Hạnh phúc của một tang gia - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia lớp 11 đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 17800 lượt xem
Tải về


Hạnh phúc của một tang gia - Ngữ văn 11

I. Tác giả Hạnh phúc của một tang gia

a. Tiểu sử

- Tên tuổi: Vũ Trọng Phụng (1912-1939)

- Quê quán: Hà Nội

- Đặc điểm cuộc đời:

+ Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, sống bếp bênh bằng nghề viết văn, viết báo

+ Bản thân tuy học ít nhưng lại rất tài hoa, là người nhân hậu sống nề nếp, ghét cay ghét đắng cái xã hội nhố năng hiện tại

+ Tiếc rằng con người tài hoa ấy lại yểu mệnh mất sớm vì bệnh lao

b. Sự nghiệp văn học

- Tác phẩm chính:

+ tiểu thuyết: Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê

+ phóng sự: Kĩ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô

- Phong cách nghệ thuật:

+ văn chương Vũ Trọng Phụng ngùn ngụt ngọn lửa căm phẫn đối với xã hội chó đểu

+ ông là cây bút trào phúng bậc thầy, một trong những đại biểu xuất sắc của xu hướng văn học hiện thực

Bài giảng Ngữ văn 11 Hạnh phúc của một tang gia

II. Nội dung tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

1. Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

- Đoạn trích thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ

- Tiểu thuyết này được viết và đăng báo năm 1936, in thành sách năm 1938

2. Thể loại tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

- Tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia thuộc thể loại: Tiểu thuyết

3. Tóm tắt tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

Tóm tắt Hạnh phúc của một tang gia (mẫu 1)

Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Cố Hồng, từ khi cụ ngấp ngoái chết đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng xảy ra từ khi ông cụ mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây phút này. Cụ chết để lại cho con cháu cơ hội để khoe mẽ với thiên hạ những nghịch lý của “thế hệ con cháu” hiếu thảo bằng những bộ trang phục âu hóa nửa tây nửa ta lẫn những trò “Mèo mả gà đồng” của dâu con lẫn người xung quanh. Cái đám ma to tát cụ cố Hồng là một cuộc diễu hành của buổi lễ hội di động bằng mọi trò hề của tầng lớp trung thượng lưu. Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những trò nhố nhăng, phi đạo đức lẫn truyền thống của những kẻ sống núp dưới gót giầy thực dân xâm lược, là bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc ấy.

Tóm tắt Hạnh phúc của một tang gia (mẫu 2)

Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Cố tổ đã ngoài 80 tuổi. Cái chết của cụ cố tổ khiến đại gia đình vô cùng vui sướng. Từ cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, ông Phán, cậu Tú Tân đến cô Tuyết và một đám con cháu, ai ai cũng tỏ ra vui mừng. Cụ cố Hồng đã mơ màng đến lúc được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để thiên hạ phải chỉ trỏ: con giai lớn đã già đến thế kia à. Đám ma được cử hành theo nghi thức hiện đại của xã hội thượng lưu. Có các nhà tài tử thi nhau chụp ảnh như ở hội chợ. Người đi đưa tang ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh buồn rầu nhưng lại đang bàn bạc đủ mọi chuyện trên đời: chuyện vợ con, nhà cửa,...Trong cảnh hạ huyệt, cậu Tú Tân hướng dẫn mọi người chi tiết trong cách bố trí chụp từng bức hình. Cụ cố Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi. Cụ cố tỏ ra sự đau xót nhưng tất cả chỉ là giả dối. Ông Phán cố khóc to với những âm thanh lạ nhưng bên cạnh đó lại lén đưa cho Xuân Tóc đỏ một giấy bạc năm đồng gấp làm bốn.

Tóm tắt Hạnh phúc của một tang gia

Tóm tắt Hạnh phúc của một tang gia (mẫu 3)

Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Cố tổ đã ngoài 80 tuổi. Cái chết của cụ cố tổ khiến đại gia đình vô cùng vui sướng. Từ cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, ông Phán, cậu Tú Tân đến cô Tuyết và một đám con cháu, ai ai cũng tỏ ra vui mừng. Cụ cố Hồng đã mơ màng đến lúc được mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để thiên hạ phải chỉ trỏ: con giai lớn đã già đến thế kia à. Đám ma được cử hành theo nghi thức hiện đại của xã hội thượng lưu. Có các nhà tài tử thi nhau chụp ảnh như ở hội chợ. Người đi đưa tang ai cũng làm ra bộ mặt nghiêm chỉnh buồn rầu nhưng lại đang bàn bạc đủ mọi chuyện trên đời: chuyện vợ con, nhà cửa,...Trong cảnh hạ huyệt, cậu Tú Tân hướng dẫn mọi người chi tiết trong cách bố trí chụp từng bức hình. Cụ cố Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi. Cụ cố tỏ ra sự đau xót nhưng tất cả chỉ là giả dối. Ông Phán cố khóc to với những âm thanh lạ nhưng bên cạnh đó lại lén đưa cho Xuân Tóc đỏ một giấy bạc năm đồng gấp làm bốn.

4. Bố cục:

- Phần 1 (từ đầu đến cho Tuyết vậy): Niềm vui và hanh phúc của các thành viên khi cụ tổ qua đời

- Phần 2 (tiếp đến đám cứ đi): cảnh đám ma gương mẫu

- Phần 3 (còn lại): Cảnh hạ huyệt

5. Giá trị nội dung tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

Qua đoạn trích tác giả phê phán mạnh ẽ bản chất giả dối và sự lố lăng đồi bại của xã hội thượng lưu ở thành thị những năm trước cách mạng

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

Ngòi bút trào lộng,nghệ thuật châm biếm sâu sắc bén qua cái nhìn độc đáo, sâu sắc của tác giả

7. Một số nhận định hay về tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

1. Lưu Trọng Lư nhận xét về con người Vũ Trọng Phụng: “Trên trang viết Vũ Trọng Phụng sắc sảo bao nhiêu thì trong cuộc đời Vũ Trọng Phụng càng chân thành bấy nhiêu.Con người ấy không giết quá một con muỗi .Nhưng thật kì diệu,văn chương của con người ấy làm cho kẻ trọc phú phải giật mình,kẻ trưởng giả phải cáu kỉnh.”

2. Đọc “Số đỏ” nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: “Đây là cái bi của người chết, cái hài của xã hội, cái vô phúc của gia đình giàu sang lắm tiền nhiều của nhưng thiếu tình người.”

IV. Dàn ý tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

1. Nhan đề

- Thể hiện sự đối lập mâu thuẫn thú vị tạo tiếng cười nhưng lại là sự châm biếm mỉa mai

- Tang gia mà lại hạnh phúc, thật bi hài hết chỗ nói

2. Hạnh phúc của tang gia

a. Nguyên nhân

- Cụ tổ mất, di chúc được thực hiện

- Mọi người được thỏa mãn ước nguyện bấy lâu

b. Những hạnh phúc khác nhau

- Hòa trong niềm vui cung bầy con cháu chí hiếu của cụ tổ mỗi người lại có niềm vui riêng:

+ người có dịp diễn trò già yếu, phô trương thanh thế gia đình

+ kẻ có cơ hội quảng bá sản phẩm

+ kẻ khoe tài chụp ảnh

- Vậy nên khi có lệnh phát phục ban ai ai cũng sung sướng thỏa thích

⇒ Cả tang gia mỗi người một niềm vui chẳng ai quan tâm đến người chết đang nằm kia

c. Niềm vui hạnh phúc tràn cả ra ngoài

- Xuân Tóc Đỏ uy tín tăng thêm

- Các nhà cải cách Âu hóa có dịp lăng xê trang phục

- Cảnh binh sung sướng vì có việc làm

- Bạn bè cụ cố Hồng khoe huân chương, râu ria

- Đám giai thanh gái lịch ve vãn hẹn hò, tỏ tình đủ kiểu

⇒ Qua việc miêu tả đám ma với những niềm hạnh phúc ngập tràn tác giả đã vạch trần cái bộ mặt giả dối của xã hội đương thời, chạy theo lợi nhuận nhu cầu cá nhân, hủy diệt đi tình người, đạo lí truyền thống của dân tộc

3. Hình ảnh đám tang

a. Không khí

- Như một đám hội đám rước

- Tổ chức linh đình hoành tráng sang trọng

⇒ Không khí náo nhiệt tới mục hỗn loạn, nhốn nháo

b. Các nhân vật

- Cô Tuyến diện bộ trang phục Ngây thơ để thiên hạ biết mình chưa đánh mất cả chữ trinh, khuôn mặt buồn lãng mạn đúng mốt nhà có đám

- Xuân Tóc Đỏ dù là người gây ra cái chết cho cụ tổ nhưng lại được chào đón như thượng khách, lộ rõ vẻ lưu manh vô lại

- Sư cụ Tăng Phú thì háo danh vênh váo đắc thắng về chiến công đánh đổ hội Phật giáo của mình

- Cậu Tú Tân dạt dào cảm hứng sáng tạo nghệ thuật: cậu bắt bẻ từng người chống gậy, gục đầu, khom lưng để chụp ảnh kỉ niệm

- Đám con cháu là ê- kíp, đạo diễn diễn viên, nhiếp ảnh gia tài ba xuất sắc và rất ăn ý trong màn kịch đại hiếu thảo

- Phán mọc sừng nhanh chóng thanh toán nốt món nợ mười đồng với Xuân Tóc Đỏ trong màn khóc đến oặt cả người khiến Xuân phải đỡ dậy thật ăn ý

⇒ Đám người đã phơi bày đầy đủ bộ mặt bỉ ổi của cái xã hội thượng lưu đang mang danh Âu hóa, chúng hiện nguyên hình là những kẻ khốn nạn, những tên chó đểu trong một xã hội chó đểu

4. Sơ đồ Hạnh phúc của một tang gia

V. Một số đề văn tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia

Đề bài: Phân tích đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" của Vũ Trọng Phụng.

Bài văn mẫu Phân tích đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" của Vũ Trọng Phụng.

Mỗi khi nhắc tới Vũ Trọng Phụng người ta đều nhớ tới ông là "ông vua phóng sự của đất Bắc Kì". Đúng vậy, ông có một công trình đồ sộ về phóng sự và tiểu thuyết, với các tác phẩm bất hủ như: Cạm Bẫy Người (1993), Giông tố (1936).Nhưng có lẽ bạn đọc nhớ nhất đến tiểu thuyết "Số Đỏ" của ông. Với những sự thật xã hội bấy giờ được tác giả thêu dệt lại qua lăng kính của mình. Đặc biệt đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" đã nêu lên được những nét chủ đạo của câu chuyện và thấy được bút pháp trào phúng đặc sắc của Vũ Trọng Phụng.

Trong đoạn trích này chủ yếu nói về cái chết và đám tang Cụ tổ được tái hiện lên như một màn hài kịch. Có rất nhiều tình tiết và các bộ mặt khác nhau trong đám ma điều này dẫn đến một đám ma đau thương trở thành một đám ma đáng cười xót xa. Chính cái chết của cụ tổ cho thấy đây là một cái chết vừa đáng cười vừa đáng khóc. Vì sao lại vậy? Khóc vì đạo đức của một bộ phận con người suy đồi đến cực độ, cha chết, ông chết mà "bọn con cháu vô tâm ai cũng sung sướng thỏa thích". "Cái chết của ông già hơn 80 tuổi" đã làm cho nhiều người sung sướng lắm". Ai cũng nghĩ đến cái lợi cho mình, như vậy, đúng với cái nhan đề của đoạn trích tưởng như lố bịch của cuộc sống đời thường, nhưng không "Hạnh phúc của một tang gia" lại đúng khi cụ tổ mất. Những tiếng khóc, sự "báo hiếu" của con cháu thực chất là sự khoe giàu sang với thiên hạ. Bằng ngòi bút trào phúng, châm biếm, đả kích của tác giả, làm cho đoạn trích các nhân vật được hiện lên rất đáng cười, những tiếng cười ra nước mắt.

Để thấy được hạnh phúc của gia đình khi cụ tổ mất tác giả đã đi vào từng nhân vật để thấy được họ đang xót thương đau buồn hay biến đám ma của cụ cố tổ vào mục đích của bản thân?

Cụ cố Hồng - con trai cả của cụ tổ thì rất sung sướng vì cái chết của cha mình và cho đây là một cơ hội để tỏ ra già yếu khi lo cho cái chết của cha mình. Nhân vật này đã làm nổi bật được những sự lố lăng mà ngu dốt ham danh trong xã hội phong kiến.

Bên cạnh cụ cố Hồng là Văn Minh và ông TYPN lại tỏ ra vui mừng khôn xiết trước cái chết của ông nội và đây cũng là một cơ hội để ông đưa nền văn minh Á-Âu vào quảng cáo ở đám tang. Thật đau lòng thay, một đám ma hay là một phiên chợ để con cái mang ra quảng cáo, kinh doanh. Hay chính bà Văn Minh thì lại vui mừng vì đây là dịp để chưng diện đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng, viền đen. Đúng là sự vô ơn bạc nghĩa của những kẻ vô học thức.

Trong đoạn trích tác giả còn nói về cô Tuyết, đến đám ma nhưng lại mặc bộ y phục gây thơ "Cái áo voan mỏng trong coóc-xê, hở cả nách cả vú" tưởng như tác giả tả hơi quá, nhưng không chỉ ở cách ăn mặc mà cô Tuyết này còn thể hiện ở cả tính cách, sự lẳng lơ, tưởng như vẻ mặt buồn vì đám tang, nhưng đây là nỗi buồn nhớ người tình.

Hết đến cô Tuyết lại đến cậu Tú Tấn, vui mừng vì cái máy ảnh đã được đem ra sử dụng vì Cậu mua đã lâu mà không dùng, thật ngỗ nghịch khi đám ma mà lại dẫm lên các ngôi mộ để chụp ảnh, tạo kiểu như một nhà nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.

Hay chính ông Phán Mọc Sừng vui mừng vì cái sừng trên đầu mình được hưởng thêm tiền sau khi đám ma xong. Trong khi đó Xuân Tóc Đỏ thì danh tiếng lại càng nhiều hơn và càng được nhiều người tôn trọng vì đã có công trong cái chết của cụ Tổ.

Không chỉ có những người nhà của cụ cố tổ sung sướng ra mặt mà còn những người ở ngoài cũng góp một phần vào niềm hạnh phúc của gia đình khi đang có tang. Là đám ma nhưng lại có kiệu bát cống, có lợn quay che lọng như thế khác nào một đám rước? Hay có cả kèn ta, kèn tây sự lố lăng của sự "âu hóa". Hay tại chính đám ma này cũng là cơ hội cho những "nam thanh nữ tú" "chim cò" nhau. Thật đáng lên án thay.

Qua việc thêu dệt lại các nhân vật bằng lăng kích của tác giả đã thể hiện rõ được sự lố bịch, tây-ta lẫn lộn của những học giả đòi làm sang. Bằng ngòi bút châm biếm trào phúng cay độc. Lúc thì phóng đại lúc thì biếm họa. Lúc tưởng như đang đau buồn đau thương nhất nhưng lại là những niềm hạnh phúc được vỡ oà của những con cháu bất nhân, bất hiếu. Hay đáng lẽ là sự đau thương, đau buồn, thì lại là sự phô của, sự tình tứ nhau.Từ trang chủ, bọn con cháu, hay chính những người quan khách đến viếng đều là những vai hề. Không phải tự nhiên mà Vũ Trọng Phụng lại viết "Người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu." Đây là một chi tiết nhỏ nhưng cũng để cho người đọc thấy được giọng điệu mỉa mai của tác giả.

Như vậy, qua đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" cho người đọc thấy hiện thực xã hội lúc đương thời, sự đáng cười nhưng cũng chính là sự đáng thương của một bộ phận con người trong xã hội lúc bấy giờ. Những tiếng cười ra nước mắt vì đạo đức con người bị suy thoái, sự âu hóa tây ta lẫn lộn làm nên sự lố bịch. Từ đó, đáng lên án, phê phán gay gắt bộ phận này trong xã hội. Đồng thời, cũng qua đây cho ta thấy được sự tinh tế, đặc sắc trong việc lột tả hiện thực xã hội của Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo.

Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và giá trị tố cáo trong đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" của Vũ Trọng Phụng.

Bài văn mẫu Phân tích giá trị hiện thực và giá trị tố cáo trong đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" của Vũ Trọng Phụng

Vũ Trọng Phụng cây bút hiện thực đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng con mắt sắc sảo, sự quan sát tinh tường, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần bộ mặt, bản chất chó đểu của xã hội Âu hóa đương thời. Trong các tác phẩm của ông luôn thấm đẫm giá trị hiện thực và tố cáo. Hạnh phúc một tang gia tuy chỉ là một trích đoạn nhỏ trong cuốn tiểu thuyết Số đỏ nhưng giá trị hiện thực mà nó phản ánh cũng vô cùng to lớn.

Giá trị hiện thực của một tác phẩm tức là toàn bộ hiện thực cuộc sống được nhà văn nắm bắt và phản ánh trong tác phẩm văn học. Hiện thực đó có thể đồng nhất với thực tế cuộc sống có thể cường điệu hóa nhưng vẫn phải xuất phát từ hiện thực nhằm nêu lên một vấn đề, phản ánh một hiện tượng xấu trong cuộc sống xã hội lúc bấy giờ.

Trước hết đoạn trích Hạnh phúc một tang gia mang giá trị hiện thực lớn bởi nó đã phản ánh được sự lên ngôi của đồng tiền. Trong văn học Việt Nam, phản ánh sức mạnh, sự lên ngôi của đồng tiền có rất nhiều, có thể kể đến Truyện Kiều của Nguyễn Du :

Một ngày lạ thói sai nha

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền

Hay :

Trong tay có sẵn đồng tiền

Dễ dàng đổi trắng thay đen khó gì

Như vậy, ngay từ xưa, người ta đã ý thức rất rõ về sức mạnh ghê gớm của đồng tiền, nó có thể mua bán trao đổi con người, mua bán nhân phẩm, lương tâm. Trong đoạn trích này, Vũ Trọng Phụng một lần nữa nhấn mạnh vào sức mạnh khủng khiếp của nó. Cái chết của cụ cố tổ là điều mong mỏi với tất cả mọi người trong gia đình. Nghe thì có vẻ nghịch lí nhưng sự thật lại chính xác như vậy. Khi Xuân Tóc Đỏ gây nên cái chết của cụ cố tổ cả gia đình tri thức, văn minh ấy sung sướng đến cực độ: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm, bởi bản di chúc trên giấy sắp được đưa vào giai đoạn thực thi, họ sắp được thừa hưởng những món tiền khổng lồ. Ai nấy đều vui mừng, một niềm vui sướng thầm kín: người ta tưng bừng, vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma,… . Đồng tiền đã làm mất đi tình nghĩa, làm tha hóa con người. Cảnh cuối khi hạ huyệt cụ cố tổ, ông Phán mọc sừng đã lén lút đưa cho Xuân Tóc Đỏ tờ năm đồng gấp làm tư và cũng thật nhanh nhẹn, Xuân nắm chặt để không ai trông thấy. Một thương vụ công khai mà bí mật diễn ra vô cùng nhanh chóng vạch trần bộ mặt xấu xa của hiện thực xã hội đương thời.

Không chỉ vậy, hiện thực được Vũ Trọng Phụng phản ánh trong tác phẩm còn là hiện thực của những con người băng hoại, tha hóa về đạo đức, đó là những kẻ lố lăng, kệch cỡm. Cái chết của một người không hề khiến cho họ cảm thương, xót xa hơn nữa đây lại là cái chết của một người trong gia đình, người ông, người cha của họ. Họ chỉ thấy sung sướng, hạnh phúc cực điểm, niềm vui chung hòa với niềm vui riêng của mỗi cá nhân. Niềm vui chung ấy là cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa. Và niềm vui chung của mỗi thành viên lại càng thể hiện rõ hơn sự bất nhân, đạo đức tha hóa của họ. Đầu tiên phải kể đến là cụ cố Hồng, dù mới ngoài năm mươi tuổi nhưng luôn muốn những người xung quanh gọi là cụ cố, khi bố chết, cụ cố Hồng nằm mơ màng nghĩ đến khoảnh khắc mặc áo xô gai, chống gậy lụ khụ và để cho thiên hạ phải khen rằng con chết lớn đã già thế kia kìa. Là con đẻ, bố chết nhưng không một phút xúc động, một chút xót thương chỉ nghĩ đến sự khoa trương cho bản thân. Ông Văn Minh thì sung sướng vì sắp được chia gia tài, vừa băn khoăn khó xử trước hai cái tội nhỏ, một cái ơn tocủa Xuân Tóc Đỏ, khuôn mặt đăm chiêu thành ra rất hợp với khuôn mặt nhà có đám tang. Vợ chồng bà Văn Minh và ông thì hạnh phúc bởi đây chính là cơ hội giúp họ lăng xê những bộ đồ tân thời nhất, mốt nhất của tiệm may Âu hóa, đây chính là cơ hội làm ăn lớn. Kẻ vô sỉ, thiếu nhân cách tiếp theo chính là ông Phán mọc sừng. Bị vợ cắm sừng nhưng hắn ta không lấy làm ê chề, nhục nhã, ngược lại cảm thấy sung sướng khi nghe cụ Hồng nói sẽ chia con gái và rể thêm một vài nghìn đồng coi đó là tiền bồi hoàn danh dự, chính ông ta cũng không ngờ giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế . Với cô Tuyết đây là cơ hội để mặc những bộ đồ ngây thơ, nửa kín nửa hở, và trưng diện bộ mặt buồn lãng mạn rất đúng mốt. Cô buồn vì gia đình có việc mà sao mãi người tình vẫn chưa đến. Niềm hạnh phúc của cậu Tú Tân là được sử dụng cái máy ảnh mà bấy lâu nay không có cơ hội dùng đến. Cậu cứ điên hết cả lên, trong ngày hạ huyệt, cậu chỉnh người này, nắn người kia sao cho có những bức hình bi thương đẹp đẽ nhất. 

Cả gia đình văn minh đó bối rối trong nỗi niềm rất riêng nhưng đó là cái bối rối trong cách diễn làm sao cho thật đạt, thật chuẩn, cái bối rối của sự băng hoại, phi đạo đức.

Đề bài: Cảm nhận của anh (chị) về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương "Hạnh phúc của một tang gia" trong "Số đỏ"

Bài văn mẫu Cảm nhận của anh (chị) về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua chương "Hạnh phúc của một tang gia" trong "Số đỏ"

   Năm 1939, Vũ Trọng Phụng bước sang tuổi 24. "Ông vua phóng sự đất Bắc" liển cho ra đời năm tác phẩm lừng danh: "Giông tố", "Số đỏ", "Làm đĩ", "Vỡ đê" và "Cơm thầy cơm cô". Tác phẩm được ông đánh giá vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam từ khi có chữ quốc ngữ.

 Trong đó, "Số đỏ" với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kì cay độc cái xã hội trưởng giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống "Âu hoá" văn minh rởm, hết sức đồi bại và lố lăng đương thời. "Số đỏ" chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng người xấu xa, đê tiện như me Tây, ma cà bông, giới cảnh sát, loại nhà chùa, đám du học, có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí... Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: "Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, xã hội chó đểu..".

   Chương XV với cái tiểu nhan đề: "Hạnh phúc của một tang gia" đã đem đến cho người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ "Tấn trò đời" của xã hội thực dân phong kiến.

   Nhan đề chương là một nghịch lí đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ây vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháu "sung sướng lắm!".

   Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở Tây buổi ấy.

   Cha chết, ông chết "bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thoả thích". Đây là dịp hiếm có để khoe của, khoe giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. "Người ta tiừig bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân..". Niềm vui tràn ngập: "tang gia ai cũng vui vẻ cả".

   Người con trai cả - cụ cố Hồng - hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 câu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!". Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng" đến cái giờ phút hạnh phúc "hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, ụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu" để cho thiên hạ phải trầm trồ: "một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,... rồi ngạc nhiên chỉ trỏ:

   "Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa..". Con trai đã "báo hiếu" cha như vậy!

   Đó là một nét biếm hoạ thần tình. Tâm hồn sa đoạ, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.

   Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiên giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng. Văn Minh đi Tây du học 6 - 7 năm mà chẳng có môt "mảnh bằng nào cả" về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò "Âu hoá" nhằm "phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp". Ông nội chết, đứa cháu quý hoá này nhăm nhăm nghĩ tới chuyên chia gia tài, thích thú ra mặt vì "cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa". Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách "mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng dến". Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách "chống gậy", "gục đầu", "cong lưng", "lau mắt", như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y "luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng" như một tên hề!

 

   Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiểu nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hoá. Một đám ma to tát "một đám ma gương mẫu" nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoảng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù "theo cả lối Ta, Tàu, Tây". Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu..".

   Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

   "Có bao đám khách" quý phái và "sang trọng" đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là "giai thanh gái lịch", là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan... Họ đến đưa ma là để "cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau..". Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ "ngực đầy những huy chương" của "nước mẹ" hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả "Số đỏ" đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thẩn tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe "tài" khoe "đức" ấy "đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, ‘hoặc lún phún hay rầm rậm, loan quân,..". Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hoá vô luân!

   Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp "phục bút" khi tả sự xuất hiện của Xuản Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ "Ngây thơ" đi mời trầu và thuốc lá quan khách với "vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám". Cô vô cùng sung sướng khi thấy "anh Xuân" đã đến bèn "liếc mắt đưa tình ... để tỏ ý cảm ơn". Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với sáu chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, vái sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn... đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: "Ấy, giá không có món ấy thì là thiếu chưa dược to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!". Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên "danh giá nhất tất cả".

   Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán "mọc sừng" vốn đã nhờ "đôi sừng hươu" ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: "Hứt !... Hứt!.. Hứt!..." để báo hiếu vẫn không quên giữ chữ "tín" với ân nhân. Ong ta đã "dúi vào tay" Xuân "một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư". Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra sòng phẳng và kín đáo quáỉ Xuân và ông Phán "mọc sừng" như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch "dám ma gương mẫu". Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn "thượng lưu", đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người "chó đểu" trong cái xã hôi "chó đểu" là như thế đó! "thượng lưu" đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con ngươi "chó đểu" trong cái xã hội "chó đểu" là như thế đó!

   Tóm lại, qua Chương "Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả "Sô đỏ" là đã phóng đại những bức chân dung biếm hoạ, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho ngưòi ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!

   Tiếng cười trong "Số đỏ" là tiếng cười châm biếm có giá trị tô cáo và mang ỷ nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cô Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lô lăng và đồi bại của cái xã hội nhuốm màu sắc "Âu hoá" kệch cỡm.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:

Trong đó, "Số đỏ" với nghệ thuật trào phúng bậc thầy, nó được coi là một kiệt tác bất hủ trong văn chương đương thời. Vũ Trọng Phụng đả kích cực kì cay độc cái xã hội trưởng giả tư sản thành thị đang chạy theo lối sống "Âu hoá" văn minh rởm, hết sức đồi bại và lố lăng đương thời. "Số đỏ" chỉ dài độ 200 trang nhưng nhung nhúc những hạng người xấu xa, đê tiện như me Tây, ma cà bông, giới cảnh sát, loại nhà chùa, đám du học, có cả nghệ sĩ, y học, giới báo chí... Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên bố: "Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan tham, lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, xã hội chó đểu..".

   Chương XV với cái tiểu nhan đề: "Hạnh phúc của một tang gia" đã đem đến cho người đọc bao thú vị như được mục kích một màn hài kịch trong bộ "Tấn trò đời" của xã hội thực dân phong kiến.

   Nhan đề chương là một nghịch lí đầy ý vị, chua cay. Tang gia là gia đình có tang, ở đây là đại tang tất phải đau thương buồn thảm. Ây vậy mà lại hạnh phúc. Cái gia đình tam đại đồng đường này, khi cụ Tổ hơn 80 tuổi phải chết đã làm cho lũ con cháu "sung sướng lắm!".

Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một tình huống điển hình để phơi bày những bộ mặt đồi bại trong cái gia đình trưởng giả này, vạch trần những cặn bã, những quái thai của cái xã hội dở ta dở Tây buổi ấy.

   Cha chết, ông chết "bọn con cháu vô tâm cũng sung sướng thoả thích". Đây là dịp hiếm có để khoe của, khoe giàu, phô cái sang ra cho thiên hạ biết. "Người ta tiừig bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn, thuê xe đám ma, vân vân..". Niềm vui tràn ngập: "tang gia ai cũng vui vẻ cả".

   Người con trai cả - cụ cố Hồng - hút liền một chập 60 điếu thuốc phiện, hả hê lim dim đôi mắt. Bữa nay, cha chết, cụ vui vẻ lắm, nhưng thằng bồi tiêm vẫn còn đếm được 1872 câu gắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!". Trong cái dư vị êm ái của thuốc phiện, cụ "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng" đến cái giờ phút hạnh phúc "hạnh phúc nhất: mặc đồ xô gai, ụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu" để cho thiên hạ phải trầm trồ: "một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,... rồi ngạc nhiên chỉ trỏ:

   "Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa..". Con trai đã "báo hiếu" cha như vậy!

Đó là một nét biếm hoạ thần tình. Tâm hồn sa đoạ, đạo lí suy đồi đến cùng cực, từ cha đến con.

Hai đứa cháu nội của cụ Tổ xuất hiên giữa đám tang với bao nét kệch cỡm lố lăng. Văn Minh đi Tây du học 6 - 7 năm mà chẳng có môt "mảnh bằng nào cả" về nước hắn mở hiệu may để cổ vũ cho cái trò "Âu hoá" nhằm "phô ra những bộ phận kín đáo của phái đẹp". Ông nội chết, đứa cháu quý hoá này nhăm nhăm nghĩ tới chuyên chia gia tài, thích thú ra mặt vì "cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa". Cậu Tú Tân thì mở cờ trong bụng, được dịp trổ tài bấm lách tách "mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng dến". Lúc đưa tang, cậu lăng xăng chạy lên chạy xuống, cậu dàn cảnh, cậu đạo diễn lúc hạ huyệt bắt bẻ từng người cách "chống gậy", "gục đầu", "cong lưng", "lau mắt", như thế này, thế nọ để cậu bấm máy. Y "luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng" như một tên hề!

   Vũ Trọng Phụng đã tả đám ma cụ Tổ bằng nhiểu nét hoạt kê, châm biếm sâu cay cái rởm đời của bọn thượng lưu tha hoá. Một đám ma to tát "một đám ma gương mẫu" nhưng chẳng qua là một đám rước xách. Có kiệu bát cống lợn quay đi lọng. Có lốc bốc xoảng và bu dích. Có nhiều vòng hoa, 300 câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Đúng là một đám ma tạp pí-lù "theo cả lối Ta, Tàu, Tây". Bởi thế nên bầy con cháu thì hạnh phúc, còn "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng nếu không gật gù cái đầu..".

   Lấy cái phi lí để vạch trần cái lố lăng, đồi bại là một nét vẽ cực kì sắc sảo, độc đáo trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

   "Có bao đám khách" quý phái và "sang trọng" đến đưa ma cụ cố Tổ. Phụ nữ chiếm một nửa, là "giai thanh gái lịch", là bạn của Tuyết và bà Phó Đoan... Họ đến đưa ma là để "cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, hẹn hò nhau..". Bọn mày râu, bạn của cụ cố Hồng đến đưa tang để khoe mẽ "ngực đầy những huy chương" của "nước mẹ" hay của bọn bù nhìn ban phát cho. Khi tả bộ râu của đám quan khách này, tác giả "Số đỏ" đã sáng tạo nên những chi tiết, những ngôn từ và giọng điệu trào phúng chua cay. Một lối nói nhạo, chế giễu thẩn tình. Trên mép và cằm các ông trưởng giả khoe "tài" khoe "đức" ấy "đếm đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, ‘hoặc lún phún hay rầm rậm, loan quân,..". Người đọc phải bấm bụng mà cười khi đọc đoạn văn tả những bộ râu ấy. Đằng sau bộ râu kia là những mặt người tha hoá vô luân!

   Vũ Trọng Phụng đã dùng thủ pháp "phục bút" khi tả sự xuất hiện của Xuản Tóc Đỏ. Tuyết mặc bộ "Ngây thơ" đi mời trầu và thuốc lá quan khách với "vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám". Cô vô cùng sung sướng khi thấy "anh Xuân" đã đến bèn "liếc mắt đưa tình ... để tỏ ý cảm ơn". Xuân Tóc Đỏ đã đến đưa đám một cách sang trọng cực kì, với sáu chiếc xe, với sư chùa Bà Banh, vái sư cụ Tăng Phú, hai vòng hoa lớn... đã làm cho cụ bà sung sướng kêu lên: "Ấy, giá không có món ấy thì là thiếu chưa dược to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!". Xuân chẳng giận lại còn đến phúng viếng rất to, làm cho đám ma cụ cố Tổ trở nên "danh giá nhất tất cả".

   Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, ông Phán "mọc sừng" vốn đã nhờ "đôi sừng hươu" ấy mà được bố vợ chia cho thêm vài nghìn đồng bạc, trong lúc khóc thật to: "Hứt !... Hứt!.. Hứt!..." để báo hiếu vẫn không quên giữ chữ "tín" với ân nhân. Ong ta đã "dúi vào tay" Xuân "một cái giấy bạc 5 đồng gấp tư". Cuộc mua bán hay trả nghĩa diễn ra sòng phẳng và kín đáo quáỉ Xuân và ông Phán "mọc sừng" như một cặp bài trùng, hai diễn viên hài siêu hạng. Chính cảnh này là tột đỉnh của sự trào lộng trong màn hài kịch "dám ma gương mẫu". Chính ở cảnh này, sự bịp bợm, giả dối và thô bỉ của bọn "thượng lưu", đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con người "chó đểu" trong cái xã hôi "chó đểu" là như thế đó! "thượng lưu" đã lên tới độ vô liêm sỉ quá ghê tởm. Những con ngươi "chó đểu" trong cái xã hội "chó đểu" là như thế đó!

   Tóm lại, qua Chương "Hạnh phúc của một tang gia", Vũ Trọng Phụng thể hiện xuất sắc tài kể chuyện và nghệ thuật hoạt kê trong miêu tả. Cái tài của tác giả "Sô đỏ" là đã phóng đại những bức chân dung biếm hoạ, những cảnh đời lố lăng theo thủ pháp của nghệ thuật trào phúng làm cho ngưòi ta cười mà thấy được bao sự thật chứa đựng ở trong đó. Chuyện kể đầy kịch tính với bao sự phi lí đến ghê người đã lật tung cái mặt nạ của bọn đạo đức giả!

   Tiếng cười trong "Số đỏ" là tiếng cười châm biếm có giá trị tô cáo và mang ỷ nghĩa xã hội sâu sắc. Đám ma cụ cô Tổ đích thực là một màn hài kịch, diễn viên là bầy con cháu và lũ quan khách, đã phơi bày tất cả cái bản chất lô lăng và đồi bại của cái xã hội nhuốm màu sắc "Âu hoá" kệch cỡm.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Chí Phèo

Vội vàng

Tràng Giang

Đây thôn Vĩ Dạ

Chiều tối (Mộ)

1 17800 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: