng vĩ và hoang vắng mùa lũ, ông mở rộng lòng mình để tâm hồn trôi nổi theo dòng nước. Cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian bao la, “Tràng Giang” hiện lên với một nỗi buồn man mác. Bài thơ thể hiện tâm trạng một “cái tôi trữ tình” sầu đượm, cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những triết lí sâu xa và lòng yêu nước thầm kín.
Nhìn vào bài thơ trước hết ta thấy ngay tựa đê “Tràng Giang” vô cùng nổi bật. “Tràng Giang” nghĩa là “sông dài”. Người ta từng đi tìm hiểu về con sông trong bài thơ này của Huy Cận nhưng rồi chợt nhận ra điều này là vô nghĩa. Huy Cận không nhắc về một con sông cụ thể nào. Nó có thể là con sông Hồng mùa nước lũ khi ông đi ngang qua và viết bài thơ, nhưng cũng có thể con sông này khởi nguồn từ xa hơn, là con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay là cả sông Hương nữa. Những con sông luôn nằm trong tiềm thức và luôn gắn bó với ông trong nỗi nhớ quê nhà. “Tràng Giang” không phải là tên sông, nó gợi lên cho người đọc một con sông u hoài trong kỉ niệm của riêng mình. Và đối với bài thơ, nó đúc kết một cách ngắn gọn nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Những câu thơ đầu tiên đưa ta đến với những ấn tượng về cảnh sông nước bao la trong một không gian mênh mông, bát ngát:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Sự mênh mang của không gian được gợi ra qua từng lớp từng lớp sóng. Sóng gợn nhấp nhô trên dòng sông dài khiến nỗi buồn chất chồng “điệp điệp”. Từ “ điệp điệp” vang lên khiên lòng người trĩu nặng, tạo lên một âm điệu trầm buồn còn mãi đọng lại dư âm. Trước không gian rộng lớn của dòng sông ta bắt gặp hình ảnh một con thuyền xa xăm xuôi mái theo những dòng nước song song rong ruổi về cuối chân trời. Cái nhỏ nhoi của con thuyền đơn độc càng làm nổi bật hơn cái rộng dài tưởng như mênh mang của dòng sông. Hai câu thơ với nghệ thuật đặc tả và khả năng khơi gợi đã làm nổi bật lên cái tôi trữ tình của tác giả: một tâm hồn man mác cô đơn.
Hai câu thơ tiếp
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Thuyền về” khiền mặt sông trở lên heo hút, “nước lại sầu trăm ngả”. “Thuyền” và “nước” di chuyển trái chiều nhau như một sự chia ly xa cách. Con thuyền đơn độc, lẻ loi chỉ xuất hiện một chút trong không gian rợn ngợp rồi lại rời đi để lại nỗi buồn ngổn ngang, trăm mối tơ vò. “Nước” và “thuyền” chỉ gợi lên nỗi “sầu trăm ngả” nhưng “củi một cành khô” lại cho ta cảm giác chênh chao, heo hút đến rợn người. Hình ảnh “củi” đã gầy guộc mong manh, ở đây “củi một cành khô” lại càng thêm nhỏ bé, như “lạc mấy dòng” vào vô vọng trong những con sóng nối tiếp đến vô cùng. Cái tôi trữ tình ở đây dường như trở lên mong manh, đơn bạc giữa những sóng gió cuộc đời. Những hi vọng xa xăm, những nỗi buồn rồi những băn khoăn về lí tưởng. Chỉ bằng những hình ảnh đơn sơ nhưng câu thơ đã khơi gợi lên thân phận cô đơn của cả một kiếp người.
Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang mở ra với một nỗi buồn sâu lắng:
“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vó
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Khổ thơ có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn dường như không vơi đi mà còn lặng lẽ hơn. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước, “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu”. “Cồn cỏ” xuất hiện nhưng lại “lơ thơ” với “đìu hiu” tạo nên khung cảnh cô liêu, tịch mịch đầy tâm trạng. Làng xóm hiện ra nhưng chỉ với âm thanh xa vời “đâu tiếng làng xa”. “Chợ chiều” thường gắn với hình ảnh hiu hắt khi con người đã ra về hết, chỉ còn lại hàng quán với mái lá vắng tanh. Cảnh vật, làng xóm dường như càng làm cái tôi trữ tình cô đơn hơn, nổi bật lên khát khao trong tâm hồn của một con người mong muốn sẻ chia. Rồi nỗi buồn như lan toả hết không gian của bến bãi, mặt nước, bầu trời. “Nắng xuống” – “trời lên” hai hình ảnh vận động trái ngược làm cho không gian thêm chiều sâu. Cụm từ “sâu chót vót” chuyển đổi cảm giác khiến ta như rợn ngợp trước đất trời. Cảm xúc lướt dần để rồi đọng lại ở “bến cô liêu” như lột tả hết những cô đơn, hoang vắng, trống trải trong hồn người.
Tiếp theo:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Những cánh bèo trôi dạt dường như khéo léo ẩn dụ cho thân phận nổi trôi của một kiếp người bế tắc. Những cánh bèo này không chỉ có một mà “hàng nối hàng” , cảm giác như miên man không dứt. Hai câu thơ sau càng cho ta thấy thêm sự vô vọng, “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, chẳng có một “niềm thân mật” nào để bám víu. Khoảnh khắc mà ánh sáng xanh của bờ bãi và nét vàng mờ nhạt xuất hiện là lúc cai tôi trữ tình chìm sâu trong nỗi buồn, những suy nghĩ mông lung.
Khép lại bài bài thơ là những nét thiên nhiên nhiên và tâm sự con người:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Mây cao” và “núi bạc” xuất hiện gợi lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ nhưng vẫn mang đầy dáng vẻ cô đơn trong bóng chiều hiu hắt. Giữa trời đất bao la chỉ có một cánh chim nhỏ chao nghiêng. Tất cả như cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và con người như chìm ngập giữa trời đất bao la. Cảm giác chênh chao của cán chim lẻ bóng lại xuất hiện để nổi bật lên trong nỗi sầu là tình cảm yêu quê hương đất nước đến da diết của cái tôi trữ tình. “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, hai chữ “dợn dợn” thật đắt, nó thể hiện được cái dợn dợn trong tâm cảnh cũng như trong tâm hồn. Câu thơ cuối gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng ở Huy Cận, ông không cần phải có “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ này, nỗi buồn này dường như luôn thường trực trong tâm khảm.
“Tràng Giang” bằng âm điệu trầm buồn cùng cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật lên “cái tôi trữ tình” với một trái tim cô đơn nhưng luôn đau đau tình yêu với quê hương đất nước. Theo “Tràng Giang” ta không chỉ cảm thông với nỗi niềm của thi nhân mà còn quý trọng một tài hoa, một tâm hồn đáng trân trọng của Huy Cận.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” đã mang một luồng gió mới đến văn học Việt Nam – một cái tôi mãnh liệt táo bạo đầy mê say. Trong đó, cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng mang một phong cách rất khác biệt.
Cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng trước hết là một cái tôi táo bạo, mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua ước muốn táo bạo và có phần vô lý trong bốn dòng thơ ngũ ngôn.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Trong lúc ta phiêu bạt chốn bồng lai cùng Tản Đà, chìm đắm trong thế giới trăng đầy mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử thì Xuân Diệu lại là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Chính tình yêu trần thế đã níu kéo ông với cuộc đời thay vì lựa chọn thoát tục xa rời cuộc sống như những nhà thơ khác.
Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, ta nhận thấy với cuộc đời, ông có một khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp hài hòa cùng thể thơ ngũ ngôn tạo ra một tiết tấu nhanh mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Nhịp thơ nhanh như tô đậm hơn mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn thi sĩ.
Đó là ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” tưởng chừng vô lý ấy nhưng lại chứa chan một tinh thần khát khao mãnh liệt. Một ước muốn táo bạo bởi đó là ước muốn can dự vào quy luật của tạo hóa để bất tử hóa cái đẹp. Bởi cái đẹp ngàn đời vốn mỏng manh trước dòng chảy vô tình của thời gian.
Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, người đọc cũng nhận ra khát khao táo bạo nhưng không phải ngông cuồng, cũng không phải một phút bồng bột mong muốn thách thức tự nhiên. Bởi ông muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là để “màu đừng nhạt mất”, để “hương đừng bay đi”. Bởi nắng sẽ làm phai màu cuộc sống, gió sẽ làm nhạt đi hương vị cuộc đời. Vì thế, Xuân Diệu như muốn níu giữ thời gian để mọi vật vẫn mãi giữ được sự xuân sắc của mình dù đó là điều không thể. Có thể nói, đây chính là một khát khao, một tình yêu cuộc sống say đắm của nhà thơ.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 8)
Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) là những tiếng lòng của thế hệ sau, từ phương trời khác trước những nỗi niềm tâm sự, những bi kịch của người xưa. Điều đáng nói ở chỗ, sức sống của ba thi phẩm không vì lòng ngưỡng mộ cảm phục hay lời tán tụng hoan ca, mà bởi Nguyễn Du, Thanh Thảo đã làm sống dậy những thế giới tâm hồn, hiện hữu những bi kịch cuộc đời, bi kịch nội tâm một cách tinh tế, sâu sắc mà sống động như trải nghiệm hiện tại của chính mình, khơi dậy sự đông cảm từ sâu thẳm tâm hồn người đọc với không phải một mà là hai cõi hồn, và nhiều hơn thế nữa...
Thơ ca là xúc cảm mang tính chủ quan, và như vậy thơ mang tính cá nhân, cá thể. Nhưng không phải thơ chỉ thể hiện những gì thuộc về tình cảm cá nhân riêng biệt bởi cảm xúc của bất kì ai cũng mang những nét rất chung của loài người. Với những tài thơ, những nhà thơ lớn, điều khiến cho sự nghiệp thơ ca của họ vượt qua được thử thách của không gian, thời gian bao giờ cũng bởi tiếng nói nhân văn cao đẹp, bởi tiếng lòng trong thơ đã làm rung động được tâm hồn của những thế hệ sau, ở những nền văn hóa khác. Nàng Tiểu Thanh, Gacxia Lorca là những tài thơ như thế, họ đã tìm được tiếng nói tri âm từ thế hệ sau là Nguyễn Du, Thanh Thảo. Và tiếng nói tri âm từ thế hệ sau đã làm sống dậy không chỉ một trời thơ mà cả một cõi hồn, đã góp phần làm tiếng nói của yêu thương, khát vọng trở nên bất tử, những bi kịch trở nên day dứt và đầy ám ảnh.
Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) là tiếng nói thấu hiểu những bi kịch của tiên nhân, đã tái hiện những bi kịch ấy một cách sâu sắc và đớn đau như sự trải nghiệm của chính mình. Từ đó, các nhà thơ đã thể hiện thái độ cảm thông, xót xa trước những số phận đầy oan nghiệt, bi phẫn trước thời đại và xã hội đã vùi dập khát vọng chính đáng và cao đẹp của con người. Đồng thời, Nguyễn Du, Thanh Thảo đã nói lên tình cảm trân trọng trước cái đẹp, tài năng, trước những tấm lòng. Một lần nữa, tiếng nói nhân văn lại được vút cao.
Độc Tiểu Thanh kí và Đàn Ghita của Lorca đã thể hiện những trăn trở đầy tính nhân văn về tình người, tình đời, về khát vọng lí tưởng sống cao đẹp của Nguyễn Du, Thanh Thảo. Ta gặp trong hai thi phẩm tiếng nói đồng vọng của những tâm hồn mà điểm gặp gỡ chính là tâm sự nặng lòng vì nhân thể, thiết tha đau đáu trước cái tài, cõi tình và những số phận. Đó chính là tinh thần nhân văn cao cả bởi chỉ tinh thần đó mới đủ sức mạnh để vượt qua được mọi giới hạn về không gian, thời gian, thậm chí cả những khác biệt về văn hóa để có thể chung hòa và cộng hưởng để tinh thần bất tử ấy vút cao trong thơ. Ta gặp trong mỗi bài thơ hai tâm hồn đang giao hòa và tỏa sáng.
Qua đó, người đọc nhận thấy hiện diện trong hai tác phẩm là niềm đồng cảm sâu sắc, niềm tiếc thương day dứt, đớn đau, phẫn uất, bất bình cho cái Đẹp bị huỷ diệt, đầy đoạ, dập vùi. Sự nâng niu, trân trọng cái Đẹp, khẳng định sức sống của cái Đẹp, gắn với khát vọng bất tử hoá cái Đẹp, hướng con người tới những tình cảm nhân văn cao đẹp, đặt ra những câu hỏi lớn lao cho thời đại, là tiếng nói cất lên từ thời đại nhưng còn đọng lại và có tầm nhân loại….
Điểm khác biệt của hai tác phẩm có thể kể đến nội dung cảm xúc và nghệ thuật. Trong Độc Tiểu Thanh kí, Nguyễn Du thương cho kiếp hồng nhan, phong lưu bạc mệnh, tài tử đa cùng. Mạch thơ đi từ thương người sang thương đời, thương mình. Bài thơ đan xen biết bao cảm xúc (thương cảm, xót xa, phẫn uất, thất vọng, khắc khoải…). Tác phẩm là thơ chữ Hán theo thể thơ Đường luật cổ điển. Nhà thơ nói bằng nghệ thuật đối, bằng những câu hỏi tu từ như xoáy vào hồn người, bằng cách xưng tên da diết khắc khoải, bằng giọng thơ trang trọng mà tràn đầy cảm xúc yêu thương…
Với bài thơ Đàn ghi-ta của Lor-ca, Thanh Thảo thương xót cho cuộc đời người chiến sĩ-nghệ sĩ. Mạch cảm xúc làm cho bài thơ kết cấu giống như một bản giao hưởng về cuộc đời Lor-ca. Nhà thơ xây dựng hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, sử dụng thể thể thơ tự do theo khuynh hướng thơ tượng trưng, siêu thực mới mẻ giầu chất nhạc, chất hoạ…
Qua điểm gặp gỡ và những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du và Thanh Thảo nói riêng trong hai thi phẩm thấy được ý nghĩa của sáng tạo văn chương, thấy được vai trò, nhiệm vụ của nhà văn, của độc giả trong quá trình sáng tạo và thưởng thức văn chương. Đó là sự gặp gỡ và nét khác biệt với những sáng tạo độc đáo, thú vị làm nên sự phong phú, giàu có kì diệu của văn học. Điểm tương đồng làm nên tính tập trung, thống nhất của văn học, làm cho mọi người có thể hiểu nhau, đồng cảm với nhau qua văn học (bất chấp khoảng cách về không gian, thời gian). Điểm khác biệt độc đáo sẽ làm tiến trình văn học ngày một dài hơn, kho tàng văn học nhân loại giàu có hơn; đời sống tinh thần con người sẽ phong phú hơn và người nghệ sĩ ghi được tên tuổi của mình trong dòng đời nước chảy.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 9)
Đất nước là đề tài quen thuộc trong thơ văn. Nhưng không vì thế mà nó trở nên đơn điệu nhàm chán. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi hoàn cảnh khác nhau, cũng như mỗi phong cách của một tác giả lại có cách thể hiện gương mặt Đất Nước khác nhau. Góp phần làm phong phú cho mảng đề tài này ta phải kể đến Việt Bắc của Tố Hữu) và trích đoạn Đât Nước (trường ca Mặt đường khát vọng ) của Nguyễn Khoa Điềm
Mở đâu cho chương thơ của mình, Nguyễn khoa Điềm đã viết “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Vâng ! Nhà thơ và cả chúng ta nữa, đều không biết đất nước có từ bao giờ, nhưng qua văn chương cổ, ta bắt gặp gương mặt đất nước từ một cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ
(Ca dao)
Hay một chợ quê yên bình:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dẳng giỏi cầm ve lầu tịch dương
(Nguyễn Trãi)
Nhưng khi có giặc ngoại xâm, thì đất nước không chỉ oằn mình trong đau thương. Mà đất nước ấy còn rực lửa căm hờn : “Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống” Để rồi lòng căm hờn ấy biến thành những trận đánh vang trời:
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ cho bay
(Nguyễn Trãi)
Để mãi mãi đất nước là niềm tự hào của con cháu người Việt:
Từ Triệu Dinh Lý Trần bao đời gây nền Độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên xưng Đế một phương
Tuy mạnh yếu tưng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Nguyễn Trãi)
Hòa trong nguồn mạch chung của văn học dân tộc, Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm cũng thấy Đất Nước mình hiện lên thật tươi đẹp. Trải qua những cơn binh lửa Đất Nước thật đau thương nhưng cũng thật anh hùng mà tình nghĩa.
Nếu Tố Hữu cảm nhận đất nước qua cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Thiên nhiên Việt Bắc như một sinh thể đang biến đổi trong từng khoảnh khắc ( Đông xuân hạ thu, sáng, hoa mơ nở trắng rừng, trưa ánh nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng dọi bàng bạc khắp nơi . Và trong thiên nhiên ấy con người là đoá hoa đẹp nhất có hương thơm ngọt ngào nhất. Họ là những con người Việt Bắc bình dị làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ.
Thì Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận Đất Nước là núi sông rừng bể bao la:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hon núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi.
Đất Nước là những danh lam thắng cảnh tươi đẹp kỳ thú như Núi Bút non Nghiên, hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… vượt lên lối liệt kê tầm thường, Ông không chỉ chiêm ngưỡng những cảnh đẹp của thiên nhiên mà còn nhìn ra trong đó tình nghĩa thuỷ chung của những con người làm nên gương mặt đất nước
Và ở đâu trên khắp ruồng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình một ao ước ông cha
Ôi đất nước đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Nhưng khi giặc ngoại xâm tràn đến, Đất Nước đã phải trải qua những ngày tháng đau thương.
Trong Việt Bắc, Tố Hữu không nói nhiều về nỗi đau mất mát. Bởi bài thơ vừa là khúc ca ân tình vừa là bài ca chiến thắng của một thời lịch sử. Nên quê hương cách mạng những ngày “trứng nước” ấy hiện lên với bao nỗi gian nan vất vả : “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”; “Thương nhau chia củ sắn lùi, Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”và qua cả hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng – Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” …
Nguyễn khoa Điềm cũng cảm nhận nỗi đau thương ấy không phải ở một giai đoạn, một thời kỳ cụ thể mà là suốt 4000 năm:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Trong lịch sử dựng nước của mình, dân tộc Việt Nam có thời kỳ nào không phải chống ngoại xâm, có thế hệ nào không phải trải qua nỗi đau của chiến tranh : con mất cha, vợ mất chồng; những người vợ, người mẹ vò võ một mình nuôi con, mòn mỏi chờ người thân trở về.
Trước núi đau thương chồng chất mà kẻ thù gây ra cho dân tộc, trước sự sống còn của vận mệnh Đất nước, Tố Hữu cảm nhận được cả đất trời cùng đồng lòng vùng lên đánh giặc
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời trời ta cả chiến khu một lòng
Biện pháp nhân cách hóa, kết hợp với các động từ mạnh, các từ chỉ không gian rộng lớn, Tố Hữu đã nêu bật được sức mạnh trời không dung đất không tha đối với kẻ thù
Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận lòng căm thù, sức mạnh vùng lên của dân tộc qua “bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuối”, “Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”,
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì cùng nhau đánh bại
Câu thơ giản dị như lời kể, nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã nêu bật được sức mạnh tất thắng của ta _ Bằng cảm quan hiện thực ấy, Tố Hữu thấy sức mạnh của Đất nước qua những con đường ra trận:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sang như ngày mai lên
Một loạt từ láy kết hợp với biện pháp so sánh cường điệu, hình ảnh thơ vừa thực vừa lãng mạn, Tố Hữu không chỉ gợi ra gợi ra thật hay, thật hào hùng âm vang, sức mạnh của cuộc kháng chiến mà còn làm cho hình ảnh đất nước trong khỏng chiến, bỗng trở nên rực sáng và hào hùng
Soi chiếu vào lịch sử, qua “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm cũng thấy sức mạnh của dân tộc ở “bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”
Họ sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Đó là mạch ngầm truyền thống, là ý chí giống nòi, chảy từ quá khứ đến thực tại và tương lai, tạo nên sức mạnh bốn nghìn năm lịch sử mà không kẻ thù nào có thể đánh bại
Nói đến Đất Nước là nói nhân dân, những con người đã đem máu mồ hôi và nước mắt để sáng tạo lịch sử và đất nước
Trong mạch cảm hứng ấy, Tố Hữu cảm nhận được những người góp phần làm nên “Quê hương Cách mạng”, “dựng nên Cộng hòa”, đó là những người mẹ địu con lên rẫy, những người đan nón, những người đi rừng “đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”, và cả những cô em gái hái măng một mình. Họ là nhưng con người nghèo khổ nhưng “đậm đà lòng son”, thủy chung tình nghĩa, đồng cam cộng khổ với kháng chiến và Cách mạng. Họ chính là chủ nhân anh hùng của đất nước anh hùng. Chính họ là những người ân nghĩa thủy chung hơn ai hết:
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa
Cùng chung cảm hứng như thế, Nguyễn Khoa Điềm thấy “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”. Nhân dân có thể là anh, là em, là người vợ nhớ chồng, là người học trò nghèo, là Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm, là bốn nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên. Họ là tập thể những anh hùng vô danh và chính họ làm nên Đất Nước muôn đời Và họ không chỉ dũng cảm trong chiến đấu mà còn nghĩa tình biết bao :
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Yêu quê hương đất nước, đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của nhân dân ta. Nhưng tùy vào hoàn cảnh thời đại, tùy vào tình huống cụ thể, vào điểm nhìn của mỗi cá nhân mà nội dung này có những biểu hiện khác nhau với những sắc thái khác nhau
Việt Bắc được làm vào tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Nên với Tố Hữu, Đất nước là quê hương cách mạng, là ân tình của những con người kháng chiến đối với quê hương Cách mạng, với nhân dân . Đất nước còn là lòng kính yêu , niềm tự hào tin tưởng vào Bác Hồ vào Đảng :
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sang ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường…
Những tình cảm này đan dệt nhuần nhụy với nhau, mang đến cho bài thơ một sắc thái mới : Trữ tình chính trị. Và cảm hứng này là nguồn thơ chủ yếu của Tố Hữu.
Và nhà thơ đã thể hiện nó một cách tự nhiên bằng một giọng tâm tình ngọt ngào. Cả bài thơ được cấu tạo theo lối đối đáp giao duyên (mình – ta) của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết . Toàn bộ bài thơ là lời nhắc nhở ân tình : Xin đừng quên tấm lòng son đã hiến dâng tất cả cho Cách mạng; xin đừng quên những ngày gian khổ Hãy biết giữ vững truyền thống cách mạng trong bất kỳ hoàn cảnh nào : “Phố đông còn nhớ bản làng – Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng” ?
Hơn cả lời nhắc nhở còn là tấm lòng thành kính biết ơn và tin tưởng vào Đảng, Bác và Cách mạng Tố Hữu nhắc nhở mình cũng là nhắc nhở mọi người . Và những tình cảm chính trị này đến với họ như những tiếng ru ngọt ngào sâu lắng. Vì thế quê hương cách mạng Việt Bắc đã trở thành quê chung của mỗi người Việt Nam yêu nước
Còn đoạn trích Đất nước nằm ở phần đầu của chương V, chương trụ cột của trường ca Mặt đường khát vọng, sáng tác năm 1971 là năm mà cuộc chiến tranh chống Mĩ ở miền Nam đang vào thời kì ác liệt. Tác giả viết trường ca này nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ thành thị miền Nam ở vùng tạm chiếm, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, hướng về nhân dân, ý thức được sứ mệnh của mình đối với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ đất nước. Vì thế nhà thơ đã tìm cho mình một cách nói riêng trong thơ :
Để đất nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.
Ông đã dùng một đất nước dân gian để nói lên tư tưởng lớn đó. Bởi dân gian chính là dân tộc, lại là cái phần tiêu biểu, đậm đà nhất dễ nhận ra nhất của dân tộc. Hơn nữa với hình ảnh một đất nước dân gian thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi hơn với mọi người và vì thế cũng dễ cảm dễ hiểu dễ nhận ra cái tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, dễ thức tỉnh mọi người (đúng như dụng ý của tác giả).
Và vì thế, với cái nhìn tổng thể nhiều chiều, soi chiếu trên nhiều bình diện, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ phát hiện ra Đất Nước bắt nguồn từ những gì gần gũi giản dị thân thiết trong đời sống mỗi con người.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngay xưa…”
mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc
Đất nước có trong anh và em; “Đất Nước là máu xương của mình”; Đất Nước là do nhân dân sáng tạo:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Đất nước do “bốn nghìn lớp người” chiến đấu bảo vệ :
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử Đất Nước là một cuộc chạy đua tiếp sức không biết mệt mỏi của bao thế hệ người Việt Nam. Cái mà họ truyền cho nhau, tiếp sức cho nhau đó là ngọn đuốc sự sống của dân tộc Việt Nam.
Mỗi thế hệ chạy một quãng đường và trao lại cho thế hệ kế tiếp. Cứ như thế, đất nước được hình thành và phát triển bởi vô số những con người vô danh. Chính họ là người gìn giữ và lưu truyền cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hoá vật chất cũng như tinh thần
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân…
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Vâng ! Suốt bốn nghìn năm lịch sử, không ai còn nhớ mặt , nhớ tên những người anh hùng vô danh. Nhưng chính họ đã làm nên, lưu giữ và truyền lại cho chúng ta những gì họ có. Bốn nghìn lớp người ấy đã làm nên tất cả : Từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người, đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên làng tên xã…Họ đã truyền lại tất cả, để đất nước này mãi là đất nước của nhân dân Và với cách nhìn mới mẻ ấy, nhà thơ giúp chúng ta thấy được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng của đất nước. Từ đó nhà thơ đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước
Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời
Để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng đậm đặc chất liệu dân gian. Ông đã chọn lọc những cái tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất. Và quan trọng hơn là nhà thơ đã chế biến nó, vận dụng nó một cách linh hoạt sang tạo vào lời thơ của mình.
Vì vậy , những yếu tố của văn hóa, văn học dân gian ở đây đã hòa nhập khá tự nhiên với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra mầu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc, vừa mới lạ. Đó chính là đóng góp quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam
Hai bài thơ hai phong cách hai điểm nhìn khác nhau: Một quê hương cách mạng tình nghĩa, anh hùng; một Đất Nước của Nhân Dân của ca dao thần thoại. Nhưng cả hai bải thơ đều thể hiện sinh động cảm hứng về một đất nước giàu đẹp, một đất nước gian nan vất vả, nhưng cũng là một đất nước của nhân dân anh hùng tình nghĩa. Những nét chung và riêng như ta đã phân tích ở trên làm cho Đất nước trong thơ trở nên phong phú đa dạng lấp lánh sắc màu hơn và vì thế nó càng hấp dẫn người đọc. Bởi nó đã chạm đến phần tình cảm thiêng liêng nhất của mỗi con người.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 10)
Cả Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nghệ sĩ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam, tác phẩm của họ chứa đựng những giá trị sâu sắc, mang ý nghĩa to lớn trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Những tác phẩm này không chỉ gây ra nhiều cảm xúc cho độc giả mà còn thể hiện những tinh thần thiết yếu.
Được biết đến với tài năng xuất sắc trong sử dụng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật độc đáo, Quang Dũng và Chính Hữu đã tạo ra những giá trị đáng kể trong nghệ thuật của mình. Cả hai đều hướng tới cách mạng và nền đại chúng trong tác phẩm của mình. Tác phẩm của họ không chỉ mang ý nghĩa to lớn mà còn tạo ra những giá trị quan trọng và hạnh phúc cho mỗi độc giả.
Tài năng đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng đã tạo ra những giá trị vô song trong nghệ thuật, đồng thời làm sống động những khoảnh khắc hào hùng trong bài thơ Tây Tiến. Chiến sĩ hiện lên như những anh hùng, kiên trì vượt qua mọi khó khăn để làm nên những điều mang ý nghĩa mạnh mẽ nhất.
Với nghệ thuật vẽ hình nhân vật và sử dụng ngôn ngữ, những điểm đặc trưng về nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện mạnh mẽ và ý nghĩa:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Với sự tinh tế và sắc sảo của ngôn ngữ, mức độ nguy hiểm trong bài thơ được mô tả ở đỉnh cao, tạo nên không khí trừu tượng đặc sắc trong ngôn ngữ. Biệt tài sử dụng ngôn ngữ đã tạo ra những màu sắc rực rỡ và sống động trong những khoảnh khắc hùng vĩ và ý nghĩa nhất.
Đặc biệt, với phong cách độc đáo, Chính Hữu mang đến một góc nhìn mới về nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội. Tác phẩm của ông không chỉ chứa đựng giá trị mạnh mẽ và đặc sắc, mà còn phản ánh đời sống của những chiến sĩ cách mạng, tạo nên gia đình lớn và đầy sức sống.
Những năm tháng chiến đấu kiên cường đã làm nên những giá trị sống ý nghĩa nhất. Những người chiến sĩ đã tập trung và xây dựng một gia đình lớn, mạnh mẽ, tạo ra những chiến công lịch sử.
Người chiến sĩ đoàn kết và tạo nên những phút giây hào hùng, cuộc sống tràn ngập màu sắc và ý nghĩa. Đây là cuộc sống hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:
Súng bên sung đầu gác bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Ngôn ngữ sôi động và chân thực đã tạo ra cuộc sống ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ. Câu chuyện về những chiến sĩ đến từ nền nông dân, đối mặt với khó khăn, làm nên những thành tựu lớn cho dân tộc. Giai đoạn khó khăn, gian lao làm nên những khoảnh khắc linh thiêng và là động lực cho những chiến công lịch sử.
Cả hai bài thơ thể hiện nét đặc trưng trong việc sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật tác phẩm. Ngôn ngữ của Tây Tiến hùng bi tráng và đầy màu sắc biểu tượng, trong khi Đồng Chí mang ngôn ngữ chất phác, nhưng vẫn rất đậm chất màu sắc. Mặc dù khác nhau, nhưng cả hai đều chứa đựng giá trị và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc đáo.
Với những hình tượng đặc sắc, tác giả tạo ra sự phong phú trong nghệ thuật của mình. Hình ảnh nổi bật hiện lên sâu sắc và tràn đầy ý nghĩa trong tác phẩm.
Sự đặc sắc trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất riêng biệt trong việc hình thành nhân vật làm phô diễn những khoảnh khắc phấn chấn, tạo nên sự độc lập trong cuộc sống của nhân vật trong tác phẩm.
Ngôn ngữ khéo léo tạo ra sự độc lập với giá trị ý nghĩa và biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu mang đến những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị ý nghĩa sâu sắc cho toàn bộ tác phẩm. Những hình ảnh tuyệt vời và sâu sắc đã tạo nên đặc sắc trong từng tác phẩm và giá trị của chúng để lại cho nhân loại cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 11)
Tác giả Nguyễn Khoa Điềm và Tố Hữu là hai nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn 1945-1975, thời kỳ đầy biến động và chiến tranh. Cả hai đều chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, và tác phẩm của họ nhiều lúc trở thành bản ghi chép đầy cảm xúc về đất nước và nhân dân. Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là một nhà thơ và nhà văn nổi tiếng, ông có nhiều đóng góp lớn cho văn học Việt Nam. Trích đoạn từ "Đất Nước" trong trường ca "Mặt đường khát vọng" không chỉ tập trung vào khía cạnh lịch sử và chiến tranh mà còn nêu bật sự quan trọng của nhân dân trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình tượng đất nước không chỉ là một vùng đất trải dài mà còn là nguồn cảm hứng vô tận và nguồn năng lượng bất tận từ tâm hồn nhân dân. Tố Hữu, một nhà thơ và chính trị gia nổi tiếng, đã để lại nhiều tác phẩm với chủ đề Đất Nước và cuộc chiến tranh giành độc lập. Bài thơ "Việt Bắc" của ông tập trung vào mảnh đất nổi tiếng với cuộc kháng chiến chống Pháp, và qua đó, ông tạo nên một bức tranh hùng tráng về tinh thần chiến đấu và tình yêu quê hương.
Nét chung về hình ảnh đất nước trong hai đoạn trích. Cả hai tác giả đều chú trọng vào hình ảnh của một đất nước độc lập, tự do, nơi con người tự hào làm chủ đất nước của mình.Hình ảnh đất nước không chỉ là một địa lý mà còn là nguồn tình yêu và tự hào, đặc biệt trong những trang sử hào hùng của dân tộc. Cả hai tác giả đều nhấn mạnh truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Đất nước không chỉ là một vùng đất mà còn là sự hiện thân của những người dân yêu nước, họ là những người làm nên vẻ đẹp, hùng vĩ của đất nước.
Đất nước trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là một đề tài mà là biểu tượng của tình yêu, niềm tự hào, và tâm huyết của mỗi người con Việt Nam. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ mỹ thuật để tạo ra những hình ảnh sống động, cảm xúc sâu sắc, và lời thơ sâu sắc. Đất nước không chỉ là một không gian địa lý mà còn là không gian tinh thần, mang theo những giá trị văn hóa, lịch sử và tình nghĩa đồng bào. Từ những đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước không chỉ là hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên, những dòng sông, núi non, mà còn là những kí ức lịch sử, những trận chiến anh hùng, và tình cảm tương thân tương ái giữa những con người Việt Nam.
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước"
Đất nước không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh và đoàn kết mà còn là nơi gắn bó tâm linh, nơi chứa đựng những giá trị tinh thần cao quý. Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự nhạy bén trong việc chọn lọc ngôn ngữ, hình ảnh, và biện pháp diễn đạt để làm cho đất nước trở nên thực tế và gần gũi với độc giả. Những đường văn của ông không chỉ là những câu thơ đơn lẻ, mà là một sự kết hợp tinh tế của từ ngữ, âm nhạc, và tâm trạng. Cuối cùng, qua những bài thơ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ về tình yêu quê hương, trách nhiệm bảo vệ đất nước, và niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đất nước trong thơ ông không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là một thực tế sống động, đầy sức sống và ý nghĩa sâu sắc.
Trong bài thơ "Việt Bắc," Tố Hữu đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh mạnh mẽ để thể hiện sức mạnh và hào hùng của đất nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu sung bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sang như ngày mai lên"
Các đường Việt Bắc được mô tả như những dải đất "rầm rập như là đất rung," tượng trưng cho sự chấn động và mạnh mẽ. Hình ảnh quân đội và dân công điệp điệp trùng trùng, ánh sao đầu sung cùng mũ nan, tạo nên một bức tranh sống động về sự đoàn kết và sự quyết tâm. Bằng cách sử dụng từ láy và biện pháp so sánh cường điệu, Tố Hữu tạo ra những hình ảnh mạnh mẽ và lãng mạn, như bước chân nát đá muôn tàn, lửa bay, sương dày. Những tượng tươn này không chỉ thể hiện sự hy sinh và kiên trì của nhân dân Việt Nam mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và lòng yêu nước. Cuối cùng, hình ảnh "đèn pha bật sang như ngày mai lên" thể hiện hy vọng và ánh sáng trong tương lai, tạo nên một tác phẩm thơ đầy tính chất tâm linh và ý nghĩa. Tố Hữu đã thành công trong việc kết hợp các yếu tố này để tạo ra một bức tranh hùng vĩ về sức mạnh của đất nước trong kháng chiến.
Nét riêng – đóng góp của mỗi nhà thơ. Tố Hữu tập trung vào mảnh đất Việt Bắc, tạo nên một bức tranh anh hùng về chiến tranh chống Pháp. Ông thể hiện sự lưu luyến và nhớ nhung giữa những người chiến sĩ và những người ở lại. Nguyễn Khoa Điềm trình bày Đất Nước như một thực thể toàn vẹn, kết hợp lịch sử, văn hoá và tâm hồn dân tộc. Ông tập trung vào ý nghĩa của nhân dân trong việc xây dựng và giữ gìn đất nước.
Nhìn chung, cả hai bài thơ của Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đều mang đến cho độc giả những ấn tượng sâu sắc về hình ảnh đất nước Việt Nam trong giai đoạn lịch sử quan trọng. Cảm hứng về độc lập, tự do, tình yêu Tổ quốc, truyền thống bất khuất và vai trò quan trọng của nhân dân làm nên đất nước đã được thể hiện một cách độc đáo qua từng nét văn hóa, nghệ thuật của hai nhà thơ tài năng.
Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ (mẫu 12)
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, hình tượng người lính trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc đã trở thành một tượng đài bất tử. Cùng là những "nhà thơ mặc áo lính" trưởng thành từ những cuộc chiến tranh máu lửa, cả Quang Dũng và Chính Hữu đều đã để lại cho nền thi ca Việt Nam những tác phẩm xuất sắc viết về người lính. Nếu người ta biết đến Quang Dũng với "Tây Tiến" thì cũng không thể nhắc đến "Đồng chí" của Chính Hữu. Cả hai bài thơ đều để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ bạn đọc. Cả "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đồng chí" của Chính Hữu đều khắc họa hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai bài thơ tuy có những điểm đặc sắc riêng, song lại đều nổi bật lên được tư tưởng cao đẹp cống hiến cho đất nước. Đến với Tây Tiến, người lính được tập trung khắc hoạ với những vẻ đẹp khác nhau, vừa hào hùng, vừa lãng mạn, lại vừa bị tráng. Quang Dũng đặc tả khung cảnh thiên nhiên để làm nổi bật lên hình ảnh người lính. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với thách thức địa hình, nơi "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", nơi sơn cùng thủy tận "oai linh thác gầm thét", "đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người". Ở họ, ta thấy được sự ung dung, tâm thế chủ động vượt lên trên khó khăn, gian khổ. Đối với họ, cái chết nhẹ như một giấc ngủ "gục lên súng mũ bỏ quên đời", và khi họ ra đi, họ khoác trên mình tấm áo lính đơn sơ nhưng lại là tấm "áo bào" minh chứng cho những cống hiến, hi sinh của họ. Không những can trường, mạnh mẽ, họ còn mang trong mình một tâm hồn lãng mạn. Họ sống hết mình trong "tiếng khèn man điệu", trong tiếng nhạc, trong ánh sáng tưng bừng và điệu múa mê hồn của những cô thôn nữ. Người lính Tây Tiến không chỉ là những chàng trai hừng hực ý chí bảo vệ Tổ quốc, mộng công danh còn đi liền với cả "mộng giai nhân". Họ vốn xuất thân là những thanh niên nơi phố thị phồn hoa, họ từ bỏ những giảng đường, từ bỏ cuộc sống hiện đại để ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, vậy nên họ cũng có những giờ phút nhớ nhung dáng kiều chốn Hà Thành:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Quang Dũng đã đi sâu vào đời sống tâm hồn vô cùng phong phú của những người lính, họ cũng là những con người trẻ tuổi, tài hoa, trái tim họ cũng biết rung động, cũng biết vang lên những nhịp đập hết sức đời thường. Nhớ nhung một bóng dáng nơi đô thành, cao hơn, lại chính là trái tim sắt son luôn hướng về nơi thủ đô, nơi Tổ quốc. Nếu Tây Tiến đã khắc hoạ một tượng đài người lính với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bị tráng thì với "Đồng chí", Chính Hữu lại đi sâu vào một khía cạnh khác ở người lính cụ Hồ trong những năm tháng chống Pháp. Không phải là những chàng trai trí thức trẻ chốn thành thị, mà họ là những người nông dân chân lấm tay bùn đến từ những miền quê "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá", vì tiếng gọi của Tổ Quốc mà cất bước ra đi, để rồi "chẳng hẹn mà quen nhau nơi chiến khu". Chính Hữu cũng đã khắc hoạ những gian khó, thiếu thốn nơi chiến trường, từ đó làm sáng lên thứ tình cảm ấm nồng - tình đồng chí. Trên quãng đường hành quân, người lính phải đối mặt với biết bao gian khổ:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày"
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi".
Có lẽ, những hình ảnh chân thực đến xót xa ấy đã quá đỗi quen thuộc trong mỗi cuộc chiến tranh gian lao của dân tộc. Những khi ấy, những người đồng chí luôn cùng sát cánh kề vai, sẻ chia, gắn bó. Không chỉ làm nổi bật lên tình cảm đồng chí giản dị mà cảm động biết bao, Chính Hữu cũng khắc hoạ vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn Câu thơ dường như đã cất cánh, thăng hoa, trở thành một biểu tượng đẹp trong nền thơ ca cách mạng. Dù gian nan, khổ cực, hiểm nguy trập trùng, tâm hồn người lính cũng có những giây phút lãng mạn đến thế. Đó cũng chính là vẻ đẹp của thời đại, một thời đại anh hùng nhưng cũng không kém phần hào hoa lãng mạn. Đi mua nhà thơ đều tập trung khai thác những khía cạnh khác nhau của người lính trong kháng chiến chống Pháp nhưng ở cả hai bài thơ đều sáng lên tư tưởng cao đẹp cống hiến cho Tổ quốc.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hình ảnh "mồ viễn xứ" gợi lên cái cảm giác ghê sợ, lạnh lẽo, tang thương nhưng lại không thể không tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất của người lính Tây Tiến. Bằng một loạt những từ Hán Việt, những vần thơ bỗng trở nên trang trọng như một nén tâm nhang thắp lên cho người đã ngã xuống. Họ "chẳng tiếc đời xanh", họ bỏ lại sau lưng chốn phồn hoa phố thị, để đối mặt với khó khăn thử thách và hiểm nguy. Người lính trong Đồng chí cũng thế:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"
Đối với người nông dân, mảnh đất, gian nhà quý giá biết bao, đó là linh hồn của họ, nhưng vì Tổ quốc, họ sẵn sàng để lại sau lưng những điều quý giá ấy. Bởi lẽ, dù là ai, họ cũng hiểu được rằng, đất nước còn, thì gian nhà nhỏ bé đơn sơ hay những phố thị, những giảng đường mới tự do, mới độc lập, mới có ý nghĩa. Trong câu thơ, ta thấy một tâm thế ung dung nhưng không phải là thờ ơ, là bất cần, mà là vì họ hiểu được một cách sâu sắc giá trị của độc lập, tự do. Bởi vậy, họ sẵn sàng hi sinh tất cả những gì của bản thân mình, để chiến đấu, để cứu lấy cả quê hương, cũng là để bảo vệ những gì mình trân quý nhất. Tâm thế của người ra đi chiến đấu là sẵn sàng xả thân, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", mà ta cũng đã thấy ở trong trang thơ của biết bao nhà thơ khác
"Nhớ buổi ra đi đất trời rực lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm"
(Chính Hữu)
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"
Rõ ràng đã thấy cả hai bài thơ đều đã khắc họa những khía cạnh như vẻ đẹp riêng của người lính trong kháng chiến chống Pháp. Nhưng dù là ai, họ cũng mang trong mình cứ tưởng cao đẹp cống hiến hết mình vì tổ quốc, vì quê hương. Hai bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm nền thi ca cách mạng Việt Nam, làm rạng rỡ thêm bức tượng đài bất tử của những người lính anh hùng.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Toán 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Toán 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Toán 12 – Kết nối tri thức
- Bài tập Tiếng Anh 12 Global success theo Unit có đáp án
- Giải sgk Tiếng Anh 12 - Global success
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 12 Global success đầy đủ nhất
- Trọn bộ Ngữ pháp Tiếng Anh 12 Global success đầy đủ nhất
- Giải sbt Tiếng Anh 12 – Global Success
- Giải sgk Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Vật lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hóa học 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Hóa 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Hóa 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Hóa 12 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Hóa 12 cả 3 sách (chương trình mới 2025)
- Giải sgk Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Sinh học 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Lịch sử 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Lịch sử 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Địa lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Địa lí 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Tin học 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Tin học 12 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Tin học 12 - Kết nối tri thức
- Giải sgk Công nghệ 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Kinh tế pháp luật 12 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 12 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 – Kết nối tri thức