Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11 - Kết nối tri thức

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 4576 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Ngữ văn 11

I. Tác giả Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Nguyễn Huy Tưởng - một nhân cách văn chương

a. Tiểu sử

- Nguyễn Huy Tưởng (1912- 1960)

- Xuất thân trong một gia đình nhà nho, từ sớm đã tham gia cách mạng hoạt động trong những tổ chức văn hóa văn nghệ do Đảng tổ chức

b. Sự nghiệp văn học

- Các tác phẩm chính:

+ các vở kịch: Vũ Như Tô, Bắc Sơn, Những người ở lại

+ kịch bản phim: Lũy hoa

+ các tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thời gian

+ kí: Kí sự Cao- Lạng

- Phong cách nghệ thuật:

+ có thiên hướng khai hác các đề tài lịch sử

+ đóng góp lớn nhất ở hai thể loại: tiểu thuyết, kịch

+ Văn phong giản dị, trong sáng, đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc

II. Nội dung tác phẩm Vĩnh biệt cửu trùng đài

LỚP I

Vũ Như Tô –Đan Thiềm

VŨ NHƯ TÔ – Có việc gì mà bà chạy hớt hơ hớt hải ? Mặt bà cắt không còn hột máu.

ĐAN THIỀM (thở hổn hển) – Nguy đến nơi rồi... Ông Cả !

VŨ NHƯ TÔ – Lạ chưa, nguy làm sao ? Đài Cửu Trùng chia năm đã được một phần.

ĐAN THIỀM – Ông trốn đi, mau lên không thì không kịp.

VŨ NHƯ TỎ – Sao bà nói lạ ? Đài Cửu Trùng chưa xong, tôi trốn đi đâu. Làm gì phải trốn ?

ĐAN THIỀM – Ông nghe tôi ! Ông trốn đi ! Ông nghe tòi ! Ông phải trốn đi mới được !

VŨ NHƯ TỎ – Làm sao tôi cần phải trốn ? Bà nói rõ cho là vì sao ? Khi trước tôi nhờ bà mách đường chạy trốn, bà khuyên không nên, bây giờ bà bảo tôi đi trốn, thế là nghĩa gì ?

ĐAN THIỀM – Có nghĩa lắm. Tôi không làm một việc gì vô lí cả. Khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ trốn đi thì ông thoát chết.

VŨ NHƯ TÔ – Sao thế?

ĐAN THIỀM – Loạn đến nơi rồi. Dân gian đói kém nổi lên tứ tung. Giặc Trần Cao trước đã bị quan quân đuổi đánh, nay lại về đóng ở Bồ Đề, thanh thế rất mạnh. Trong triều, Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản vì can vua mà bị đánh, nay mưu với mấy tên đồng chí, giả mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn.

VŨ NHƯ TÔ – Tôi làm gì nên tội ?

ĐAN THIỀM – Vậy mà ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khổ hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông,

thần nhân trách móc là vì ông. Cửu Trùng Đài, họ có cần đầu ? Họ dấy nghĩa cốt giết ông, phá Cửu Trùng Đài.

VŨ NHƯ TÔ – Phá Cửu Trùng Đài ? Không đời nào ! Mà tôi thì không làm gì nên tội. Họ hiểu nhầm.

ĐAN THIỀM – Ông phải trốn đi. (Có tiếng quân ầm ầm, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và, tiếng ngựa hí) Ông phải trốn đi (lời có vẻ van lơn). Trong lúc

biến cố này, ông hãy tạm lánh đi. Khi dân nổi lên, họ nóng nổi vô cùng. Họ không phân biệt phải trái. Ông trốn đi. Tài kia không nên để uống. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai tò điểm nữa.

VŨ NHƯ TỔ – Bà không nên lo cho tôi. Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết thì cũng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây, thì tôi chạy đi đâu ?

ĐAN THIỀM – Ông Cả ! Ông nghe tòi. Trốn đi để chờ cơ hội khác. Đại sự hỏng rồi.

VŨ NHƯ TÔ – Đa tạ bà. Tấm lòng của bà chỉ có lòng cha mẹ tôi mới sánh kịp.

Nhưng tôi đã quyết, không chịu rời Cửu Trùng Đài một bước. Tôi quyết ở đây. ĐAN THIỀM (thất vọng) – Ông Cả ơi !

LỚP II

Những người trên, thêm Nguyễn Vũ

NGUYỄN VŨ (lật đặt và xộc xệch) – Kìa, thầy Cả.

VŨ NHƯ TÔ – Lạy Cụ lớn.

NGUYỄN VŨ – Thấy có biết việc gì không ?

VŨ NHƯ TỎ – Bẩm Cụ lớn, không. Duy có bà Đan Thiềm đây vừa mới bảo với chúng tôi rằng Nguyễn Quận công làm phản.

NGUYỄN VŨ (hất hàm hỏi Đan Thiềm) – Thế nào ?

ĐAN THIỀM – Chúng tôi cũng không rõ. Nghe như Quận công làm phản. Cụ lớn có biết tin gì thêm không ?

NGUYỄN VŨ – Đúng thể đẩy. Ta vừa chạy đến đây. Thiên tử đâu ? Chiều hôm kia ta còn uống rượu trong nội điện với Hoàng thượng.

ĐAN THIỀM (rú lên) – Cái gì đó ? (Có tiếng động ẩm ẩm ở xa). Họ tiến lại đây chăng ? (Quay bảo Vũ Như Tô) Ông trốn đi, mau lên, khổ lắm (lắng tai). Có tiếng quân reo... (líu lưỡi).

NGUYỄN VŨ – Ta lo cho Hoàng thượng lắm. Duy Sản là một đứa tiểu nhân. Nó vẫn căm giận Hoàng thượng và ta. Ta hối không can Hoàng thượng, lại để cho Ngài sai đánh nó quá đau, mà lại ở ngay giữa chợ. Thẹn quá hoá giận, đứa tiểu nhân thì nghĩ chi đến nghĩa vua tôi!

ĐAN THIỀM (quay bảo Vũ Như Tô) – Ông định chết ở đây sao ? Ông gần quá. Quận công có ưa gì ông đâu ?

VŨ NHƯ TÔ (sẵng) – Bà để mặc tôi. Tôi tự có cách khu xử.

ĐAN THIỀM – Đấy, tiếng reo mỗi lúc một gần. Kìa, thái giám, chắc có tin gì ?

Nội giám hoảng hốt vào.

LỚP III

Những người trên, thêm Lê Trung Mại

LÊ TRUNG MẠI – Bẩm Cụ lớn, nguy đến nơi rồi. Kìa mụ Đan Thiêm sao lại ở đây ? Mụ ra là giống quái,...

NGUYỄN VŨ – Có việc chỉ, Trung Mại ?

LÊ TRUNG MẠI – Bẩm Cụ lớn, Trịnh Duy Sản mưu với lũ Lê Quảng Đô, Trịnh Tri Sam lập vua khác, đêm qua đã kéo quân vào cửa Bắc Thần…

NGUYỄN VŨ – Thiên tử đâu ?

LÊ TRUNG MẠI – Bản, nguyên Trịnh Duy Sản sắm sửa thuyền bè khí giới họp ở bến đò Thái Cực, nói reo lên là đi đánh Trần Cao, rồi đương đêm đem ba nghìn quân Kim Ngô họ vệ vào cửa Bắc Thần đốt lửa cho sáng....

NGUYỄN VŨ (nóng ruột, giậm chân gắt) – Thiên tử đầu ? Nói mau lên.

LÊ TRUNG MẠI – Hoàng thượng trông thấy lửa sáng, hốt hoảng tưởng là giặc ập đến vội lên ngựa lẻn ra cửa Bảo Khánh, trời thì tối mà cứ lao mình đi không đèn đuốc gì cả. Khi ngài qua cửa Thái Học đến ao Chu Tước ở phường Bích Câu thì vừa gặp Duy Sản...

NGUYỄN VŨ – Gặp Duy Sản ? Trời ! Thế thì còn gì ? Nói mau lên.

LÊ TRUNG MẠI – Ngài hỏi nó : Giặc ở đâu ? Nó không đáp, ngoảnh mặt đi cười nhạt. Ngài quất ngựa về phía tây, nó sai võ sĩ là tên Hạch đuổi theo, đàm vua

ngã ngựa rồi giết chết (khóc).

NGUYỄN VŨ (khóc) – Hoàng thượng ơi ! Hạ thần mới nghe câu chuyện đã đoán ngay có sự này (cảm động quá, ngã xuống).

LÊ TRUNG MẠI (nức nở) – Khốn nạn Khám đức Hoàng hậu thương vua cũng nhảy vào lửa chết... (không nói được nữa).

VŨ NHƯ TÔ – Xin Cụ lớn hãy để nghe xem có thực không đã. Không có lẽ... (vực Nguyễn Vũ dậy). Bẩm Cụ lớn.

NGUYỄN VŨ (vẫn khóc) – Thực đấy rồi. Thôi để mặc ta. Duy Sản ta đã biết, nó tàn nhẫn vô cùng. Hoàng thượng ơi ! Ơn tri ngộ mới được tám năm... Hoàng thượng băng hà lão thần cũng không yên được với chúng. Ăn lộc của vua, xin chết vì nạn của vua. Lão thần không muốn kéo dài kiếp sống tàn làm gì nữa (rút dao đâm cổ tự tử và ngã lăn ra).

LÊ TRUNG MẠI – Trời ơi ! Cụ lớn Đông các ! (Vực dậy, máu me đảm địa). NGUYỄN VŨ – Thời mặc ta cho ta chết. Sống chỉ thêm nhục nhã. (Ngắt đi ).

VŨ NHƯ TÔ (nhìn Đan Thiêm, nhìn thấy Nguyễn Vũ) – Thảm não chưa ?

LÊ TRUNG MẠI (sờ người Nguyễn Vũ) – Có lẽ Cụ lớn chết rồi. Sao chóng thể được ? Chết thực rồi !

ĐAN THIỀM (thở dài) – Biển đến thể là cùng !

Một bọn nội giám nữa vào.

LỚP IV

Những người trên, thêm một bọn nội giám khác

MỘT TÊN NỘI GIÁM – Cụ lớn làm sao ? Tình thế nguy ngập ! Đứng ở đây

để chết cả lũ ư ?

LÊ TRUNG MẠI – Việc chi nữa ?

TÊN NỘI GIÁM – Trịnh Duy Sản giết Thiên tử hội triều đình lập con Mục Y Vương là Quang Trí lên ngôi. Có Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch. Đảng ác bắt Phùng Mai chém ngay ở nhà Nghị sự. Trong triều còn đang rối loạn thì An Hoà Hầu Nguyễn Hoằng Dụ ở bên Bồ Đề được tin vua bị giết, kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Tình hình nguy ngập lắm rồi.

VŨ NHƯ TÔ – Thợ theo quân phản nghịch ? Thế còn Cửu Trùng Đài ? TÊN NỘI GIÁM – Kẻ phá, người đốt...

VŨ NHƯ TÔ – Vô lí.

BỌN NỘI GIÁM – Vô lí ? Và lí ? Để Cửu Trùng Đài làm gì ? Vì đâu mà có quân phản nghịch ? An Hoà Hầu đang cho tìm mấy lũ cung nữ để phanh thủy làm trăm mảnh. Mày không biết tội hay sao ?

VŨ NHƯ TỎ – Vô lí. (Có tiếng kêu mỗi lúc một gần : "Bạo chúa đã chết. Còn thẳng Vũ Như To, đem phanh thủy trăm mảnh". Có tiếng đổ âm âm. Họ chạy cả).

LÊ TRUNG MẠI (nháy bọn nội giám) – Tam thập lục kế tẩu vị thượng sách”. Tham quyền có vị gì, anh em nghĩ sao ?

BỌN NỘI GIÁM – Chạy đi anh em ơi ! (Họ chạy nốt).

LỚP V

Vũ Như Tô –Đan Thiêm

ĐAN THIỀM – Ông Cả ! Ông chạy đi ! Ông có nghe tiếng gì không ? Quân giặc đang tìm ông đẩy : trốn đi !

VŨ NHƯ TÔ – Họ tìm tôi nhưng có lí gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai ?

ĐAN THIỀM – Ông đừng mơ mộng nữa. Dân chúng nóng nổi, dễ sinh tàn ác. Họ không hiểu công việc của ông. Tránh đi ! Trốn đi ! Đợi thời là thượng sách. Đừng để phí tài trời. Trốn đi !

VŨ NHƯ TÔ – Còn bà ?

ĐAN THIỀM – Tôi ở đây. (Có tiếng quân reo dữ dội : "Giết chết Vũ Như Tô, giết chết lũ cung nữ).

VŨ NHƯ TÔ (thản nhiên) – Bà ở đây. Vậy tỏi cũng ở đây, nguy biển ta cùng chịu. ĐAN THIỀM – Không được ! Tôi chết đi không thiệt hại cho đời. Còn ông, ông phải đi đi mới được. (Có tiếng nhà đổ, tiếng của đổ). Ông đi đi không thì không kịp. (Nàng chắp tay lạy) Tôi xin ông, ông nghe tôi trốn đi.

Có tiếng giày dép nhốn nháo. Bọn cung nữ hốt hoảng đi vào.

LỚP VI

Những người trên – Kim Phượng – Cung nữ

KIM PHƯỢNG (khóc lóc) – Làm thế nào bảy giờ ? Cửa điện bị chúng phá rồi ! Chúng đứng đầy ngoài sân. (Hỏi Đan Thiềm) Đây có cửa ra đằng sau không ? ĐAN THIỀM – Đến đây là đường cùng rồi ! Đây là tử địa !

CUNG NỮ– Trời ơi !

ĐAN THIỀM (bảo Vũ Như Tô) – Ông Cả ơi ! Có trốn cũng không được nữa. Ông nguy mất (nàng khóc).

Quân khởi loạn kéo vào, gươm giáo sáng lo.

LỚP VI

Những người trên, thêm Ngô Hạch và quân khỏi loạn

QUÂN KHỞI LOẠN – Đây rồi ! Vũ Như Tô ! Lũ cung nữ !

NGÔ HẠCH – Quân bay, vào bắt lũ cung nữ trước.

CUNG NỮ(quỳ xuống) – Trăm lạy tướng quân, trăm lạy tướng quân.

NGÔ HẠCH – Ta vàng tướng lệnh vào bắt các ngươi.

KIM PHƯỢNG (quỳ xuống) – Chị em chúng tôi không có tội gì. Xin tướng

quân sinh phúc. (Đan Thiểm bĩu môi thở dài). Kẻ hay xúc xiểm vua là ả kia (chỉ Đan Thiêm). Chính nó mê hoặc vua. Chính nó dan díu với Vũ Như Tô, làm uế tạp nơi cung cấm, chính nó là thủ phạm

CUNG NỮ – Chính nó là thủ phạm.

ĐAN THIỀM – Lũ yêu quái không được đặt để nên nhời, tướng quân nên thấu cho. Tôi không sợ chết, nguyện xin được chết. Nhưng tôi không phải là con người bất chính. Tôi nói thể không hổ với quỷ thần hai vai, không hổ với thanh thiên bạch nhật.

CUNG NỮ – Chính con Đan Thiềm là thủ phạm. (Nhìn lẳng lơ, bọn quân sĩ như bị quyến rũ).

NGÔ HẠCH – Ta đã biết ! Quân bay, vào bắt lấy gian phu dâm phụ. ĐAN THIỀM – Tướng quán không nên nói thế.

VŨ NHƯ TÔ – Giết thì cứ giết, nhưng đừng nghi oan.

ĐAN THIỀM – Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài.....

QUÂN KHỞI LOẠN (cười âm) – Thế mà còn mở mồm cãi. Mày chết để chồng mày sống à ?

ĐAN THIỀM – Các người chỉ nghĩ những điều quá quắt.

QUÂN KHỞI LOẠN – Chúng ông chỉ có thể, con đĩ già cầm miệng.

NGÔ HẠCH – Trái cổ nó lại.

ĐAN THIỀM (quỳ xuống) – Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm.

NGÔ HẠCH (cười ha hả) – Cần thợ tài để tô điểm. Để hao hụt công khổ, để dân gian lầm than.

VŨ NHƯ TÔ – Đan Thiềm, bà đứng dậy. Sao bà lẩn thẩn thế, lạy cả một đứa tiểu nhân ?

ĐAN THIỀM (đứng dậy) – Tướng quân hãy nghe tới, đừng phạm vào tội ác. Đừng giết ông Cả. Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời ! Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết.

NGÔ HẠCH (truyền ) – Trói cổ con đĩ già lại.

ĐAN THIỀM – Tướng quân tha...

QUÂN KHỞI LOẠN (xám vào trói nàng) – Đừng nói nữa vỏ ích, con dâm phụ. ĐAN THIỀM ... ...Tha cho ông Cả.

NGỎ HẠCH (thấy Như Tô chạy lại ) – Trói thẳng Vũ Như Tô lại (quân sĩ xông vào trói chàng có vẻ đắc ý).

ĐAN THIỀM (thất vọng) – Chỉ tại ông không nghe tỏi, dùng dẳng mãi. Bày giờ... (Nói với Ngô Hạch) Xin tướng quân...

NGÔ HẠCH – Dẫn nó đi không cho nó nói nhảm nữa, ròm tai) (quân sĩ dẫn nàng ra).

ĐAN THIỀM – Ông Cả ! Đài lớn tan tành ! Ông Cả ơi ! Xin cùng ông vĩnh biệt !

(Họ kéo nàng ra tàn nhẫn).

LỚP VIII

Những người trên, trừ Đan Thiềm

VŨ NHƯ TÔ – Xin đa tạ tấm lòng tri kỉ. Đan Thiềm xin cùng bà vĩnh biệt ! (Buồn rầu, trấn tĩnh ngay) Đời ta chưa tận mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xảy một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ.

NGÔ HẠCH (chỉ bọn cung nữ bảo mấy tên quán) – Dẫn họ về dinh ta đợi lệnh. MẤY TÊN QUÂN –Xin vâng lệnh (dẫn cung nữ ra).

VŨ NHƯ TÔ (khinh bỉ) – Mi thực là một tên bị ổi. Sao trời lại để cho mi sống làm nhục cương thường!

NGÔ HẠCH – Dẫn thẳng này về trình chủ tướng.

VŨ NHƯ TÔ (đầy hi vọng) – Dẫn ta ra mắt An Hoà Hầu, để ta phân trần, để ta giảng giải, cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta. Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tỏ điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì ? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu để hại nước ? Không, không ! Nguyễn Hoàng Dụ sẽ biết cho ta ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở...

QUÂN SĨ (cười âm) – Cầm ngay đi. Quần điền rổ, cảm ngay đi không chúng ông và vỡ miệng bấy giờ. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư ? Người ta oán mày hơn oán quỷ. Cám ngay đi !

VŨ NHƯ TÔ – ... Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng,

giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai...

QUÂN SĨ – Cam mồm!

VŨ NHƯ TÔ – ... Xuất hiện...

QUÂN SĨ – Cam mồm ! (Họ xúm vào vả miệng Vũ Như Tô).

VŨ NHƯ TÔ – Ta có thù oán gì với các người ?

NGÔ HẠCH – Dẫn nó ra pháp trường. Không để nó nói nhảm trước mặt chủ tướng mất thì giờ.

QUÂN SĨ – Ra pháp trường !

VŨ NHƯ TỐ – Không, dẫn ta ra mắt chủ tướng. Ta muốn nói chuyện với An Hoà Hầu. Các người không hiểu được ta. (Có tiếng ầm ầm như long trời lở đất). MỌI NGƯỜI – Cái chỉ nghe kinh người ?

Một lũ quân vào.

LỚP IX

Những người trên, thêm một lũ quân

NGÔ HẠCH – Chúng bay đi đầu ?

LŨ QUÂN – Bẩm tướng quân ! Kinh thành phát hoả !

NGÔ HẠCH – Ai ra lệnh ấy ?

MỘT TÊN QUÂN – Chính An Hoà Hảu !

VŨ NHƯ TÔ – Chính An Hoà Hầu ! Thế Cửu Trùng Đài ?

LŨ QUÂN – Cửu Trùng Đài ư ? Dã tràng xe cát) ! Cửu Trùng Đài sắp là một đống tro tàn !

VŨ NHƯ TÔ – Vô lí ! Vô lí !

NGÔ HẠCH – Rõ quân ngu muội ! Đến đầu mày chả chắc, nói chi đến Cửu Trùng Đài mà còn tin tưởng.

VŨ NHƯ TÔ – Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài.

QUÂN SĨ – Giống vật không biết nhục.

NGÔ HẠCH – Dẫn nó đi. (Chợt có ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào)

VŨ NHƯ TÔ (nhìn ra, rú lên) – Đốt thực rồi ! Đốt thực rồi ! Ôi đảng ác ! Ôi muôn phần căm giận ! Trời ơi ! Phú cho ta cái tài làm gì ? Ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài ! (Có tiếng hô vui vẻ : "Cửu Trùng Đài đã cháy !").

QUÂN SĨ – Thực đáng ăn mừng.

VŨ NHƯ TÔ (chua chát) – Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường !

Màn hạ nhanh

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Vĩnh biệt cửu trùng đài

1. Thể loại

Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài thuộc thể loại kịch.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Vở kịch Vũ Như Tô gồm 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517.

- Tác phẩm được viết xong vào mùa hè năm 1941, tựa đề vào tháng 6 năm 1942.

- Đoạn trích: thuộc hồi thứ V (Một cung cấm) của vở kịch.

Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài có phương thức biểu đạt là tự sự và biểu cảm.

4. Tóm tắt văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Nhân vật chính của vở kịch là Vũ Như Tô, là một nhà kiến trúc tài giỏi, một nghệ sĩ có chí lớn, tính tình cương trực, trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực, một hôn quân bạo chúa, sai Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ đã từ chối dù bị đe dọa kết tội tử hình. Song Đan Thiềm, một cung nữ tài sắc nhưng đã bị ruồng bỏ, đã khuyên Vũ nên nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài vì đây là cơ hội để Vũ đem tài ra phục vụ đất nước. Vũ đã nhận lời và dồn hết sức xây Cửu Trùng Đài. Nhưng Cửu Trùng Đài đã làm cho dân chúng thêm cực khổ. Họ đã nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết, Cửu trùng Đài bị thiêu trụi.

5. Bố cục văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Gồm 2 phần

- Phần 1 (từ lớp I đến lớp VI): Cuộc trò chuyện giữa Vũ Như Tô với Đan Thiềm, cung nữ và nội giám, Vũ Như Tô bàng hoàng nhận ra bi kịch đang cận kề.

- Phần 2 (từ lớp VII đến lớp IX): Quân phản loạn đốt Cửu Trùng Đài và kết án Vũ Như Tô.

6. Giá trị nội dung

Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thủa về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy cao siêu muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.

7. Giá trị nghệ thuật

- Mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với những hành động kịch dồn dập đầy kịch tính.

- Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao.

- Xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động.

- Lớp kịch trong hồi V được chuyển một cách linh hoạt, tự nhiên, logic, liền mạch tạo nên sự hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

1. Những mâu thuẫn xung đột cơ bản của vỡ kịch

Mâu thuẫn thứ nhất: mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ làm than và bọn hôn quân bạo chúa cùng các phe cánh của chúng.

Nguồn gốc: có từ hồi trước do chúa Lê Tương Dực nghe lời bọn tham quan gian thần xây Cữu Trùng Đài để phục vụ việc ăn chơi hưởng thụ, nhà vua đã đánh sưu cao thuế nặng bóc lột dân chúng, ra sức bắt thuế, tróc thợ từ dân lành, làm cho nhân dân vất vả, đói khát, chết vì bệnh dịch, tai nạn → Tương Dực không phải là một ông vua yêu nước, thương dân. Điều này tất yếu dẫn đến “loạn” và “biến”.

Hồi V: mâu thuẫn trở thành cao trào và được giải quyết.

+ Bạo chúa Lê Tương Dực bị Trịnh Sản giết.

+ Đại thần Nguyễn Vũ tự sát.

+ Thứ phi Kim Phượng và bọn cung nữ điều bị giết.

+ Cữu Trùng Đài bị thiêu hủy tan tành.

+ Giang sơn rơi vào tay bọn phản loạn

+ Mâu thuẫn được giải quyết dức khoát theo quan điểm của nhân dân.

Mâu thuẫn thứ hai: giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy cảu muôn đời và lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.

Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, đày hoài bảo và tâm huyết, khát khao được thể hiện tài năng tô điểm cho đời → Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc cảu Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão đó, vô tình gây nỗi khốn khổ cho dân.

Khát vọng quá lớn đưa Vũ Như Tô đắm chìm trong ảo mộng: xây dựng cho đất nước một công trình nguy nga vĩ đại mà không nhìn thấy cần phải chăm lo cho đời sống thiết thực của nhân dân → mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm vì lý tưởng nghệ thuật của Vũ Như Tô không xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân dân.

Vũ Như Tô rơi vào bi kịch: trở thành kẻ thù của nhân dân dù đang muốn cống hiến tài năng để đem lại niềm tự hào cho nhân dân. Nhưng Vũ Như Tô vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội → Cữu Trùng Đìa bị đốt, Vũ Như Tô bị giết.

2. Nhân vật Vũ Như Tô và Đan Thiềm

2.1. Nhân vật Vũ Như Tô:

Là một kiến trúc sư tài ba “ngàn năm chưa dễ có một”, say mê sáng tạo cái đẹp. Vũ Như Tô có nhân cách cao cả, hoài bão lớn lao, nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, không khuất phục trước uy quyền, kiên quyết không chịu nhận xây Cữu Trùng Đài cho vua Lê Tương Dực. Đan Thiềm thuyết phục ông nhận lời xây một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, bền vững muôn đời để nhân dân ta nghìn thu hãnh diện.

Lí tưởng chân chính, cao đẹp nhưng cao siêu xa rời đời sống của nhân dân lao động. Ông không nhận ra một thực tế: Cữu Trùng Đài xây bằng mồ hôi, nước mắt, xương máu cảu nhân dân. Ông nhất mực cho rằng mình không có tội mà chỉ có công, luôn tin vào việc làm chính đại quang minh của mình.

Sự thật phơi bày: Vũ Như Tô và Đan Thiềm bị bắt, Cữu Trùng Đài bị đập phá thiêu hủy, ông bừng tỉnh kêu lên: “ôi mộng lớn! Ôi Đan Thềm! Ôi Cữu Trùng Đài” → vỡ mộng, đau đớn, não nùng. Tiếng kêu dồn dập vang lên, nỗi đau mất mát hòa nhập vào nhau tạo thành nỗi đau bi tráng.

Khát vọng, đam mê sáng tạo nghệ thuật của ông xuất phát từ thiên chức của nghệ sĩ chân chính, nhưng chưa đúng vì đặt nhầm chỗ, vì xa rời thực tiễn, vì lợi dụng giai cấp cầm quyền tàn bạo để thực hiện mục đích chân chính của mình → ông thất bại phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình.

=> Qua nhân vật này, nhà văn đã đặt vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; giữa khát vọng nghệ thuật muôn đời với lợi ích của nhân dân.

2.2. Nhân vật Đan Thiềm:

Là người đam mê cái tài hoa siêu việt của người sáng tạo ra cái đẹp. Đam Thiềm luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cữu Trùng Đài như một công trình nghệ thuật đồ sộ để lại cho đất nước.

Là người luôn tinh táo, sáng suốt, thức thời, biết thích ứng với hoàn cảnh. Đan Thiềm biết chắc Cữu Trùng Đài không thành, tìm cách bảo vệ an dương vương toàn tính mạng cho Vũ Như Tô, khuyên Vũ Như Tô bỏ trốn. Đan Thềm đau đớn buông lời vĩnh biệt: “ông cả! đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! Xin cùng ông vĩnh biệt”. Bi kịch của Đan Thiềm là nỗi đau không cứu được người tài, không bảo vệ được cái đẹp.

Ở hồi cuối: Cả Vũ Như Tô và Đan Thiềm đều lâm vào trạng thái khủng hoàng với nỗi đau: sự vỡ mộng thê thảm. Vở kịch kết thúc bằng tiếng kêu bi thiết, não nùng, đau đớn, khắc khoải của Vũ Như Tô gợi sự xúc động cho người đọc.

Bệnh Đan Thềm: bệnh mê đắm cái đẹp, cái tài. Có tấm lòng biệt nhỡn liên tài → thuyết phục Vũ Như Tô mượn tay Lê Tương Dực để xây Cữu Trùng Đài => sống chết hết mình cái tài cái đẹp.

Bi kịch của Vũ Như Tô thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống – nghệ thuật phải vị nhân sinh thì nghệ thuật mới tồn tại và được nhân dân tôn thờ, nâng niu, bảo vệ.

V. Dàn ý tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

1. Các mâu thuẫn cơ bản

- Mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến Lê Tương Dực với nhân dân đang cực khổ vì sưu thuế

- Mâu thuẫn giữa nhân dân với người nghệ sĩ trong lĩnh vực nghệ thuật, giữa khát vọng nghệ thuật với thực tế không thuận chiều

- Vũ Như Tô tích cực xây dựng Cửu trùng đài làm cho mâu thuẫn tăng lên, gay gắt thêm vì nhân dân là người chịu khổ

- Cách giải quyết mà người dân chọn ở đây là nổi dậy đốt Cửu trùng đài, giết Vũ Như Tô

2. Tính cách và tâm trạng nhân vật Vũ Như Tô

a. Tính cách

- Là người nghệ sĩ khát khao sáng tạo cái đẹp, một thiên tài ngàn năm có một

- Mang nhân cách một người nghệ sĩ, có oài bão lớn, lí tưởng nghệ thuật cao cả

- Tuy nhiên lại quá đắm say trong đam mê sáng tạo mà quên đi nó không phù hợp với thực tế

b. Tâm trạng

- Tâm trạng bi kịch đày căng thẳng khi ông phải tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi: Xây Cửu Trùng Đài là đúng hay sai? Là có công hay có tội?

- Nhưng kết quả vẫn không phải là câu trả lời thỏa đáng. Khát vọng nghệ thuật của ông là chính đáng nhưng nó đã đặt lầm chỗ lầm thời, xa rời thực tế

- Vũ Như Tô là nhân vật bi kịch trong say mê, khát vọng và trong cả suy nghĩ hành động:

+ ông không cho việc xây đài là tội ác, đến khi có loạn ông vẫn không trốn vì vẫn tin động cơ làm việc quang minh chính đại của mình, hi vọng thuyết phục được kẻ cầm đầu bọn nổi loạn

+ sự thực tàn nhẫn không như ảo tưởng: Đam Thiềm bị bắt, Cửu Trùng Đài bị đốt thì ông mới bừng tỉnh trong đau đớn kinh hoàng

+ tiếng kêu của ông vang lên hòa nhập vào nhau thành nỗi đau bi tráng

3. Nghệ thuật

- Khắc họa hình tượng nhân vật

- Chú trọng thể hiện tính cách diễn biến tâm trạng nhân vật: Đam Thiềm, Vũ Như Tô góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm

- Xây dựng các mâu thuẫn kịch tính

- Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để thể hiện tâm trạng, khắc họa tính cách, dẫn dắt đẩy xung đột kịch đến cao trào

VI. Một số đề văn bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Đề bài: Phân tích đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” của Nguyễn Huy Tưởng

Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” của Nguyễn Huy Tưởng

Vào năm 1516 dưới triều vua lợn Lê Tương Dực vốn nổi tiếng là ăn chơi, sa đọa đã sai Vũ Như Tô xây điện 100 nóc và xây công trình quy mô lớn là Cửu trùng đài. Đây là một sự kiện có thật được nhà viết kịch tài ba Nguyễn Huy Tưởng khai thác để dựng lên vở kịch “Vũ Như Tô” phản ánh hai mâu thuẫn cơ bản về xã hội và con người. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” thuộc hồi cuối tác phẩm thể hiện cao trào kịch tính được đẩy lên đến đỉnh điểm, cùng với đó là bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô và nữ phụ Đan Thiềm_những người nghệ sĩ say mê cái đẹp mà quên mất mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy với lợi ích của nhân dân.

Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc sư tài giỏi bị Lê Tương Dực ép xây dựng Cửu trùng đài để làm nơi hưởng lạc vui chơi với cung nữ. Ông vốn là người nghệ sĩ chân chính lại gắn bó gần gũi với nhân dân nên đã từ chối, quyết không nhận lời và ngang nhiên mắng chửi tên hôn quân bạo ngược. Về sau khi được Đan Thiềm_người cung nữ say mê cái đẹp và biết quý trọng người tài thuyết phục là lợi dụng tiền bạc và quyền lực của vua để xây dựng một tòa lâu đài cho đất nước “Bền như sao trăng”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” và để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. Kể từ đó ông thay đổi thái độ chấp nhận mệnh lệnh, dồn tất cả tài năng và trí tuệ sáng suốt để hoàn thành hoài bão, lí tưởng muốn điểm tô cho đất nước. Chính việc làm ấy của Vũ Như Tô đã vô tình đẩy dân đen vào cảnh lầm than cực khổ khi sưu thuế ngày càng tăng cao, triều đình bắt thêm thợ giỏi, thẳng tay hạ chém những kẻ bỏ trốn, biết bao nhiêu người chết vì tai nạn. Nhân dân căm phẫn nhà vua, oán giân Vũ Như Tô. Để rồi Trịnh Duy Sản kẻ cầm đầu phe phái đối lập với triều đình lôi kéo dân chúng đứng lên làm phản giết vua và bắt giết Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm.

Mở đầu đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là hình ảnh cung nữ Đan Thiềm hớt hơ hớt hải chạy, mặt cắt không còn hột máu vào báo tin tình thế nguy kịch, thúc giục, cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn với những lời lẽ tha thiết, chân thành: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được”, nàng chắp tay van lạy Vũ Như Tô hãy bỏ trốn gìn giữ tính mạng chờ cơ hội khác vì đại sự đã hỏng. Từng chi tiết hành động và lời nói của Đan Thiềm chứng tỏ cô là một người rất quý trọng người tài, hiểu biết lo trước lo sau cho tài năng đất nước. Cô khẳng định: “Ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa”, con người ấy sẵn sàng quỳ dưới chân giặc cầu xin tha mạng cho ông Vũ, sẵn sàng xin chết thay ông nhưng Vũ Như Tô nhất quyết sống chết cùng đài cửu trùng mà không chịu rời đi để rồi gây nên tấn bi kịch cho cuộc đời ông.

Vũ Như Tô coi Cửu trùng đài quý hơn sinh mạng của bản thân, nó là cả phần xác lẫn phần hồn của ông và Đan Thiềm. Chính vì vậy mà ông mù quáng, u mê không thoát ra khỏi ảo vọng của mình được. Quân làm phản càng ngày kéo đến càng gần nhưng con người ấy vẫn ngoan cố vẫn không hiểu vì lí do gì họ lại muốn bắt mình, vẫn cố đấu lí với đời, với số phận: “Có lí gì để họ giết tôi?”, đứng trước quân khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỉ”. Bị bọn chúng bắt ông vẫn nuôi hi vọng có thể phân trần với chủ tướng về tấm lòng nguyện vọng của bản thân mong sao để người đời hiểu cho nguyện ước ông đang thực hiện là vì vẻ đẹp ngàn năm của đất nước. Ông vẫn say sưa giấc mộng của riêng mình về Đài Cửu Trùng: “Vài năm nữa, Đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…” Vũ Như Tô không thể tỉnh táo để nhận diện tình thế nguy kịch của hiện tại. Ông vẫn nghĩ mình bị hiểu nhầm, vẫn không tin rằng mình bị nhân dân oán hận, bị mọi người căm ghét, ông không tin dân chúng muốn phá Cửu Trùng Đài bởi đó là công trình, là tòa lâu đài điểm tô cho đất nước. Đứng ở khía cạnh người hùng thì đúng ông là con người dám làm dám chịu, có khí phách hiên ngang nhưng dựa trên hoàn cảnh thực tại thì đó là bảo thủ, cố chấp.

Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài là biểu hiện cho tài năng của người nghệ sĩ, hiện thân cho sự khao khát và say mê sáng tạo cái đẹp đó là đúng đắn, là đáng trân trọng nhưng thực tế của đất nước dân cùng khốn khổ cái đẹp ấy lại trở nên thật phù phiếm, xa xỉ bởi đã thấm đẫm máu, nước mắt và được xây trên thây xác của nhân dân. Dù là ước muốn cao đẹp của Vũ Như Tô nhưng ông đã vô tình gây ra tội ác, trở thành kẻ thù của dân chúng và thợ thuyền mà không hề hay biết. Đến khi kinh thành bị phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hòa Hầu, tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu ông chỉ biết gào lên trong tuyệt vọng: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Vũ Như Tô bị rơi từ đỉnh cao mộng tưởng xuống hố sâu của tuyệt vọng. Nỗi đau và sự mất mát đã hòa vào nhau làm một dội lên tiếng kêu của đau thương, tang tóc. Những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm cảm xúc đau đớn vô cùng. Thật đáng tiếc với những câu hỏi lớn của Vũ Như Tô đến khi chết ông vẫn không hiểu tại vì sao lại ra nông nỗi: “Ta tội gì? Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài! Tấn bi kịch ấy là cái giá mà ông phải trả vì không nhận thức rõ vấn đề muôn thuở và thực tại.

Vũ Như Tô đã không hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật được sáng tạo và xây dựng lên cuối cùng cũng phải vì phục vụ cho đời sống nhân dân. Đó mới là nghệ thuật vị nghệ thuật. Còn nghệ thuật không thể chỉ để thỏa mãn tài năng, lí tưởng của người nghệ sĩ mà quên mất rằng cái đẹp phải gắn với cái thiện, đẹp thiện không thể tách rời được nhau. Đứng trên lập trường người nghệ sĩ Cửu trùng đài là cái đẹp tuyệt mĩ, đứng trên lập trường của nhân dân nó là một bông hoa ác thấm đẫm máu. Cái giá mà Vũ Như Tô phải trả là ông chỉ nghĩ mình là nghệ sĩ chân chính mà quên mất rằng mình cũng là một công dân của đất nước.

Như vậy qua đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” nhà văn đã tái hiện lại bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm gặp phải phản ánh sâu sắc hai mâu thuẫn của thời đại. Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn của tập đoàn phong kiến Lê Tương Dực ăn chơi, hưởng lạc với hoàn cảnh bị bần cùng hóa của nhân dân. Mâu thuẫn thứ hai trong bản thân con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Đó là mâu thuẫn giữa người công dân và người nghệ sĩ và phản ánh mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Hai mâu thuẫn này tác động lẫn nhau. Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô xây dựng Cửu trùng đài càng làm cho mâu thuẫn xã hội tăng cao, người nghệ sĩ càng hăng hái sáng tạo cái đẹp nghệ thuật bao nhiêu thì càng mâu thuẫn với lợi ích công dân bấy nhiêu. Thật đáng tiếc cho một người tài năng lại bị đặt nhầm chỗ, không đúng thời thế để rồi con người ấy, tài năng ấy bị hủy diệt bởi thực tại cuộc sống. Qua đó ta cũng nhận thức được bài học cái đẹp nghệ thuật chỉ thực sự có nhu cầu và có ý nghĩa khi đời sống vật chất được đáp ứng đầy đủ, lợi ích của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Quan điểm đó đến ngày nay vẫn không hề lỗi thời mà nó luôn đúng trong mọi hoàn cảnh. Đảng và nhà nước ta luôn vận dụng nó vào để duy trì và phát triển đất nước.

Đoạn trích đã giải quyết được mâu thuẫn xã hội nhưng mâu thuẫn cá nhân với hai tư cách nghệ sĩ và công dân chưa được giải quyết điểm biểu hiện trong lời nói cuối cùng của Vũ Như Tô “Ta tội gì. Không ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ có thể thách thức với công trình trước sau, tranh tinh xảo với hóa công” và lời đề tựa vở kịch của tác giả: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải, ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Nguyễn Huy Tưởng trân trọng tài năng, say mê cái đẹp, cảm thông cho Vũ Như Tô nhưng ông cũng không đồng tình với nhân vật và những người nghệ sĩ chỉ biết quan tâm đến cái đẹp mà không vì quyền lợi của nhân dân.

Đề bài: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt cửu trùng đài

Bài văn mẫu Phân tích nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích Vĩnh biệt cửu trùng đài

Nguyễn Huy Tưởng nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch có thiên hướng về các đề tài lịch sử. Thông qua những đề tài này ông đóng góp những quan điểm, tư tưởng mới mẻ về nghệ thuật và cuộc đời. Trong các tác phẩm kịch của ông nổi bật nhất là Vũ Như Tô. Tác phẩm đã khắc họa bi kịch người nghệ sĩ tài ba xong sinh nhầm thời và nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nội dung đó đã được phản ánh chân thực và đầy đủ nhất qua đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

Trước hết, Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ thiên tài “ngàn năm chưa dễ có một”. Tài năng của ông có thể “sai khiến gạch đá như tướng cầm quân, có thể xây dựng những lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”. Tài năng của ông là sự trác tuyệt, siêu phàm. Tài năng ấy một lần nữa được thể hiện qua lời Đan Thiềm trong đoạn trích: “Ông mà có mệnh hệ nào thù nước ta không còn ai tô điểm nữa” và bà khuyên Vũ Như Tô hãy trốn đi để không phí “tài trời” ban cho ông.

Không chỉ vậy, ông còn là một trí thức tài năng và có bản lĩnh cứng cỏi, trước lời đề nghị của Lê Tương Dực xây dựng Cửu Trùng Đài ông đã thẳng thắn từ chối, dù tên hôn quân dọa giết nhưng ông không hề sợ hãi. Ông không muốn dùng tài năng của mình để xây dựng nơi cho tên vui độc ác ăn chơi hưởng lạc.

Nhưng ông còn là người đam mê nghệ thuật và khao khát tạo dựng cái đẹp tô sắc cho đời. Trước những lời khuyên của người cung nữ Đan Thiềm, Vũ Như Tô đã đem hết tài năng của mình để xây dựng Cửu Trùng Đài. Lí tưởng của ông thật đẹp đẽ, đáng trân trọng, ông đem hết tài năng của bản thân để xây dựng một lâu đài tráng lệ, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” “bền như trăng sao” để tô điểm cho vẻ đẹp của đất nước và là món quà để lại cho hậu thế. Ông dồn sức xây Cửu Trùng Đài bằng mọi giá. Ngay cả khi xảy ra bạo loạn, Vũ Như Tô cũng nhất quyết khống trốn đi để bảo toàn tính mạng cho bản thân. Những lời khuyên của Đan Thiềm với ông đều vô nghĩa lí. Ông vẫn tin tưởng vào việc mình làm không hề phương hại đến ai, việc ông làm giúp ích cho đời. Bởi vậy, cho đến tận lúc bị bắt trói, khi cận kề cái chết, ông vẫn nuôi hi vọng được tiếp tục xây dựng Cửu Trùng Đài. Và cuối cùng nhìn thấy Đài lớn bị thiêu cháy, hoa thành tro bụi, Vũ Như tô coi như đời mình đã chấm hết, ông bình thản ra pháp trường. Đối với ông Cửu Trùng Đài, đứa con tinh thần, nghệ thuật còn quan trọng hơn mạng sống của chính ông.

Nhưng bản thân ông lại sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Xây dựng Cửu Trùng Đài ông vấp phải mâu thuẫn với nhân dân. Để xây dựng được nó cần tiêu tốn biết bao của cải, mà của cải ấy không ở đâu khác chính là Lê Tương Dực vơ vét của nhân dân bằng những thứ thuế má nặng nề, vô lí. Đời sống nhân dân cực khổ, họ bị đẩy vào bước đường cùng. Cửu Trùng Đài cao lên bao nhiêu thì máu xương, mồ hôi của nhân dân phải đổ xuống bấy nhiều, bởi vậy mâu thuẫn, sự căm hận ngày càng bị đẩy lên cao trào. Đặc biệt, Vũ Như Tô vì mục đích hoàn thiện Cửu Trùng Đài mà không ngần ngại hạ lệnh phạt hoặc giết chết những kẻ bỏ trốn để tăng cường kỉ luật làm việc trên công trường. Dần dần Vũ Như Tô biến thành một kẻ ác, là thủ phạm gây nên cuộc sống đau khổ, bất hạnh cho nhân dân.

Đến ngay cả khi cơn biến loạn xảy ra, nguy hiểm cận kề Vũ Như Tô vẫn không nhận ra sai lầm của bản thân, ông vẫn tự nhận thấy công việc của mình quang minh chính đại, ông nguyện sống chết cùng Cửu Trùng Đài, ông tin mình không “làm gì nên tội” và tin vào sự sáng suốt của viên quan An Hòa Hầu. Ông lấy hết lời lẽ để phân trần, để người đời hiểu cái mong mỏi lớn nhất của đời ông. Vậy ông tại sao lại có tội? Làm sao ông có thể trở thành kẻ ác. Nhưng mọi lời ông nói chí khiến cho quân sĩ cười ầm lên, chúng không hiểu mộng lớn, chúng không hiểu những khát khao của ông, họ chỉ biết “mấy nghìn người chết vì Vửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Ngườ ta oán mày hơn oán quỷ”. Vũ Như Tô càng giải thích càng khiến cho bọn chúng điên cuồng hơn. Đến phút cuối cùng ông thét lên tiếng thét kinh hoàng khi biết Cửu Trùng Đài đã bị phá hủy và sự bình thản ông ra lệnh đưa ông ra pháp trường: “Trời ơi! Phú cho tằ cái tài làm gí? ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm Ôi Cửu Trùng Đài!... Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường..”.

Kết cục của Vũ Như Tô là tất yếu, bởi Cửu Trùng Đài là một công trình nghệ thuật tuyệt mỹ nhưng không tuyệt thiện nó là bông hoa ác cho nên nó bị hủy diệt, còn Vũ Như Tô từ đầu chí cuối ông chỉ đứng trên lập trường của cái đẹp, của nghệ thuật thuần túy, mà không hề đứng trên lập trường của nhân dân. Ông là một người có tài năng nghệ thuật chứ không phải là một hiền tài. Nhưng việc đưa Vũ Như Tô là một người nghệ sỹ thiên tài ra pháp trường có thỏa đáng không và đốt phá Cửu Trùng Đài với tư cách là trốn để ăn chơi là hoàn toàn thỏa đáng nhưng đốt Cửu Trùng Đài với tư cách là một công trình nghệ thuật vĩ đại - vinh danh tên tuổi của dân tộc mình có thỏa đáng không. Chính Vũ Như Tô cũng không trả lời câu hỏi này như thế nào. Vũ Như Tô chưa hiểu tội của mình là gì ? Trong những hồi kịch đầu tiên thì Vũ Như Tô luôn luôn đặt ra câu hỏi khẳng định: “Tôi không làm gì lên tội” nhưng đến cuối hồi kịch Vũ Như Tô chuyển từ câu hỏi đấy sang câu nghi ngờ “Ta tội gì”.. Đồng thời, qua bi kịch của Vũ Như Tô cũng thức tỉnh ta mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, đó phải là nghệ thuật vị nhân sinh.

Tác giả sử dụng ngôn ngữ mang tính tổng hợp cao, giàu giá trị biểu đạt. Mẫu thuẫn kịch bị đẩy lên đến cao trào, giúp bộc lộ rõ tính cách nhân vật. Các lớp kịch linh hoạt tự nhiên, giàu kịch tính, tăng sức hấp dẫn với người đọc.

Đoạn trích đã thể hiện rõ tài năng nghệ thuật xây dựng kịch bậc thầy của Nguyễn Huy Tưởng. Thông qua lớp ngôn từ có tính tổng hợp cao, giàu ý nghĩa biểu đạt đã giúp ta hiểu sâu hơn tính cách nhân vật Vũ Như Tô. Đối với nhân vật này tác giả cùng dành tiếng nói cảm thương, trân trọng cho tài năng bị phá hủy. Đồng thời cũng là bài học cho nghệ sĩ muốn đời, nghệ thuật muốn tồn tại phải bắt rễ vào cuộc sống, phục vụ cuộc sống.

Đề bài: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Như Tô qua Hồi V vở kịch "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy Tưởng.

Bài viết tham khảo

Trong ba vở kịch: "Vũ Như Tô" (1941), "Bắc Sơn" (1946), "Những người ở lại" (1948) của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng để lại, thì "Vũ Như Tô" là một vở bi kịch mang nhiều ý nghĩa nhất về lịch sử và xã hội, về cái tài và cái tâm, về nghệ thuật và nhân sinh, và cho đến nay, nó vẫn còn mang tính thòi sự làm cho nhiều người phải suy nghĩ.

Vũ Như Tô là một nhân vật lịch sử sống vào dưới triều đại vua Lê Tương Dực (1510 B1516), một tên vua mà quần chúng nhân dân thời bấy giờ và các sử gia phong kiến khinh miệt gọi là "vua lợn"! Tên tuổi Vũ Như Tô gắn liền với công trình Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài đã bị quân khởi loạn đập phá tan tành, và thủ phạm xây dựng Cửu Trùng Đài đã bị giết chết một cách thảm khốc.

Nhân vật Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhiều tài năng, trải qua nhiều thăng trầm, đã sống và chết trong bi kịch. Nhân vật Vũ Như Tô đáng tôn vinh ca ngợi hay đáng thương hại?

Lúc đầu, Vũ Như Tô đã sáng suốt không muốn đem tài năng phục vụ Lê Tương Dực, xây dựng các cung điện để phục vụ cuộc sống xa hoa hưởng lạc của "vua ni nhưng về sau đã bị Đan Thiềm thuyết phục. Trước nhan sắc và sự săn sóc "dịu dàng" của người cung nữ này mà Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ. Ồng Cả đã đem tài năng ra xây dựng Cửu Trùng Đài. Lí tưởng của nhà kiến trúc sư họ Vũ thật đẹp và lãng mạn là quyết đem tài năng xây dựng nên một lâu đài hùng vĩ tráng lệ, có thể "tranh tinh xảo với hoá công", "bền như trăng sao " đem lại vinh dự cho non sông và niềm tự hào cho hậu thế.

Xây Cửu Trùng Đài không phải bằng nước lã. Lê Tương Dực đã ra sức thu vét thuế. Trăm họ lầm than, công khố hao hụt. Cửu Trùng Đài đã làm đổ bao máu, nước mắt, mồ hôi của dân lành. Hàng ngàn hàng vạn quân lính, thợ thuyền phải phục dịch đêm ngày, phải trải qua mưa nắng, phải lao động cực nhọc. Bao nhiêu người đã chết vì đói rét khổ cực. Bao nhiều người đã chết vì tai nạn. Bao nhiêu phu phen bỏ trốn đã bị Vũ Như Tô bắt giết. Vũ Như Tô đã trở thành "thủ phạm", đôi bàn tay của ông ta đã vấy đầy máu!

Hoài bão của Vũ Như Tô thật lãng mạn nhưng vô nghĩa. Vũ Như Tô có biết ông ta đã đem tài năng để phục vụ Sự ăn chơi xa xỉ, cuộc sống sa đoạ của vua lợn Lê Tương Dực? Vũ Như Tô có biết xây Cửu Trùng Đài có mang lại lợi ích gì cho nhân dân, hay chỉ làm cho trăm họ lầm than đau khổ? Vũ Như Tô là một kiến trúc sư nhiều tài năng, nhưng sinh bất phùng thòi. Quan điểm nghệ thuật của Vũ Như Tô hoàn toàn sai lầm, vì đó là quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Xây dựng Cửu Trùng Đài là để phục vụ bạo chúa, vị hôn quân, đâu phải vì nhân dân! Khi Lê Tương Dực đã bị Trịnh Duy Sản sa! võ sĩ đâm chết, khi An Hoà Hầu Nguyễn Hoằng Dụ đã đốt phá Kinh thành Thăng Long, sai quân khởi loạn đập phá tan tành Cửu Trùng Đài, nhưng Vũ Như Tô vẫn mơ hồ và u mê. Kẻ sĩ cần có trí. Vũ Như Tô là một kẻ sĩ sống dưới thời loạn, ông ta bị đẩy xuống đáy bi kịch cuộc đời, trở thành một kẻ gàn, kẻ quẫn trí. Đan Thiểm khuyên Vũ Như Tô trốn đi, vì "Ai cũng cho ông là thủ phạm":Vua xa xỉ ỉà vì ồng, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông man di dẩn giận là vì ông, thần nhân trách móc là vị ông. cửu Trùng Đài họ. có cần đâu? Họ dấy nghĩa cốt giết ông, phá cửa Trùng Đài". Nhưng Vũ Như Tô vẫn cho rằng "không làm gì nên tội", thiên hạ "hiểu nhầm mà thôi!

Khi bọn nội giám đòi phanh thây lũ cung nữ làm trăm mảnh, khi quân khởi loạn thét lên: "Bạo chúa đã chết. Còn thằng Vũ NhưTô, đem phanh thây làm trăm mảnh", khi Đan Thiềm giục "trốn đì", nhưng Vũ Như Tô vẫn mơ mộng, u mê cho đó là chuyện vô lí: "Hộ tìm tôi, nhiừìg có lí do gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù với ai?".

Khi lửa khói đã bốc lên ngùn ngụt khắp kinh thành, các lâu đài đã bị đốt cháy, khi lưỡi gươm Ngô Hạch đã kề tận cổ, nhưng Vũ Như Tô vẫn gào lên đòi gặp An Hoà Hầu. Đoạn đối thoại sau đây giữa Vũ Như Tô và quân khởi loạn đã phản ánh sự u mê đến cùng cực của ông Cả.

Ngô Hạch- Dẫn thẳng này về trình chủ tướng.

Vũ Như Tô (đầy hi vọng) Dân ta ra mắt An Hoà Hầu, để ta phán trần, để ta giảng giải cho người đời biết rổ nguyện vọng của ta. Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng Đài cổ phải đâu để hại nước? Không, không, Nguyễn Hoằng Dụ sẽ biết cho ta, ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cài trói cho ta để ta xây nốt cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở...

Quân sĩ (cười ầm) - Câm ngay đi. Quân điên rồ, câm ngay đi không chúng ông vả vỡ miệng bây giờ. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày hơn oán quỷ. Câm ngay đi!

Vũ Như Tô - ...Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai...

Quân sĩ - Câm mồm!

Thậm chí khi bị quân khởi loạn xúm vào vả miệng, điệu ra pháp trường, nhưng Vũ Như Tô vẫn gào lên đòi ra mắt chủ tướng, muốn nói chuyện với An Hoà Hầu. Khi quân khởi loạn cho biết chính An Hòa Hầu đã ra lệnh "phát hoả" kinh thành, đập phá Cửu Trùng Đài, nhưng Vũ Như Tô vẫn cho răng đó là điều vô lí, rồi cất lời than: "Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài" khiến cho đám quân sĩ khinh bỉ hói: "Giống vật không biết nhục í"

Tiếng kêu thảm thiết của Vũ Như Tộ đúng là tiếng kêu tuyệt vọng của một kẻ cuồng sĩ mất trí: "Trời ơi! Phú cho tằ cái tài làm gí? ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm Ôi Cửu Trùng Đài!... Thôi thế là hết! Dẫn ta đến pháp trường..".

Kẻ sĩ thì phải biết xuất xử. Vũ Như Tô chỉ biết cúc cung phục vụ hôn quân bạo chúa. Vì thế ông ta bị bọn thái giám, lũ cung nữ coi khinh là "gian phu dâm phụ", vì gian díu với Đan Thiềm, "làm uế tạp nơi cung cấm ". Khi Đan Thiềm đã bị quân khỏi loạn dẫn ra pháp trường, khi tử thần đã gõ cửa, nhưng Vũ Như Tô vẫn còn lên giọng: "Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ". Thật là bi hài!

Cuộc đời của Vũ Như Tô là những trang dài bi kịch. Cái chết của Vũ Như Tô đã phản ánh cuộc đời của người nghệ sĩ này thật bi thảm và đáng thương hại. Hoài bão thì cao xa mà viển vông, vồ nghĩa. Tài năng chỉ để phục vụ cuộc sống xa hoa của bạo chúa. Quan điểm nghệ thuật thì mơ hồ sai trái: đem nghệ thuật đối lập với hiện thực cuộc sống, đối lập với hạnh phúc của muôn dân, coi thường tiền của, máu và mồ hôi của quần chúng. Cửu Trùng Đài không phải là một kì công "Vì dân, do dân và của dân".

Qua nhân vật Vũ Như Tô và việc xây dựng Cửu Trùng Đài, qua các biến cố lịch sử như Lê Tương Dực bị giết, Đan Thiềm, Vũ Như Tô bị điệu ra pháp trường, Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan hoang, ta càng thấm thìa bài học: nghệ thuật vị nghệ thuật là sai lầm, chỉ có nghệ thuật vị nhân sinh mới là đúng đắn, tiến bộ. Tấi năng không thể là món hàng; nghệ sĩ không nên, không bao giờ "đem ngọc bán rao". Nếu làm như vậy là tự huỷ diệt!

Vũ Như Tô từ một nhân vật lịch sử đã trở thành một nhân vật rất sống dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Tưởng. Qua nhân vật Vũ Như Tô, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã nêu lên mối quan hệ giữa nghệ thuật va đời sống, giữa nghệ sĩ với nhân dân, để mọi người cùng suy ngẫm. Trong m Đề tựấ vở kỊch "Vũ Như Tô", Nguyên Huy Tưởng viết: "Than ôi! Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết" Vũ Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Đó chỉ là một cách nổi của nhà văn mà thôi.

Cuối "Truyện Kiều", thi hào đân tộc Nguyễn Du có viết:

"Cố tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền vởì chữ tai một Vần.

Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần đất xa.

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".

Vũ Như Tô là một nghệ sĩ tuy có nhiều tài năng nhưng thiếu hẳn cái tâm. Cái chết của Vũ Như Tô là một bi kịch nói rõ điều đó. Vũ Như Tô đã phải trả giá! Những kẻ như Vũ Như Tô, trước sau đều phải trả giá.

Xem thêm các bài tác giả, tác phẩm Ngữ văn 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Tác giả tác phẩm: Prô-mê-tê bị xiềng

Tác giả tác phẩm: Tác giả Nguyễn Du

Tác giả tác phẩm: Trao duyên

Tác giả tác phẩm: Độc Tiểu Thanh ký

Tác giả tác phẩm: Chí khí anh hùng

1 4576 lượt xem


Xem thêm các chương trình khác: