Lai tân - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11

VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 11 về Tác giả tác phẩm Lai tân gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Lai tân như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:

1 1192 lượt xem
Tải về


Lai tân - Ngữ văn lớp 11

I. Tác giả Lai tân

Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh | C. Mác; Ph. Ăngghen; V. I. Lênin; Hồ Chí Minh

a. Tiểu sử

- Hồ Chí Minh (19/05/1889 – 02/09/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung.

- Quê quán: Kim Liên – Nam Đàn – Nghệ An.

- Gia đình: nhà Nho nghèo, cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan.

- Là một người thông minh ham học hỏi và có lòng yêu nước thương dân sâu sắc, tìm ra con đường giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống Pháp và Mĩ.

⇒ Là vị lãnh tụ tài ba, vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới.

b. Sự nghiệp văn học

- Quan điểm sáng tác:

+ Coi văn học là một vũ khí chiến đấu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.

+ Luôn chú trọng tính chân thực và tính dân tộc.

+ Luôn chú ý đến mục đích và đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm.

- Tác phẩm văn học:

+ Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Tuyên ngôn độc lập(1945), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966)…

+ Truyện và kí:Pari (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Con người biết mùi hun khói (1922), Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925), Nhật kí chìm tàu(1931), Vừa đi đường vừa kể chuyện (1963)…

+ Thơ ca: Nhật kí trong tù (viết trong thời gian bị giam cầm trong nhà lao Tưởng Giới Thạch từ 1942 – 1943), chùm thơ viết ở Việt Bắc từ 1941 – 1945.

⇒ Di sản văn học lớn lao về tầm vóc, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách.

- Phong cách nghệ thuật:

+ Thống nhất về cả mục đích, quan điểm và nguyên tắc sáng tác.

+ Đa dạng, trong mỗi thể loại Hồ Chí Minh lại có một cách viết khác nhau.

II. Nội dung tác phẩm Lai tân

Phiên âm

    Giam phòng bản trưởng thiên thiên đổ,

    Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;

    Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,

    Lai Tân y cựu thái bình thiên.

Dịch nghĩa

    Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,

    Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;

    Huyện trưởng chong đèn làm việc công,

    Lai Tân vẫn thái bình như xưa.

Dịch thơ

    Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,

    Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;

    Chong đèn, huyện trướng làm công việc,

    Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

                               NAM TRÂN dịch

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Lai tân

1. Bố cục tác phẩm Lai tân

- Phần 1 (3 câu thơ đầu) thực trạng quan lại ở Lai Tân

- Phần 2 ( câu cuối): nghịch lý, sự mỉa mai của tác giả với thực trạng đó

2. Phương thức biểu đạt tác phẩm Lai tân

- Biểu cảm

3. Thể thơ tác phẩm Lai tân

- Tác phẩm Lai tân thuộc thể loại: 7 chữ

4. Tóm tắt tác phẩm Lai tân

Tóm tắt Lai tân (mẫu 1)

Bài thơ là sự thật về xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch, đó là hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.

Tóm tắt Lai tân (mẫu 2)

Bài thơ miêu tả cảnh tượng nhà lao nơi Bác bị giam cầm ở Trung Quốc. Ban trưởng nhà lao chuyên tổ chức đánh bạc, cảnh sát trưởng kiếm ăn, thu tiền từ việc giải người, ăn hối lộ, huyện trưởng thì hút thuốc phiện. Đó là thực trạng đen tối nơi nhà lao Tưởng Giới Thạch.

Tóm tắt Lai tân hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

Tóm tắt Lai tân (mẫu 3)                 

Bài thơ mở ra bức tranh nhà tù Tưởng Giới Thạch. Ban trưởng đánh bạc, cảnh trưởng trấn lột của tù nhân, huyện trưởng chong bàn đèn thuốc phiện là có ý mỉa mai, tố cáo sự đồi bại, vô trách nhiệm. Bài thơ cho thấy thái độ châm biếm,mỉa mai của tác giả. Đó là toàn bộ thực trạng đen tối nơi nhà lao Tưởng Giới Thạch.

5. Giá trị nội dung tác phẩm Lai tân

Bài thơ miêu tả thực trạng thối nát của chính quyền Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch và thái độ châm biếm, mỉa mai sâu cay

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lai tân

- Ngòi bút miêu tả giản dị, chân thực.

- Lối viết mỉa mai sâu cay.

- Bút pháp trào phúng.

IV. Dàn ý tác phẩm Lai tân

1. Ba câu đầu 

- Ba câu thơ tự sự (kể), ghi lại hình ảnh một cách tự nhiên, như chụp lại hiện thực, giúp ta thấy rõ cảnh tượng, hoạt động của nhà giam Lai Tân.

- Ban trưởng nhà giam – con người thực thi pháp luật nơi nhà tù cai quan tù nhân lại chuyên đánh bạc.

- Cảnh trưởng kiếm ăn quanh – hành động của một kẻ cướp cạn, trấn lột xương tủy của tù nhân, rất dơ bẩn và tàn nhẫn.

- Huyện trưởng chong đèn làm công việc – cứ ngỡ là đang thâu đêm suốt tháng để lo công việc, đắm chìm trong công việc quên cả nghỉ ngơi. Nhưng không – đó là đang hút thuốc phiện – người có chức vụ lớn thì lại thờ ơ, vô trách nhiệm, chìm ngập trong tận cùng của tệ nạn.

⇒ Sự thực của bộ máy chính quyền Lai Tân: thối nát, vô trách nhiệm. Tạo mâu thuẫn (tiếng cười châm biếm chỉ bật lên khi tạo được mâu thuẫn) với câu cuối.

2. Câu cuối

- Ba tiếng thái bình thiên một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, bất ngờ (người đọc chờ một câu kết tựa như một cú đòn sấm sét, hạ gục đối thủ).

- Giọng điệu có vẻ dửng dưng, nhưng hiệu quả châm biếm thật thâm thuý sâu sắc, đâu cứ phải đao to búa lớn, mới hại gục được đối phương.

3. Sơ đồ tư duy

Lai Tân

V. Một số đề văn bài Lai tân

Đề bài: Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh ( mẫu 1 )

Bài thơ Lai Tân đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch. Bức tranh hiện thực nhà tù và một phần xã hội Trung Quốíc đã được thu nhỏ trong bốn câu thơ bảy chữ kèm theo thái độ

Thành công của bài thơ Lai Tân là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình với một kết cấu chặt chẽ vững chắc.

Bài thơ Lai Tân có kết cấu gồm 2 phần, với hai cách cấu tứ khá bất ngờ. Như trên đã nói, ba câu đầu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái hàm ý châm biếm mỉa mai hướng đến sự thối nát tận xương tủy của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.

Trong ba câu đầu miêu tả ngắn gọn, khách quan mà sâu sắc, có sức công phá không hề nhỏ vào sự lộn xộn, bát nháo của xã hội Tưởng Giới Thạch.

Hồ Chí Minh vẽ lên ba bộ mặt thật vô cùng sinh động. Lão giám ngục (ban trưởng nhà lao) đánh bạc ngày này qua ngày khác, viên cảnh sát trưởng thì lóc lẻm móc túi tiền của tù nhân và quan huyện thì chong đèn hút thuốc phiện. Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh giặc, còn cái trời đất Lai Tân này thì muôn thuở vẫn thế. Ba nhân vật hoạt động ráo riết như trong một màn hài kịch câm vậy. Cả ba đang đóng vai một cách nghiêm túc đến vô thức dưới gầm trời "thái bình" của Lai Tân — cảnh tượng thu hẹp của cái giang sơn dưới bàn tay nhà họ Tưởng.

Câu thơ cuối là lời châm biếm, mỉa mai rất sắc sảo. Một chữ "thái bình" mà thâu tóm lại bao nhiêu việc làm vốn là chuyện muôn thuở của cái xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự "thái bình" dối trá nhưng thực sự là đang "đại loạn" từ bên trong của xã hội.

Ba câu đầu chỉ là những câu kể việc, nói về hình tượng cũng không có gì dặc biệt lắm nhưng mỗi nhân vật đều có một việc làm khác nhau mà đặc biệt giống nhau về sự thối nát, nhất là lại ở vào cái hoàn cảnh "quốc gia hữu sự". Người xưa đã nói "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách". Giặc đang ở ngay trước mắt, thiên hạ đã dại loạn rồi, thế mà bọn quan lớn bé đều chỉ lo làm sao vơ vét cho đầy túi. Bác không cần dùng chữ "đại loạn" Bác chỉ nói "thái bình", nói như không "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình". Với câu nói đó (mà nghệ thuật thơ Đường gọi là "cảnh cú"), một câu thơ kêu lên có thể làm rung chuyển những câu thơ khác. Bài thơ vốn phẳng lặng bỗng vang ngân, bỗng giục giã, bỗng gây ra những cảm xúc đặc biệt.

Bài thơ cũng in đậm bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, xúc tích, Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả chế độ xã hội mục nát đến cùng. Sức chiến đấu, chất "thép" của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó. Câu kết có vẻ dửng dưng, vô cảm kia, té ra vẫn ẩn giấu bên trong một tiếng cười khẩy, một tiếng cười mỉa mai có tác dụng lật tẩy bản chất của cả bộ máy nhà nước ở Lai Tân.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh ( mẫu 2 )

     Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đoạn này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ - thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

     Thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục cửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

     Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn được quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.

     Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.

     Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:

“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quắt chốn này?”

     Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!

     Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:

“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.

     Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục cửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:

“Mới đến nhà lao phải nộp tiền
Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên
Nếu anh không có tiền đem nộp
Mỗi bước anh đi một bước phiền”

     Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.

“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”

     Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn - một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.

     Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

     Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.

     Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh ( mẫu 3 )

Nhật kí trong tù là tập nhật kí bằng thơ do Hồ Chí Minh viết ròng rã hơn một năm trời trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trước hết, đây là tập thơ Bác viết cho chính mình, với mục đích: Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do mà Bác đã viết ở bài Khai quyển đầu cuốn sổ tay. Vì thế mà Bác ghi lại vắn tắt những điều tai nghe mắt thấy làm cho mình trăn trở, suy nghĩ và xúc cảm trong suốt mười bốn tháng bị giam cầm. Lai Tân là bài thơ thứ 97, Bác làm sau khi bị chuyển lao từ Thiên Giang đến Lai Tân. Đằng sau bức tranh tả thực có vẻ như rất khách quan là thái độ mỉa mai, châm biếm và phê phán của người tù Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị ở Lai Tân nói riêng và chế độ xã hội Trung Quốc đương thời nói chung.

Phiên âm chữ Hán:

Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.

Dịch nghĩa:

Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.

Dịch thơ:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bức tranh về hiện thực ở nhà tù Lai Tân và một phần xã hội Trung Quốc thu nhỏ đã được Hồ Chí Minh phản ánh sinh động trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà ý nghĩa vô cùng hàm súc. Thành công của bài thơ là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo kết hợp với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình và một kết cấu chặt chẽ, hợp lí.

Kết cấu bài thơ gồm hai phần nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật ở chỗ: phần thứ nhất gồm ba câu, còn phần thứ hai chỉ có một câu. Ba câu thơ đầu chỉ đơn thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư bởi nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài thơ và làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai của người tù Hồ Chí Minh trước sự thối nát đến tận xương tủy của đám quan chức trong giai cấp thống trị.

Ở phần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã phác họa thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng”. Ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc ngày này qua ngày khác, trong khi: Đánh bạc bên ngoài quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn hút thuốc phiện. Chính những kẻ đại diện cho chính quyền, cho luật pháp lại ngang nhiên vi phạm pháp luật. Điều trái ngược ấy đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Hoa thời ấy: Quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, hưởng lạc; cấp dưới thì chỉ lo xoay xở kiếm ăn quanh năm, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành. Hơn thế, điều đáng mỉa mai là chính bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu ấy đã “tích cực” góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội. Ba nhân vật đang hoạt động như trong một màn hài kịch câm và cả ba đang thủ vai một cách hết sức “nghiêm túc” giữa khung cảnh thái bình (?!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ miêu tả ngắn gọn mà lại hàm ý mỉa mai sâu sắc, tố cáo tình trạng lộn xộn, bát nháo của xã hội Trung Quốc lúc đó.

Phần thứ hai (câu cuối cùng) là nhận xét có tính chất trào lộng thâm thúy của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng của bộ máy cai trị ở Lai Tân. Người đọc chờ đợi gì ở câu kết luận này ? Chắc hẳn phải là một sự lên án quyết liệt. Nhưng tác giả đã không làm như thế mà lại hạ một câu có vẻ rất khách quan: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Đòn đả kích bất ngờ mà sâu cay lại nằm ngay trong câu nhận xét tưởng như là ca ngợi ấy.

Hiệu quả đả kích của câu thơ như thế nào? Hoá ra tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân không phải là chuyện bất thường mà là chuyện bình thường. Bình thường đến nỗi đã trở thành bản chất, thậm chí đã thành “nề nếp” được chấp nhận từ lâu.

Câu kết tưởng chừng có vẻ hết sức “vô tư” kia ai ngờ lại ẩn giấu một tiếng cười mỉa mai, châm biếm, lật tẩy bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Tính từ thái bình có thể xem là “thần tự”, “nhãn tự" của bài thơ. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có một lời bình thật chính xác và thú vị: “Một chữ thái bình mà diễn tả lại bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của giai cấp bóc lột thống trị Trung Quốc. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong”.

Bài thơ Lai Tân in đậm bút pháp nghệ thuật chấm phá truyền thống của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, súc tích, không cầu kì câu chữ, nhưng chỉ với bốn câu thơ ngắn, người tù Hồ Chí Minh đã phơi bày bản chất của cả chế độ Tưởng Giới Thạch suy thoái, mục nát. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà thâm thúy chính là ở đó.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Nhớ đồng

Tương tư

Chiều xuân

Tôi yêu em

Bài thơ số 28

1 1192 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: