Bài ca ngất ngưởng - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11
VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 11 về Tác giả tác phẩm Bài ca ngất ngưởng gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bảnBài ca ngất ngưởng như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:
Bài ca ngất ngưởng - Ngữ văn lớp 11
I. Tác giả Bài ca ngất ngưởng
a. Tiểu sử
- Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn
- Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế đến chính trị, quân sự. Thế nhưng con đường làm quan lại trắc trở, gập ghềnh, thăng giáng thất thường
- Là người ưa tự do, phóng túng, có cá tính có bản lĩnh, ngông ngạo
- Là người yêu nước thương dân có nhiều đóng góp cho đất nước
b. Sự nghiệp văn học
- Các tác phẩm chính:
+ các sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm với nhiều thể loại thơ, phú, câu đối, hát nói
+ riêng thơ Đường luật có khoảng 150 bài
- Đặc điểm sáng tác:
+ tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn, thế thái nhân tình đen bạc
+ Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa hát nói trở thành thể loại văn học dân tộc
⇒ Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là một trong hai thi sĩ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 19
Bài giảng Ngữ văn 11 Bài ca ngất ngưởng
II. Nội dung tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
1. Bố cục tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
- Phần 1 (6 câu đầu): Ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp
- Phần 2 (12 câu tiếp): Ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ
- Phần 3 (còn lại) : Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch
2. Phương thức biểu đạt tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
- Biểu cảm
3. Thể loại tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
- Tác phẩm Bài ca ngất ngưởng thuộc thể loại: Hát nói
4. Tóm tắt tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
Tóm tắt Bài ca ngất ngưởng (mẫu 1)
Lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Nhưng dù ngất ngưởng nhưng ông vẫn được khâm phục với lối sống đó.
Tóm tắt Bài ca ngất ngưởng (mẫu 2)
Bài ca ngất ngưởng cho thấy lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Ông dám thể hiện cái tôi cá tính của mình một cách mạnh mẽ.
Tóm tắt Bài ca ngất ngưởng (mẫu 3)
Nguyễn Công Trứ với lối sống ngất ngưởng, tự nhận trong vũ trụ mọi việc đều là phận sự của ta. Là một người văn võ toàn tài. Ngất ngưởng cả khi còn đương chức ở triều đình và khi đã về hưu.
5. Giá trị nội dung tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
- Bài thơ khẳng định ngất ngưởng là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống
6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
- Cách gieo vần, các câu thơ thuần Hán , thuần Việt được đan cài vào nhau tạo nên nhịp điệu câu thơ
- Số âm tiết qua cách nói cách hát thể hiện sự phóng khoáng của cá nhân, nghệ thuật điệp từ
IV. Dàn ý tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
1. Ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp
- Câu thơ đầu là lời tuyên ngôn về lẽ sống, lời khẳng định chắc nịch tràn đầy niềm tự hào kiêu hãnh về tài năng xuất chúng của mình
- Tác giả cũng không ngần ngại đem tài năng của mình vào vòng trói buộc của công danh, sự nghiệp những mong thể hiện hoài bão vì dân vì nước, khẳng định tài năng của mình
- Hàng loạt các chức vụ được liệt kê trong niềm tự hào kiêu hãnh: khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,....
- Trong cái vòng trói buộc ấy, tác giả vẫn thể hiện được lí tưởng của mình, giữ vững bản lĩnh, cá tính. Ông tự nhận mình là kẻ ngất ngưởng trong chốn quan trường
⇒ Giọng văn hơi khoa trương nhưng không gây khó chịu cho người đọc bởi tài năng thực sự, phẩm chất của tác giả. Suốt cuộc đời làm quan ông đã cống hiến hết mình, sống đúng chất là một tay ngất ngưởng chốn quan trường
2. Ngất ngưởng trong lối sống suy nghĩ
- Ngất ngưởng khi cáo quan
+ trả lại mũ ấn về quê vui thú cái tôi ngất ngưởng được thoả sức tung hoành
+ rời chốn quan trường bắt đầu chặng đường mới mà giọng văn khoan khoái không chút buồn phiền
+ không ngựa ngựa, xe xe, cụ Thượng Trứ thong dong cưỡi bò dong duổi khắp kinh kì
- Ngất ngưởng trong thú chơi, trong quan niệm sống, trong lối sống
+ trước sự biến động của xã hội và sự thăng trầm của cuộc đời, Nguyễn Công Trứ đã đưa ra một triết lí tự nhiên, ung dung, tự tại và một lối sống lấy sự hưởng lạc làm lẽ tồn tại
+ ông đem giáo lí của đạo Phật, đạo tiên và cách sống theo thói trần tục ra để phủ nhận khi so sánh với thú vui của cuộc sống trần thế: khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, không Phật, không tiên, không vướng tục
⇒ Nguyễn Công Trứ là tấm gương mẫu mực về cái tài, cái tâm
3. Câu kết
- Đó là lời khẳng định chắc nịch về một đời ngất ngưởng của ông Hi Văn mang đầy vẻ thách thức với đời, với đám quan lại trong triều thối nát
- Hình thức diễn đạt mang dáng dấp của câu hỏi làm tăng tính khẳng định cho câu thơ
4. Nghệ thuật
- Ở Bài ca ngất ngưởng bên cạnh yếu tố hát của nhịp điệu giàu chất nhạc là yếu tố nói đậm ngôn ngữ đời sống
- Biện pháp nghệ thuật điệp từ được sử dụng linh hoạt góp phần diễn tả nội dung
- Thể loại hái nói dưới bàn tay ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đã được phá cách hơn
V. Một số đề văn bài Bài ca ngất ngưởng
Đề bài: Phân tích bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông".
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm "Hàn nho phong vị phủ", và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. "Bài ca ngất ngưởng" là một trong những bài thơ hát nối kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ dôi tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hắt nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.
Nguyễn Công Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triểu Nguyễn. Bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật vể cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào vể tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.
"Ngất ngưởng" nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu "ngất ngưởng" là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.
Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng tài trai. Rất trang trọng và hào hùng: "Vũ trụ nội mạc phi phận sự" — mọi việc trong vũ trụ chằng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng đinh tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: "Vũ trụ giai ngô phận sự" (Những việc trong vũ trụ đểu thuộc phận sự của ta ~-Nợ tang bồng0; "Vũ trụ chức phận nội" (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta - Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy, chính vì "Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng". Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. "Tài bộ" là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ "lồng" trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. "Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với cái tài đội trời đạp đất của ông" (Lê Trí Viễn). Có người lại giải thích: "lồng là trời đất, vũ trụ". Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: "Đã mang tiếng ở trong trời đất", hoặc "Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn" (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có vào lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh, như ông nói:
"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".
Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, "tài bộ" mình, chí namnhi của mình mang tầm vốc vũ trụ.
Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cừ, ông dám thí thố với thiên hạ: "Cái nợ cẩm thư phải trả xong". Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lẫy lừng "Làm nên đấng anh hùng đâuu đấy tỏ" ("Chí anh hùng"). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bời có văn võ toàn tài, bởi có "gốm thao lược", và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành "tay ngất ngưởng", một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần điệp lại chữ "khi" đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phí thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:
"Khi Thủ khoa! khi Tham tán ! khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược ! đã nên tay ! ngất ngưởng".
Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: "Bình Tây cờ Đại tướng". Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm "Phủ doãn Thừa Thiên". Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: "Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục". Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ vể trí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):
"Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng".
Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào "ngựa ngựa xe xe" nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với "miệng thế". Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:
"Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn.
Lợm mùi giáng chức với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian".
Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng — "tay kiếm cung" — thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị "nên dạng từ bi". Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh "Kìa núi nọ phau phau mây trắng", ông đã mang theo "một đôi dì", nhũng nàng hầu xinh đẹp với "gót tiên đủng đỉnh"...
"Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng..."
Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. "Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng" là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào gợi ít nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện "được, mất" là lẽ đời, như tích "Thất mã tái ông" mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì! Chuyện "khen, chê" của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện "được, mất", bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách nhi nhiên, hổn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong "Bài ca ngất ngưởng":
"Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng /
Không Phật / không Tiên / không vướng tục".
Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hoà thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp (khi... không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hoà quyện trong những vẩn thơ đẹp như thế! Đúng là ngất ngưởng mà tài hoa, tài tử.
Khổ xếp của bài hát nói chỉ có 3 câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có 6 từ. Nên ghi đúng như văn bản 'Tuyến tập thơ ca trù" - NXB Văn học 1987 mớí đúng thi pháp:
"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn "nghĩa vua tôi". Ông đã viết trong bài "Nợ tang bồng":
"Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác".
Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng "ông" đĩnh đạc, hào hùng: "Trong triều ai ngất ngưởng như ông!". Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải "vẹn đạo vua tôi" mới trở thành "tay ngất ngưởng", "ông ngất ngưởng" được. Và cách sống ngất ngưỏng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục", cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.
Cái nhan đề, thi đề "Bài ca ngất ngưởng" của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất "ngông". Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.
Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hoà nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. "Bài ca ngất ngưởng" đích thực là "Bài ca từ đáy lòng" của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.
Đề bài: Phân tích cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ Bài ca Ngất ngưởng.
Bài văn mẫu Phân tích cái tôi ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong bài thơ Bài ca Ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ đã từng viết:
“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”
Ông nguyện làm cây thông để đứng giữa đất trời mà đón gió bốn phương, để cất lên tiếng hát ung dung, tự tại, thể hiện lối sống “ngất ngưởng”. Lối sống ấy đã thấm nhuần trong sáng tác của ông và đặc biệt trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng cái tôi ngất ngưởng được bộ lộ rõ nét hơn bao giờ hết.
Trước hết về từ “ngất ngưởng” có nghĩa là tư thế đứng cao chênh vênh, không vững chãi đối với sự vật. Còn đối với con người thể hiện một cách sống, thái độ sống ngang tàng, vượt lên trên những luân lí thông thường. Đối với Nguyễn Công Trứ, ngất ngưởng là phong cách sống nhất quán của ông nó được biểu hiện nhất quán từ khi ông ra làm quan cho đến khi ông lui về quê nhà nghỉ ngơi.
Trong tác phẩm, cái tôi ngất ngưởng trước hết thể hiện trong việc ông tự nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình đối với cuộc đời: Vũ trụ nội mạc phi phận sự/ Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Có mấy ai được như Nguyễn Công Trứ dám khẳng định phận sự của bản thân trong trời đất. Nếu như các nhà thơ khác thường thể hiện chí làm trai: “Làm trai phải lạ ở trên đời/ Há để càn khôn tự chuyển dời” (Phan Bội Châu) còn đối với Nguyễn Công chứ ông lập tức khẳng định vai trò trách nhiệm của bản thân đối với trời đất, với dân với nước. Đây cũng chính là tuyên ngôn của nhà thơ về chí làm trai, nó trở thành quan niệm sống nhất quán trong sự nghiệp sáng tác của ông: “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” hay “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” “Khắp trời đất dọc ngang, ngang dọc/ Nợ tang bồng vay trả, trả vay”. Đây đồng thời cũng thể hiện cái tôi “ngất ngưởng” nhất quán trong sáng tác của ông. Đối với ông đã làm trai ở trong trời đất thì phải “đầu đội trời chân đạp đất”, phải làm những việc có ích cho nước, cho đời.
Để minh chứng cho tài năng của mình, đồng thời cũng là thể hiện cái tôi ngông ngạo hơn đời, Nguyễn Công Trứ đã liệt kê những chức danh mình đã từng làm khi ở trốn quan trường:
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Ông mang tài học hành của bản thân để thi thố với thiên hạ: “Cái nợ cầm thư phải trả xong”, đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán đại thần đi dẹp loạn ở Cao Bằng; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên - Quảng Ninh). Câu thơ với nhịp nhanh, giọng thơ đầy vui sướng, hào sảng bộc lộ niềm tự hào khẳng định bản thân là một người có tài năng lỗi lạc.
Bằng lời tự thuật hết sức chân thành đồng thời cũng đầy tự hào Nguyễn Công Trứ đã khẳng định tài năng lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất cũng như năng lực của chính mình. Dù trong chốn quan trường nhiều o bế nhưng lối sống tài tử, phóng khoáng, cái tôi ngạo nghễ, ngất ngưởng, khác đời vẫn được thể hiện một cách trọn vẹn. Đó là thái độ sống của người quân tử đầy lí tưởng, bản lĩnh, tự tin và kiên cường.
Sau nhiều năm cống hiến cho nước, cho đời, Nguyễn Cống Trứ cáo quan về ở ẩn, lúc này cái tôi ngất ngưởng của ông có cơ hội bộ lộ, thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Lối sống theo ý thích, sở nguyện của cá nhân: cười bò đeo đạc ngựa; đi chùa nhưng lại có gót tiên theo sau; khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng. Cuộc sống phiêu diêu, vui hưởng những thú vui trần tục. Ông không màng đến chuyện khen chê, được mất của thế gian: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong” ông tự sánh minh với bậc danh tướng và tự khẳng định lòng trung với vua:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn , Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông
Bản ngã ngất ngưởng một lần nữa được bộc lộ qua ba câu thơ cuối bài. Ông tự khẳng định mình là người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này đúng với thực tế làm quan của ông, ông cống hiến hết mình cho đến năm 70 tuổi mới cáo quan về ở ẩn. Điều này đồng thời cũng thống nhất với quan niệm về chí làm trai “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” đã được ông nêu ở phần đầu tác phẩm. Với lối so sánh bản thân ngang hàng với bậc anh hùng như: Nhạc Phi, Hàn Kì,… của Trung Quốc ông đã một lần nữa khẳng định tài năng cũng như công lao của mình một cách đĩnh đạc, hào hùng. Và cũng từ những chiến công đó ông có thể mạnh mẽ, dõng dạc tuyên bố với toàn thiên hạ: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Cái ngất ngưởng của lối sống tự do của bậc tài tử, ông không ngần ngại tự khẳng định tài năng, nhân cách của mình. Thái độ sống ngất ngưởng đầy thách thức ấy cũng chính là sự thách thức với những tôn ti, trật tự với xã hội phong kiến đương thời.
Cái tôi ngất ngưởng, ngông ngạo của Nguyễn Công Trứ đã được thể hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ nhất qua thể hát nói đầy tự do, phóng túng, chính thể loại đã góp phần làm bật lên cái tôi vượt ra ngoài khuôn khổ của tác giả. Cái tôi ngông ngạo, của tác gải là cái tôi hơn đời, dám khẳng định tài năng và nhân cách của bản thân, đó là còn là cái tôi cống hiến hết sức mình cho đời, cho nước.
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ hát nói "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ.
Bài văn mẫu Cảm nhận của em về bài thơ hát nói "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ.
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) quê ở Hà Tĩnh, một danh nhân văn hoá văn võ toàn tài, là nhà thơ lỗi lạc của nước ta trong thế kỉ XIX.
Ông còn để lại trên 60 bài hát nói, khoảng 50 bài thơ Nôm. Bài "Hàn nho phong vị phú bài thơ "Đi thi tự vịnh", bài hát nói "Bài ca ngất ngưởng"... là những áng văn thơ tuyệt bút của ông để lại cho đời.
"Bài ca ngất ngưởng" được Nguyễn Công Trứ viết trong thời gian 10 năm cuối đời (1848 - 1859) khi ông về trí sĩ ở cố hương. Bài thơ thể hiện một phong cách sống đẹp của ông thi nhân tài tử.
Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.
Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc vũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã vào lồng rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây - tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự hào - vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi Hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan võ là Tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên ta (ông Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2) đã tạo nên một giọng điệu hào hùng:
"Khi Thủ khoa! khi Tham tán khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược! đã nên tay! ngất ngưởng".
Khổ giữa: Tác giả khẳng định mình là một con người có tài kinh bang tế thế, lúc loạn thì giúp nước "bình Tây cờ đại tướng", lúc bình thì giúp vua làm "Phủ doãn Thừa Thiên". Đó là việc đã qua, còn nay đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi người:
"Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng".
Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người!
Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp (Rú Nài): "Kìa núi nọ phau phau mây trắng", ông đã mang theo "một đôi dì" (một hai nàng hầu). Và do đó "Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng". Bụt cười hay thiên hạ cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện "được, mất" là lẽ đời như tích "thất mã tái ông" mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện "khen, chê" của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai như ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua: "khen chê phơi phới ngọn đông phong".
Không quan tâm đến chuyện được mất, bỏ ngoài tai mọi lời khen, chê thị phi, ông đã sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao. Cách ngắt nhịp 2/2, nghệ thuật hoà thanh (bằng trắc) lối nhấn, lỗi diễn tả trùng điệp đã tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, chẳng vướng chút bụi trần:
"Khi ca ! khi tửu ! khi cấc ! khi tùng,
Không Phật ! không Tiên !không vướng tục"
Khổ xếp, Nguyên Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thẩn thuỷ chung trong đạo "vua tôi" chẳng kém gì những Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của mình trong lịch sử:
"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phườtig Hàn, Phủ,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!".
Hai so sánh xa gần, ngoại, nội (Bắc sử và trong triều Nguyễn), tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng "ông" vang lên đĩnh đạc hào hùng.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh, phải "vẹn đạo vua tôi" thì mới trở thành "tay ngất ngưởng", "ông ngất ngưởng" được. Và cách sống ngất ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, "không vướng tục" cũng không thoát li.
Xem thêm các bài viết về Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 11 hay khác:
Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11