TOP 5 mẫu Thuyết minh về một giống vật nuôi (2023) SIÊU HAY
Thuyết minh về một giống vật nuôi lớp 8 gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.
Thuyết minh về một giống vật nuôi
1. Thuyết minh về con chó
Dàn ý thuyết minh về con chó
I. Mở bài
- Giới thiệu về các loại vật nuôi phổ biến trong gia đình.
- Giới thiệu chung về loài chó.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc
- Chó có nguồn gốc từ chó sói, sau đó được con người thuần hóa.
2. Đặc điểm
- Trọng lượng rất đa dạng, nhỏ nhất là từ 1 - 5kg, lớn nhất có thể lên đến hàng chục ki-lô-gam.
- Động vật có bốn chân, mỗi chân có bốn ngón, dưới chân có đệm mềm giúp giữ ấm và di chuyển nhanh chóng.
- Mắt chó cấu tạo ba mí: mí trên, mí dưới và mí thứ ba nằm sâu bên trong giúp che chắn cho mắt khỏi bụi.
- Tai chó rất thính, có thể nghe ngóng từ khoảng cách rất xa.
- Khứu giác (mũi) chó khá tốt nhưng không nhạy bằng tay.
- Cơ thể được của nó thường có hai lớp lông, mượt mà. Mỗi lớp đều có chức năng riêng.
- Chúng vẫy đuôi với con người hoặc loài vật khác chứ hiếm khi tự làm một mình.
3. Phân loại
Có khá nhiều giống chó khác nhau, nhưng chủ yếu nhấn mạng về giống chó nhà.
4. Vai trò
- Chó là vật nuôi trong các gia đình, giúp trông coi nhà cửa.
- Đối với người nước ngoài, họ coi chó như một người bạn.
- Đôi khi chó được huấn luyện để phục vụ cho các công tác đặc biệt như cứu hộ, truy vết tội phạm…
III. Kết bài
- Khẳng định vai trò của loài chó trong cuộc sống của con người.
Thuyết minh về con chó - Mẫu 1
Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là “linh cẩu”. Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Cho là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam.
Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám.
Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi.
Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt.
Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi km một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.
Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám, và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu nước ở các bến cảng, sân bay,… nơi xảy ra sự cố.
Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh.
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.
Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.
Thuyết minh về con chó - Mẫu 2
Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng biết chó là một con vật đáng yêu và rất hữu ích đối với con người. Nhiều người xem chúng như dũng sĩ giữ nhà, một số người còn xem chó là một người bạn trung thành. Nhưng chúng ta có biết rõ về chó chưa? Chúng mình hãy cùng tìm hiểu về con vật đáng yêu này!
Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kì đồ đá.Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám.
Chó là loài động vật 4 chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ 3 nằm ỡ giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khói bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, có thể nhận được 35000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chi kiểu có ngón: Chi trước 5 ngón, chi sau 4 ngón. Ngón có vuốt nhưng không co rút được, vì vậy nên nó không leo trèo và khó giữ con mồi lâu. Chó chạy xa và mềm nhờ chân dài. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động rồi sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Màu sắc lông đa dạng. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Chó con mới sinh ra thì nhắm mắt, sau một tháng nó mới mở mắt và bắt đầu đi đứng được. Lúc mới ra đời, chó không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loại thú này là 42 chiếc.
Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “đa năng”: Chó giữ nhà, chó cảnh, chó săn bắt, chó thể thao, chó nghiệp vụ. Chó nghiệp vụ lại được đào tạo chuyên sâu hơn như chó phát hiện, phòng ngừa mối sử dụng trong ngành nghiên cứu hộ đê điều; chó cảnh sát giúp phát hiện ma túy, săn bắt tội phạm; chó làm các dịch vụ bảo vệ; chó cứu hộ trong các tình trạng khẩn cấp như động đất, thiên tai, bão lũ; chó săn bắt mồi, chim chóc. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.
Nhờ trí thông minh, sự nhanh nhẹn. Chó có thể tiếp thu mọi tín hiệu, hiệu lệnh của người điều khiển rồi làm theo sau khi nhìn con người làm mẫu. Trí thông minh của chó chỉ đứng sau khỉ nhưng xếp trên cá heo. Điều đó cho thấy chó là loài vật biết tiếp thu, nghe lời. Nhờ các cơ quan khứu giác, thính giác cực kì phát triển nên chó có khả năng nhận biết, phát triển các vật thể, dấu hiệu lạ từ xa để thông báo cho con người đề phòng.
Trong văn hóa, tâm linh của một số dân tộc, chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. tục thờ chó Ka phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới (Đông Nam Á, Tây Nam Á, Đông Á). Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm trở thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.
Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Khi nhắc đến những loại chó được huấn luyện để tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy thì không thể nói đến một loại điển hình, đó là chó Béc-giê. Chó Béc-giê là giống chó thuần chủng của Đức. Loại chó này thường có chân cao bụng thon, tai to và dựng đứng giống như chó sói. Đặc biệt chó Béc-giê rất thông minh, khứu giác và thính giác rất phát triển. Chính vì vậy mà người ra thường duy trì chó Béc-giê truy tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy hay những công việc khác cũng đòi hỏi sự thông minh nhanh nhạy.
Còn khi nhắc đến chó cảnh thì ta cũng hiểu đó chính là chó nhà. Những con chó này thường được nuôi làm cảnh đồng thời kiêm cả nhiệm vụ giữ nhà. Có rất nhiều loại chó cảnh như: Chó xù, chó Nhật, chó mini, chó Bắc Kinh, chó Chihuahua Pox. Nếu như lông chó Béc-giê ngắn và mượt thì chó cảnh thường có bộ lông dài và có thể mượt hay xù.
Chó hữu ích và rất gần gũi với con người, do đó chúng ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc chó cũng khá đơn giản, công việc này không phức tạp và việc luyện tập cũng vậy. Với tính hiền lành của chúng thì thật dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà gia đình bạn cần ở chúng, chỉ cần bạn có sự quan tâm đến chúng và dắt đi dạo thường xuyên, mỗi một tuần thì tắm cho nó một lần và đôi khi bạn cũng cần chải lông cho con vật yêu của mình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh cho chúng định kì theo chỉ định của bác sĩ thú y giúp chú chó khỏe mạnh.
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.
Thuyết minh về con chó - Mẫu 3
Trong cuộc sống, mỗi chúng ta ai cũng cần có những người bạn thân thiết. Sẽ thật cô đơn và buồn tủi nếu không có ai bên ta để chia sẻ mọi thứ. Xã hội ngày càng phát triển, đôi lúc những người bạn của ta không ai có đủ thời gian để gặp gỡ. Chính vì vậy, càng ngày lại càng có nhiều người xem việc nuôi thú cưng là cách để có người bầu bạn. Bản thân tôi cũng vậy, gia đình tôi có nuôi một chú chó.
Chú chó nhà thôi có cái tên khá đặc biệt là Đốp. Nó thuộc dòng chó Corgi được nhập từ nước ngoài về. Loài chó này có giá thành khá cao từ 12 - 20 triệu tùy con. Chúng là giống chó chăn gia súc có nguồn gốc từ Pembrokeshire, xứ Wales. Tổ tiên là giống chó đuôi cuộn kiểu Bắc Cực. Ở nước ta, những năm gần đây, giống chó này ngày càng trở nên phổ biến và quen thuộc. Tuy nhiên, việc chăm sóc chúng khá khó khăn, đòi hỏi người nuôi phải có những hiểu biết nhận định và sự quan tâm đặc biệt dành cho chúng.
Đốp là một chú chó trưởng thành. Thân hình dài khoảng 60cm, bốn chân rất ngắn (chưa bằng một gang tay người lớn). Bộ lông màu vàng óng, nhưng lông chân lại màu trắng. Một đặc trưng nổi bật của giống chó này là có đôi tai rất to, luôn dỏng cao lên, thỉnh thoảng vẫy vẫy cùng với đôi mắt to tròn đen láy như hòn bi ve nhìn rất thông minh khiến chú được mọi người yêu quý vì quá đỗi dễ thương. Chiếc mõm khá dài và màu đen huyền, bên trong là cái lưỡi hồng hào cùng hàm răng thưa không đều nhau rất ngộ nghĩnh. Cái đuôi ngắn ngủn lấp ló sau đám lông dày nhìn mãi chẳng thấy đâu.
Khác với giống chó ta, loại chó này khá kén ăn và cần được chăm sóc kĩ lưỡng. Mỗi khi mùa hè đến, tôi đều phải đưa Đốp ra cửa hàng chăm sóc thú cưng để người ta cắt tỉa bớt lông nhằm ngăn không cho thân nhiệt của nó không quá cao. Loại chó này có riêng thức ăn dành cho thú cưng. Ngoài ra, Đốp còn rất khoái khẩu với sữa chua và xúc xích. Để chăm sóc tốt loại chó này, chúng ta cần hiểu và nắm được tính cách, thói quen và sở thích để có thể chơi với chúng và nuôi chúng tốt nhất có thể. Chỗ ngủ của Đốp luôn được dọn dẹp sạch sẽ. Corgi là loài chó thông minh và gần gũi với con người. Đốp chính là một minh chứng cho sự thông minh của loài chó này.
Không chỉ có chó mà những loài động vật khác đã, đang và sẽ trở thành những người bạn thân thiết của con người. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ động vật nói chung để tạo ra một xã hội văn minh hơn
2. Thuyết minh về con trâu ở làng quê Việt Nam
Dàn ý Thuyết minh về con trâu ở làng quê Việt Nam– mẫu 1
Mở bài: giới thiệu về con trâu Việt Nam
Con trâu gắn liền với người nông dân Việt Nam từ xa xưa, bao đời nay. Con trâu như một người bạn thân thiết với người nông dân Việt Nam. Chính vì thế mà con trâu đi vào thơ ca Việt Nam rất đỗi tự nhiên. Để biết rõ hơn về con trâu thân thiết với người nông dân như thế nào, chúng ta cùng đi tìm hiểu con trâu Việt Nam.
Thân bài
Nguồn gốc của con trâu
Con trâu Việt Nam là thuộc trâu đầm lầy
Con trâu Việt Nam là trâu được thuần hóa
Đặc điểm của con trâu Việt Nam
Trâu là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen
Trâu có thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dóc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
Trâu có sừng
Trâu rất có ích với người nông dân Việt Nam
Mỗi năm trâu đẻ một lứa và mỗi lứa một con
Lợi ích của con trâu Việt Nam
Trong đời sống vật chất thường ngày
Trâu giúp người nông dân trong công việc đồng áng: cày, bừa,
Trâu là người gián tiếp là ra hạt lúa, hạt gạo
Trâu là một tài sản vô cùng quý giá đối với người nông dân
Trâu có thể lấy thịt
Da của trâu có thể làm đồ mỹ nghệ,…
Trong đời sống tinh thần
Trâu là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam
Trâu là tuổi thơ trong sáng, tươi đẹp của tuổi thơ: chăn trâu thổi sáo, cưỡi lưng trâu,…
Trâu có trong các lễ hội ở Việt Nam:
Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
Là biểu tượng của SeaGames 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
.....
Tương lai của trâu
Những tác động khiến trâu mất đi giá trị của mình:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Máy móc kỹ thuật hiện đại: máy bừa, máy cày,….
Phát triển đô thị, quy hoạch hóa, xây dựng khu đô thị,….
Kết bài:
Khẳng định vai trò của con trâu ở làng quê Việt Nam
Nêu cảm nhận với ý nghĩ của mình về con trâu ở làng quê Việt Nam
Dàn ý Thuyết minh về con trâu ở làng quê Việt Nam– Mẫu 2
Mở bài
Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
Thân bài
Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
Lợi ích của con trâu:
Trong đời sống vật chất:
Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.
Là tài sản quý giá của nhà nông.
Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…
Trong đời sống tinh thần:
Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu: thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:
Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
Kết bài
Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.
Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Thuyết minh về con trâu ở làng quê Việt Nam– Mẫu 1
Bao đời nay, hình ảnh con trâu lầm lũi kéo cày trên đồng ruộng là hình ảnh rất quen thuộc, gần gũi đối với người nông dân Việt Nam. Vì thế, đôi khi con trâu đã trở thành người bạn tâm tình của người nông dân:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công...
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Trâu rừng là tổ tiên của các loài trâu nhà, sinh ở vùng Đông Nam Á nhiệt đới gió mùa thấp ẩm, hiện còn tồn tại ở miền Trung nước ta. Khoảng 5 - 6 ngàn năm trước, trâu đã thuần hóa cùng với sự ra đời nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ đã biết săn bắt trâu, thần hóa chúng để giúp con người trong việc cày cấy.
Trâu là động vật thuộc lớp thú, màu da thường là màu đen với lớp lông mao bao phủ toàn thân. Da trâu rất dày, có lông tơ như chiếc áo choàng. Thấp thoáng trong bộ áo đẹp đẽ là một làn da căng bóng mỡ. Trâu có một cái đuôi dài, thường xuyên phe phẩy như cái quạt của con người để đuổi ruồi và muỗi. Hai tai dài giúp nó nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Người nông dân có thể nhận biết sự lành, dữ ở loài trâu một phần nhờ đôi sừng trên đầu. Trâu có đôi sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu làm dáng và tự vệ chống lại kẻ thù. Trâu có một đặc điểm rất nổi bật là không có hàm răng trên, có thể vì vậy mà trâu phải nhai lại thức ăn. Không như các động vật khác, nó có một kiểu ngủ rất đặc biệt. Hai chân trước gập vào trong, đầu ghé lên đó để ngủ.
Mỗi năm chúng chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con. Trâu nuôi con bằng sữa tiết ra từ tuyến vũ. Trâu con gọi là nghé, nghé sơ sinh nặng khoảng 22 - 25kg. Khi mới sinh ra khoảng vài giờ đến một ngày, nghé có thể đứng thẳng, vài hôm sau có thể mở mắt, đi lại theo mẹ. Nghé lớn rất nhanh và chưa có sừng, lớn lên sừng mới nhú dần ra nhưng các bộ phận bên ngoài.
Trâu là một động vật rất có ích, là người bạn của nông dân: “Con trâu đi trước, cái cày đi sau”. Ngày xưa không có máy cày, trâu phải làm việc nặng nhọc, Trên con đường làng sáng tinh mơ hay giữa trưa hè nắng lửa, trâu vẫn cần cù nhẫn nại, mải miết làm việc cùng với người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo. Trâu không chỉ kéo cày giúp con người trồng lúa, trồng hoa màu, mà còn là gia sản của người nông dân. Chẳng phải các cụ ta đã nói : “Con trâu là đầu cơ nghiệp” đó sao? Thật vậy, trâu có tầm quan trọng không nhỏ trong đời sống người nông dân. Điều đó cũng đã đi vào văn học dân gian với những câu ca dao quen thuộc:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Trâu cũng có thể cung cấp sữa cho con người. Mỗi con trâu có thể cho 400 – 500 lít sữa trong một chu kỳ vắt. Da trâu tuy không tham gia vào việc làm ra những sản phẩm độc đáo như giày dép, túi xách như một số loại da khác vì đặc điểm da trâu cứng nhưng có thể làm mặt trống. Những chiếc trống gắn bó thân thiết với học sinh, với nhà trường và các lễ hội. Sừng trâu cũng có thể làm tù và, đồ thủ công mỹ nghệ. Phân trâu là phân bón rất tốt.
Không chỉ gắn bó với người nông dân, trâu còn góp phần tạo nên những kỉ niệm đẹp tuổi thơ ở khắp mọi vùng quê đất Việt. Trâu là người bạn thân thiết với trẻ em nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu. Nhà thơ Giang Nam trong bài “Quê hương” đã là người trong cuộc để nói với lũ trẻ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.
Trong lúc các chú trâu thong thả gặm cỏ hay đầm mình trong dòng mương mát rượi, thì lũ trẻ bày trò chơi trận giả. Cũng có lúc ta gặp cảnh thật yên bình, yên ả: các cậu bé, cô bé chăn trâu nằm nghỉ ngơi trên lưng trâu ngắm cảnh diều sáo vi vu trên bầu trời. Hình ảnh tuyệt vời của trẻ thơ chăn trâu được các nghệ nhân đưa vào tranh Đông Hồ. Nhìn tranh, ta lại nhớ câu thơ của nhà vua Trần Nhân Tông trong “Thiên trường vãn vọng”: “Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết”. Và cũng có thể, trên cánh đồng lúa, ta còn bắt gặp những em bé nông thôn vừa chăn trâu, vừa học bài. Thời thơ ấu ở làng quê thật đẹp biết bao!
Ngày nay, khi nông thôn đổi mới, máy móc nhiều cũng là lúc trâu được nghỉ ngơi. Còn nhớ những ngày người nông dân phải kéo cày thay trâu thì mới thấy cái giá trị khi có trâu. Đặc biệt, trâu còn trở thành biểu tượng của SEA Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân lao động.
Biết bao thế kỉ đã trôi qua, có lẽ từ khi nền văn minh lúa nước của người Việt khởi nguồn thì loài trâu cũng đã trở thành báu vật của người nông dân. Trên nền bức tranh thiên nhiên của làng quê Việt, bên những cánh đồng xanh tốt, thẳng cánh cò bay, dưới lũy tre làng luôn có hình ảnh quen thuộc của con trâu hiện diện. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là ta đã giữ gìn một biểu tượng văn hóa truyền thống của người Việt.
Thuyết minh về con trâu ở làng quê Việt Nam– Mẫu 2
Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Con trâu - người bạn thân thiết cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân, cùng người nông dân đi khắp cánh đồng để xới đất đai, cùng chung vui niềm vui ngày được mùa. Con vật này đã trở thành thân thuộc và không thể thiếu ở làng quê Việt Nam.
Không ai biết chính xác nguồn gốc của loài trâu ngày nay. Người ta chỉ biết trâu xuất hiện nhiều ở những nước châu Á như Pa-xki-tan, Băng-la-đét, Nê-pa, Thái Lan… Và đặc biệt ở Việt Nam người ta tìm thấy di tích hóa thạch của trâu cách đây vài chục triệu năm ở các hang động miền Bắc nước ta. Trâu theo khoa học thuộc lớp Mammalia, ngành Chordata, họ bò, bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Đa số trâu Việt Nam hiện nay có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Trâu được phân loại theo giống đực và giống cái. Con đực tầm vóc lớn, dài đòn, trước cao, sau thấp. Con cái tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt. Đặc tính chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên chúng được nuôi phổ biến ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 - 500kg. Cân nặng của trâu tùy thuộc vào giới tính và sức khỏe. Các bộ phận của trâu được chia thành các phần: đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu trâu đực dài, to vừa phải, trâu cái đầu thanh, dài. Trán rộng, phẳng, hơi gồ. Da mặt rất khô, nổi rõ mạch máu. Mắt to tròn, tròng đen láy lanh lẹ, mí mắt mỏng; mũi kín, bóng, ướt. Miệng trâu rộng, răng đều khít, không sứt mẻ. Điểm đặc biệt của trâu là hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng đệm rất dai, dẻo phù hợp với đặc tính nhai lại, ăn thực vật. Hai tai trâu nhỏ vừa có thể cử động, phủ một lớp lông mềm bảo vệ tai khỏi côn trùng chui vào. Sừng trâu thanh, đen, cân đối, ngấn sừng đều, rỗng ruột. Phần cổ và thân trâu có những đặc điểm sau: cổ dài vừa phải; ức rộng, sâu, lưng dài từ 1 - 1,5m hơi cong; xương sườn to, tròn, cong đều; bụng tròn lẳn; mông nở rộng, to. Chân trâu rất khỏe, vững chắc để đỡ cả thân người, bốn chân thẳng to, gân guốc. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân thẳng, ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Đuôi trâu to, dài, phần đuôi có túm lông lúc nào cũng phe phẩy để đuổi ruồi, muỗi. Da trâu hơi mỏng nhưng bóng láng, màu xám đen. Lông đen, cứng, sát vào da giúp điều hòa nhiệt độ trong những trưa hè oi bức ở vùng nhiệt đới. Nhìn chung, trâu có thân hình khỏe khoắn, thích hợp với công việc đồng áng cực nhọc.
Thuyết minh về con trâu ở làng quê Việt Nam– Mẫu 3
Trâu ơi ta bảo trâu này:
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày giữ nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn
Hình ảnh con trâu vốn không còn xa lạ gì nữa với mỗi người dân Việt Nam.
Trâu (miền Trung gọi là tru) là một loài động vật thuộc họ Trâu bò, phân bộ Nhai lại, nhóm Sừng rỗng, bộ Guốc chẵn, lớp thú có vú. Chúng thường sống hoang dã ở Nam Á, Đông Nam Á và miền bắc nước Úc. Còn ở Việt Nam, chúng thường được nuôi với số lượng rất lớn.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Bộ lông của chúng có màu xám hoặc xám đen. Thân hình to khỏe và vạm vỡ. Bụng to, mông dóc, đuôi dài thường xuyên phe phẩy. Bầu vú nhỏ và đặc biệt là đôi sừng hình lưỡi liềm cứng và nhọn có thể trở thành một loại vũ khí tự vệ cho chúng khi gặp phải kẻ thù.
Chúng gồm hai loại phổ biến là trâu trắng và trâu đen. Việc phân loại này được dựa theo màu sắc của lông. Trâu trắng là loại trâu có lông màu trắng ngà. Người ta cho rằng trâu trắng thường mang lại may mắn. Nhưng loài trâu này rất hiếm gặp. Còn trâu đen thì có bộ lông màu đen xám, chiếm số lượng áp đảo hơn cả.
Về tập tính của loài trâu, có một điểm vô cùng nổi bật như: Trâu có tập tính nhai lại khi ăn, thức ăn được đưa vào dạ cỏ và dạ tổ ong, phần thức ăn không tan được đưa lại khoang miệng để trâu nhai lại, phần tan vào các dạ lá sách, dạ túi khế để tiêu hóa. Điều này thật thú vị! Chúng sẽ phải mất rất nhiều thời gian để tiêu hóa thức ăn nhưng lại không bao giờ cảm thấy đói. Ngoài ra, trâu là loài sống theo bầy đàn. Chúng thường sống thành một gia đình lớn tại các vùng đầm lầy, thung lũng.
Về sinh sản, hằng năm trâu đẻ hai lứa. Mỗi lứa chỉ cho ra đời một con con. Trâu con mới chào đời được gọi là nghé. Chúng chưa có sừng và thường nặng từ 22 - 25 kg. Một con nghé trưởng thành khá nhanh. Khoảng hai tuần thì biết đi và từ hai đến ba tháng thì có thể phát triển thành một con trâu trưởng thành. Các bộ phận khác cũng dần hoàn thiện trong quá trình phát triển.
Về đặc điểm, trâu có thân hình chắc nịch, khỏe khoắn, bộ lông có hai loại màu trắng ngà hoặc xám đen với các sợi lông ngắn tũn. Da của chúng rất dày và cứng cáp. Có lẽ, khi mùa đông đến, loài trâu không sợ lạnh cũng chính vì bộ da của chúng. Trâu có bốn chân ngắn với bộ guốc chẵn. Đuôi dài, linh hoạt và thường ve vẩy để đuổi ruồi, muỗi chứ không chịu nằm yên một chỗ. Phần đầu trâu có hai cặp sừng dài. Ở một con trâu trưởng thành, cặp sừng này có thể rất dài. Đôi mắt của chúng to và trông lúc nào cũng lờ đờ như thiếu ngủ. Trong khoang miệng không có hàm trên. Hầu hết trâu đực có phần minh to hơn trâu cái, sức kéo cùng thịt trâu dai và chắc hơn trâu cái. Trâu cái có thể tiết sữa nhưng sữa trâu không có nhiều dinh dưỡng như sữa bò.
Về giá trị vật chất, loài trâu gắn với người nông dân từ bao đời nay. Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Chúng chủ yếu cung cấp sức kéo cho con người: giúp kéo xe, kéo cày cho người nông dân khi ngoài đồng. Ngoài ra, ngày nay, thịt trâu cũng trở thành một món đặc sản khá nổi tiếng. Da trâu cũng có thể được dùng làm da các loại túi, ví, thời trang. Về giá trị tinh thần, con trâu chính là người bạn đồng hành với người nông dân trong công việc lao động vất vả. Một số nơi, còn tổ chức lễ hội mà con trâu chính là nhân vật chính như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Con trâu cũng chính là một biểu tượng văn hóa của người nông dân Việt Nam.
Cho dù xã hội ngày càng hiện đại nhưng đối với những người nông dân Việt Nam, con trâu mãi là một người bạn gắn bó trong công việc lao động của họ.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 8
- Giải sbt Hóa học 8
- Giải vở bài tập Hóa học 8
- Lý thuyết Hóa học 8
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 8
- Giải sgk Vật Lí 8
- Giải sbt Vật Lí 8
- Lý thuyết Vật Lí 8
- Giải vở bài tập Vật lí 8
- Giải SGK Toán 8 | Giải bài tập Toán 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Toán 8 (sách mới) | Sách bài tập Toán 8
- Bài tập Ôn luyện Toán lớp 8
- Các dạng bài tập Toán lớp 8
- Lý thuyết Toán lớp 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 8
- Giáo án Toán lớp 8 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 8 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 8 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 8 (sách mới) | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2
- Giải sgk Tiếng Anh 8 | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 8
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (thí điểm)
- Giải sgk Tin học 8 | Giải bài tập Tin học 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sgk Lịch Sử 8 | Giải bài tập Lịch sử 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch sử 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch sử 8
- Giải vở bài tập Lịch sử 8
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 8
- Đề thi Lịch Sử 8
- Giải vở bài tập Sinh học 8
- Giải sgk Sinh học 8
- Lý thuyết Sinh học 8
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 | Giải bài tập Giáo dục công dân 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Giáo dục công dân 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm GDCD 8
- Lý thuyết Địa Lí 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa Lí 8
- Giải sgk Địa Lí 8 | Giải bài tập Địa Lí 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 8
- Đề thi Địa lí 8