Cha con nghĩa nặng - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11

VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 11 về Tác giả tác phẩm Cha con nghĩa nặng gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Cha con nghĩa nặng như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:

1 2648 lượt xem
Tải về


Cha con nghĩa nặng - Ngữ văn lớp 11

I. Tác giả Cha con nghĩa nặng

Hồ Biểu Chánh - Tiểu thuyết gia tiền phong - Văn Chương Phương Nam

a. Tiểu sử

- Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958), tên thật là Hồ Văn Trung.

- Ông sinh ra tại làng Bình Thành (nay là xã Thành Công, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).

- Xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn.

- Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ.

- Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. 

b. Sự nghiệp văn học

- Ông để lại di sản văn học không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu – phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch. Các tác phẩm tiêu biểu như Cha con nghĩa nặng, Cay đắng mùi đời, Một đóa hoa rừng, Tình anh em, Công chúa kén chồng,...

II. Nội dung tác phẩm Cha con nghĩa nặng

Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích)Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích)Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích)

Đọc thêm: Cha con nghĩa nặng (trích)

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Cha con nghĩa nặng

1. Bố cục tác phẩm Cha con nghĩa nặng

- Phần 1 (từ đầu ... buồn rầu khổ cực nữa): tâm trạng của Trần Văn Sửu khi trên cầu Mê Tức

- Phần 2 (tiếp … trở lại liền): cuộc gặp gỡ cảm động của hai cha con

- Phần 3 (còn lại): cuộc đoàn tụ của hai cha con

2. Tóm tắt tác phẩm Cha con nghĩa nặng

Tóm tắt Cha con nghĩa nặng (mẫu 1)

Đoạn trích Cha con nghĩa nặng  kể lại sự việc Sửu bỏ đi sau khi lẻn về thăm con, thằng Tí chạy theo cha và hai cha con gặp nhau trên cầu Mê Tức.

Tóm tắt Cha con nghĩa nặng (mẫu 2)

Đoạn trích được học kể lại sự việc thằng Tí chạy theo cha và hai cha con gặp nhau trên cầu Mê Tức. Nội dung chính của đoạn trích là miêu tả tình cha con nghĩa nặng. Nó thể hiện ở lương tâm, lời nói, cử chỉ của người cha và cả người con.

Tóm tắt Cha con nghĩa nặng hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

Tóm tắt Cha con nghĩa nặng (mẫu 3)

Trần Văn Sửu một nông dân hiền lành, chăm chỉ. Sửu lấy Thị Lựu sinh được ba con: Tí, Quyên, Sung. Anh thương vợ, yêu con nhưng không may gặp phải người tính cách xấu xa. Một hôm Sửu bắt gặp vợ ngoại tình hương hào Hội. Sửu xô vợ, không may vợ ngã vấp vào phản chết ngay. Sửu bỏ trốn, mọi người thì tưởng Sửu nhảy xuống sông tự tử. Anh em thằng Tí về ở với ông ngoại là hương thị Tào. Sung ốm chết, Tí và Quyên đi làm thuê cho bà hương quản Tồn, được bà thương, Quyên trở thành con dâu của bà. Sau mười mấy năm trốn tránh, Sửu lẻn về nhà thăm con, được bố vợ cho biết cuộc sống hai đứa con ổn định và hạnh phúc, sự có mặt của anh lúc này là bất lợi, Sửu vội vã ra đi... Sau đó, Sửu được xóa án và cha con đoàn tụ.

3. Phương thức biểu đạt tác phẩm Cha con nghĩa nặng

- Tự sự, biểu cảm

4. Thể loại tác phẩm Cha con nghĩa nặng

- Tác phẩm Cha con nghĩa nặng thuộc thể loại: Tiểu thuyết

5. Ngôi kể

- Ngôi thứ 3

6. Giá trị nội dung tác phẩm Cha con nghĩa nặng

Thể hiện vẻ đẹp của tình phụ tử và lòng hiếu thảo. Khẳng định những tình cảm tốt đẹp này là bài học đạo lí muôn đời của nhân dân ta.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Cha con nghĩa nặng

- Tạo tình huống căng thẳng, mâu thuẫn được đẩy lên qua lời thoại.

- Nghệ thuật kể truyện tự nhiên, hấp dẫn

- Ngôn ngữ mang sắc thái Nam Bộ 

IV. Dàn ý tác phẩm Cha con nghĩa nặng

1. Nhân vật Trần Văn Sửu

- Là một nông dân cần cù, chất phác, nhưng Sửu gặp phải người vợ thiếu chung thủy. Ông lỡ tay phạm vào tội giết vợ khiến gia đình tan nát, ông phải trốn đằng đẵng 11 năm trời.

- Trong những năm trốn chạy, ông Sửu không nguôi ân hận về việc làm của mình, đồng thời trĩu nặng nỗi nhớ thương con.

- Ông liều cải trang về gặp con, và phải đối diện với mâu thuẫn đau lòng: Tình cha thương con >< hạnh phúc của con.

+ Cuối cùng ông chấp nhận bỏ đi biệt xứ, chấp nhận mọi khổ đau, thậm chí tìm đến cái chết.

+ Khi gặp được con, ông hiểu rõ lòng con thương và hiểu cho mình, ông vẫn một mực đòi ra đi để giữ trọn hạnh phúc và yên ổn lâu dài cho con.

⇒ Là một con người bất hạnh, nhưng ông chính là tiêu biểu cho vẻ đẹp của những người lao động bình dị, nhân hậu, chất phác, giàu tình cảm, sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời, thậm chí cả mạng sống  để bảo toàn cho hạnh phúc lâu dài của những đứa con.

2. Nhân vật Tí

- Được ông ngoại nuôi dạy nên người; mồ côi mẹ, cha trốn chạy, một đứa em bị chết. 

→ Một cuộc đời côi cút, bơ vơ, rất đáng thương.

- Trước sự éo le của cuộc đời, Tí đã nhanh chóng giải tỏa mâu thuẫn bằng những hành động, ý nghĩ, lời nói thiết thực khá thông minh và sâu sắc:

+ Tí chạy theo cha, cứu được cha ra khỏi hành động tiêu cực

+ Khi gặp người cha xa cách mười năm, Tí đã ôm cha khóc hồi lâu khiến người cha vô cùng xúc động, hạnh phúc.

→ Làm vơi đi nỗi đau, an ủi người cha bất hạnh không nguôi khao khát được gặp mặt con...

+ Trong câu chuyện với cha, Tí đã từng bước giảng giải, thuyết phục được cha nghe theo mình để được chăm sóc cha.

⇒ Là một người con rất mực thương cha, đã sẵn sàng tạm gác hạnh phúc riêng để giải tỏa nỗi đau cho cha, chăm sóc, an ủi cha trong thử thách đầy khó khăn của cuộc đời.

3. Sơ đồ tư duy

Cha con nghĩa nặng

V. Một số đề văn bài Cha con nghĩa nặng

  • Đề bài: Phân tích và nêu cảm nghĩ của em về tác phẩm "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh.

    Bài văn mẫu Phân tích và nêu cảm nghĩ của em về tác phẩm "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh.

       Đoạn trích "Cha con nghĩa nặng" thuộc nửa sau Chương IX - cuốn tiểu thuyết thứ 15 của Hồ Biểu Chánh. Thật không có nhan đề nào hay hơn để thay thế. Câu chuyện kể có nhiều tình huống éo le và cảm động. Các tình tiết đan chéo vào nhau làm nổi bật những đức tính tốt đẹp của Trán Văn Sửu, của thằng Tí trước bi kịch gia đình.

       Sau mười mấy năm phải thay họ đổi tên, làm thuê làm mướn kiếm sôhg ở quê người, nỗi khổ tâm đầy ắp trong lòng Trần Văn Sửu là nỗi nhớ day dứt, triển miên hai đứa con thơ tội nghiệp, là thằng Tí và con Quyên, ở nơi đất khách quê người, người cha đau khổ vì sau ngày nhỡ tay xô vợ ngã chết, lương tâm cứ cắn rứt mãi không thôi. Sửu sợ hai con "không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình ", lại sợ con sống trong cảnh côi cút "hơ vơ đói rách, mà tội nghiệp". Mẹ thì đã chết rồi, cha còn hay mất? Con không cha như nhà không nóc!

       Sau hơn mười năm trốn tránh nơi quê người, Sửu bí mật trở về Giồng Ké với ước nguyện được thăm con, được nhìn tận mặt con dù chỉ trong một lát mà cũng không được. Hình ảnh Sửu "chắp tay xá cha vợ rồi đội nón lên và bươn bá bước ra lộ" giữa đêm trăng, trông thật đáng thương. "Ông ngoại giấu tôi tàm chỉ? Sao đuổi cha tôi đi? " — Câu hòi ấy của thằng Tí đâu chỉ là lời trách móc ông ngoại nó, mà còn biểu lộ tình cảm của đứa con khao khát được gặp lại người cha thân yêu của mình. Tình thương cha vô hạn của đứa con thơ trước bi kịch gia đình đã làm ta rơi nước mắt.

       Cảnh thằng Tí chạy vượt qua cánh đồng Phú Tiên đã cho thấy tình cha con sâu nặng biết bao!

       Ngồi trên cầu Mê Tức, Sửu ân hận nhớ lại hình ảnh vợ lúc chết "nằm ngay đơ trên bộ ván, miệng nhểu mấy giọt máu đỏ lòm, mắt hết thán mà còn mở trao tráo". Anh quên sao được hình ảnh con Quyên, thằng Tí "đứa níu áo, đứa nắm tay mà nói dỏ dẻ" mỗi buổi chiều khi anh ở ruộng đi vể. Những kỉ niệm ấy đã làm cho Sửu "đau đớn trong lòng quá, chịu không dược ". Trưóc khi định nhảy xuống sông tự tử, Sửu cất tiếng nhản gọi con thơ: "Cha chết nhé ! Mấy con ở lại mạnh giỏi, dể cha theo mẹ con cho rỗi". Lỗi kêu thương vĩnh biệt ấy đã thể hiện một cách sâu sắc tình cha con nghĩa nặng vô cùng.

  •    Tâm trạng đau đón vì nhớ thương con của Trần Văn Sửu khi ngồi trôn cầu Mê Tức đã được Hồ Biểu Chánh miêu tả một cách chân thực, tinh tế. Cảnh hai cha con Trần Vàn Sửu gặp nhau trên cầu Mê Tức sau những năm dài biệt li được ghi lại một cách cảm động. Thằng Tí đã đến kịp thời, nếu chỉ chậm vài bước chân thì cha nó đã về bên kia thế giới. Thấy người chạy lên cầu, nó vội hỏi: "ai đó? Phải cha đó không, cha? thì Trần Văn Sửu tháo đầu khỏi lan can cầu "rồi day mà ngố". Thằng Tí xúc động đến cưc đô, hắn "chạy riết lạỉ nắm tay cha nó, dòm sát trong mắt mà nhìn rồi ôm cứng "; cha nó vào lòng. Nó kêu, nó khóc hay nó tủi cực? Nó nói, nó hỏi liên tiếp: "Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu dữ vậy?". Cử chỉ, hành động và lời nói của đứa con trai tội nghiêp đã làm cho người cha bồi hồi, bàng hoàng "mất trí khôn, hết nghi lưc, máu trong tim chảy thình thịch, nước trọng mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết ". Hai cha con cứ "ôm nhau mà khóc ". "Đến bây giờ mới thấy đây - Mà lòng đã chắc những ngày một hai (Truyện Kiều). Con thì tưởng cha đã chết;cha lại tưởng không bao giờ được gặp lại con. Thế mà giờ đây, trên cầu Mê Tức ở quê nhà, khi "trên trời trăng thanh vằng vặc; dưới sông dòng bích nao nao ", hai cha con anh nông dân hiền lành, chất phác lại được gặp nhau, tưởng như trong mơ. Đây là một trong những đoạn văn nhiều ý vị nhất trong tác phẩm "Cha con nghĩa nặng". Hổ Biểu Chánh đã sử dụng lời ăn tiếng nói chân quê của những người dân ấp dân lân để miêu tả tâm trạng hai cha con Trần Văn Sửu một cách khá tinh tế, xúc động. Cách chúng ta ngày nay ngót một thế kỉ mà có được những trang văn xuôi đậm đà như thế, thật đáng quý. Nhà văn Hồ Biểu Chánh đã sinh ra và lớn lên ở miệt vườn vùng đồng bằng sông 

     

       Cửu Long, ngòi bút và tâm hồn ông đã gắn bó, hoà quyện với hơi thở và nhịp sống cần lao của người nông dân Nam Kì nên mới viết được chân thực như vậy.

       Trần Văn Sửu không thể vể sống lại nơi quê nhà. Làng tổng sẽ bắt, anh sẽ phải đi tù. Nếu sự việc xảy ra thì hạnh phúc và cuộc sống của hai đứa con của anh sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Nếu lại ra đi, sống lẩn lút nơi các sóc người Thổ ở Ba Si, Láng Thó thì sẽ thương nhớ con, lòng người cha sao đành? Thằng Tí thì chỉ vì muốn theo cha, "đi theo đặng làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về". Tục ngữ có câu: Trẻ cậy cha, già cậy con". Có phụng dưỡng cha mẹ lúc ốm đau, già nua thì mới trọn đạo làm con, mới "tròn chữ hiếu". Thằng Tí chỉ có một ý nguyện: "Bây giờ có một mình cha nghèo khổ, vậy con phải làm mà nuôi cha chứ". Chuyện cha trở vé hay cha lại ra đi, chuyện để cha ra đi một mình, hay con đi theo cha đến tận xứ người là nỗi băn khoăn của Trần Văn Sửu và thằng Tí. Vì thế hai cha con cứ "dan díu bịn rịn cho đến sao Mai mọc" mới tìm được lối thoát hợp lí. Đọc truyện "Cha con nghĩa nặng" đến Chương X, chúng ta cảm động đến rơi lệ trước cái kết có hậu chứa chan nhân tình nhân nghĩa. Người cha được miễn truy tố, được trở lại quê hương sum họp với đàn con yêu quý.

       Trần Văn Sửu và thằng Tí, những con người chân lấm tay bùn, đầu tắt mặt tối, lam lũ quanh năm, lại mù chữ thế mà cách sống, cách ứng xử của hai cha con thật đẹp. Trước bi kịch gia đình, tình cha con vẫn sắt son sầu nặng. Đặc biệt thằng Tí là một đứa con hiếu thảo, hiếu thuận và hiếu nghĩa. Hai cha con Trần Văn Sửu là hiện thân bao phẩm chất tốt đẹp của người nông dân miền Nam nước ta xưa và nay.

  • Đề bài: Phân tích tình cha con qua hai nhân vật Sửu (người cha) và Tí (người con) trong đoạn trích tác phẩm "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh

    Bài văn mẫu Phân tích tình cha con qua hai nhân vật Sửu (người cha) và Tí (người con) trong đoạn trích tác phẩm "Cha con nghĩa nặng" của Hồ Biểu Chánh

       Hồ Biểu Chánh là một nhà văn rất quen thuộc của nhân dân Nam bộ. Ông là tác giả của hơn 60 cuốn tiểu thuyết, ông được xem là một trong số ít người tiên phong đặt nền móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông chẳng những đã phản ánh một phong cách phong phú và chân thật cuộc sống của nhân dân Nam bộ mà còn thể hiện đạo đức tốt đẹp của con người giữa cuộc đời. Tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng đã nêu bật tình cảm sâu sắc xúc động của nhân vật cha Sửu và nhân vật con Tí mà đoạn hiện in trong sách Văn 11 là một trường hợp tiêu biểu.

       Trước hết ta thấy đoạn trích hiện lên trước mặt người đọc hình ảnh của ba nhân vật, song điều đáng quan tâm thì chỉ có hai (Sửu và Tí). Mặc dù chỉ qua một đoạn trích nhưng số phận của nhân vật Sửu hiện lên khá đầy đủ. Trần Văn Sửu sống trong hoàn cảnh thật éo le. Do vô tình, ông mang tiếng là người giết vợ. Sợ pháp luật săn đuổi trừng trị, Trần Văn Sửu phải sống chui lủi, đến tên tuổi tung tích của mình cũng phải tìm cách xóa sạch. Trên mười năm trời, Trần Văn Sửu phải chịu đau khổ về thể xác, tâm hồn, chịu cảnh cắn rứt dằn vặt của lương tâm. Những điều này được thể hiện qua lời nói của nhân vật khi gặp lại bố vợ và đứa con trai yêu quý của mình. Tác giả chưa miêu tả chiều sâu của nội tâm nhân vật chủ yếu dùng hành động và lời nói để thể hiện phẩm chất đạo đức của Trần Văn Sửu. Trong hoàn cảnh cuộc sống không đáng sống, thậm chí Trần Văn Sửu đã sống những ngày không ra cuộc sống của con người nhưng ông đã không chết được vì lòng thương con, vì sự cắn rứt của lương tâm. Ông vốn là người lương thiện, hiền lành chất phác, thương vợ, thương con mà vợ ông lại là con người đàng điếm lăng loàn. Ông sợ là khi mình chết đi mà các con ông không hiểu được cha của nó một cách đúng đắn, chúng sẽ sống trong đau khổ vì là con của người cha tàn bạo. Rõ ràng Trần Văn Sửu có cõi tâm cao thượng chỉ muốn riêng mình nhận lấy nỗi khổ đau cùng với người vợ bất hạnh, không muốn những đứa con ngây thơ trong trắng của mình phải chịu vạ lây, không muốn cho tâm hồn chúng vẩn lên những nỗi đau u uất. Thì ra những năm tháng sống đau khổ về thể xác, về tâm hồn, ông Sửu đã không chết, vì thương con, vì ý muốn tốt đẹp cho con.

       Ông Sửu bươn bả về làng tìm gặp lại những đứa con sau bao năm tháng chờ đợi con khôn lớn để có thể giãi bày cùng chúng. Đây là lúc ông có thể thực hiện điều tâm niệm ấy. Gặp lại bố vợ, ông Sửu chấp nhận tất cả những lời mắng nhiếc, sỉ nhục để đạt được mục đích của mình. Trần Văn Sửu đã nói với cha vợ những lời chứa chan nước mắt đau khổ, làm hiện lên nguyên vẹn tấm lòng thương con vô hạn của người cha. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến ông trở thành người kiên quyết: "xăm xăm bước đi về cửa", "lột nón xuống mà cầm trên tay". Mặt khác cũng chính vì lòng thương con, khao khát được gặp mặt con khiến ông trở thành người mềm yếu một cách chân thực: "… cúi mặt ngó xuống đất, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng… Trần Văn Sửu nói tới đó rồi khóc rấm rứt". Trần Văn Sửu than rằng: "Mười một năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông mong có ngày thấy được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp con được mà phải đi, thì làm sao được, trời đất ơi!". Chỉ bằng một lời than thế thôi mà cũng gợi ra trước mắt ta cuộc đời khổ ải của Trần Văn Sửu và nỗi lòng yêu thương con da diết, muốn gặp mặt con dù một chút mà cũng không được. Nỗi nhớ thương con cháy lòng khiến Sửu không kiềm giữ được đã thốt thành lời: (3 lần với Hương Thị Tào):

    "… Con thương sắp nhỏ quá"

    "… Con thương nhớ chúng nó quá tía ơi!"

    "… Con nhớ sắp nhỏ quá".

       Chính tấm lòng yêu thương con của ông Sửu đã lay thức và làm bừng tỉnh những tình cảm tốt lành trong Hương Thị Tào. Từ chỗ ông nhiếc mắng ban đầu "Mày thiệt là đồ khốn nạn lắm. Đi liền bây giờ đi… đừng có về đây nữa" đến chỗ ông già cũng nghẹn ngào xúc động cùng Sửu: "Hương Thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng khóc". Sau khi nghe Hương Thị Tào cho biết là các con vẫn thương mình, Trần Văn Sửu chỉ muốn được nhìn thấy mặt chúng dù phải dấu mình dưới dạng người Thổ. Chi tiết đó thể hiện rất rõ nỗi lòng thương con của người cha bất hạnh. Sửu trở về nhà khao khát gặp con bao nhiêu thì sẵn sàng lặng lẽ ra đi bấy nhiêu khi biết được các con đã hiểu đúng mình và chúng sắp sửa được sống sung sướng hạnh phúc. Vì sợ liên lụy đến con, ông Sửu sẵn sàng từ bỏ khát vọng cháy bỏng trong lòng mình là được gặp lại chúng. Trần Văn Sửu vui lòng "lãnh các sự đau đớn cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con được giàu có, sung sướng thì thôi". Vĩnh biệt người bố vợ hiền từ nhân ái, ông Sửu ra đi quyết tâm không về nữa.

     

       Bằng một đoạn văn đọc thoại nội tâm: "Bây giờ mình còn sống nữa làm gì! Bấy lâu mình lăn lóc chịu cực khổ mà sống, ấy là vì mình thương con, mình sợ nó không hiểu việc xưa rồi nó trở oán mình, mình sợ nó bơ vơ, đói rách, mà tội nghiệp thân nó. Bây giờ mình biết rõ nó thương mình, nó còn kính trọng mình, mà nó lại gần được giàu có sung sướng hết thảy nữa, vậy thì mình nên chết rồi, chết mới quên hết việc cũ được, chết đặng hết buồn rầu, cực khổ nữa", một đoạn văn rất mới so với văn học trung đại, Hồ Biểu Chánh đã tái hiện được vẻ đẹp tâm hồn của người cha: Sửu trở về cũng là vì muốn gặp được con, lầm lũi ra đi vĩnh viễn cũng là vì con. Hai thái cực đó làm hiện lên tấm lòng nhân ái của người cha bất hạnh một tình huống éo le. Và bây giờ ông muốn chết đi, nên chết để "quên hết việc cũ", "hết buồn rầu, cực khổ", chết để khỏi liên lụy đến con! Tiếp đó, Hồ Biểu Chánh đã để cho nhân vật hồi tưởng lại quá khứ sống vì con, chết vì con của đời mình ("Anh ta nghĩ như vậy rồi nhắm mắt lại"…). Trong trí tưởng tượng của ông Sửu, hình ảnh của người vợ khi chết như là nỗi ám ảnh về tội lỗi dai dẳng, giày vò tâm can ông. Điều đó làm ông muốn chết và quên đi chuyện cũ để hết nỗi đau khổ. Mặt khác hình ảnh thơ ngây của những đứa con ngoan ngoãn làm cho ông đau đớn trong lòng, trong tận cùng của nỗi đau ấy, cái đẹp của lòng lương thiện và tình thương con cũng ngời sáng. Nhân vật Trần Văn Sửu trong đoạn trích Cha con nghĩa nặng như là hiện thân của những phẩm chất đạo đức truyền thống giàu tính nhân bản. Con người hiền lành lương thiện ấy đã phải sống một cuộc đời bất hạnh, song lòng lương thiện, đức vị tha bao dung, tình thương con của người cha đó vừa có tác dụng truyền cảm vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Câu chuyện được kết cấu theo trật tự thời gian, nhân vật được khắc họa chủ yếu qua hành trang và lời nói, mục đích sáng tác nhằm giáo huấn, tuyên truyền đạo đức. Đó là những điều chúng ta gặp trong văn học dân gian và văn học trung đại. Nhìn chung cuộc gặp gỡ giữa Sửu và bố vợ là một trường đoạn bộc lộ tâm trạng. Đó là nỗi khát khao tình cảm của một người cha đối với con, là sự giãi bày những uẩn khúc đã giấu trong lòng suốt 11 năm trời. Sở dĩ 11 năm qua Trần Văn Sửu chưa muốn kết thúc cuộc đời mình chính là mong có phút gặp gỡ cùng con. Nhưng chưa gặp con là đã gặp lại người bố vợ. Ngôn ngữ đối thoại ở đây đầy tâm trạng và rất xúc động đồng thời mang sắc thái ngôn ngữ Nam bộ đặc sắc. Sự phát triển tính cách nhân vật ở đoạn này dựa trên quy luật tâm lí và hoàn toàn hợp lí. Đó là một thành công trong xây dựng nội tâm nhân vật của tác giả. Tác giả khéo tạo tình huống để nhân vật có thể bộc lộ nội tâm của mình.

       Bên cạnh tình cảm của người cha đối với con thật sâu sắc, là tấm lòng hiếu nghĩa của đứa con khi gặp lại cha sau 11 năm xa cách. Dường như 11 năm trời hình bóng người cha không thể nào phai mờ trong đứa con hiếu nghĩa. 11 năm trôi qua. Tí (con) phải sống thiếu tình thương yêu của người cha đối với mình, chính vì thế khi gặp lại người cha, tình phụ tử trào dâng choán ngập hết tâm hồn Tí. Lúc này đây Tí chỉ biết có mình cha, khao khát được sống trong tình thương yêu của người cha.

       Tình nghĩa sâu nặng giữa hai cha con Tí đem đến cho ta niềm xúc động thật thấm thía. Bởi tình nghĩa đó không hiện diện ở một phía (Sửu) mà đến từ hai phía như một sự gặp gỡ vừa tất yếu vừa thiêng liêng. Trước hết tình thương cha, hiểu cha, muốn gắn bó với cha khiến cho Tí trở nên đĩnh đạc và chủ động. Nó đĩnh đạc và chủ động hỏi ông ngoại: "Cha tôi đi đâu rồi ông ngoại?". Đĩnh đạc và chủ động chạy theo cha khi Sửu bỏ đi. Nó đâm đầu chạy riết theo, tiếng nói cất thêm từ niềm sâu thẳm của tình nghĩa phụ tử sao mà xúc động: "Ai đó? Phải cha đó không, cha?". Trong khi Trần Văn Sửu muốn tự tử kết thúc cuộc đời đau khổ của mình thì Tí đến với tấm lòng yêu cha chân thành, đã cứu cha trở về với cuộc sống. Cảnh cha con gặp nhau thật cảm động, sinh động và giản dị: "Thằng Tí chạy riết lại nắm lấy tay cha nó, dòm sát trong mặt rồi nhìn mà ôm cứng trong lòng mà nói: "Cha ôi! Cha! Cha chạy đi đâu giữ vậy". Lúc ấy Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tim chảy thình thịch, nước trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết". Khi gặp được cha rồi, Tí nhất quyết không rời cha nửa bước. Cậu ta kiên quyết: cha đi đâu con theo đó", "Hễ cha đi thì con đi theo", "Đi theo đặng mà làm mà nuôi cha; chừng nào cha chết rồi con sẽ về". Mặc dù đã mười một năm không gặp cha, không được cha âu yếm, nuôi nấng, nhưng khi được gặp, mối tình phụ tử lập tức tràn đầy. Như vậy, Trần Văn Sửu trở về cũng vì con mà ra đi cũng vì con, cho nên Tí cũng vì cha mà đi theo cha để chăm sóc cha quên đi cuộc sống hiện tại mình… Ấy chính là cái "nghĩa nặng" của tình cha con thể hiện ở đây.

       Tóm lại: Đoạn trích Cha con nghĩa nặng in trong sách giáo khoa văn 11 là một cuộc gặp gỡ đầy xúc động và chứa chan nước mắt giữa cha con ông Sửu, Qua những tình huống đầy kịch tính, tác giả đã nêu bật cái đẹp nội tâm của hình tượng nhân vật cha và con. Ở đây cha nghĩ về con là hết lòng và đối với cha cũng hết nghĩa. Đoạn trích bên cạnh nghệ thuật miêu tả dựng cảnh khác, hấp dẫn phải nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác giả. Cha con nghĩa nặng mang dấu ấn của thời kỳ đầu văn chương đổi mới theo xu hướng hiện đại. Trước hết nó được viết bằng chữ quốc ngữ, bằng lời ăn tiếng nói đời thường (bởi ngôn ngữ đời thường), bằng những câu văn xuôi rất mới mẻ, tuy nhiên vẫn còn rơi rớt của lối văn biền ngẫu "Trên trời trăng thanh vằng vặc, dưới sông dòng bích nao nao…". Truyện mang dấu ấn của buổi giao thời…

    Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Vi hành

Tinh thần thể dục

Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Tình yêu và thù hận

Lưu biệt khi xuất dương

1 2648 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: