Chiếu cầu hiền - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11 - Kết nối tri thức
Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Chiếu cầu hiền Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Chiếu cầu hiền - Ngữ văn 11
Bài giảng Ngữ văn 11 Chiếu cầu hiền - Kết nối tri thức
I. Tác giả Chiếu cầu hiền
a. Tiểu sử
- Ngô Thì Nhậm (1746- 1803), hiệu là Hi Doãn
- Ông từng đỗ Tiến sĩ làm quan cho nhà Lê- Trịnh, sau đi theo phong trào Tây Sơn và có nhiều đóng góp tích cực. Nhiều văn kiện giấy tờ Tây Sơn do ông soạn thảo
- Ông là người có tài năng và ý chí lớn
b. Sự nghiệp văn học
- Các tác phẩm chính:
+ về văn: Kim mã hành dư (Lúc làm việc công nhàn rỗi), Hàn các anh hoa (Tinh hoa nơi gác văn), Bang giao hảo thoại (Lời hay trong các bang giao)
+ về thơ: Yên Đài thu vịnh (Vịnh cảnh thu nơi Yên Đài), Cúc hoa bách vịnh (Trăm vần thơ vịnh hoa cúc)
+ ông còn là tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí
- Đặc điểm sáng tác: ông là cây đại bút về văn chính luận
II. Nội dung tác phẩm Chiếu cầu hiền
Chiếu cầu hiền
Từng nghe nói rằng: Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao. Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.
Trước đây thời thế suy vi, Trung châu gặp nhiều biến cố, kẻ sĩ phải ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, những bậc tinh anh trong triều đường phải kiêng dè không dám lên tiếng. Cũng có kẻ gõ mõ canh cửa, cũng có kẻ ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời.
Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
Kia như, trời còn tăm tối, thì đấng quân tử phải trổ tài. Nay đương ở buổi đầu của nền đại định, công việc vừa mới mở ra. Kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan. Dân còn nhọc mệt chưa lại sức mà đức hoá của trẫm chưa kịp nhuần thấm khắp nơi. Trẫm nơm nớp lo lắng, ngày một ngày hai vạn việc nảy sinh. Nghĩ cho kĩ thì thấy rằng: Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình. Suy đi tính lại trong vòm trời này cứ cái ấp mười nhà ắt phải có người trung thành tín nghĩa. Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?
Chiếu này ban xuống, các bậc quan viên lớn nhỏ, cùng với thứ dân trăm họ, người nào có tài năng học thuật, mưu hay hơn đời, cho phép được dâng sớ tâu bày sự việc. Lời nói nào có thể chọn dùng được, thì cất nhắc không kể thứ bậc; chỗ nào không dùng được thì gác lại, không vì lời nói sơ suất vu khoát mà bắt tội. Còn người có nghề hay nghiệp giỏi, có thể cống hiến cho đời, thì cho phép các quan văn, quan võ được tiến cử, nhưng vẫn dẫn vào đợi ra mắt, tuỳ tài lục dụng. Hoặc người nào từ trước đến nay tài năng còn bị che kín, chưa được người đời biết đến, thì cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử, chớ hiềm vì mưu lợi mà phải bán rao.
Này! Trong khoảng trời đất, hiền tài còn ẩn náu, trước đây thì nên như thế. Nay trời trong sáng, đất thanh bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây, những ai có tài có đức hãy cùng cố gắng lên, ghi tên tại triều đình, cùng nhau cung kính, cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh.
Vậy bố cáo gần xa để mọi người đều biết.
III. Tìm hiểu tác phẩm Cầu hiền chiếu
1. Thể loại
Chiếu cầu hiền thuộc thể loại chiếu.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Bài chiếu được viết vào khoảng những năm 1788 - 1789 nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê- Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản Cầu hiền chiếu có phương thức biểu đạt là nghị luận.
4. Tóm tắt văn bản Cầu hiền chiếu
Năm 1788, sau khi nhà Lê - Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Quang Trung. Ngô Thì Nhậm được Quang Trung giao cho viết “Chiếu cầu hiền” để kêu gọi sĩ phu Bắc Hà ra giúp nước cứu đời. Hiền tài cũng giống như ngôi sao sáng trên trời cao. Người hiền sẽ là sứ giả của thiên tử. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, có người thì mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng “trốn tránh việc đời”. Có người ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng”, hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Có kẻ “ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Từ đó, vua Quang Trung đưa ra đường lối cầu hiền đúng đắn, kêu gọi người tài ra giúp nước cứu đời.
5. Bố cục văn bản Cầu hiền chiếu
- Phần 1 (từ đầu đến ý trời sinh ra người hiền vậy): Mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
- Phần 2 (tiếp đến buổi ban đầu trẫm hay sao?): Cách ứng xử của hiền tài khi Tây Sơn ra bắc diệt Trịnh
- Phần 3 (còn lại): Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung
6. Giá trị nội dung
Bài chiếu là một văn kiện quan trọng thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước.
7. Giá trị nghệ thuật
Bài chiếu được viết với nghệ thuật thuyết phục, đặc sắc và thể hiện tình cảm của tác giả với sự nghiệp xây dựng đất nước.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Cầu hiền chiếu
1. Quy luật xử thế của người hiền
- Người hiền tài có mối quan hệ với thiên tử:
+ Người hiền phải do thiên tử sử dụng.
+ Không làm như vậy là trái với đạo trời, trái với quy luật cuộc sống.
- So sánh: Người hiền – ngôi sao sáng; thiên tử – sao Bắc Thần (tức Bắc Đẩu).
- Từ quy luật tự nhiên: Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần (ngôi vua).
→ Dùng hình ảnh so sánh, lấy từ luận ngữ tạo nên tính chính danh cho Chiếu cầu hiền vừa đánh trúng vào tâm lí của nho sĩ Bắc Hà. Cho ta thấy Quang Trung là người có học, biết lễ nghĩa.
2. Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước
- Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà:
+ Mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng trốn tránh việc đời.
+ Ra làm quan: sợ hãi, im lặng như bù nhìn không dám lên tiếng, hoặc làm việc cầm chừng đánh mõ, giữ cửa.
+ Một số đi tự tử ra biển vào sông: Vừa châm biếm nhẹ nhàng vừa tỏ ra tác giả có kiến thức sâu rộng, có tài năng văn chương.
- Câu hỏi:
+ Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?
+ Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự Vương hầu chăng?
→ Vừa thể hiện sự thành tâm, khiêm nhường, vừa thể hiện sự đòi hỏi và cả chút thách thách của vua Quang Trung. (Khiến người nghe không thể không thay đổi cách sống. Phải ra phục vụ và phục vụ hết lòng cho triều đại mới).
- Thẳng thắn tự nhận những bất cập của triều đại mới, khóe léo nêu lên những nhu cầu của đất nước:
+ Trời còn tối tăm;
+ Buổi đầu đại định;
+ Triều chính còn nhiều khiếm khuyết.
→ Gặp nhiều khó khăn nên đòi hỏi sự trợ giúp của nhiều bậc hiền tài.
- Không có lấy một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi ban đầu của trẫm hay sao?: Hỏi mà khẳng định rằng nhân tài không những có mà còn có nhiều.
⇒ Cách nói vừa khiêm nhường tha thiết, vừa kiên quyết khiến người hiền tài không thể không ra giúp triều đại mới làm cho nho sĩ Bắc Hà không thể không thay đổi cách ứng xử.
3. Con đường cầu hiền của vua Quang Trung
- Đối tượng cầu hiền: Quan viên lớn nhỏ, thứ dân trăm họ.
- Đường lối cầu hiền:
+ Cho phép mọi người có tài năng thuộc mọi tầng lớp trong xã hội được dâng sớ tâu bày kế sách
+ Cho phép các quan văn võ tiến cử người có nghề hay, nghiệp giỏi
+ Cho phép người tài tự tiến cử.
→ Tư tưởng dân chủ tiến bộ, đường lối cầu hiền: rộng mở, đúng đắn.
- Yêu cầu cố gắng hãy cùng triều đình gánh vác việc nước và hưởng phúc lâu dài.
→ Biện pháp cầu hiền cụ thể, dễ thực hiện.
⇒ Vua Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng cũng như khả năng tổ chức, sắp đặt chính sự, biết giải tỏa những băn khoăn có thể có cho mọi thần dân, khiến họ yên tâm tham gia việc nước.
V. Dàn ý tác tác phẩm Chiếu cầu hiền
1. Mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử
- Hình ảnh so sánh được sử dụng: hiền tài – ngôi sao sáng đã bày tỏ sự trân trọng, khẳng định, đề cao vị trí của người hiền tài đối với quốc gia, dân tộc
- Giữa thiên tử và người hiền tài có mối quan hệ khăng khít: người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử giống như các sao sáng trên trời quy tụ về sao Bắc Đẩu ⇒ hình ảnh so sánh lấy ý từ câu nói của Khổng Tử trong Luận ngữ càng tăng thêm tính thuyết phục cho bài viết
- Bài chiếu còn nêu lên quy luật xử thế nữa của những người hiền tài đã là hiền tài thì không được bỏ phí tài năng phải đem ra giúp đời giúp nước: Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy
- Các quy luật mà bài chiếu nêu ra ai ai cũng phải thừa nhận
2. Thực tế cách ứng xử của hiền tài Bắc Hà và thực trạng đất nước
- Các sĩ phu Bắc Hà vì nhiều lí do khác nhau chưa ra giúp đời, giúp nước, tài năng chưa được trọng dụng, phát huy:
+ bỏ đi mai danh ẩn tích muốn lẩn trốn suốt đời để uổng phí tài năng
+ làm quan với nhà Tây Sơn nhưng sợ hãi, im lặng kiêng dè không dám lên tiếng, làm việc gõ mõ, cầm chừng, canh cửa
+ chán nản tiêu cực, hủy hoại thân mình ra biển vào sông, oan uổng tài năng, chết đuối trên cạn
- Thực tế cách ứng xử như thế không phù hợp với quy luật đã nêu trên, cũng không phù hợp với thực tế. Hàng loạt các câu hỏi được đưa ra khiến người nghe phải suy ngẫm: Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?
⇒ Người viết đang thầm phê phán kín đáo, thâm úy
- Để thuyết phục tác giả đưa ra thực trạng đất nước lúc bấy giờ khiến kẻ sĩ có lương tâm không thể thờ ơ trách nhiệm với dân với nước:
+ đất nước đương buổi đầu của thời hưng thịnh, công việc vừa mới mở ra cần người hiền tài
+ đất nước nhiều nhân tài lẽ nào lại không có: Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này......buổi ban đầu của trẫm hay sao?
3. Các cách phát huy người tài, tiến của hiền tài và niềm mong mỏi, niềm tin có được hiền tài của vua Quang Trung
- Từ quan lại cho đến thứ dân người nào có tài năng, mưu lược hay đều được tỏ bày sự việc, ý kiến
- Tự mình dâng sớ bày tỏ việc nước
- Các quan tiến cử người hiền
- Hiền tài tự tiến cử
⇒ Đường lối hết sức rộng mở, cách tiến cử rất dễ làm thái độ nhà vua hết sức thành tâm, độ lượng
4. Nghệ thuật
- Kết cấu mạch lạc, lập luận chặt chẽ, hợp lí
+ mở bài nêu ra tiền đề có tính chất chân lí
+ thân bài soi sáng tiền đề mang chân lí, tính quy luật vào thực trạng kẻ sĩ Bắc Hà từ đó chỉ ra cách ứng xử không phù hợp với quy luật, thực tế đất nước
+ rút ra kết luận
- Ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật, truyền cảm, giàu thuyết phục
VI. Một số đề văn bài Chiếu cầu hiền
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiếu Cầu Hiền của Ngô Thì Nhậm để thấy tài nhìn xa trông rộng và tấm lòng của vua Quang Trung đối với đất nước.
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Chiếu Cầu Hiền của Ngô Thì Nhậm để thấy tài nhìn xa trông rộng và tấm lòng của vua Quang Trung đối với đất nước.
Sau khi dẹp xong giặc và loạn lạc ở miền Bắc, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu Cầu Hiền nhằm thu phục người tài ra giúp dân giúp nước. Bài chiều thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.
Để viết được những tác phẩm chiếu, yêu cầu người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:
"Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng".
Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống "như sao sáng trên trời", mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với "ý trời" đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiều. Hình ảnh "sao sáng trên trời" tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. "Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời". Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: "Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết". Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nghị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn "sớm hôm mong mỏi".
Vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống của người dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì "dân khổ chưa hồi sức" nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. "Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình". Đoạn vă chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Đoạn thứ ba của bài chiếu cho thấy thầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua gây dựng đất nước. "Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc".
Có thể nói ở đây, tính dân chủ đã được hình thành và phát huy cao độ. Điều đó nói lên tính cấp thiết của đất nước trong việc trọng dụn người tài vào nắm giữ các chức vụ khác nhau trong triều đình mới.
Trong lịch sử ít có một nhà vua nào đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước như vua Quang Trung. Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền là tấm lòng của vua Quang Trung đối với dân với nước, tấm lòng đó là niềm mong muốn được cống hiến vì sự phồn vinh của nước nhà mà vua Quang Trung đã từng nung nấu. Qua bài chiếu này ta có thể thấy, tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trun và tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất.
Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm.
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm.
Ngô Thì Nhậm là một người hiền tài, được vua Quang Trung hết lòng trọng dụng. Viết chiếu cầu hiền là một nét văn hóa đặc biệt của phương Đông. Trong buổi đầu dựng nước, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Ngô Thì Nhậm đã viết Chiếu cầu hiền dưới sự yêu cầu của vua Quang Trung. Tác phẩm vừa thể hiện chiến lược đứng đắn vừa là một áng văn xuất sắc.
Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền vào khoảng năm 1788 – 1789, bài chiếu được viết nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ – nhà Lê ra giúp sức cho triều đại mới – nhà Tây Sơn. Tác phẩm có bố cục mạch lạc, liên kết chặt chẽ với nhau: phần 1 nêu lên vai trò, sứ mệnh của người hiền tài đối với vận mệnh đất nước; phần 2 đưa ra những trăn trở của vua Quang Trung nhằm kêu gọi người tài ra giúp nước; phần còn lại đưa ra hình thức, con đường để người hiền tài ra giúp đỡ đất nước. Với bố cục mạch lạc, chặt chẽ Ngô Thì Nhậm đã thực hiện thành công mục đích viết chiếu của mình.
Điều đầu tiên tác giả đề cập đến chính là vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự hưng thịnh, suy vong của một đất nước. Ông sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc và hết sức chính xác: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao” câu văn đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người hiền đối với quốc gia dân tộc, đây đồng thời cũng như sự tôn vinh, khen ngợi đối với họ. Không dừng lại ở đó, Ngô Thì Nhậm tiếp tục khẳng định: “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Với cách so sánh đầy sáng tạo, tác giả khẳng định sự trân trọng người hiền tài khi so sánh họ như những vì tinh tú trên trời, họ là kết tinh của sự tinh anh và tài hoa bởi vậy phải đem tài năng của mình ra phục vụ đất nước. Với lập luận hết sức chặt chẽ, tác giả đã bước đầu thuyết phục được người hiền tài.
Nhưng để bài chiếu có sức thuyết phục cao hơn nữa, phần tiếp theo của tác phẩm, Ngô Thì Nhậm nêu lên những khó khăn trong hành trình thu phục người hiền tài ra giúp nước. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nếu như trong buổi suy vi, những nhà Nho thường lánh đời, bỏ chỗ đục tìm về chỗ trong để giữ trọn khí tiết thanh cao của mình là điều dễ hiểu, nhưng nay đã sang một thời đại mới vì sao vẫn mãi “lẩn tránh” câu văn như một lời trách cứ vừa nhẹ nhàng vừa đanh thép với kẻ sĩ lúc bấy giờ. “Nay trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng”. Câu văn vừa thể hiện sở nguyện tha thiết, chân thành, “ghé chiếu” để mời người hiền tài ra giúp nước. Nhưng đồng thời thể hiện sự phê phán nhẹ nhàng mà thâm thúy qua hai câu hỏi tu từ ở phía sau. Đánh động vào suy nghĩ, nhận thức của những kẻ hiền tài vẫn chưa chịu ra giúp đời, giúp triều đại mới.
Buổi đầu dựng nước gặp phải biết bao khó khăn: “kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan” không chỉ vậy, đời sống người dân chưa ổn định “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” sau những năm dài chinh chiến. Bởi vậy, càng nhận thấy rõ hơn sự góp sức của người tài có ý nghĩa quan trọng nhường nào đối với đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Câu văn thể hiện thái độ trân thành của vua Quang Trung, ông một lòng muốn mời người hiền ra giúp nước cũng là bởi lo cho đời sống nhân dân, lo cho sự an nguy, độc lập của đất nước. Đó là những lời tâm huyết và chân thành xuất phát từ trái tim yêu nước thương dân mãnh liệt. Tấm lòng đó quả đáng trân trọng và đáng tự hào biết bao.
Đoạn văn tiếp theo cho thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Để hợp sức toàn dân, đồng lòng xây dựng triều đại mới ông ban chiếu để mời gọi người hiền ra giúp nước. Hình thức vô cùng đa dạng: “cất nhắc không kể thức bậc”, “không vì lời nói sơ suất mà vu khoát, bắt tội”, “được tiến cử” “tự tiến cử”,… cốt sao để người hiền tài có được những điều kiện thuận lợi nhất để họ có thể đem sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của nước nhà.
Với những lời lẽ chân thành, tha thiết ta có thể thấy tầm nhìn xa trông rộng của Quang Trung trong tiến trình tái tạo và xây dựng một triều đại mới. Triều đại đó nếu chỉ hùng cường về quân sự thôi chưa đủ mà còn phải hùng mạnh về người tài, bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vua Quang Trung là một người lãnh đạo có trí tuệ, khiêm tốn, chân thành và một lòng lo lắng cho sự nghiệp dựng nước. Trong toàn bộ bài chiếu ta không hề thấy ông một lần nhắc đến những sĩ phu Bắc Hà không cộng tác với nhà Tây Sơn. Điều đó cho thấy lối ứng xử khéo léo, khiêm nhường và chỉ duy nhất hướng đến mục đích kêu gọi sự hợp tác của người hiền tài.
Tác phẩm sử dụng nhiều điển tích, điển cố Hán học giúp cho việc trình bày tư tưởng quan điểm trở nên súc tích, rõ ràng. Ngoài ra, lớp ngôn từ ông sử dụng chủ yếu nói về nhân dân, đất nước, triều đại, … tạo nên lớp ngôn từ mang không khí trang nghiêm, nhấn mạnh vào sự thiêng liêng của sự nghiệp dựng nước đang mong mỏi sự giúp sức của người hiền tài. Nghệ thuật lập luận tài tình, chặt chẽ, logic, hợp lí tạo sức thuyết phục cao đối với người đọc.
Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện tư tưởng sáng suốt của triều Tây Sơn khi kêu gọi người hiền tài ra giúp sức trong buổi đầu của triều đại mới. Đồng thời cũng thấy được sự khiêm nhường, tấm lòng chân thành và tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung nhận thấy vai trò quan trọng của người tài đối với quá trình xây dựng đất nước.
VII. Sơ đồ tư duy Chiếu cầu hiền
Xem thêm các bài tác giả, tác phẩm Ngữ văn 11 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:
Tác giả tác phẩm: Tôi có một ước mơ
Tác giả tác phẩm: Một thời đại trong thi ca
Tác giả tác phẩm: Tiếp xúc với tác phẩm
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Toán 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Toán 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Toán 11 – Kết nối tri thức
- Bài tập Tiếng Anh 11 Global success theo Unit có đáp án
- Giải sgk Tiếng Anh 11 – Global success
- Giải sbt Tiếng Anh 11 - Global Success
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 11 Global success đầy đủ nhất
- Ngữ pháp Tiếng Anh 11 Global success
- Giải sgk Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Vật lí 11 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Vật lí 11 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Giải sgk Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Hóa 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Hóa học 11 – Kết nối tri thức
- Chuyên đề dạy thêm Hóa 11 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Giải sgk Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Sinh học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Kinh tế pháp luật 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Lịch sử 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Lịch sử 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Địa lí 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Địa lí 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Công nghệ 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Công nghệ 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Công nghệ 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Giải Chuyên đề học tập Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Tin học 11 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Tin học 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng an ninh 11 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 11 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Giáo dục quốc phòng 11 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 – Kết nối tri thức