Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11
VietJack.me xin giới thiệu với các bạn học sinh lớp 11 về Tác giả tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức gồm đầy đủ những nội dung chính quan trọng nhất của văn bản Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức như sơ lược về tác giả, tác phẩm, bố cục, tóm tắt, dàn ý, phân tích .... Mời các bạn theo dõi:
Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức - Ngữ văn lớp 11
I. Tác giả Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
a. Tiểu sử
- Nguyễn An Ninh (1899 – 1943)
- Quê: Xã Mĩ Hòa, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Nay là TP HCM).
- Là nhà báo, nhà văn, nhà yêu nước đầu thế kỉ XX.
- Từ một trí thức Tây học, ông đến với chủ nghĩa Mác và những người cộng sản.
- 1908 bị bắt đày đi Côn Đảo.
⇒ Là một trí thức tài cao học rộng.
b. Sự nghiệp văn học
- Phong cách nghệ thuật:
+ Văn phong khúc chiết, trong sáng, có độ sâu về tư duy văn hoá, tràn đầy nhiệt huyết yêu nước gần gũi với đời sống và con người lao động.
+ Lên án chính sách bóc lột và ngu dân của thực dân Pháp.
+ Phê phán đạo Khổng – đề cao tinh thần học hỏi văn hoá châu Âu.
- Tác phẩm chính: Khế ước xã hội (tác phẩm dịch), Hai Bà Trưng (vở tuồng).
II. Nội dung tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
1. Bố cục tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
- Phần 1 ((Từ đầu đến "người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng"): Nêu hiện tượng học đòi Tây hóa.
- Phần 2 (Tiếp theo đến "hay sự bất tài của con người?"): Vai trò của tiếng mẹ đẻ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Phần 3 (còn lại): Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với nước ngoài.
2. Tóm tắt tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
Tóm tắt Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức (mẫu 1)
Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm chỉ ra vai trò quan trọng và thiêng liêng của tiếng Việt, đó là: Nguồn giải phóng của dân tộc.
Tóm tắt Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức (mẫu 2)
Nguyễn An Ninh phê phán một số người do thiếu hiểu biết, thích học đòi lối sống "Tây hóa", "thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình". Đây chỉ là biểu hiện của những người mất gốc văn hóa. Tiếng mẹ đẻ có sức mạnh vô hình trong cuộc giải phóng dân tộc nên vứt bỏ tiếng mẹ đẻ là "đương nhiên khước từ niềm hy vọng giải phóng giống nòi", là đồng nghĩa với việc "từ chối sự tự do". Khẳng định Tiếng Việt là ngôn ngữ vô cùng giàu có từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động cho đến những áng văn thơ bất hủ của Nguyễn Du,... Không phủ nhận tầm quan trọng của tiếng nước ngoài nhưng chỉ nên học để thu nhận kiến thức. Quan trọng nhất vẫn chính là phát triển và duy trì tiếng mẹ đẻ.
Tóm tắt Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức (mẫu 3)
Mở đầu bài viết, tác giả phê phán một số người do thiếu hiểu biết, thích khoe khoang nên đã vô tình bỏ văn hoá cha ông và tiếng mẹ đẻ. Phần tiếp theo, tác giả thuyết minh cho tư tưởng: Tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức. Phần kết thúc, tác giả trình bày vai trò hướng đạo của giới trí thức trong việc phát triển ngôn ngữ dân tộc, quan niệm của mình về mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài.
3. Phương thức biểu đạt tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
- Nghị luận, biểu cảm
4. Thể loại tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
- Tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức thuộc thể loại: Văn chính luận
5. Giá trị nội dung tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
- Tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, phải biết bảo vệ nó và làm cho nó ngày càng phát triển.
- Tiếng mẹ đẻ còn là nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức.
- Tầm nhìn chiến lược của Nguyễn An Ninh về vai trò và tiếng nói dân tộc
6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
- Luận điểm rõ ràng, logic.
- Dẫn chứng cụ thể, chân thực.
- Giọng điệu nhẹ nhàng đầy sức thuyết phục.
IV. Dàn ý tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
1. Phê phán những hành vi của thói học đòi "Tây hóa"
- Thích nói tiếng Tây "dù chỉ bập bẹ năm ba tiếng" → Việc sử dụng Pháp ngữ là một dấu hiệu của giai cấp quý tộc.
- "Cóp nhặt" những cái tầm thường của phong hóa Châu Âu mà muốn được xem là đào tạo theo kiểu Tây phương.
- Từ bỏ tiếng mẹ đẻ, cho là tiếng Việt nghèo nàn.
- Mù về văn hóa châu Âu (nhà cửa, kiến trúc lai căng…).
⇒ Thái độ của tác giả: châm biếm, phê phán; lo lắng…
2. Tầm quan trọng của tiếng mẹ đẻ đối với vận mệnh của dân tộc
- Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị:
+ Dùng tiếng nói dân tộc để phổ biến tri thức.
+ Vứt bỏ tiếng nói của mình đồng nghĩa với sự "khước từ niềm hy vọng giải phóng giống nòi".
⇒ Từ chối tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với việc từ chối sự tự do của mình.
3. Lời khẳng định tiếng Việt vô cùng giàu có
- Lời than phiền "Tiếng Việt nghèo nàn" là ngụy biện và không có cơ sở:
+ Vốn ngôn ngữ của họ còn nghèo hơn cả người phụ nữ và nông dân An Nam nào.
+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du không nghèo.
+ Người An Nam có khả năng dịch... không thể viết...
→ Nghệ thuật: Thao tác lập luận bác bỏ, câu hỏi tu từ.
- Tiếng Việt vô cùng giàu có:
+ Ngôn ngữ thông dụng giàu có.
+ Ngôn ngữ của Nguyễn Du – ngôn ngữ văn chương – giàu có.
+ Người An Nam có khả năng dịch... không thể viết...
→ Điều suy nghĩ kỹ sẽ dễ dàng diễn đạt - nguyên tắc mang tính tất yếu.
4. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài với ngôn ngữ nước mình
- Biết ngoại ngữ để học hỏi Châu Âu, thu thập kiến thức và làm giàu cho ngôn ngữ nước mình.
- Sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ Châu Âu không hoàn toàn kéo theo việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ.
- Sử dụng câu phủ định mang tính khẳng định.
- Nghệ thuật: Lập luận chặt chẽ, sức thuyết phục cao.
5. Sơ đồ tư duy
V. Một số đề văn bài Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức
Đề bài: Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức ( mẫu 1 )
Đoạn trích mở đầu bằng sự phê phán thói "thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình ". Đây là kiểu học đòi nói tiếng Pháp thường được gọi là kiểu Pháp bồi, chỉ chuyên đi " cóp nhặt những cái tầm thường " để tạo ra một hình thức để bắt buộc những người khác "tin là họ đã tạo theo kiểu Tây phương". Những người học đòi theo kiểu bồi đó không hiểu được rằng họ không những không đủ trình độ hiểu biết cần thiết mà cũng không thể hiểu được đầy đủ chính xác các nền văn hóa "ngoại bang " khác. Nguyễn An Ninh gọi điều đó là "Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu". Ông phê phán cách học như vậy và chỉ ra sự lai căng mà những kẻ " Tây học" kiểu đó cố tình tạo ra : "Những kiểu kiến trúc và trang trí lại căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào".
Hệ quả của việc làm đó là: "Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng".
Tiếp đó, Ông phân tích bản chất của tiếng mẹ đẻ, của ngôn ngữ dân tộc. Ông chỉ ra lợi ích thiết thực của việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ, của việc dùng tiếng mẹ đẻ: "Tiếng nói là lời bảo vệ quý báo nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị". "Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình". Vì sao lại thế ? Bởi vì : "Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian". Như vậy, học châu Âu không phải để thu được vài tiếng bồi mà là tiếp thu khoa học, các học thuyết lớn, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để tìm ra con đường đi thích hợp cho dân tộc mình, là lấy lí luận của phương Tây để phản bác lại phương Tây.
Ông chỉ trích những người chê bai tiếng Việt nghèo nàn và chỉ rõ những lời trách cứ như vậy đều không có cơ sở. Bởi vì những người đó : "Họ chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ và còn nghèo những từ An Nam hơn bất cứ người phụ nữ và nông dân An Nam nào. Ngôn ngữ của Nguyễn Du nghèo hay giàu?" Từ đó ông đưa ra câu hỏi buộc những người có lương tâm với dân tộc đều phải suy nghĩ : "Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người ?"
Ở đây, ông chỉ rõ thái độ vô trách nhiệm, thái độ phủ nhận một chiều của những người cam tâm làm nô lệ, chấp nhận làm tay sai cho thực dân, bởi lẽ chê bai đất nước một cách thụ động, giản đơn, một chiều, sẽ dẫn tới thái độ khinh rẻ đất nước, dẫn tới sự tự ti dân tộc.
Từ đó, ông chủ trương học người để làm cho mình lớn lên: "Chúng ta không tránh né châu Âu, vai trò hướng đạo của giới trí thức chúng ta buộc họ phải biết ít nhất là một ngôn ngữ châu Âu để hiểu được châu Âu. Nhưng những kiến thức thu thập được, họ không phải giữ riêng cho mình. Đồng bào của họ cũng phải được thông phần nữa. Tuy nhiên, sự cần thiết phải biết một ngôn ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài mà mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình". Thực tiễn của mấy chục năm sau khi đất nước độc lập đã chứng minh điều mong muốn này của Nguyễn An Ninh. Từ đây, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ và việc tiếp thu văn hóa nước ngoài không hề loại trừ nhau hay mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau.
Nổi bật lên ở đây là nghệ thuật lập luận dẫn dắt vấn đề. Trước hết, cũng cần nói tới khả năng của tư duy lí tính theo mô hình tư duy phương Tây, đặc biệt là kiểu hình tư duy khoa học của người Pháp mà tác giả Nguyễn An Ninh đã tiếp thu được từ nhà trường Pháp, cũng có đóng góp quan trọng cho việc nhìn nhận và lí giải vấn đề tiếng mẹ đẻ này. Tiếp đó, tác giả lần lượt đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề tiếng mẹ đẻ và đặt ra trách nhiệm chung cho toàn xã hội, đặc biệt cho những người có học, những người Tây học, là phát triển hơn nữa tiếng mẹ đẻ, tiếng nói chung của dân tộc. Bảo vệ tiếng mẹ đẻ không chỉ dừng lại ở mức độ biết hoặc thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ mà phải làm cho tiếng mẹ đẻ đó phát triển đi lên, bằng cách tiếp nhận các khái niệm mới, bổ sung, hoàn thiện vốn từ ngữ của dân tộc, dùng tiếng mẹ đẻ để chuyển tải những học thuyết tiến bộ về "đạo đức và khoa học" để mở đường đi lên cho dân tộc.
Việc lập luận chặt chẽ này có tính thuyết phục cao bởi đối tượng quan trọng mà tác giả hướng tới là đội ngũ trí thức Tây học, nhằm thức tỉnh họ, đặt họ trước nhiệm vụ lịch sử của dân tộc. Do đó, việc bảo vệ tiếng mẹ đẻ cũng chính là một hành động yêu nước, thương nòi.
Bài văn mẫu Phân tích tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức ( mẫu 2 )
Là một nhà văn, nhà báo, nhà yêu nước nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn An Ninh đã để lại cho bạn đọc thế hệ sau nhiều bài báo, bài diễn thuyết, những bài chính luận đặc sắc với lối viết khúc chiết, trong sáng, không những có độ sâu về tư duy mà còn tràn đầy nhiệt huyết, tấm lòng yêu nước. Tác phẩm "Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức" đăng trên báo Tiếng chuông rè năm 1925 là một trong số những bài chính luận xuất sắc của ông.
Trong đoạn văn mở đầu bài viết của mình, tác giả Nguyễn An Ninh đã lên tiếng phê phán lối học đòi "Tây hóa", "thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình" của nhiều người dân An Nam. Với tác giả, dường như, những người có thói học đòi nói tiếng Tây, cóp nhặt "những cái tầm thường của phong hóa châu u" ấy đang lầm tưởng rằng họ có thể trở thành giai cấp quý tộc, trở thành những người được đào tạo theo kiểu của phương Tây. Nguyễn An Ninh đã nhìn thẳng vào vấn đề và lên tiếng phê phán điều đó. Ông xem việc đó chính là biểu hiện cho "thái độ mù tịt về văn hóa châu u" mà thôi.
Không chỉ phê phán thói học nói tiếng Tây, Nguyễn An Ninh còn phê phán lối sống lai căng trong cách ăn uống và xây dựng, kiến trúc nhà "Những kiểu kiến trúc và trang trí lại căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào". Và để rồi, trên cơ sở những điều đã phê phán, kết thúc đoạn văn mở đầu tác phẩm, tác giả đã nêu lên hậu quả nghiêm trọng của việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ đó chính là "làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nói lo lắng" điều đó có nghĩa là nó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến "giống nòi" của người dân An Nam.
Không chỉ dừng lại ở việc phê phán thói học đòi "Tây hóa", trong phần tiếp theo của bài viết, tác giả Nguyễn An Ninh đã nêu lên những giá trị và vai trò to lớn của tiếng nói đối với vận mệnh dân tộc. Trước hết, tiếng nói là "người bảo vệ quý báu nhất cho nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị". Nguyễn An Ninh đã đề cao vai trò, giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ đất nước, giải phóng dân tộc trước cuộc xâm lăng của các dân tộc khác, bởi lẽ với ông "bất cứ người dân An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì đương nhiên cũng khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi". Đồng thời, tiếng nói còn là nhịp cầu tri thức mở mang dân trí, đưa dân tộc ta tiếp xúc với các nền văn minh trên thế giới.
Để làm rõ cho vấn đề này, tác giả đã chỉ ra rằng "nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết và khoa học châu u" thì việc giải phóng dân tộc ở nơi đây chỉ là vấn đề thời gian sớm hay muộn. Thêm vào đó, tác giả cũng đi sâu phê phán những than phiền sự nghèo nàn của tiếng mẹ đẻ để biện minh cho hành động học đòi Tây hóa của mình để rồi từ đó nêu lên và khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt, để chứng minh rằng tiếng nước mình không nghèo nàn. Với Nguyễn An Ninh, những người than phiền tiếng Việt nghèo nàn bởi họ "chỉ biết những từ thông dụng của ngôn ngữ." Ông đã đưa ra minh chứng về đại thi hào Nguyễn Du và đặt ra câu hỏi "Ngôn ngữ Nguyễn Du nghèo hay giàu?" Có lẽ câu hỏi ấy của ông đã thêm một lần nữa khẳng định rằng tiếng Việt của chúng ta không nghèo mà nó rất phong phú và để rồi từ đó, kết thúc đoạn văn, ông đã đặt ra một câu hỏi, gợi lên một vấn đề khiến mọi người phải không thôi suy nghĩ "Phải quy lỗi cho sự nghèo nàn của ngôn ngữ hay sự bất tài của con người?"
Cuối cùng, đoạn kết thúc tác phẩm "Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức" tác giả đã nêu lên quan điểm, suy nghĩ của mình về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với ngôn ngữ nước ngoài. Nguyễn An Ninh không né tránh việc cần thiết phải biết một thứ ngôn ngữ châu u, với ông con người An Nam, nhất là giới trí thức "phải biết ít nhất là một thứ ngôn ngữ châu u để hiểu được châu u" và hơn nữa, họ còn cần chia sẻ những điều họ biết, họ hiểu với dân tộc, với đồng bào mình nữa. Không dừng lại ở đó, ông cũng còn khẳng định rằng, học để biết một thứ tiếng nước ngoài không đồng nghĩa với việc từ bỏ tiếng mẹ đẻ mà ngược lại nó còn góp phần bồi đắp, làm phong phú, giàu có thêm cho ngôn ngữ nước mình.
Tóm lại, bài viết "Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng dân tộc" của Nguyễn An Ninh với lối lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục đã mang đến cho người đọc một vấn đề quan trọng trong mỗi thời đại - giữ gìn tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc mình. Đồng thời, qua bài viết cũng gợi lên trong mỗi người tình yêu, lòng tự hào và ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng nước mình.
Đề bài: Cảm nhận tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức
Bài văn mẫu Cảm nhận tác phẩm Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức
Nội dung chính của bài chính luận Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức cho thấy Nguyễn An Ninh là người am hiểu sâu rộng trong lĩnh vực ngôn ngữ nói chung. Tác giả đã có những nhận xét tinh tế về việc người An Nam sử dụng tiếng mẹ đẻ và tiếng nước ngoài (ở đây là tiếng Pháp); những lý giải thấu đáo và những giải pháp đúng đắn trong việc học tiếng nước ngoài của giới trí thức Việt Nam lúc bấy giờ.
Điều quan trọng nhất là bài chính luận đã nêu lên quan điểm đúng đắn của Nguyễn An Ninh về tiếng nói dân tộc trên nhiều phương diện. Ông chống lại thói Tây há lố lăng của không ít người An Nam lúc bấy giờ. Thói quen này làm tổn hại đến tiếng mẹ đẻ của dân tộc. Nguyễn An Ninh phê phán quan niệm sai lầm cho rằng tiêng nước mình nghèo nàn. Tuy đề cao tiếng Việt nhưng ông vẫn khuyến khích giới tri thức học tiếng nước ngoài. Ông có quan niệm hết sức đúng đắn rằng "Sự cần thiết phỉa biết một ngoại ngữ châu Âu hoàn toàn không kéo theo chuyện bỏ tiếng mẹ đẻ. Ngược lại, thứ tiếng nước ngoài cho mình học được phải làm giàu cho ngôn ngữ nước mình". Ông đề cao sức mạnh của tiếng nói dân tộc, coi đó là người bảo vệ cho nền đọc lập dân tộc, như là yếu tố quan trọng để giải phóng dân tộc. Những ý kiến của Nguyễn An Ninh về tiếng mẹ đẻ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là từ gốc độ văn hóa.
Tuy nhiên, trong bài luận của mình, có lúc Nguyễn An Ninh đề cao quá mức vai trò của tiếng mẹ đẻ, đôi lúc thể hiện sự tuyệt đối hóa: "Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị".Hai chữ nhất trong đoạn văn rõ ràng quá nhấn mạnh vai trò của tiếng mẹ đẻ trong câu khái quát chung. Khi cụ thể hóa vấn đề vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ông lại viết: "Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian". Nói như vậy là tự đặt tiếng nói dân tộc lên vị trí quá cao, tách rời và xem nhẹ các yếu tố khác trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đó chính là hạn chế của bài chính luận này.
Tuy nhiên, xét trong hoàn cảnh cu thể thì bài viết này đã đánh thức được lòng tự hào dân tộc, phát huy sức mạnh tinh thần của dân tộc. Đó chính là dụng ý của tác giả khi viết bài chính luận này.
Xem thêm các bài viết về Tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 11 hay khác:
Người cầm quyền khôi phục uy quyền (V.Huy-Gô)
Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11