Chạy giặc - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11

VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 11 về Tác giả tác phẩm Chạy giặc gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Chạy giặc như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:

1 9449 lượt xem
Tải về


Chạy giặc - Ngữ văn lớp 11

I. Tác giả Chạy giặc

 

Tập tin:Chân dung Nguyễn Đình Chiểu.jpg – Wikipedia tiếng Việta. Tiểu sử

 - Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), tự là Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai.

- Sinh ra tại quê mẹ ờ  làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh).

- Ông xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt.

- Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định.

- Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849).

- Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang lên khắp miền Lục tỉnh.

- Năm 1859, khi giặc Pháp đánh vào Gia Định, người trí thức Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm cùng các nhà lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vẫn thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu.

- Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông giữ trọn tấm lòng thủy chung son sắt với nước với dân.

b. Sự nghiệp văn học

- Cuộc đời sáng tác của ông được chia làm hai giai đoạn chính: trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược:

+ Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lí làm người.

+ Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp (còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ dài).

*Nội dung thơ văn

- Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa:

+ Đạo lí làm người mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc.

+ Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách ngay thẳng, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế.

- Lòng yêu nước, thương dân:

+ Ghi lại chân thực thời kì đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù quân giặc, nhiệt liệt biểu dương người anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì Tổ quốc

+ Tố cáo tội ác của kẻ thù, lên án những kẻ bán nước, cầu vinh

+ Ca ngợi những người sĩ phu yêu nước, giữ niềm tin vào ngày mai, bất khuất trước kẻ thù, khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước

*Phong cách nghệ thuật đậm sắc thái Nam Bộ:

- Ngôn ngữ: mộc mạc, bình dị như lời ăn tiếng nói của nhân dân Nam Bộ.

- Nhân dân: trọng nghĩa khinh tài, nóng nảy, bộc trực nhưng đằm thắm ân tình.

II. Nội dung tác phẩm Chạy giặc

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

Một bàn cờ thế phút sa tay.

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

Mất ổ bầy chim dáo dác bay.

Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn này?

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Chạy giặc

 1. Bố cục tác phẩm Chạy giặc

- 2 câu đề: thực dân Pháp nổ súng xâm lược

- 2 câu thực cảnh tượng tan hoang của dân chúng

- 2 câu luận: toàn cảnh sau khi chúng tới

- 2 câu kết: sự ai oán những tên quan phụ mẫu vô dụng, bất tài

2. Phương thức biểu đạt tác phẩm Chạy giặc

- Biểu cảm

3. Thể thơ tác phẩm Chạy giặc

- Tác phẩm Chạy giặc thuộc thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật 

4. Tóm tắt tác phẩm Chạy giặc

Tóm tắt Chạy giặc (mẫu 1)

Bài thơ miêu tả cảnh “xẻ nghé tan đàn”; những mất mát của nhân dân khi giặc đến và thấy được thái độ tình cảm của tác giả.

Tóm tắt Chạy giặc (mẫu 2)

Bài thơ Chạy giặc miêu tả cảnh nước mất nhà tan, cảnh nhân dân chạy loại khỏi nơi quê hương thân thuộc của mình. Bài thơ còn làm rõ những mất mát của nhân dân khi giặc đến và thái độ căm thù giặc của tác giả.

                            
           Tóm tắt Chạy giặc hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

Tóm tắt Chạy giặc (mẫu 3)

Bài thơ Chạy giặc miêu tả cảnh đau thương của đất nước. Cảnh hoảng loạn của nhân dân, sự chết chóc, tang thương của đất nước trong buổi đầu có thực dân Pháp xâm lược. Tâm trạng của tác giả vô cùng đau buồn, xót thương trước cảnh nước mất nhà tan. Tác giả mong mỏi có người hiền tài đứng lên đánh đuổi thực dân, cứu đất nước và thái độ căm thù giặc của tác giả.

5. Giá trị nội dung tác phẩm Chạy giặc

Chạy giặc đã tái hiện chân thực cảnh quê hương khi thực dân Pháp đến tàn sát. Bài thơ còn thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết của nhà thơ. Đó là những giây phút đau thương trước cảnh nước mất nhà tan. Ông đã lên tiếng kêu gọi những người có trách nhiệm đứng lên đánh giặc cứu nước và thức tỉnh lòng yêu nước trong mỗi người dân Việt.

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Chạy giặc

Các biện pháp tu từ như sử dụng từ láy, phép đối; hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm, ngôn ngữ thơ tinh tế, giàu cảm xúc

IV. Dàn ý tác phẩm Chạy giặc

1. Cảnh đất nước và nhân dân khi giặc pháp xâm lược

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

Một bàn cờ thế phút sa tay.

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

Mất ổ bầy chim dáo dác bay.

Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

- Nỗi đau mất nước

+ Cảnh tan chợ: Ngay thời điểm họp chợ thì có tiếng súng nổ ra, cảnh tượng huyên náo, tan tác, hoảng loạn bắt đầu (Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây).

+ Tình thế đất nước: Ván cờ hiểm nghèo. → Sai lầm trong nước đi, người cầm quân phút sa tay, lỡ bước không thể cứu vãn được.

- Nỗi đau nhân dân:

+ Từ láy lơ xơ, dáo dác + nghệ thuật đảo ngữ.

+ Từ ngữ mang tính biểu tượng bầy chim, lũ trẻ.

→ Cảnh tan tác, chia lìa, đổ vỡ thê thảm của người dân chạy loạn. Đây là những thân phận tượng trưng cho nỗi đau chung của đất nước, của nhân dân khi giặc đến.

- Cảnh nhà cửa xóm làng: tan bọt nước >< nhuốm màu mây.

→ Nhà cửa làng xóm bị hủy hoại một cách nhanh chóng, tất cả đều tan hoang, đổ nát.

⇒ Tất cả dường như chìm trong ngọn lửa hung tàn của giặc, sự tàn phá, hủy diệt lấp kín cả không gian. Với các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, hoán dụ tác giả đã khắc họa thành công bức tranh đất nước trước thời loạn lạc.

2. Tâm trạng của tác giả

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn này?

- Hai câu thơ cuối bộc lộ nỗi niềm trăn trở của tác giả:

+ Câu hỏi tu từ vang lên đầy tha thiết, không chỉ là kêu gọi mà còn là hàm ý bao thắc mắc trước sự vắng mặt của kẻ có trách nhiệm với quê hương, đất nước.

+ Câu thơ còn bộc lộ sự thất vọng sâu sắc về triều đình cũng như biểu hiện được lòng thương dân sâu sắc của Đồ chiểu.

⇒ Tiếng kêu quặn thắt của một tấm lòng trung quân đã cảm thấy đổ vỡ niềm tin đối với triều đình phong kiến nhà Nguyễn.

D. Sơ đồ tư duy

Chạy giặc

V. Một số đề văn bài Chạy giặc

Đề bài: Phân tích bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu.

   Có những tác phẩm văn chương bất tử, khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. "Chạy giặc" là một bài thơ như thế.

   Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước hoạ xâm lăng, Nguyễn Đinh Chiểu đã viết bài thơ "Chạy giặc". Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:

    "Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

    Nỡ để dân đen mắc nạn này?".

   Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như "một bàn cờ thể’' phút chốc thay đổi bất ngờ: "phút sa tay". Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Vần thơ cất lên như một lời than:"

    "Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

    Một bàn cờ thế phút sa tay".

   Các từ ngữ: "vừa nghe tiếng súng Tây", "phút sa tay" làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nỗi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm."Một bàn cờ thế" là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm xúc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy(1859)

   Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: "bỏ nhà", "tơ xơ chạy", "mất ổ", "dáo dát bay" đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là "lũ trẻ", lấy thế giới thiên nhiên là "đàn chim", hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm hoạ đất nước quê hương bị xâm lược:

    "Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

    Mất ổ đàn chim dáo dát bay".

   Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ "bỏ nhà" và "mất ổ" tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.

   Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên haỉ cảnh tang thương điêu tàn nơi Bến Nghé và Đổng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyển buôn bán tấp nập. Đổng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man. Tài sận của nhân dân ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh "tan bọt nước". Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang. Lửa khói ngút trời, bao phủ một vùng rộng lớn "nhuốm màu mây". Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chỉ bằng hai hình ảnh rất chọn lọc, đối nhau: ''của tiền tan bọt nước", "tranh ngói nhuốm màu mây" đã đủ mô tả cảnh giặc giã tan hoang, khiến lòng người hết sức căm giận, lên án tội ác tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:

    "Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

    Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".

   Tội ác quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội ác tày liếp của giặc Pháp:

    "Binh tướng nó hãy đống sông Bến Nghé,

    Ai làm nên bôn phía mây đen;

    Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai,

    Ai cứu đặng một phường con đỏ ."

            (Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)

 

   Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì. Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa. Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu, khi nghe tiếng kèn giặc đã căm giận viết:

    "Tò te kèn thổi tiếng nàm ba,

    Nghe lọt vào tai dạ xót xa.

    Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,

    Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa..."

            (Cảm tác)

   Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp phá dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thưorng xót nhân dân đau khổ trước hoạ xâm lãng:

    Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng,

    Nỡ để dân đen mắc nạn này ?

   "Chạy giặc" là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và nói lên tình thương xót nhân dân trước hoạ xâm lãng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy (tiếng sóng Tây), nhìn thấy, cảm thấy (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nưóc, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ "Chạy giặc" là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.

   Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyên Đình Chiểu. Qua đó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước "đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Với ông, "thơ là súng là gươm". ("Đọc thơ Đồ Chiểu"- Lê Anh Xuân)

Đề bài: Cảm nhận bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu

Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu

    "Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

    Một bàn cờ thế phút sa tay.

    Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

    Mất ổ đàn chim dáo dát bay.

    Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

    Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

    Hỏi trang dẹp loạn rày dâu vắng,

    Nỡ để dân đen mắc nạn này?".

   Đừng nói đến cảnh dân chạy giặc vội, mà trước hết hãy chú ý đến "tiếng súng Tây" rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình, yên ổn. Lúc tan chợ là lue bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chị, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ồng bà. Cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà vơi những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba gióng mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật... Cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho, hay giản dị hơn chỉ có "râu tôm nấu với ruột bầu"... Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó, bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng.

   Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm: "súng giặc đất rền". Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. "Vừa nghe" thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng "phút sa tay". Thất bại ập đến nhanh quá. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng lộn xộn xẻ nghé tan đàn:

    "Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,

    Mất ổ đàn chim dáo dát bay".

   Súng vừa nổ, giặc đã ập đến. Người lớn còn chưa kịp di chợ về hoặc còn đang ở ngoài đồng. Cho nên hốt hoảng lũ trẻ dắt díu nhau chạy lơ xơ. Đặt chữ "lơ xơ" lên trước chữ "chạy" là rất gợi tả. Dường như ta chỉ nhìn thấy sự rã rời, hốt hoảng sắp kiệt sức của những em bé, rồi sau mới biết là các em chạy. Hình ảnh so sánh đàn chim mất ổ dáo dát với lũ trẻ bỏ nhà chạy lơ xơ thật là đặc sắc. Nhưng cũng phải thấy thêm rằng khi giặc đến, chẳng những con người khốn khổ mà chim muống cũng không được yên ổn. Giặc đến làm đau cả sông núi, đau cả chim muông, đau cỏ cây.

   Tả chạy giặc, một cuộc chạy vội vã, đột ngột không hề được chuẩn bị, chỉ đặc tả lũ trẻ và bầy chim là rất thành công. Xa hơn cảnh tượng sống động, bối rối, hốt hoảng, lộn xộn của lũ trẻ và bầy chim là sự mất mát, thiệt hại của cả một vùng quê rộng lớn:

 

    "Bến Nghé của tiền tan bọt nước,

    Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây" .

   Của cải bị mất mát, nhà cửa bị thiêu cháy, con cái lạic cha mẹ, và chắc là sẽ không tránh khỏi sự chết chóc đau thương: "Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ". Giặc đến gieo bao tội ác lên đầu nhân dân, trước hết là những người dân lành, dân đen cui cút làm ăn toan lo nghèo khó" trong ấp trong làng.

   Nguyễn Đình Chiểu cũng phải chạy giặc và ông thấu hiểu sâu sắc những cảnh đó. Ông cất lên tiếng hỏi và cũng là lời trách móc phê phán những người có chức, có quyền, có trách nhiệm của triều đình:

    "Hỏi trăng dẹp loạn rày đâu vắng,

    Nỡ để dân đen mắc nạn này?"

   Không phải chỉ là một câu hỏi gay gắt và lời phê phán nghiêm khắc những trang dẹp loạn của triều đình. Hình như câu thơ còn là một tiếng khóc nghẹn tràn đầy nước mắt của con người mù loà một lòng yêu nước, thương dân mà không thể làm gì cho dân trong cơn loạn lạc.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Lẽ ghét thương

Bài ca phong cảnh Hương Sơn

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Chiếu cầu hiền

Xin lập khoa luật

1 9449 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: