Đây thôn Vĩ Dạ - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 11

Tóm tắt kiến thức trọng tâm tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 8844 lượt xem
Tải về


Đây thôn Vĩ Dạ - Ngữ văn 11

I. Tác giả Đây thôn Vĩ Dạ

a. Tiểu sử

- Tên tuổi: Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí

- Quê quán: Đồng Hới (nay là Quảng Bình)

- Đặc điểm cuộc đời:

+ Sớm mất cha sống với mẹ tại Quy Nhơn.

+ Năm 21 tuổi ông vào Sài Gòn lập nghiệp.

+ Đi làm công chức thời gian ngắn rồi mắc bệnh phong và mất.

b. Sự nghiệp văn học

- Tác phẩm chính:

+ thơ: Gái quê, Thơ điên, Xuân như ý, Thượng thanh khí,Cẩm châu duyên

+ kịch thơ: Duyên kì ngộ, Quần tiên hội

+ thơ văn xuôi: Chơi giữa mùa trăng

- Phong cách nghệ thuật:

+ là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới

+ diện mạo thơ ông hết sức phức tạp và đầy bí ẩn, thấm đượm một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế

+ thơ ông hướng nội, khuynh hướng quay vào nội tâm, ít kể tả theo cái nhìn của con mắt

Bài giảng Ngữ văn 11 Đây thôn Vĩ Dạ

II. Nội dung tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?

III. Tìm hiểu chung về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

1. Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

- Sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ điên về sau đổi thành Đau thương

- Bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm ảnh về phong cảnh Huế và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc- người mà Hàm Mặc Tử ôm ấp mối tình đơn phương khi còn làm ở sở Đạc Điền

2. Thể thơ tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

- Tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ thuộc thể loại: Thất ngôn

3. Bố cục tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

- Đoạn 1: vườn Vĩ Dạ lúc ban mai trong tâm tưởng thi sĩ

- Đoạn 2: cảnh sông nước xứ Huế đêm trăng và tâm trạng thi sĩ

- Đoạn 3: hình bóng khách đường xa và nỗi niềm mơ tưởng, hoài nghi

4. Tóm tắt tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

Tóm tắt Đây thôn Vĩ Dạ (mẫu 1)

Bài thơ là bức tranh phong cảnh và tâm cảnh của tác giả. Ẩn sau là niềm khát khao sống và khát khao tình người.

Tóm tắt Đây thôn Vĩ Dạ (mẫu 2)

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Tóm tắt Đây thôn Vĩ Dạ hay, ngắn gọn (5 mẫu) (ảnh 1)

Tóm tắt Đây thôn Vĩ Dạ (mẫu 3)  

Bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cô đơn của hàn Mặc Tử trong một mối tình xa xăm, vô vọng. Đó còn là tấm lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống và con người.

5. Giá trị nội dung tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

Bài thơ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

Hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu sức liên tưởng

7. Một số nhận định hay về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

1. Chế Lan Viên: "Là nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt trong phong trào Thơ mới , "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình" và "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử."

2. Trần Đăng Khoa: "Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch..."

3. Huy Cận: "...Theo tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng đáng vào Thơ mới."

4. Hoài Thanh: "...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng..." và "Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh..."

IV. Dàn ý tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ 

1. Khổ 1: vườn Vĩ Dạ lúc ban mai trong tưởng tượng của thi sĩ

- Câu thơ đầu tiên mang hình thức câu hỏi tu từ vừa như lời mời gọi tha thiết yêu thương lại như lời tự trách bản thân

- Bao trùm bài thơ là niềm thích thú say mê, lòng yêu mến tán thưởng vẻ đẹp của cảnh sắc thôn Vĩ. Hàng loạt các hình ảnh về thôn Vĩ hiện lên rất rõ ràng, chân thực tưởng như thi sĩ đang đứng trước cảnh sắc thôn Vĩ mà nâng niu, ngắm nhìn:

+ hình ảnh nắng hàng cau nắng mới lên mang một vẻ đẹp lấp lánh tinh khiết. Câu thơ lưu lại một khoảnh khắc thật đẹp khi ngắm nhìn nắng mới trải dần trên những lá cau non

+ cảnh vườn ai mướt quá xanh như ngọc thật đẹp thật độc đáo

• Từ mướt và hình ảnh so sánh xanh như ngọc đã cộng hưởng hòa lên vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của vườn Vĩ Dạ

• Một màu xanh mướt óng ả, non tơ đến nuột nà phủ lên khắp khu vườn. cả khu vườn tựa như một viên ngọc bích khổng lồ không chỉ rời rợi sắc xanh mà còn lan tỏa ánh xanh

• Từ mướt quá bộc lộ sự trầm trồ của thi sĩ, chứng tỏ Hàn Mặc Tử đang say sưa trong hồi tưởng

• Đại từ phiếm chỉ ai xa vời mông lung chứa đựng một nỗi u buồn, xót xa

- Hình ảnh Lá trúc che ngang mặt chữ điền trong câu thơ cuối thật thú vị, ẩn chứa nhiều cách hiểu khác nhau:

+ đó có thể là khuôn mặt phúc hậu mang nét dịu dàng, duyên dáng của những cô gái Huế ⇒ hình ảnh thơ gợi sự hòa điệu giữa người và cảnh

+ lại có thể hiểu đó là gương mặt thi sĩ khi trở về thôn Vĩ nhưng trong hoàn cảnh lén lút, vụng trộm⇒ câu thơ là niềm yêu đời mãnh liệt của tâm hồn trĩu nặng mặc cảm chia lìa

⇒ Cảnh và người thôn Vĩ thật đẹp nhưng chỉ trong hoài niệm

2. Khổ 2: cảnh sông nước xứ Huế đêm trăng và tâm trạng thi sĩ

a. Cảnh sông nước đêm trăng

- Chỉ vài nét chấm phá Hàn Mặc Tử đã gợi dậy thần thái, linh hồn của Huế trong đêm trăng thơ mộng: mây trời đìu hiu, sông nước lặng tờ, thuyền ai gối bãi ăm ắp đầy trăng

- Cảnh sắc êm đềm uyền ảo mà tĩnh lặng, u buồn

b. Tâm trạng thi sĩ

- Mặc cảm chia lìa trong hình ảnh Gió theo lối gió, mây đường mây

+ câu thơ hằn lên sự chia lìa ngang trái trớ trêu: gió mây vốn luôn quấn quýt với nhau mà giờ đây gió một đằng, mây một nẻo

+ sự chia lìa thấm vào hình ảnh hằn lên trong nhịp điệu thơ: nỗi đau tuyệt giao với cuộc đời của thi sĩ

- Nỗi cô đơn bơ vơ trong hình ảnh: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

+ một nỗi buồn bâng khuâng mà da diết, khắc khoải phảng phấp trong câu thơ để rồi thấm đượm và hồn người đọc

+ danh từ lay tự nó không vui, không buồn nhưng đặt trong câu thơ này sao lại gợi một nỗi buồn hiu hắt đến thế

+ hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu như ám lấy thi sĩ- thân phận bị cuộc đời xa lánh tẩy chay

- Nỗi niềm trông ngóng vu vơ, vô vọng

+ Hàm Mặc Tử ao ước có trăng trở về với mình. Câu thơ như lời khẩn cầu da diết, khắc khoải đến cháy bỏng

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

+ thật xót xa khi hiện thực khiến thi sĩ tuyệt vọng: cơ hội ngắm trăng ngắn ngủi trong tối nay mà trăng thì lại ở mãi ngoài kia xa vời vợi, con thuyền chở trăng thì vu vơ, phiếm chỉ

3. Khổ 3: Hình bóng khách đường xa và nỗi niềm mơ tưởng hoài nghi

- Ao ước có trăng không thành, thi sĩ mơ tưởng về người thôn Vĩ. Nhưng trong giấc mơ người thương yêu thủa nào đã là khách đường xa

- Bóng hình người thương vừa hiện ra đã chợt mất hút

- Hình bóng người thương hiện lên thật ám ảnh: Áo em trắng quá nhìn không ra: cực tả sắc trắng lạ lùng của áo em thi sĩ muốn gửi gắm nỗi niềm đắm say trước vẻ đẹp lộng lẫy của người yêu dấu cùng nỗi tuyệt vọng bất lực giữa anh và em là vực sâu thăm thẳm, em là thiên thần còn anh là tội đồ trong địa ngục tối tăm

- Thi sĩ đành ngậm ngùi trở về thực tại ở đây là trại phong lạnh lẽo, mịt mù sương khói phủ mờ cả bóng anh, ta nghe như có tiếng dội đau thương của kiếp người bị lãng quên trong lãnh cung xa thẳm

- Bám víu cuối cùng của thi sĩ là chút tình với cuộc đời ngoài kia nhưng cũng mong manh xa vời lắm: Ai biết tình ai có đậm đà?

⇒ câu thơ đọng lại tình yêu hướng về cuộc đời trần thế mãn liệt mà vô vọng, đau đớn

4. Sơ đồ Đây thôn Vĩ Dạ

V. Một số đề văn tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ

Đề bài: Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

  Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

      Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.

      Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

      Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

      Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

      Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng. Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

      Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

      Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quý, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

      Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

      Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

      Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia ly, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

      Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sống trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

      Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

Vỡ tan thành vũng đọng vàng kho.

      Hay:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

      Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

      Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

      Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

      Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

      Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

      Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà?

      Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

      Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.

      Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Đề bài: Phân tích nhân vật trữ tình của Hàn Mặc Tử trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

Bài văn mẫu Phân tích nhân vật trữ tình của Hàn Mặc Tử trong bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

“Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,

Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…”

      Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? “Trăng sõng soài trên cành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi…” (“Bẽn lẽn”) – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng. Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.

      “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng say đắm, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

      Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỷ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

      Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mượt quá” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên). Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trước và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý nhị và thơ ngây”

(“Mùa xuân chín”)

      Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc mặt chữ điền) Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

      Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng tha thiết mến thương.

      Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên 4 bức cảnh hài hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng, man mác. Hoa bắp lay nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

      Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

      Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.

      Khổ thơ thứ ba nói về cô gái xứ Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son”…Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sông khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”.

      “Mơ khách đường xa, khách đường xa ai biết…ai có…” các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.

      Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi với trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói?

      Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.Cảm nhận tâm trạng của nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ bằng sự thấu hiểu, cảm thông chúng ta có thể thấy đây là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và cái màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Đề bài: Cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

Bài văn mẫu Cảm nhận bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, tại Lệ Mĩ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức theo đạo Thiên Chúa.

Năm 1920, Hàn Mặc Tử theo gia đình vào học tiểu học ở Sa Kì, Quy Nhơn, sau đó học ở Bồng Sơn, rồi lại trở về học ở Sa Kì.

Năm 1926, thân sinh Hàn Mặc Tử bị bệnh rồi mất ở Huế, ông theo mẹ vào Quy Nhơn, bắt đầu làm thơ Đường với bút hiệu Minh Duệ Thị.

Năm 1928, Hàn Mặc Tử ra học ở trường Pellerin ở Huế, đổi bút hiệu là Phong Trần, ghé thăm cụ Phan Bội Châư ở Bến Ngự nên bị Pháp xóa tên trong danh sách những người được đi du học ở Pháp.

Năm 1932 — 1933, ông làm việc ở sở Đạc Điền Quy Nhơn, có thơ đăng báo Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn: Tới năm 1934, theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo, lấy bút hiệu Lệ Thanh, rồi Hàn Mặc Tử.

Những bài thơ Đường luật đầu tiên của Hàn Mặc Tử mang cảnh buồn lạnh như cảnh Chùa hoang:

Hương sầu khói lạnh năm ngơ ngác

Vách chán đêm suông đứng dãi dầu.

Qua nỗi buồn nhè nhẹ trong tập Gái quê. Và rồi người đọc ngạc nhiên khi trong tập Thơ Điên lại có Đây thôn Vĩ Dạ không điên tí náo, ngược lại còn đẹp, có chủt dịu dàng...

Một lời mời, lời trách nhẹ nhàng, thân ái mở đầu bài thơ.

Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Trách vì đã quen nhau và đã mời từ trước. Bây giờ mới về gặp mặt, nhắc lại là để trách yêu nhưng cũng để giới thiệu cái đẹp trong sáng, xinh tươi. Tiếp đến, người đọc thấy một bức tranh bình minh rạng rỡ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Đấy là một đất trời rạng rỡ với nắng sớm long lanh trên những tàu cau còn đẫm sương đêm vươn lên đón nắng ban mai, hòa vào một không gian mượt mà, tươi non trong vườn cây sum suê thấp thoáng bóng người. Nghệ thuật đảo ngữ và so sánh trong câu thơ thứ hai làm tăng thêm vẻ xanh trong cảnh vườn. Trong cảnh đẹp nõn nà ấy lại thấy xuất hiện:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Người ta cứ thắc mắc khuôn "mặt chữ điền" đó là của ai? Người ta cứ nghĩ rằng khuôn mặt đó "vuông" chứ chẳng phải "khuông trăng" hay "trái xoan" nên cứ đoán rằng đó là khuôn mặt của nam giới. Sao không nghĩ rằng đó là khuôn mặt của em? Vừa giới thiệu hàng cau, giới thiệu "vườn... xanh như ngọc" của "ai" đó. "Anh" vừa nhìn được cảnh đẹp ấy, còn nhìn được khuôn mặt chữ điền của "ai" đó thấp thoáng bên bụi trúc. Có đôi mắt, sống mũi, đôi môi, gò má hồng... cân đối thì khuôn mặt chữ điền phúc hậu kia sao lại chẳng là khuôn mặt của người đẹp? Cái khéo léo của nhà thơ là ở tài giới thiệu "ai" đó một cách kín đáo, duyên dáng... và phúc hậu theo quan niệm về tướng mạo của người xưa.

Lời hỏi, lời trách nhẹ; cảnh bình minh ở trên vừa thực vừa mơ. Thực là cảnh thực của Vĩ Dạ, mơ là cái mộng của nhà thơ. Có thể trước kia Hàn Mặc Tử đã về cùng thôn Vĩ, nhưng bây giờ thì là mơ, làm thơ mơ được về nơi ấy, thưởng thức cảnh đẹp của bình minh, rồi ngẩn ngơ cảnh chiều buồn giữa khu vườn bắp đang độ trổ cờ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Cảnh hiền lành của miền quê trong chiều, và trước dòng chuyển của thời gian vô tình, mỗi sự vật đều như cố thu về trong cõi cô đơn, quạnh quẽ của riêng mình. Ở đây, mây không còn nương gió. Điệp từ trong câu thơ không để nhấn mạnh mà là để diễn tả nỗi cô đơn. Gió, mây, dòng nước, hoa bắp như có hồn, cảm nhận được cái vô tình nghiệt ngã của thời gian lướt tới. Ai đã từng về Vĩ Dạ tất nhận ra cảnh đẹp của một thôn ngoại vi của kinh thành Huế nằm bên bờ sông Hương có cánh đồng lau và những nương bắp, nơi cư trú của các quan triều Nguyễn.

Và ta cũng đừng quên đêm với Hàn Mặc Tử là trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ của trăng. Trăng trong những bài thơ Đường luật như:

Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa

Sương dẫm trăng lồng bóng thiết tha...

Trăng trong Bẽn lẽn như:

Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi...

Trăng trong Mật đẳng như:

Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng

Cho trăng xuân tràn về say chới với.

Và còn cả một tập thơ xuôi Chơi giữa mùa trăng, nên Vĩ Dạ sông nước hữu tình kia, trong thơ của chàng làm sao thiếu trăng được! Và anh thơ đã hỏi giữa khoảng trời mênh mông:

Thuyền ai đậu bển sông trăng đó

Có chờ trăng về kịp tối nay?

"Thuyền ai" đậu có thể xác định được là của ai? Chở trăng về đâu vậy hở? Chở trăng về Vĩ Dạ với chàng ư? Hay ai đó chở trăng về với người thương đang đợi? Có thể như thế lắm, thơ là mơ mộng mà!

Khổ thơ cuối có lẽ là nhà thơ đã tỉnh mộng, đã quay về với thực tại nơi nhà thơ đang sống. Nhà thơ đã:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra.

Cần nhớ rằng nhà thơ làm bài thơ này lúc đã bị bệnh phong, cắt đứt mọi quan hệ giao tiếp với người thân ngoại trừ vài người thân thiết nhất, bởi vậy mà niềm mơ ước của nhà thơ tha thiết vô cùng. Giờ đây, không phải mơ được về thăm thôn Vĩ mà là mơ người thôn Vĩ đến thăm chàng. Mơ lắm ở nghệ thuật lấy lại "khách đường xa". Người khách ấy còn trinh trắng quá không chỉ trong tâm hồn mà còn cả ở "áo em…"

Nhà thơ quay về với thực tại: buồn lắm, cô đươn lắm, tuyệt vọng đang hiện về từ chứng bệnh ngặt nghèo. Chính ở trong tâm trạng đó, nhà thơ khao khát cuộc sống, khao khát tình yêu tới tột cùng:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đất Quy Hòa cát trắng là nơi nhà thơ đang sống cùng bệnh phong, nơi tình người chỉ thoáng như "sương khói" ngày nắng tháng mưa.

Cái tha thiết ước mong đọng lại ở câu thơ cuối cùng. Chẳng hiểu em (ai) có biết cho tình yêu của ta (ai) với em vô cùng tha thiết, nồng đượm? Cái hay của câu thơ nằm ở nhân xưng dại từ phiếm chỉ "ai" ở câu thơ nghi vấn có âm hưởng của tiếng thở dài vô vọng.

Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm sâu sắc, Đây thôn Vĩ Dạ một bài thơ đẹp. Một bài thơ có những câu tả cảnh đầy tính nghệ thuật làm tăng thêm vẻ đẹp của một vùng quê xứ Huế. Đồng thời cũng thể hiện khao khát sống, khao khát được yêu của nhà thơ trong cảnh sống cô đơn, bệnh hoạn... một bài thơ tình yêu của một kiếp người truân chuyên nhưng đầy ắp tình yêu đời, yêu người.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Chí Phèo

Vội vàng

Tràng Giang

Chiều tối (Mộ)

Từ ấy

1 8844 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: