Top 6 mẫu Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (2024) SIÊU HAY

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến lớp 12 Kết nối tri thức gồm dàn ý và 6 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 619 07/07/2024


Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến

Đề bài: Viết bài văn nghị luận So sánh, đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng).

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (mẫu 1)

Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, những giá trị của các tác phẩm này mang một ý nghĩa to lớn trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ sâu sắc và mang một tầng ý nghĩa to lớn, giá trị của nó không chỉ để lại cho người đọc nhiều cảm xúc và còn làm sống lên những tinh thần thiết yếu trong mỗi tác phẩm của người.

Đều là những người nghệ sĩ tài hoa, và có nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn ngữ và các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu đã làm nên những giá trị to lớn trong những tác phẩm của mình, bài thơ có nhiều nét tương đồng khi chủ đề của nó đều hướng tới cách mạng hướng tới một nền đại chúng. Toàn bộ giá trị của tác phẩm đều muốn hướng tới những điều có giá trị to lớn và mang một tầm ý nghĩa qua trọng cho toàn bộ tác phẩm, các giá trị của nó làm nên những điều có ý nghĩa lớn lao và hạnh phúc nhất đối với mỗi con người.

Biệt tài sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng trong phong cách nghệ thuật của ông đã làm nên những giá trị to lớn trong phong cách của người, những giá trị của nó làm nên những giá trị to lớn về sự sống động trong những giây phút đang được sống lại trong những giây phút hào hùng, người chiến sĩ xuất hiện trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên với những người anh hùng, kiên trì bền bỉ để vượt qua mọi gian nan và nguy hiểm để có thể làm nên những điều có ý nghĩa và mang ý nghĩa mạnh mẽ nhất.

Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ, những điển hình về hình tượng và nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm được sử dụng một cách mạnh mẽ và có ý nghĩa nhất:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Với những ngôn ngữ tinh nghịch sắc sảo và ngập tràn giá trị màu sắc, mức độ nguy hiểm trong bài thơ đã được diễn tả với một mức độ cao nhất, và nó mang một mức độ trừu tượng hóa trong ngôn ngữ và biệt tài sử dụng ngôn ngữ trong những tác phẩm của người, giá trị đó đã tạo nên những màu sắc lung linh sống động trong những giây phút hào hùng và có ý nghĩa nhất.

Và đặc biệt đối với Chính Hữu bài thơ lạ mang một phong cách hoàn toàn khác lạ khi nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội hiện lên với những nét đặc sắc trong cuộc đời của tác giả, những tác phẩm đó không chỉ để lại những giá trị mạnh mẽ và đặc trưng nhất, những lời thơ mang chất chân chất và nó phản ánh được cuộc sống của những người chiến sĩ cách mạng khi phải xa quê hương người thân để đến những vùng đất mới, những người chiến sĩ của chúng ta đến từ khắp mọi nơi, và nó làm nên một gia đình lớn , mạnh mẽ và đang sống động trong từng khoảnh khắc, mỗi tác phẩm đều đem lại những lời thơ mang màu sắc tươi tắn và tạo nên nhịp sống của những người chiến sĩ cách mạng.

Qua bao nhiêu năm tháng chiến đấu kiên cường những người chiến sĩ của ta đã đứng lên làm nên những giá trị sống mạnh mẽ và ý nghĩa nhất cho mỗi con người, bao nhiêu niềm yêu thương được hồ khởi và sống trong những trang thơ ca của tác giả, với niềm tin và sự yêu thương khi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, những người chiến sĩ tự phương trời xa xôi đã tụ họp về đây để cùng nhau làm nên những chiến công lịch sử.

Những người chiến sĩ đã đoàn kết và cùng với nhau làm nên những phút giây lịch sử hào hùng, và đây là cuộc sống tươi vui và mang màu sắc nó tạo dựng những ý nghĩa mạnh mẽ và những cuộc đời hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:

Súng bên súng đầu gác bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Những ngôn ngữ mang màu sắc nhưng lại vô cùng chân thực đã làm nên những cuộc đời có ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người, khi ngôn ngữ tạo dựng đang tạo nên những điều có ý nghĩa mạnh mẽ và đang lan tỏa trong cuộc đời của mỗi người. Hoàn cảnh của những người chiến sĩ của bài thơ Đồng Chí đều xuất phát từ những người nông dân đang ngày đêm phải đương đầu và cố gắng làm nên những thành quả to lớn đối với dân tộc, khi hoàn cảnh của họ khó khăn chỉ có những gian nhà lung lay, những ruộng lương thì để lại cho bạn thân cày. Hoàn cảnh của họ đã làm nên những giây phút thiêng liêng và đây chính là động lực để họ có thể cố gắng và làm nên những giây phút lịch sử hào hùng và có ý nghĩa nhất đối với dân tộc Việt Nam.

Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ trong hai tác phẩm này có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ của nó hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật.

Với những nét điển hình và đặc sắc, nó tạo nên những phong phú trong nghệ thuật của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh và giá trị có ý nghĩa nhất.

Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất biệt lập trong cách tạo hình nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.

Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về ngôn ngữ để có giá trị ý nghĩa và mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.

Những hình ảnh điển hình và sâu sắc đã tạo nên những đặc sắc trong mỗi tác phẩm và giá trị của nó để lại cho nhân loại những cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (mẫu 2)

Hình tượng anh Vệ quốc quân - Người lính Cụ Hồ - được khắc họa đậm nét trong nhiều bài thơ của nhiều tác giả. Ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, hình tượng người lính trong mỗi bài thơ có sức hấp dẫn, cổ vũ và với vẻ đẹp riêng, nét riêng nổi bật thể hiện trong cảm hứng. "Đồng chí" của Chính Hữu, chủ yếu là cảm hứng hiện thực giữa cảnh và người; "Tây tiến" của Quang Dũng phát triển cảm hứng lãng mạn nhằm khắc họa nét phi thường, kỳ vĩ, hùng tráng của người lính.

"Tây tiến" quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mỹ cổ điển, truyền thống; còn "Đồng chí" tô đậm nét hiện thực, bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành, không có ý định làm anh hùng hoặc để được tôn vinh là anh hùng. Họ tìm thấy sức mạnh ở đồng chí, đồng đội, ở một tình cảm thiêng liêng, cao cả và mới mẻ trong những người nông dân được giác ngộ trở thành người lính.

Trong thơ Quang Dũng và thơ Chính Hữu nói riêng, có sự "đổi ngôi" của cái "Tôi" trữ tình. Cái "Tôi" trong thơ ca là một khái niệm "kép", bao gồm 2 bình diện: một là cái "Tôi" với tư cách là chủ thể nhận thức, hoạt động tư duy, và hai là cái "Tôi" đối tượng cảm thụ với vai trò khách thể. Trong thơ kháng chiến nói chung, cái "Tôi" cơ bản ở bình diện quan sát, nhận thức, rung cảm với cuộc sống lớn. Điều đó tạo ra nét mới trong thơ, thơ rộng mở trong hơi thở cuộc sống, tắm mình trong không khí thời đại, sự giao hòa này tạo cho thơ thêm đa dạng, phong phú.

Chân dùng tinh thần người lính trong "Tây tiến" mang nét hoành tráng, kỳ vĩ, bí hiểm nổi bật trong bối cảnh hoang sơ, dữ dội, nghiệt ngã và cũng vô cùng mơ mộng trong không gian cụ thể của vùng núi Tây Bắc:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Bằng bốn câu thơ nhưng hiện lên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ nét hoang vu, heo hút, dữ dằn và vô cùng hiểm trở trên chặng đường hành quân của người lính Tây tiến. Một loạt những từ giàu giá trị tạo hình mang tính hội họa, với những mảng hình khối, đường nét, màu sắc "Dốc lên khúc khuỷu" rồi lại "Dốc thăm thẳm"; các từ láy "heo hút", "thăm thẳm", "khúc khuỷu" như những nét chạm khắc đặc sắc tạo nên những ấn tượng về dốc cao, vực sâu. Cả những thanh trắc tả chiều cao khi leo lên và những thanh bằng gợi khoảng không gian khi leo xuống: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Trong gian nan thử thách không đè bẹp nổi ý chí, nghị lực, sức sống của người lính Tây tiến, nét đẹp của họ một phần cũng chính là chỗ đó. Vẫn sống mãi với thời gian ấn tượng mãnh liệt không phai bạc, mờ nhòa theo năm tháng:

Tây tiến những đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Quang Dũng khéo chọn cách nói, có tóc rụng, có da xanh của anh lính ốm (ốm nhưng không yếu) nhưng không mất đi dáng vẻ kiêu bạc, anh hùng, vẫn phong thái "dữ oai hùm" giữa chốn sơn cùng thủy tận. Ngay cả sự "ra đi" cũng rất nhẹ nhàng của những anh hùng hào hoa, mã thượng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ba lần nói về sự hy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau của người lính "Tây tiến" nhưng không một lần như nhiều nhà thơ vẫn dùng từ "hy sinh" hoặc "chết". Quang Dũng bằng ngòi bút tài hoa sử dụng những cụm từ "hồn về", "bỏ quên đời", "về đất" giản dị hơn, nhằm tự nhiên hóa, bình thường hóa cái chết, đúng theo quan niệm lý tưởng của học sinh, sinh viên cầm súng thời kỳ đầu kháng chiến, còn hừng hực hào khí.

Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của chiến sĩ - thi sĩ trên cả hai bình diện tác giả và tác phẩm, Quang Dũng đã tạc bằng ngôn ngữ thi ca vào lịch sử, hình tượng người lính Vệ quốc anh hùng.

Mang nét riêng, người lính Vệ quốc trong "Đồng chí" của Chính Hữu bình dị trong nghĩ suy mà "sâu sắc đến giật mình" (Xuân Diệu). Chất liệu hiện thực cuộc sống được đưa vào thơ vừa đủ tạo men say cảm xúc và nâng tầm khái quát.

Cách mạng Tháng Tám không chỉ phục sinh một dân tộc, khai sinh một thời đại, tân tạo những bảng thang giá trị tinh thần, mà còn trả lại cho mỗi người cuộc sống mới; kiến tạo những quan hệ mới, tình cảm mới chưa hề có trong lịch sử, trong văn hóa ứng xử của cộng đồng. Đó là tình đồng chí đồng đội. Chính quan hệ mới, tình cảm mới này tạo nên những vẻ đẹp khác trong chân dung tinh thần người lính Vệ quốc.

Không kỳ dị "đoàn binh không mọc tóc", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" như trong thơ Quang Dũng. Người lính Vệ quốc trong thơ Chính Hữu vô cùng bình dị, hiền lành, chất phác. Bức tranh về hai người vệ quốc được phác thảo bằng chất liệu cuộc sống đồng quê, trên nền "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" của những người có cùng cảnh ngộ; từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh, đồng cảm nên đồng tâm, đồng chí trong chọn lựa mục đích cống hiến, chiến đấu. Mở đầu bài thơ là sự gặp gỡ của hai người đồng cảnh:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Sự tương đồng về hoàn cảnh tạo nên cộng hưởng trong tình cảm gắn bó:

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Nhưng cái khốn khó, nghèo khổ của những con người ở những vùng miền khác nhau không vì vậy mà hèn kém (nghèo nhưng không hèn), nghĩa là không bị cái cảnh nghèo bó buộc, câu thúc, người nông dân vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến.

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, người lính Vệ quốc hầu hết thoát thai từ nông dân, trong hành trang người lính mang theo có cái nghèo đeo đẳng "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ". Cái rét trong rừng sâu, cái rét trong vùng địch hậu, cái rét được đề cập phản ánh trong nhiều bài thơ kháng chiến, không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt của khí hậu, mà còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội, nghĩa tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một thực tế về sự thiếu thốn của người lính Vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một thực tế khác: Cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn.

Thơ kháng chiến nói chung, thơ Chính Hữu nói riêng, cái "Tôi" trữ tình không đơn thuần là cái "Tôi" cá nhân, tâm trạng, cái "Tôi" phô diễn, cái "Tôi" giãi bày, mà là cái "Tôi" thế hệ, cái "Tôi" công dân, cái "Tôi" sử thi. Ở đây "Anh-Tôi" chuyển hóa trong biên độ cái "Ta" chung, cái "Ta" đa số đông đảo:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá

Nhưng không vì vậy mà người lính mất đi niềm tin, niềm lạc quan, vẫn yêu đời, yêu người trong tình đồng chí - đồng đội:

Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Hai người lính Vệ quốc trong tình đồng chí, trong nhiều câu thơ có hai vế nhưng một hoàn cảnh. Do vậy, có khi chỉ một hoàn cảnh nhưng người đọc liên tưởng cho cả hai. Có lúc câu thơ nói gia cảnh một người mà như cả hai:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Điều này cho thấy thêm một bình diện trong chân dung tinh thần người lính vệ quốc, đó là sự hy sinh âm thầm không so đo, mặc cả, không toan tính thiệt - hơn cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính vẻ đẹp này ánh xạ rực rỡ cái tình của những người "đồng chí" trong thơ.

Đóng góp của Quang Dũng và Chính Hữu cho nền thơ kháng chiến trên nhiều lĩnh vực thi pháp. Bằng chính cuộc đời với những trải nghiệm, kiểm chứng, bằng vốn sống phong phú của đời lính, các anh đã phản ánh được nhiều nét thẩm mỹ khác nhau về chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng trong "ba ngàn ngày không nghỉ", góp phần quan trọng làm nên những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc.

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (mẫu 3)

Viết về đề tài người lính trong kháng chiến Pháp không biết đã có bao nhiêu bài thơ, tác phẩm truyện viết về đề tài này. Trong số những tác giả viết về đề tài này, ta có thể kể đến hai cái tên Quang Dũng và Chính Hữu. Hai tác phẩm Tây Tiến và Đồng Chí cho đến nay vẫn được bạn đọc rất yêu thích và được giới phê bình đánh giá cao. Cùng viết về đề tài người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp nhưng người lính trong hai bài thơ không chỉ có những điểm giống nhau mà có nhiều điểm khác nhau.

Điểm khác nhau thứ nhất là khác về xuất thân. Những người lính trong hai bài thơ có hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên dẫn đến tính cách khác nhau.

Những người lính Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng phần lớn xuất thân từ những người thanh niên tri thức ở Hà Nội. Họ lên đường theo tiếng gọi của lòng yêu nước, hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính vì thế họ có một tâm hồn lãng mạn:

"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt gian nan nhưng sự lãng mạn trong những người lính trẻ không hề mất đi. Họ nhớ tới những người con gái mà họ yêu để thi vị hóa, cân bằng hóa thực tại. Họ đắm mình vào những cảnh sắc thiên nhiên, nhìn cảnh rừng núi Tây Bắc hùng vĩ trữ tình, ngòi súng chếch cao tưởng như súng đang ngửi trời. Không những thế những người lính ấy còn có một tâm hồn vui tươi, trẻ trung.

Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không xuất thân là những người trí thức mà họ xuất thân từ những người nông dân ở những nơi làng quê mộc mạc chất phác:

"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"

Họ là những người nông dân từ những nơi quê nghèo, đất cày sỏi đá, nước mặn đồng chua. Họ vừa chất phát, vừa hồn hậu. Nếu ngày trước họ chỉ biết đi cày, làm lụng ruộng nương nhưng vì đất nước, vì căm thù giặc họ cũng "mặc kệ" ngôi nhà không cho gió lung lay để ra trận. Bỏ giếng nước gốc đa, bỏ tấm áo vải nâu trầm, người lính nông dân khoác lên mình màu áo xanh bộ đội, tay bỏ cày cầm súng giết giặc trả thù cho quê hương.

Sự khác nhau thứ hai của những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình.

Người lính Tây Tiến được nhà thơ Quang Dũng vẽ lên nét đẹp ngoại hình tuy ốm nhưng không yếu:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Do điều kiện chiến tranh thiếu thốn, do hoàn cảnh chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc người lính Tây Tiến hiện liên với ngoại hình đầu không mọc tóc, quân xanh là lá cây ngụy trang hay cũng có thể màu quần áo bộ đội hoặc cũng có thể hiểu là mặt xanh vì thiếu chất. Thế nhưng người lính không hề yếu trái lại lại "dữ oai hùm". Họ hiện lên với vẻ đẹp của ý chí "mắt trừng" thể hiện sự căm thù giặc hay cũng có thể là ngay cả trong khi ngủ người lính Tây Tiến cũng gửi mộng chiến thắng vùng biên giới.

Khác với người lính Tây Tiến, người lính nông dân của Chính Hữu có vẻ đẹp ngoại hình với những nét mộc mạc hồn hậu. Đó là những miếng áo rách, quần vá:

"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"

Nét ngoại hình của người lính nông dân không được nhà thơ nhấn mạnh vào những đặc điểm trên gương mặt cơ thể mà nhấn mạnh vào những thiếu thốn của trang phục quần áo. Người lính nông dân phải mặc áo rách vai, quần vá chỗ này một miếng chỗ kia vài miếng. Trong làn sương sớm, những người lính đứng sát bên nhau, chân không có giày miệng cười với nhau trong buốt giá đêm khuya. Họ hiện lên không những giản dị mà chứa chan tình yêu thương. Ngoài dẫu dẫu có rét, quần áo dẫu có nát thì càng là cái cớ cho tình đồng chí trở nên keo sơn ấm áp hơn.

Cả hai bài thơ đều thể hiện được tình đồng chí đồng đội, nhưng ở mỗi bài cách mà các người lính thể hiện tình đồng chí đó lại khác nhau.

Người lính Tây Tiến là những người trí thức, họ không thể hiện tình cảm của mình một cách trực tiếp mà thể hiện rất kín đáo. Nhà thơ không có câu thơ nào nói về cách quan tâm chăm sóc nhau giữa những người đồng đội của mình nhưng cách nhà thơ diễn tả lại những kỉ niệm mà nhà thơ từng có với đồng đội của mình có thể thấy tình cảm keo sơn gắn kết ấy. Nó keo sơn đến mức người lính Tây Tiến nguyện:

"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"

Còn người lính nông dân được nhà thơ Chính Hữu miêu tả tình đồng chí một cách trực tiếp. Đối với họ tình đồng chí là những người không hẹn quen nhau, đều đến từ những nơi xa lạ nhưng:

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!"

Hay

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"

Từ đây ta có thể thấy được những vẻ đẹp khác nhau của người lính thời kì kháng chiến chống Pháp qua hai bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí. Bằng tài năng nghệ thuật của mình, Quang Dũng và Chính Hữu đã xây dựng những vẻ đẹp riêng cho những người lính của mình. Tuy nhiên, chính những nét điểm riêng ấy lại làm nên một nét đẹp chung cho người lính thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng và người lính Việt Nam nói chung. Dù họ có là ai, ở đâu, xuất thân như thế nào thì họ ra đi đều với mục tiêu bảo vệ đất nước, chọn hi sinh để đổi lấy hạnh phúc cho dân tộc.

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (mẫu 4)

Giai đoạn năm 1945-1975 sau khi cách mạng tháng tám thành công cũng là lúc nền văn học với đề tài "lực lượng vũ trang - chiến tranh cách mạng" nở rộ với nhiều các tác giả, tác phẩm đắt giá, phản ánh cả một thời đại hào hùng của dân tộc. Trong đó nổi bật nhất là hình tượng người lính chiến với đủ mọi sắc thái, cung bậc cảm xúc trong những hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ và ác liệt. Ở họ luôn ánh lên những vẻ đẹp rực rỡ, hào hùng mang tính sử thi. Bên trong cái vỏ bọc xơ xác, mỏi mệt qua những chặng đường hành quân khúc khuỷu, những trận sốt rét rừng kinh hoàng là cả một tinh thần thép, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Những cây bút mang bước ra từ chiến trường luôn để lại cho đời những vần thơ về người lính và cuộc chiến đầy chân thực và sâu sắc.

Bên cạnh những cái tên như Hoàng Trung Thông, Phạm Tiến Duật, Hữu Loan, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu, Huỳnh Văn Nghệ, Trần Mai Ninh, Hoàng Cầm, thì Chính Hữu và Quang Dũng là hai nhà thơ có những khắc họa rõ nét nhất về hình tượng người lính chiến. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí, thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ lãng mạn, bay bổng.

Về nét chung thì cả Đồng chí và Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc nghiệt và hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu và Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt với xuất thân là người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu và lửa thì những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở nên chân thực và rõ nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.

Ngoài những điểm chung trên thì ở mỗi tác phẩm hình tượng người lính lại hiện lên với những vẻ đẹp riêng biệt đại diện cho tài năng và phong cách sáng tác của mỗi tác giả. Trước hết ta nói về Tây Tiến và Quang Dũng. Quang Dũng được mệnh danh là người nghệ sĩ đa tài với khả năng ở nhiều lĩnh vực như âm nhạc, hội họa và thi ca và với mỗi lĩnh vực như thế ông cũng lại tạo cho mình một dấu ấn riêng nhất định. Đặc biệt trong sáng tác thơ, Quang Dũng luôn đưa vào những vần thơ của mình chất nhạc chất họa một cách tinh tế để vừa tái hiện được hơi thở của một con người bước ra từ chiến trường nóng hổi, vừa để cho thơ mình có một vẻ lãng mạn, hào hoa rất riêng. Có thể nói rằng Tây Tiến là tiêu biểu cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi kết hợp chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn - khuynh hướng thẩm mỹ chính của văn học nước nhà giai đoạn 1945-1975. Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn lãng mạn và binh đoàn Tây Tiến cũng như thế, bởi hầu hết họ đều xuất thân từ thủ đô Hà Nội thân yêu, ra đi vì tiếng gọi của Tổ Quốc với hành trang còn thơm mùi giấy mực. Ở những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần của những con người có học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và được sống ở nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử tiểu tư sản trí thức, với tư tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc mơ về một "dáng kiều thơm" là chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ về những thứ lãng mạn lại chính là động lực to lớn để họ có thêm sức mạnh chiến đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng Tây Bắc và đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn vô cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nưa của Lào, rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những năm đầu của cuộc kháng chiến vô cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và khó khăn cận kề. Nào là:

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"

rồi "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người". Có những lúc hành quân trong sương muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng dĩ nhiên không vì thế mà họ buông xuôi. Đặc biệt, không trận chiến nào mà không có sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không chết vì bom đạn giặc thù mà chết vì bệnh tật hành hạ. Hình ảnh "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời", đọc sơ cứ tưởng người lính nằm ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết bên lý tưởng mà họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng mũ vào lòng, chết không nuối tiếc.

Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ và rất đặc trưng, nó là sự kết hợp của sự hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn và hào hoa đến từ sâu trong tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không có một dáng vẻ sạch sẽ, cao to mà thay vào đó là những người lính với cái đầu "không mọc tóc", với "quân xanh màu lá". Một màu da xanh xám vì căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. Vì điều kiện hành quân gian khổ, không được ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ dạng tiêu điều, xơ xác như vậy. Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách nói của Quang Dũng là họ cố tình "không mọc tóc" để bản thân càng thêm ghê gớm, làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại là sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân "dữ oai hùm" giữa chốn rừng thiêng nước độc, để kẻ thù thấy mà thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh, mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn, bởi cái mà họ đối mặt không chỉ đơn giản là bom đạn giặc thù, mà còn là điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên vô cùng mong manh và họ buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành lý tưởng cách mạng.

Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính Tây Tiến chính là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử thi.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Vẫn biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa từng có ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy là lứa tuổi mà con người ta có nhiều nỗi băn khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ có một nỗi buồn duy nhất ấy là Tổ quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì nó dường như không còn quan trọng nữa. Mảnh đất này đã sinh ra và nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải có nghĩa vụ phụng sự và bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ..
Áo bào thay chiếu anh về đất"

Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng vô cùng. Quang Dũng là một người lính xuất sắc, cũng là người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt và những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt đồng đội ngã xuống trên đất mẹ và cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức manh chiếu bó thay cũng không có đủ. Đau xót là thế nhưng bước vào thơ Quang Dũng, với tinh thần lãng mạn và lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên "khúc độc hành" tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.

Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng mà quên đi những nét hào hoa, lãng mạn thì quả là một thiếu sót lớn, và không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say mê nhảy múa quanh đống lửa, say mê ánh mắt nụ cười của những cô gái trẻ, say mê cả điệu nhạc rộn ràng, vui tươi. Đó chính là bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ có những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã. Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại mà cả trong những lúc chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ tuổi lại hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy có gia đình, có bạn bè, trường lớp và có cả những "dáng kiều thơm". Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ vì hai câu thơ có phần quá lãng mạn và nghiêng về tình cảm cá nhân này mà một thời gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị cô lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã được trả về với đúng vị trí mà nó xứng đáng có được. Và hai câu thơ trên cũng trở thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh thần, tâm tư tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được mưu cầu hạnh phúc, và những cô gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền nã chính là mơ ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên đường đi chiến đấu trước hết là vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm trong đó còn là vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.

Đó là Tây Tiến với Quang Dũng, còn với Đồng chí của Chính Hữu, có lẽ chúng ta sẽ có ít điểm để phân tích hơn, bởi hình tượng người lính ở thơ Chính Hữu nó mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và nổi bật lên trên đó là tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn mà thay vào đó ông đi sâu và hoàn cảnh xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu và đồng đội đều là những người con của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió:

"Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"

Cuộc sống nghèo khó, kham khổ. Có thể nói nếu người lính trong Tây Tiến là phần tử tiểu tư sản trí thức thì trong thơ Chính Hữu, người lính lại là những người nông dân áo vải, bước vào chiến trường với bàn tay quen cuốc, quen cày, quen ruộng lúa, con trâu. Hoàn cảnh chiến đấu cũng có nhiều nét tương đồng với người lính Tây Tiến, đó là vùng rừng núi Việt Bắc nhiều khắc nghiệt "rừng hoang sương muối", sự hiện diện kinh hoàng của những cơn sốt rét rừng với "từng cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi". Có thể nói rằng khác với vẻ lãng mạn của Quang Dũng, thì Chính Hữu lại thích đi sâu vào miêu tả những cảm nhận thực tế của cơn sốt rét, những nỗi vất vả, mệt nhọc của người lính trước bệnh tật, thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn đến từ sự chân chất, giản dị của người lính nông dân trong chiến đấu. Tương tự, về ngoại hình người lính, Chính Hữu cũng rất thực tế khi viết:

"Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày"

Để phản ánh điều kiện chiến đấu đầy thiếu thốn và gian khổ, từ đó làm nổi bật lên sự kiên cường, mạnh mẽ của người lính trong chiến đấu. Về nét đẹp tâm hồn, có lẽ phản ánh rõ nhất thông qua tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn của người lính chiến. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau cảm nhận cái khốn khổ của cơn sốt rét rừng, cùng cảm nhận được sự thiếu thốn, gian nan trong chiến đấu, cũng biết từng trận rét cắt da cắt thịt của vùng núi rừng Tây Bắc. Và quan trọng hơn cả họ luôn kề vai sát cánh, sẵn sàng sống chết bên nhau. Tình đồng chí đến từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, từ những lần hành quân chiến đấu, từ những lần sống chết bên nhau trên chiến trường, chiến tranh càng làm sâu đậm thêm tình đông đội. Từ sa trường ấy, đã hình thành nên một thứ tình cảm quý giá không thể phai mờ - tình đồng chí, đồng đội.

Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều có thể nhận thấy được những vẻ đẹp riêng biệt, một bên là sự hào hùng lãng mạn, một bên là sự kiên cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả và trong lòng của toàn dân tộc Việt Nam mãi về sau.

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (mẫu 5)

Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta đều bắt gặp hình ảnh những người lính thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng. Một cách giản dị và thân thương, hình ảnh người lính với những điểm chung và nét riêng độc đáo đã đem đến cho người đọc cái nhìn sâu sắc hơn về người lính thời kháng chiến chống Pháp, đồng thời chia sẻ với những cảm xúc, suy nghĩ của hai tác giả và trân trọng hơn tài năng, cách phác họa hình tượng khéo léo, tinh tế của hai nhà thơ.

Cùng chắp bút viết thơ trong một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân tộc, cả Chính Hữu và Quang Dũng đã xây dựng nên hình tượng người lính vô cùng chân thực trong hai bài thơ “Đồng chí” và “Tây Tiến”. Những người lính trong hai bài thơ này đều mang nét hào hùng và rất mực hào hoa, lãng mạn.Người lính trong “Tây Tiến” của Quang Dũng xuất hiện trên một nền cảnh thiên nhiên vùng cao kỳ vĩ, hiểm trở:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Những hình ảnh dốc đèo khúc khuỷu, heo hút với “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” ấy đã diễn tả chân thực khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng hiểm trở, khiến cho chặng đường hành quân của những người lính càng thêm gian lao, vất vả hơn. Dẫu có khó khăn, nhọc nhằn, người lính Tây Tiến vẫn trong tư thế chủ động, sẵn sàng, ung dung, lạc quan đối diện với thực tại vô vàn khắc nghiệt:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Đây là một cách nói giảm nói tránh về sự hy sinh, mất mát đầy đau thương mà bất kỳ người lính Tây Tiến nào cũng có thể phải đối mặt. Song, những người lính ấy vẫn quyết tâm, tinh thần hừng hực lòng căm thù giặc, quyết chiến đấu để trả thù để đền đáp sự ngã xuống anh dũng của đồng đội mình trên chặng đường dài hành quân ra trận.

Trong cảnh rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến vẫn lạc quan, ung dung, họ coi nhẹ cái chết bởi lý tưởng cách mạng đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh tinh thần cho họ:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Chiến tranh xảy đến, mất mát là không thể tránh khỏi, Quang Dũng nói đến sự trở về với đất mẹ của các anh một cách rất bi hùng, cao cả:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Vẻ đẹp hào hùng của người lính cũng được Chính Hữu phác họa rất rõ nét. Họ là những con người không ngại gian khó, hiểm nguy, đặt lý tưởng, mục tiêu chiến đấu lên trên hết:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Cái hoàn cảnh chiến đấu “rừng hoang sương muối” khắc nghiệt, dữ dội là vậy cũng không thể làm chùn bước chân, làm nản ý chí những người lính. Vượt lên hiện tại, họ là những con người hiên ngang, bất khuất “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.

Bên cạnh vẻ đẹp hào hùng, những người lính trong cả hai bài thơ đều mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. Quang Dũng miêu tả nét hào hoa ấy khi người lính cùng đồng bào vùng cao tham gia những lễ hội vui tươi, đầm ấm:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Hay như sự lãng mạn của người lính trong “Đồng chí” được thể hiện qua câu thơ:“Đầu súng trăng treo”.

Đều là những nhà thơ đã từng cầm súng chiến đấu vì Tổ quốc, nên Quang Dũng và Chính Hữu đều có những trải nghiệm và kỉ niệm sâu sắc để từ đó viết về người lính đặc sắc và cảm động. Bên cạnh những nét giống nhau, người lính trong hai bài thơ còn có những nét riêng ấn tượng. Người lính Tây Tiến đa phần ra đi từ Hà Nội, họ là những thanh niên, những trai trẻ vừa mới bước ra từ giảng đường. Còn ở “Đồng chí”, người lính đều là những nông dân bỏ áo lấm bùn khoác lên mình áo lính, họ ra đi từ những làng quê nghèo vì sự nghiệp bảo vệ đất nước: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Nếu như trong “Đồng chí”, Chính Hữu dùng bút pháp tả thực để tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chỉ cùng chung hoàn cảnh, chung quân ngũ, chung lý tưởng cao đẹp thì Quang Dũng lại lựa chọn khái quát vẻ đẹp chung của người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân nhiêu gian truân thử thách trong “Tây Tiến”.

Vẻ đẹp người lính Tây Tiến được gợi nên từ những cảm xúc, những kỷ niệm rất đỗi thiêng liêng của nhà thơ Quang Dũng trong thời gian tác giả gắn bó đậm sâu nghĩa tình với đoàn quân Tây Tiến. Nhà thơ gợi nên vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến nhưng đồng thời cũng phác họa chân thực và sâu sắc vẻ đẹp của cả một thế hệ anh hùng trong thời kỳ lịch sử kháng chiến gian khổ, gian lao của quê hương, dân tộc. Để tái dựng lại một cách sinh động hình tượng người lính, nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng tài tình bút pháp lãng mạn trên cái nền của hiện thực.

Qua hai bài thơ “Tây Tiến” và “Đồng chí”, hai nhà thơ đã phác họa nên trước mắt người đọc hình ảnh những người lính có những điểm chung và nét riêng ấn tượng, góp phần làm hoàn chỉnh hơn bức tranh ngôn từ phác họa chân dung anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp.

Nghị luận so sánh đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (mẫu 6)

Trong giai đoạn 1945-1975 sau thành công của cách mạng tháng tám, văn học nước ta phát triển mạnh mẽ với chủ đề 'lực lượng vũ trang - chiến tranh cách mạng'. Các tác giả nổi tiếng như Hoàng Trung Thông, Phạm Tiến Duật, Hữu Loan, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu, Huỳnh Văn Nghệ, Trần Mai Ninh, Hoàng Cầm đã để lại những tác phẩm đáng giá về người lính trong những cuộc chiến khốc liệt và gian khổ. Trong số đó, Chính Hữu và Quang Dũng nổi bật với những mảnh văn chân thực về hình tượng người lính. Chính Hữu mô tả một người lính xuất thân từ làng quê nghèo trong Đồng Chí, trong khi Quang Dũng thể hiện người lính đến từ thủ đô với vẻ lãng mạn và bay bổng trong Tây Tiến.

Về cảm nhận tổng quan, cả Đồng chí và Tây Tiến đều bắt đầu ra đời vào năm 1948, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ chọn khung cảnh miền Tây Bắc khắc nghiệt và hoang sơ làm nền tảng. Đối mặt với khó khăn của cuộc chiến, Chính Hữu và Quang Dũng đều trải qua những cảm xúc về hình ảnh người lính anh hùng, kiên định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hình ảnh mang đầy sức mạnh sử thi. Xuất thân từ chiến trường máu lửa, vần thơ của cả hai tác giả khi nói về người lính chiến trận trở nên chân thực và rõ nét hơn.

Ngoài những điểm chung, mỗi tác phẩm vẽ hình ảnh người lính với vẻ đẹp đặc trưng, đại diện cho tài năng và phong cách sáng tạo của từng tác giả. Đầu tiên, nói về Tây Tiến và Quang Dũng. Quang Dũng, được biết đến là người nghệ sĩ đa tài, sở hữu khả năng ở nhiều lĩnh vực như âm nhạc, hội họa và thơ ca. Trong sáng tác thơ, Quang Dũng luôn tích hợp chất nhạc và chất họa một cách tinh tế để tái hiện hơi thở của người lính từ chiến trường nóng bỏng, tạo nên sự lãng mạn và hào hoa đặc sắc. Tây Tiến đại diện cho sự kết hợp giữa sử thi và cảm hứng lãng mạn - xu hướng thẩm mỹ chính trong văn học giai đoạn 1945-1975. Quang Dũng, với tâm hồn lãng mạn, cùng binh đoàn Tây Tiến, những người lính trẻ, năng động, mang theo giấc mơ tuổi trẻ, tạo nên vẻ đẹp hào hoa đặc trưng. Cảm nhận về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến khác Đồng chí ở điểm đó, đoàn quân Tây Tiến thành lập năm 1947 để hỗ trợ bộ đội Lào bảo vệ biên giới Tây Bắc và tiêu diệt lực lượng địch. Do đó, hoàn cảnh hoạt động rộng lớn, những năm đầu chiến tranh kháng chiến vô cùng khắc nghiệt.

'Bước lên đường khó khăn vô tận
Mặt trời hòa mình vào nỗi niềm
Ngàn dặm xa xôi ngàn dặm dần'

đến 'Đêm đêm sương muối buốt lạnh lùng, người sau chỉ thấy lưng người trước mờ mịt. Hành quân trong cảnh rét buốt, những con đường vòng quanh, chập chùng, làm cho người lính mệt mỏi, chán nản, nhưng họ không bao giờ từ bỏ. Mỗi trận chiến đều đi kèm với hy sinh và mất mát. Trong những năm đầu chiến tranh, tất cả quân nhu, đặc biệt là thuốc men, rất khan hiếm. Cơn sốt rét rừng trở thành nỗi ác mộng của người lính, họ không chết vì bom đạn địch mà chết vì bệnh tật đau đớn. Hình ảnh 'Anh bạn mệt mỏi không thể tiếp tục bước nữa, gục lên súng mũ, bỏ quên cuộc sống' không chỉ là hình ảnh ngủ trên súng mũ, mà còn là biểu tượng của cái chết nhẹ nhàng, tựa như chiếc lông hồng, chết trong lý tưởng họ vẫn theo đuổi, ôm súng mũ thân thương, chết mà không hối tiếc.

Người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp độc đáo, kết hợp sự hào hùng và kiên cường bất khuất với nét lãng mạn và hào hoa sâu sắc trong tâm hồn trẻ. Giao thoa của hai yếu tố cương, nhu đã tạo ra hình ảnh người lính độc đáo, sâu sắc, là bức tranh độc đáo của văn hóa Việt Nam hiện đại. Nói đến sự hào hùng, dữ dội trong vẻ ngoại hình, người lính Tây Tiến không xuất hiện với hình dạng lịch lãm, cao lớn mà thay vào đó là những chiến sĩ với đầu 'chẳng mọc tóc', áo 'quân xanh màu lá'. Da xanh xám do sốt rét kéo dài, kèm theo là sự thiếu máu khiến tóc rụng hết. Bởi điều kiện khắc nghiệt của hành quân, thiếu ngủ và thức trắng, chiến trường khốc liệt, người lính Tây Tiến có vẻ ngoại hình lạ mắt nhưng đồng thời là biểu tượng của sức mạnh dữ dội, oai hùng. Theo Quang Dũng, họ chủ đích 'không mọc tóc' để tăng thêm sự ghê gớm, làn da xanh tái kết hợp với màu quân phục tạo ra sự ngụy trang hoàn hảo nhất, hình ảnh đội quân 'dữ oai hùm' giữa rừng thiêng nước độc, khiến kẻ thù cảm thấy e ngại. Qua vẻ ngoại hình kỳ dị, ta hiểu rõ hơn về những hy sinh, mất mát kèm theo tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khó khăn.

Ngoài vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, đặc biệt ở người lính Tây Tiến là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm tinh thần sử thi.

'Đặt chân lên biên cương xa vời
Đi qua chiến trường không hối tiếc màu xanh'

Dù biết rằng việc ra đi không hẹn ngày quay lại, nhưng người lính chiến vẫn không bao giờ nghĩ đến việc lùi bước. Họ sẵn lòng hiến dâng tuổi xuân tươi đẹp nhất cho Tổ quốc, tuổi hai mươi mấy - lứa tuổi nhiều nỗi lo lắng nhất, nhưng với họ, chỉ có một nỗi buồn duy nhất: Tổ quốc chưa yên. Cho nên chiến trường trở thành hướng đi, trái tim họ chỉ chứa đựng lý tưởng cách mạng, cái chết, dù sợ hãi, nhưng trước tình yêu thương của Tổ quốc đang gọi, nó trở nên như không quan trọng nữa. Miền đất này đã sinh ra và nuôi dưỡng họ, nên họ phải phục vụ và bảo vệ nó bằng mọi giá, kể cả hy sinh tính mạng, họ cũng không hối tiếc. Trong phong cách thơ của Quang Dũng, hình ảnh người lính chiến với sự hy sinh, đau khổ, nhưng không chịu khuất phục, thay vào đó là cảm xúc kiên cường, hào hùng.

'Rải rác biên cương mồ viễn xứ..
Áo bào thay chiếu anh về đất'

Câu thơ như bức tranh xôn xao trận mạc, những tráng sĩ hy sinh như hình ảnh anh hùng kiêu hãnh của thời cổ đại. Quang Dũng, người lính xuất sắc, sống sót qua những trận chiến dữ dội và những cơn sốt rét khắc nghiệt. Bạn đồng hành thân thiết, chiếu bó thây, nay không còn đủ đám tang. Trong thơ, Quang Dũng không để nỗi đau chi phối, mà tập trung đưa cái chết của người lính vào bức tranh oai hùng, anh hùng bất tử. Cái chết làm núi sông gầm lên 'khúc độc hành', thay thế kèn, trống bình thường.

Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng không chỉ hiện lên trong những khung cảnh khắc khổ, trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt mùa sương muối hay bệt tật. Còn có những khoảnh khắc:

'Doanh trại hân hoan đèn đuốc sáng
Cô gái xiêm áo tỏa hương thơ
Khèn lên vang vọng nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ'

Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, say mê nhảy múa quanh đống lửa, ánh mắt nụ cười của cô gái trẻ, cùng điệu nhạc rộn ràng. Bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến là sự kết hợp giữa hào hùng, kiên cường và tâm hồn trẻ trung, đầy mơ mộng. Tuổi trẻ, khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động nuôi dưỡng tâm hồn kiên cường, mạnh mẽ chiến đấu. Cả trong giây phút nghỉ ngơi và lúc chiến đấu, người lính giữ tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

'Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm'

Đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ hướng về quê hương, nơi có gia đình, bạn bè, trường lớp và những 'dáng kiều thơm'. Hai câu thơ lãng mạn của Quang Dũng là điểm nhấn quan trọng, phản ánh chân thực đời sống tinh thần của người lính. Họ hy sinh tuổi trẻ, mạng sống vì lý tưởng cách mạng, nhưng cũng vì hạnh phúc cá nhân. Kết hợp giữa sử thi và lãng mạn, Tây Tiến của Quang Dũng dựng lên tượng đài người lính chiến bất hủ.

Với Chính Hữu và Đồng chí, hình tượng người lính nổi bật với vẻ chân thực, anh hùng và sự đồng chí gắn kết sâu sắc trong chiến đấu. Chính Hữu tập trung vào xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu để nổi bật vẻ đẹp anh hùng. Người con miền trung nắng gió:

'Quê hương anh mặn mà, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá'

Cuộc sống khó khăn, kham khổ. Người lính Tây Tiến, tiểu tư sản trí thức; trong thơ Chính Hữu, người lính là nông dân áo vải, bước vào chiến trường với bàn tay quen cuốc, quen cày, quen ruộng lúa, con trâu. Hoàn cảnh chiến đấu giống với Tây Tiến, nhưng Chính Hữu đi sâu vào miêu tả cơn sốt rét, vất vả, mệt mỏi của người lính nông dân. Vẻ đẹp tâm hồn đến từ sự chân chất, giản dị của họ trong chiến đấu. Ngoại hình người lính thể hiện rõ trong dòng thơ:

'Áo anh rách vai, quần tôi vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày'

Phản ánh điều kiện chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, làm nổi bật sự kiên cường, mạnh mẽ của người lính. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn của người lính chiến. Họ cùng chiến đấu, cảm nhận khốn khổ của sốt rét rừng, thiếu thốn, gian nan trong chiến đấu. Tình đồng chí, đồng đội đến từ những lần sống chết bên nhau, từ tình cảm sâu sắc hình thành trên chiến trường, chiến tranh càng làm sâu đậm thêm tình đông đội.

1 619 07/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: