Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập (30 mẫu) SIÊU HAY
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập lớp 8 gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc - Ngữ văn 8
Bài giảng Ngữ Văn 8 Nước Đại Việt ta
Dàn ý Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và phong cách thơ của tác giả.
- Giới thiệu sơ qua tác phẩm về nội dung là một bản tuyên ngôn bất hủ thông qua những hình thức nghệ thuật đặc sắc.
2. Thân bài
- Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với yêu nước.
- Tư tưởng nhân nghĩa “yên dân”, “trừ bạo”.
- Tư tưởng của Nguyễn Trãi rất tiến bộ ông lấy dân làm gốc phù hợp với hoàn cảnh.
+ Quan niệm quốc gia dân tộc.
+ Ông lấy dẫn chứng về văn hiến.
+ Phong tục.
+ Địa lý.
+ Lịch sử.
→ Đây là những dẫn chứng không thể chối cãi được.
- Lịch sử kháng chiến của dân tộc.
- Ông liệt kê các cuộc chiến lớn và cũng là thất bại lớn của quân phương Bắc.
- Đánh giá nghệ thuật.
+ Thể cáo trang trọng có tính truyền đạt và tuyên bố cao.
+ Giọng điệu linh hoạt hào hùng có sức truyền đạt cao.
+ Sử dụng câu văn biền ngẫu, sử dụng biện pháp so sánh nhịp điệu và thuyết phục.
3. Kết bài: Khẳng định giá trị nội dung cũng như nghệ thuật. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập dân tộc vững chắc của Việt Nam.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 1)
Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi.
Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền vãn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bèn xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc. Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.
Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chi là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.
Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc dược ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bát sống Toa Đồ
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên.
Nếu như toàn bộ bài cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 2)
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, ông là người anh hùng dân tộc Việt Nam ta, đóng góp công lao to lớn trong việc phò tá, trợ giúp vua Lê Lợi đánh bại quân Minh, giúp dân chúng được sống cảnh hòa bình không phải chịu áp bức bóc lột. Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một danh nhân văn hóa của thế giới. Bình Ngô đại cáo là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi, được coi như là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam khi đã đề cao ý chí hào hùng của dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta là phần đầu của tác phẩm Bình Ngô đại cáo, đoạn trích đã thể hiện rõ được ý chí quyết tâm không khí chiến thắng của nhân dân ta.
Bình Ngô đại cáo được viết vào năm 1427 khi vua Lê Lợi đã đánh bại quân Minh, chấm dứt ách đô hộ của phương Bắc. Vua Lê Lợi đã hạ chiếu để Nguyễn Trãi viết bài cáo này để công bố với thiên hạ, chấm dứt 15 năm đô hộ của nhà Minh khẳng định được chủ quyền đất nước và quan trọng là sự tự do của đồng bào ta.
Hai câu mở đầu tác giả đã nêu rõ được tư tưởng chính nghĩa sức mạnh của toàn thể nhân dân Đại Việt.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tiếp thu tư tưởng của các tiền nhân ,muốn làm việc lớn trước hết phải có được lòng dân vì sức mạnh của dân vô cùng to lớn. Nhưng muốn có được lòng dân thì phải cho nhân dân một cuộc sống ấm no. Mà trong hoàn cảnh lúc đó việc cấp thiết nhất đó là đập tan ách thống trị của nhà Minh: "Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
Tiếp theo Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ của đất nước ta trên các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây dựng độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Tám câu thơ ngắn ngủi đã nêu rõ được chủ quyền của đất nước ta, ta và phương Bắc không cùng địa lý, văn hóa, lịch sử nên việc xâm chiếm Đại Việt của các thế lực ngoại xâm đều là bạo tàn, trái với chính nghĩa. Nguyễn Trãi đã nêu đầy đủ dẫn chứng chứng minh đất nước Đại Việt là của người Việt. Từ “văn hiến” đã nói rõ văn hóa của nước ta khác với phương Bắc, đó phong tục tập quán của bao nhiêu thế hệ người dân Việt ta bồi đắp lên từ những thói quen hằng ngày của người dân. Phong tục Việt Nam có những đặc trưng riêng mà không một ai có “phong tục bắc nam cũng khác” điều này đã thêm một yếu không thể chối cãi được. Tác giả còn khẳng định chủ quyền lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia” khẳng định chắc chắn về ranh giới địa lý nó đã được vạch sẵn từ trước. Nếu trong bài Nam quốc sơn hà Lý Thường Kiệt chỉ ra ranh giới cương vực, chủ quyền lãnh thổ dựa vào sách trời mới rõ được thì Nguyễn Trãi thì khác lại khẳng định rõ ràng trên nhiều cơ sở thực tiễn, đó là văn hoá, địa lí và cả lịch sử lâu đời. Nguyễn Trãi còn lấy dẫn chứng lịch sử qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của các triều đại hai nước Triệu, Đinh, Lý, Trần cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, tác giả đặt các triều đại của ta song song với các triều đại của Trung Quốc nhằm khẳng định sự độc lập, bình đẳng giữa các triều đại của nước Nam với các triều đại phương Bắc. Đây là chân lý bất hủ của thời đại một đất nước có tất cả các yếu tố từ phong tục, văn hiến, địa lý, lịch sử, truyền thống riêng từ đó đã làm lên những chiến công oanh liệt của các anh hùng qua các triều đại của dân tộc.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Ô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Trong lịch sử, quân đội của triều đình phương Bắc nhiều lần sang xâm lược nước ta nhưng họ đều có chung một kết cục thất bại và phải dẫn quân về nước. Quân Minh sang xâm lược ta thì chúng cũng phải chịu chung một kết cục như những bài tướng thời trước, điều đó cũng khẳng định sức mạnh của chính nghĩa mà còn thể hiện tinh thần và sức mạnh đoàn kết của quân và dân ta; khẳng định nước ta có rất nhiều nhân tài giữ nước và dựng nước.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta đã khẳng định được tinh thần dân tộc ta đoàn kết cùng đánh giặc bảo vệ non sông bờ cõi, nó cũng là chứng cứ thuyết phục nhất khẳng định đất nước ta là một đất nước có chủ quyền riêng, phong tục riêng, có địa lý, văn hóa, lịch sử riêng. Câu thơ đối xứng nhau liên kết song song càng thể hiện chắc chắn hơn.
Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc ta, bài cáo với tâm thế hào hùng khí thế ngút trời có sự uy nghiêm của dân tộc mạnh mẽ của nhân dân quyết tâm bảo vệ đất nước. Bài cáo nó vẫn còn giá trị đến hiện tại cũng như sau này nó nhắc cho ta thấy khí thế anh dũng bất phục với các thế lực thù địch không sợ hãi anh dũng.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 3)
Bình Ngô đại cáo ta áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc. Ra đời cách đây đã hàng trăm năm nhưng mỗi khi đọc lên ta vẫn thấy rõ khí thế anh dũng, hào hùng của nó. Đoạn trích Nước Đại Việt ta là phần thể hiện rõ nhất tính chất tuyên ngôn của một bản tuyên ngôn độc lập. Nó vừa cho thấy vị thế của dân tộc, vừa cho thấy không khí chiến thắng của toàn dân Việt Nam.
Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta. Nó ra đời vào cuối năm 1427 sau khi ta đã dẹp xong quân Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết nên bài cáo này. Bình Ngô đại cáo không đơn thuần chỉ là bản tổng kết lịch sử 15 năm kháng chiến chống quân Minh xâm lược, hơn hết nó còn là bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền, sự tự do của dân tộc ta.
Mở đầu bài đại cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chỉ đạo toàn bộ bài đại cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tiếp thu tư tưởng Nho gia, đối với Nguyễn Trãi nhân nghĩa chính là yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, ấm no hạnh phúc. Và để làm được điều đó, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ có giặc xâm lược thì phải trừ bạo ngược – giặc Minh. Chỉ khi làm được cả hai điều đó thì mới thực là nhân nghĩa. Đây là tư tưởng hết sức nhân văn và cao đẹp. Để rồi sau đó Nguyễn Trãi đã khẳng định sự tồn tại, độc lập của dân tộc ta là một chân lí không thể thay đổi:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng đã thâu tóm toàn bộ ý nghĩa của một bản tuyên ngôn độc lập. Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền trên phương diện địa lý như Nam quốc sơn hà:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Mà ông còn tiến một bước xa hơn, sâu sắc hơn khi khẳng định chủ quyền đất nước trên phương diện lịch sử, phong tục tập quán. Văn hiến, phong tục tập quán là những nét đẹp truyền thống lâu đời, không phải ngày một ngày hai là có thể tạo nên, mà nó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Nguyễn Trãi đã tiến thêm một bước, ý thức sâu sắc và bền vững hơn về chủ quyền của dâ tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ có lãnh thổ riêng mà còn phải có cả văn hóa, văn hiến – cái hồn cốt của một dân tộc. Nhớ lại dân tộc ta một nghìn năm Bắc thuộc, dù mất đi lãnh thổ nhưng tiếng nói, văn hóa còn bởi vậy mà đất nước không hề mất, bởi vậy mà vẫn khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc. Như vậy, ta có thể thấy được ý nghĩa to lớn trong bản tuyên ngôn của Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại song song tồn tại cùng nhau suốt bao thế kỉ. Cùng với việc khẳng định anh hùng hào kiệt trong mỗi thời để làm nổi bật, khẳng định hơn nữa chủ quyền của dân tộc ta. Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành chân lí bất hủ muôn đời, khẳng định chân lí thời đại: một đất nước chỉ thực sự tự do, độc lập khi có một lãnh thổ, văn hiến, phong tục tập quán và truyền thống riêng. Tính chất chính nghĩa đó đã tạo nên sức mạnh diệu kì, làm nên những chiến công oanh liệt cho dân tộc:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Lịch sử vẫn còn ghi dấu, những dẫn chứng hùng hồn, xác thực đã một lần nữa khẳng định, thành quả của ngày hôm nay là xương máy của biết bao thế hệ đi trước. Đây là hành trình đấu tranh đầy gian khổ và thấm đẫm xương máu.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng nhất của cha ông ta. Bài cáo với khí thế bừng bưng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, vững bền của dân tộc ta trong lịch sự xây dựng và bảo vệ đất nước. Trải qua nhiều thế kỉ nhưng Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên giá trị – bản đại cáo tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 4)
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích Nước Đại Việt ta (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.
Bình Ngô đại cáo ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của dân tộc, khẳng định nền độc lâp tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là yên dân, trừ bạo. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung.
Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chạt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc – Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ Sông núi nước Nam – thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản Nước Đại Việt ta, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, văn bản Nước Đại Việt ta đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 5)
Trong kho tàng văn học dân tộc, có những áng văn bất hủ là tài sản vô giá để lại cho hậu thế. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bản hùng ca của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Đó không chỉ kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được viết trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã viện binh của giặc, buộc quân giặc phải giảng hòa và rút về nước. Bài cáo được viết trong không khí hân hoan chiến thắng của toàn dân tộc. Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng xuất chúng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí luận sắc bén và kết cấu chặt chẽ, mạch lạc được thể hiện trong văn bản.
Nước Đại Việt ta thể hiện tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi. Trong tư tưởng Nho giáo xưa, nhân nghĩa vốn là khái niệm để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã khái quát thành một tư tưởng lớn, thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Việc nhân nghĩa trước ở yên dân. Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc làm đầu và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Dân có yên ổn thì đất nước mới thái bình, thịnh trị. Và muốn yên dân thì phải lo “trừ bạo”, đánh tan giặc xâm lược. Điều này cho thấy tư tướng của một nhà Nho yêu nước, thương dân.
Ở luận điểm thứ hai, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm về quốc gia, chủ quyền lãnh thổ hết sức sâu sắc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Chỉ với những câu văn ngắn gọn, súc tích nhưng ý bài đã thâu tóm được những tư tưởng lớn lao về việc khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta từng biết đến bản tuyên ngôn độc lập với những lí lẽ đanh thép trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ông qua niệm về quốc gia, dân tộc với hai quyền cơ bản là chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Đất nước ta do vua trị vì và ranh giới phân chia đã rõ ràng, hợp với ý trời đã định:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhưng với Nguyễn Trãi, quan niệm về chủ quyền được mở rộng trên cả phương diện lịch sử văn hiến, phạm vi lãnh thổ và phong tục tập quán. Để xây dựng nền văn hiến và hình thành các phong tục tập quán lâu đời, dẫn tộc ta đã trải qua hàng năm dựng xây và văn đắp với những trang sử hào hùng về truyền thống đấu tranh và tinh thần cần cù trong lao động. Đó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Dân tộc ấy được hình thành không chỉ có bờ cõi, non sông được bảo vệ mà tâm hồn và bản sắc dân tộc ấy cũng cần được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn lại cả nghìn năm Bắc thuộc, dân ta phải sống trong cảnh lầm than nô lệ nhưng điều khiến chúng ta tự hào đó là bản sắc dân tộc không hề bị phai nhạt, đồng hóa mà vẫn như ngọn đèn soi sáng cả dân tộc đi qua đêm tối, khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại phong kiến hai nước cùng song song tồn tại qua bao thế kỉ.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Việc liệt kê các triều đại của nước ta ngang hàng cùng quân giặc, tác giả nhằm khẳng định vị thế của dân tộc ta là một dân tộc có chủ quyền. Dù dân tộc ấy có những giai đoạn thăng trầm nhưng hào kiệt, anh hùng thời nào cũng có, cũng viết nên những trang sử vẻ vang. Như vậy, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc về ý thức chủ quyền dân tộc, đó không chỉ làm phạm vi lãnh thổ được bảo toàn mà truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, phong tục tập quán cũng cần được giữ gìn trọn vẹn. Đó chính là sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên động lực giúp cả dân tộc chiến đấu kiên cường với bao kẻ thù, làm nên những chiế công vang dội non sông:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Với các sự kiện và chiến công tiêu biểu, Nguyễn Trãi đã cho thấy sức mạnh của dân tộc Đại Việt trước bao kẻ thù lớn. Để làm nên những chiến công lừng lẫy đó, bao máu xương của cha anh đã rơi xuống vì nền độc lập dân tộc. Đó là niềm tự hào nhưng cũng là lời nhắc nhở với hậu thế.
Với những lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục cùng những tư tưởng nhân văn sâu sắc, tiến bộ, đoạn trích Nước Đại Việt ta đã thể hiện được lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài cáo xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của muôn đời.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 6)
Trong kho tàng văn học dân tộc, có những áng văn bất hủ là tài sản vô giá để lại cho hậu thế. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bản hùng ca của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Đó không chỉ kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được viết trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã viện binh của giặc, buộc quân giặc phải giảng hòa và rút về nước. Bài cáo được viết trong không khí hân hoan chiến thắng của toàn dân tộc. Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng xuất chúng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí luận sắc bén và kết cấu chặt chẽ, mạch lạc được thể hiện trong văn bản.
Nước Đại Việt ta thể hiện tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi. Trong tư tưởng Nho giáo xưa, nhân nghĩa vốn là khái niệm để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã khái quát thành một tư tưởng lớn, thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Việc nhân nghĩa trước ở yên dân
Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc làm đầu và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Dân có yên ổn thì đất nước mới thái bình, thịnh trị. Và muốn yên dân thì phải lo “trừ bạo”, đánh tan giặc xâm lược. Điều này cho thấy tư tướng của một nhà Nho yêu nước, thương dân.
Ở luận điểm thứ hai, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm về quốc gia, chủ quyền lãnh thổ hết sức sâu sắc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng ý thơ đã thâu tóm được những tư tưởng lớn lao về việc khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta từng biết đến bản tuyên ngôn độc lập với những lí lẽ đanh thép trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ông qua niệm về quốc gia, dân tộc với hai quyền cơ bản là chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Đất nước ta do vua trị vì và ranh giới phân chia đã rõ ràng, hợp với ý trời đã định:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhưng với Nguyễn Trãi, quan niệm về chủ quyền được mở rộng trên cả phương diện lịch sử văn hiến, phạm vi lãnh thổ và phong tục tập quán. Để xây dựng nền văn hiến và hình thành các phong tục tập quán lâu đời, dẫn tộc ta đã trải qua hàng năm dựng xây và văn đắp với những trang sử hào hùng về truyền thống đấu tranh và tinh thần cần cù trong lao động. Đó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Dân tộc ấy được hình thành không chỉ có bờ cõi, non sông được bảo vệ mà tâm hồn và bản sắc dân tộc ấy cũng cần được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn lại cả nghìn năm Bắc thuộc, dân ta phải sống trong cảnh lầm than nô lệ nhưng điều khiến chúng ta tự hào đó là bản sắc dân tộc không hề bị phai nhạt, đồng hóa mà vẫn như ngọn đèn soi sáng cả dân tộc đi qua đêm tối, khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại phong kiến hai nước cùng song song tồn tại qua bao thế kỉ.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Việc liệt kê các triều đại của nước ta ngang hàng cùng quân giặc, tác giả nhằm khẳng định vị thế của dân tộc ta là một dân tộc có chủ quyền. Dù dân tộc ấy có những giai đoạn thăng trầm nhưng hào kiệt, anh hùng thời nào cũng có, cũng viết nên những trang sử vẻ vang. Như vậy, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc về ý thức chủ quyền dân tộc, đó không chỉ làm phạm vi lãnh thổ được bảo toàn mà truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, phong tục tập quán cũng cần được giữ gìn trọn vẹn. Đó chính là sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên động lực giúp cả dân tộc chiến đấu kiên cường với bao kẻ thù, làm nên những chiế công vang dội non sông:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Với các sự kiện và chiến công tiêu biểu, Nguyễn Trãi đã cho thấy sức mạnh của dân tộc Đại Việt trước bao kẻ thù lớn. Để làm nên những chiến công lừng lẫy đó, bao máu xương của cha anh đã rơi xuống vì nền độc lập dân tộc. Đó là niềm tự hào nhưng cũng là lời nhắc nhở với hậu thế.
Với những lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục cùng những tư tưởng nhân văn sâu sắc, tiến bộ, đoạn trích Nước Đại Việt ta đã thể hiện được lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài cáo xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của muôn đời.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 7)
Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi.
Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền vãn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bèn xưng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có
Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc. Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.
Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chi là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.
Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc dược ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:
Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bát sống Toa Đồ Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên.
Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 8)
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của dân tộc, khẳng định nền độc lâp tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung.
Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chạt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc – Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Sông núi nước Nam” – thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,…). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.
Trong kho tàng văn học dân tộc, có những áng văn bất hủ là tài sản vô giá để lại cho hậu thế. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bản hùng ca của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Đó không chỉ kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được viết trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã viện binh của giặc, buộc quân giặc phải giảng hòa và rút về nước. Bài cáo được viết trong không khí hân hoan chiến thắng của toàn dân tộc. Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng xuất chúng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí luận sắc bén và kết cấu chặt chẽ, mạch lạc được thể hiện trong văn bản.
Nước Đại Việt ta thể hiện tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi. Trong tư tưởng Nho giáo xưa, nhân nghĩa vốn là khái niệm để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã khái quát thành một tư tưởng lớn, thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Việc nhân nghĩa trước ở yên dân
Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc làm đầu và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Dân có yên ổn thì đất nước mới thái bình, thịnh trị. Và muốn yên dân thì phải lo “trừ bạo”, đánh tan giặc xâm lược. Điều này cho thấy tư tướng của một nhà Nho yêu nước, thương dân.
Ở luận điểm thứ hai, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm về quốc gia, chủ quyền lãnh thổ hết sức sâu sắc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng ý thơ đã thâu tóm được những tư tưởng lớn lao về việc khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta từng biết đến bản tuyên ngôn độc lập với những lí lẽ đanh thép trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ông qua niệm về quốc gia, dân tộc với hai quyền cơ bản là chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Đất nước ta do vua trị vì và ranh giới phân chia đã rõ ràng, hợp với ý trời đã định:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhưng với Nguyễn Trãi, quan niệm về chủ quyền được mở rộng trên cả phương diện lịch sử văn hiến, phạm vi lãnh thổ và phong tục tập quán. Để xây dựng nền văn hiến và hình thành các phong tục tập quán lâu đời, dẫn tộc ta đã trải qua hàng năm dựng xây và văn đắp với những trang sử hào hùng về truyền thống đấu tranh và tinh thần cần cù trong lao động. Đó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Dân tộc ấy được hình thành không chỉ có bờ cõi, non sông được bảo vệ mà tâm hồn và bản sắc dân tộc ấy cũng cần được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn lại cả nghìn năm Bắc thuộc, dân ta phải sống trong cảnh lầm than nô lệ nhưng điều khiến chúng ta tự hào đó là bản sắc dân tộc không hề bị phai nhạt, đồng hóa mà vẫn như ngọn đèn soi sáng cả dân tộc đi qua đêm tối, khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại phong kiến hai nước cùng song song tồn tại qua bao thế kỉ.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Việc liệt kê các triều đại của nước ta ngang hàng cùng quân giặc, tác giả nhằm khẳng định vị thế của dân tộc ta là một dân tộc có chủ quyền. Dù dân tộc ấy có những giai đoạn thăng trầm nhưng hào kiệt, anh hùng thời nào cũng có, cũng viết nên những trang sử vẻ vang. Như vậy, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc về ý thức chủ quyền dân tộc, đó không chỉ làm phạm vi lãnh thổ được bảo toàn mà truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, phong tục tập quán cũng cần được giữ gìn trọn vẹn. Đó chính là sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên động lực giúp cả dân tộc chiến đấu kiên cường với bao kẻ thù, làm nên những chiế công vang dội non sông:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Với các sự kiện và chiến công tiêu biểu, Nguyễn Trãi đã cho thấy sức mạnh của dân tộc Đại Việt trước bao kẻ thù lớn. Để làm nên những chiến công lừng lẫy đó, bao máu xương của cha anh đã rơi xuống vì nền độc lập.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 10)
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, ông là người anh hùng dân tộc Việt Nam ta, đóng góp công lao to lớn trong việc phò tá, trợ giúp vua Lê Lợi đánh bại quân Minh, giúp dân chúng được sống cảnh hòa bình không phải chịu áp bức bóc lột. Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một danh nhân văn hóa của thế giới. "Bình Ngô đại cáo" là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi, được coi như là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam khi đã đề cao ý chí hào hùng của dân tộc. Đoạn trích Nước Đại Việt ta là phần đầu của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo", đoạn trích đã thể hiện rõ được ý chí quyết tâm không khí chiến thắng của nhân dân ta.
Bình Ngô đại cáo được viết vào năm 1427 khi vua Lê Lợi đã đánh bại quân Minh, chấm dứt ách đô hộ của phương Bắc. Vua Lê Lợi đã hạ chiếu để Nguyễn Trãi viết bài cáo này để công bố với thiên hạ, chấm dứt 15 năm đô hộ của nhà Minh khẳng định được chủ quyền đất nước và quan trọng là sự tự do của đồng bào ta.
Hai câu mở đầu tác giả đã nêu rõ được tư tưởng chính nghĩa sức mạnh của toàn thể nhân dân Đại Việt.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Tiếp thu tư tưởng của các tiền nhân ,muốn làm việc lớn trước hết phải có được lòng dân vì sức mạnh của dân vô cùng to lớn. Nhưng muốn có được lòng dân thì phải cho nhân dân một cuộc sống ấm no. Mà trong hoàn cảnh lúc đó việc cấp thiết nhất đó là đập tan ách thống trị của nhà Minh "Quân điếu phạt trước lo trừ bạo". Câu tiếp theo Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ của đất nước ta trên các phương diện địa lý , lịch sử, văn hóa.
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây dựng độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Tám câu thơ ngắn ngủi đã nêu rõ được chủ quyền của đất nước ta, ta và phương Bắc không cùng địa lý, văn hóa , lịch sử nên việc xâm chiếm Đại Việt của các thế lực ngoại xâm đều là bạo tàn, trái với chính nghĩa. Nguyễn Trãi đã nêu đầy đủ dẫn chứng chứng minh đất nước Đại Việt là của người Việt. Từ " văn hiến" đã nói rõ văn hóa của nước ta khác với phương Bắc, đó phong tục tập quán của bao nhiêu thế hệ người dân Việt ta bồi đắp lên từ những thói quen hằng ngày của người dân. Phong tục Việt Nam có những đặc trưng riêng mà không một ai có "phong tục bắc nam cũng khác" điều này đã thêm một yếu không thể chối cãi được. Tác giả còn khẳng định chủ quyền lãnh thổ " Núi sông bờ cõi đã chia" khẳng định chắc chắn về ranh giới địa lý nó đã được vạch sẵn từ trước. Nếu trong bài "Nam quốc sơn hà" Lý Thường Kiệt chỉ ra ranh giới cương vực, chủ quyền lãnh thổ dựa vào sách trời mới rõ được thì Nguyễn Trãi thì khác lại khẳng định rõ ràng trên nhiều cơ sở thực tiễn, đó là văn hoá, địa lí và cả lịch sử lâu đời. Nguyễn Trãi còn lấy dẫn chứng lịch sử qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của các triều đại hai nước Triệu, Đinh, Lý, Trần cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, tác giả đặt các triều đại của ta song song với các triều đại của Trung Quốc nhằm khẳng định sự độc lập, bình đẳng giữa các triều đại của nước Nam với các triều đại phương Bắc . Đây là chân lý bất hủ của thời đại một đất nước có tất cả các yếu tố từ phong tục, văn hiến, địa lý, lịch sử, truyền thống riêng từ đó đã làm lên những chiến công oanh liệt của các anh hùng qua các triều đại của dân tộc.
"Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Ô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã"
Trong lịch sử, quân đội của triều đình phương Bắc nhiều lần sang xâm lược nước ta nhưng họ đều có chung một kết cục thất bại và phải dẫn quân về nước. Quân Minh sang xâm lược ta thì chúng cũng phải chịu chung một kết cục như những bài tướng thời trước, điều đó cũng khẳng định sức mạnh của chính nghĩa mà còn thể hiện tinh thần và sức mạnh đoàn kết của quân và dân ta; khẳng định nước ta có rất nhiều nhân tài giữ nước và dựng nước.
Đoạn trích "Nước Đại Việt ta" đã khẳng định được tinh thần dân tộc ta đoàn kết cùng đánh giặc bảo vệ non sông bờ cõi, nó cũng là chứng cứ thuyết phục nhất khẳng định đất nước ta là một đất nước có chủ quyền riêng ,phong tục riêng , có địa lý, văn hóa , lịch sử riêng. Câu thơ đối xứng nhau liên kết song song càng thể hiện chắc chắn hơn.
Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc ta, bài cáo với tâm thế hào hùng khí thế ngút trời có sự uy nghiêm của dân tộc mạnh mẽ của nhân dân quyết tâm bảo vệ đất nước. Bài cáo nó vẫn còn giá trị đến hiện tại cũng như sau này nó nhắc cho ta thấy khí thế anh dũng bất phục với các thế lực thù địch không sợ hãi anh dũng .
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 11)
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời". Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. "Đại cáo Bình Ngô" chính là một kiệt tác như thế. Không những là áng "thiên cổ hùng văn" của Nguyễn Trãi, "Đại cáo Bình Ngô" còn có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.
Tuyên ngôn độc lập được hiểu là văn bản dùng để tuyên bố, khẳng định nền độc lập, chủ quyền của một quốc gia, đặc biệt là sau khi quốc gia ấy vừa giành chiến thắng trong cuộc chống sự xâm lược của ngoại bang. Tại sao có thể khẳng định Đại cáo Bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập? Điều kiện đầu tiên để một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập là hoàn cảnh ra đời phải là trong hoặc sau một cuộc chiến. Đồng thời đảm bảo yếu tố khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc, tuyên bố thắng lợi và tuyên bố hòa bình. Dẫn chứng và lý lẽ phải sắc bén, hùng hồn và hoàn toàn xác thực.
Đại cáo Bình Ngô đáp ứng đủ được những yêu cầu trên. Trước hết, về hoàn cảnh ra đời. Tác phẩm ra đời gắn với mốc lịch sử vô cùng trọng đại của dân tộc. Mùa xuân năm 1428, sau chiến thắng giặc Minh, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo tới toàn thể nhân dân về chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ròng rã hai mươi năm chiến tranh thảm khốc và ách đô hộ của quân giặc, chúng ta đã chiến thắng và giành lại nền độc lập dân tộc, lập lại nền hòa bình. Đại cáo Bình Ngô khi ấy chính là khúc khải hoàn ca, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do, trở thành khúc tráng ca của lịch sử.
Về nội dung, bài cáo là lời khẳng định đanh thép về độc lập chủ quyền, về chiến thắng Lam Sơn hào hùng và nền hòa bình dân tộc. Ngay từ những câu thơ mở đầu, Nguyễn Trãi đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài cáo, cũng là sự khẳng định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Theo tư tưởng Nho gia, Nguyễn Trãi cho rằng nhân nghĩa là yên dân, là làm sao cho nhân dân có được ấm no, yên ổn và hạnh phúc. Để làm được việc này, trong hoàn cảnh giặc ngoại xâm đô hộ thì phải trừ bạo. Cụ thể trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ là loại trừ giặc Minh xâm lược. Làm được cả hai việc ấy mới là nhân nghĩa chân chính. Độc lập dân tộc có được phụ thuộc rất lớn vào nhân dân. Nhân dân là người bao đời cố gắng gây dựng và bảo vệ nền độc lập. Hàng nghìn năm mồ hôi rơi, xương máu đổ, đồng cam cộng khổ mới tạo nên độc lập dân tộc.
Nguyễn Trãi nêu lên một tư tưởng đầy nhân văn để từ đó, đi đến khẳng định chân lý độc lập của dân tộc:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Bằng giọng điệu hào hùng, khí thế, Nguyễn Trãi liên tiếp liệt kê hàng loạt yếu tố để xác lập trọn vẹn nền độc lập dân tộc. Đó là "nền văn hiến", "núi sông bờ cõi", "phong tục", "lịch sử" và "hào kiệt". Nếu như trong "Nam Quốc Sơn Hà", Lý Thường Kiệt đưa ra phương diện lãnh thổ ở sách trời. Thì ở Đại cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi lại lựa chọn những phương diện cụ thể và có bằng chứng lịch sử không thể chối cãi. Các cụm từ "từ trước", "vốn ", "đã lâu", "đã chia", "bao đời", "cũng khác" liên tiếp dồn dập nhấn mạnh tầm vóc lịch sử lâu đời của dân tộc Đại Việt. Nền độc lập và chủ quyền của dân tộc đã tồn tại từ rất lâu, hoàn toàn rạch ròi và khác biệt, không thể nhầm lẫn với bất kỳ quốc gia nào khác.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng điểm danh một loạt các triều đại của nước ta "Triệu, Đinh, Lý, Trần" song song với các triều đại phương bắc như "Hán, Đường, Tống, Nguyên". Lịch sử ghi lại, khi Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước xung quanh chỉ có thể xưng vương. Thế nhưng, từ đời nhà Ngô nước ta, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế. "Mỗi bên xưng đế một phương", dân tộc ta đứng ngang hàng, không hề thua kém.
Với những yếu tố đó, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập và khẳng định vị thế dân tộc. Đại cáo Bình Ngô vì lẽ đó mở màn đầy đanh thép.
Nền độc lập dân tộc với lý lẽ và dẫn chứng xác thực, trở nên vô cùng thiêng liêng và "bất khả xâm phạm". Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế và tự hào. Đồng thời cũng trở thành cơ sở pháp lý để Nguyễn Trãi lên án những kẻ bạo ngược đã cả gan xâm phạm chủ quyền nước ta:
"Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bản thần nhân chịu được."
"Đại cáo Bình Ngô" đã phơi bày toàn bộ tội ác của giặc Minh xâm lược. Suốt hai mươi năm trời, nhân dân ta sống trong lầm than, đau khổ bởi những âm mưu tàn độc, những hành động man rợ, trắng trợn vô nhân tính. Kể bao nhiêu cũng không hết tội ác tày trời.
Nguyễn Trãi hùng hồn tố cáo tội ác của giặc Minh tạo nên một bản án đanh thép với kẻ thù. Bài cáo khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, cuộc chiến của ta là chính nghĩa, gây ra sự đồng cảm và tăng tính thuyết phục cho bản tuyên ngôn. Vị tướng sĩ tài ba của dân tộc viết lên những điều đó trong căm hờn, uất nghẹn trào dâng, khiến lòng người sục sôi phẫn nộ.
Thế nhưng, đau thương vẫn không cản bước được dân tộc anh hùng. Cả dân tộc đồng lòng, chung tay cùng đứng dậy, làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào."
Dù giai đoạn đầu có nhiều khó khăn song cuối cùng thắng lợi vẫn thuộc về dân tộc ta. Tuyên bố về thắng lợi, bài cáo đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc vô cùng sâu sắc. Đồng thời cũng nêu cao tính chính nghĩa của cuộc chiến này. Chiến thắng giặc Minh năm ấy chính là sự trừng phạt thấu tình đạt lý những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền dân tộc ta.
Khép lại bản "tuyên ngôn", Đại cáo Bình Ngô đi đến sự tuyên bố về nền hòa bình dân tộc:
"Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu"
Đó là "trái ngọt hoa thơm" của cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ. Từng câu từng chữ vút cao, vang dội, tuyên bố nền hòa bình "vững bền, đổi mới, vững chắc". Hình ảnh "xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt" giống như tái hiện khung cảnh thái bình tuyệt đẹp. Đặc biệt trong đó còn chứa đựng sự biết ơn "trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm giúp" và đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Bên cạnh yếu tố về nội dung, Đại cáo Bình Ngô còn được coi là bản tuyên ngôn độc lập về khía cạnh nghệ thuật. Bài cáo được viết theo thể văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục. Đi từ cơ sở lý luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về độc lập chủ quyền, đến sự phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn rồi tuyên bố nền hòa bình. Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục kết hợp với giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng. Các biện pháp nghệ thuật khéo léo cùng những câu văn dài ngắn, biến hóa linh hoạt. Bài cáo đã khẳng định độc lập chủ quyền, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc. Đồng thời cũng nêu cao tinh thần yêu nước cùng tầm vóc tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi.
Với những thành công đó, Đại cáo Bình Ngô chính là bản tuyên ngôn mang nhiều giá trị sâu sắc của dân tộc. Trải qua nhiều năm, nó vẫn sừng sững chỗ đứng trong nền văn học nói riêng, trong lịch sử Việt Nam nói chung. Để mỗi lần bài cáo vang lên, nhân dân Việt Nam lại nghe trong trái tim mình tiếng nói của Tổ quốc.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 12)
Nhắc đến những áng thiên cổ hùng văn của mọi thời đại, phải kể đến Bình Ngô đại cáo. Bình Ngô đại cáo là bản tuyên cáo khẳng định cộng đồng Đại Việt với tư cách một quốc gia độc lập và tổng kết sự nghiệp bình Ngô Phục quốc đã kết thúc thắng lợi, đất nước đã giành được độc lập toàn vẹn từ tay kẻ thù, và bắt đầu thời kỳ xây dựng phát triển mới. Với những ý nghĩa như vậy Bình Ngô đại cáo đã trở thành bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Trong lịch sử nhân loại đã có không ít những bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, gây được tiếng vang lớn trong dư luận. Riêng dân tộc Việt Nam cũng đã có tới ba bản tuyên ngôn độc lập bất hủ: Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh). Ba bản tuyên ngôn ấy không những là kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập ấy, ra đời vào cuối năm 1427, ngay sau khi đại nghiệp chống Minh thu được thắng lợi.
Mở đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi nêu ra nguyên lý nhân nghĩa có tính chất là tư tưởng chủ đạo cho cả bài Cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.Đó là tư tưởng nhân nghĩa vì dân vì nước hết sức cao đẹp và tiến bộ. Ngay sau đó, Nguyễn Trãi khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền vãn hiến đã lâu,Núi sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam củng khác.Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bèn xưng đế một phương,Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng có.Tám câu văn đã thâu tóm cả một quan điểm lớn về quốc gia và dân tộc.
Trước Nguyễn Trãi, Lý Thường Kiệt cũng đã nêu lên một quan điểm về quốc gia dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Lý Thường Kiệt đã khẳng định một chân lí tự nhiên không thể chối bỏ: Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là đạo lí hợp với lẽ trời và lòng người. Người Việt ta coi trọng đạo lí ấy và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì nó. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời và được tuyên đọc ngay trước cuộc kháng chiến chống Tống lần hai, đã thổi bùng lên cả một hào khí chiến đấu và chiến thắng giặc thù. Âm hưởng của bài thơ ngân vang bên chiến tuyến Như Nguyệt ngày ấy vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng của Lý Thường Kiệt về quốc gia, dân tộc và nâng nó lên một bước phát triển mới, sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.
Nếu như quan niệm về quốc gia, dân tộc của Lý Thường Kiệt mới chỉ dừng lại ở hai yếu tố cơ bản: chủ quyền và lãnh thổ, thì đến Nguyễn Trãi, quan điểm ấy được bổ sung thêm ba yếu tố rất quan trọng. Nguyễn Trãi khẳng định: nước Đại Việt là của dân tộc Việt. Dân tộc ấy là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có núi sông bờ cõi riêng, có phong tục tập quán riêng, có lịch sử riêng và có chế độ chủ quyền riêng.
Điều đáng nói ở đây là Nguyễn Trãi đã ý thức được sâu xa và bền vững về độc lập chủ quyền dân tộc. Một dân tộc độc lập không chi là một dân tộc có độc lập và chủ quyền riêng, mà điều cần thiết không thể thiếu là dân tộc ấy phải có một nền văn hiến lâu đời. Nền văn hiến ấy chính là truyền thống văn hóa tốt đẹp. Nền văn hóa ấy kết hợp với phong tục tập quán sẽ làm nên bản sắc dân tộc. Nhớ lại hơn một ngàn năm Bắc thuộc bọn phong kiến phương Bắc ra sức đồng hóa dân tộc nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Truyền thống văn hiến đã tạo nên ý chí kiên cường bất khuất để dân tộc ta tồn tại và phát triển trong suốt đêm trường đen tối ấy. Và cũng chính truyền thống văn hiến làm nên ý chí quật khởi, tạo nên một bề dày lịch sử oanh liệt hiếm có.
Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành một chân lí bất hủ và ngời sáng: chân lí độc lập dân tộc. Chân lí độc lập dân tộc dược ánh sáng tư tưởng nhân nghĩa vì dân, vì nước chiếu rọi đã tạo nên sức mạnh diệu kì:
Vậy nên:Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bát sống Toa Đồ,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.Bằng những chứng cứ xác thực và hùng hồn, Nguyễn Trãi đã thêm một lần nữa khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc với niềm tự hào cao độ. Theo Nguyễn Trãi, nền độc lập ấy đâu phải tự nhiên vốn có, mà đó là kết quả của một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ đầy hi sinh; đó là xương máu của bao lớp cha anh đã ngã xuống để xây đắp lên.
Nếu như toàn bộ bài Cáo là một bản anh hùng ca lẫm liệt về một dân tộc với hào khí thời đại, khát vọng chiến thắng kẻ thù để giành lấy nền độc lập thái bình muôn thuở thì đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là tuyên ngôn về hào khí, khí phách, khát vọng ấy. Năm tháng qua đi nhưng ý nghĩa của bản tuyên ngôn vẫn còn ngời sáng đến muôn đời.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 13)
Bình ngô đại cáo ta áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc. Ra đời cách đây đã hàng trăm năm nhưng mỗi khi đọc lên ta vẫn thấy rõ khí thế anh dũng, hào hùng của nó. Đoạn trích Nước Đại Việt ta là phần thể hiện rõ nhất tính chất tuyên ngôn của một bản tuyên ngôn độc lập. Nó vừa cho thấy vị thế của dân tộc, vừa cho thấy không khí chiến thắng của toàn dân Việt Nam.
Bình Ngô đại cáo là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta. Nó ra đời vào cuối năm 1427 sau khi ta đã dẹp xong quân Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết nên bài cáo này. Bình Ngô đại cáo không đơn thuần chỉ là bản tổng kết lịch sử 15 năm kháng chiến chống quân Minh xâm lược, hơn hết nó còn là bản tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền, sự tự do của dân tộc ta.
Mở đầu bài Đại cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tư tưởng nhân nghĩa, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, chỉ đạo toàn bộ bài đại cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tiếp thu tư tưởng Nho gia, đối với Nguyễn Trãi nhân nghĩa chính là yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, ấm no hạnh phúc. Và để làm được điều đó, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ có giặc xâm lược thì phải trừ bạo ngược – giặc Minh. Chỉ khi làm được cả hai điều đó thì mới thực là nhân nghĩa. Đây là tư tưởng hết sức nhân văn và cao đẹp. Để rồi sau đó Nguyễn Trãi đã khẳng định sự tồn tại, độc lập của dân tộc ta là một chân lí không thể thay đổi:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng đã thâu tóm toàn bộ ý nghĩa của một bản tuyên ngôn độc lập. Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền trên phương diện địa lý như Nam quốc sơn hà:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Mà ông còn tiến một bước xa hơn, sâu sắc hơn khi khẳng định chủ quyền đất nước trên phương diện lịch sử, phong tục tập quán. Văn hiến, phong tục tập quán là những nét đẹp truyền thống lâu đời, không phải ngày một ngày hai là có thể tạo nên, mà nó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Nguyễn Trãi đã tiến thêm một bước, ý thức sâu sắc và bền vững hơn về chủ quyền của dâ tộc. Một dân tộc độc lập không chỉ có lãnh thổ riêng mà còn phải có cả văn hóa, văn hiến – cái hồn cốt của một dân tộc. Nhớ lại dân tộc ta một nghìn năm Bắc thuộc, dù mất đi lãnh thổ nhưng tiếng nói, văn hóa còn bởi vậy mà đất nước không hề mất, bởi vậy mà vẫn khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc. Như vậy, ta có thể thấy được ý nghĩa to lớn trong bản tuyên ngôn của Nguyễn Trãi.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi cũng khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại song song tồn tại cùng nhau suốt bao thế kỉ. Cùng với việc khẳng định anh hùng hào kiệt trong mỗi thời để làm nổi bật, khẳng định hơn nữa chủ quyền của dân tộc ta. Quan điểm về quốc gia dân tộc của Nguyễn Trãi đã trở thành chân lí bất hủ muôn đời, khẳng định chân lí thời đại: một đất nước chỉ thực sự tự do, độc lập khi có một lãnh thổ, văn hiến, phong tục tập quán và truyền thống riêng. Tính chất chính nghĩa đó đã tạo nên sức mạnh diệu kì, làm nên những chiến công oanh liệt cho dân tộc:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Lịch sử vẫn còn ghi dấu, những dẫn chứng hùng hồn, xác thực đã một lần nữa khẳng định, thành quả của ngày hôm nay là xương máy của biết bao thế hệ đi trước. Đây là hành trình đấu tranh đầy gian khổ và thấm đẫm xương máu.
Đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng nhất của cha ông ta. Bài cáo với khí thế bừng bưng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, vững bền của dân tộc ta trong lịch sự xây dựng và bảo vệ đất nước. Trải qua nhiều thế kỉ nhưng Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên giá trị – bản đại cáo tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 14)
Yêu nước và tự hào dân tộc là một trong những nội dung lớn của văn học trung đại. Bởi lịch sử của dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trong văn học không thể không kể đến áng thiên cổ hùng văn ” Nam quốc Sơn Hà”. Mở đầu bài cáo là đoạn trích ” Nước đại việt ta”. Có ý kiến cho rằng: ” Nước Đại Việt ta là áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc”.
Đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi viết ” Bình ngô đại cáo” công bố cho nhân dân được biết việc đánh đuổi giặc Minh đã giành thắng lợi hoàn toàn. Vị anh hùng Nguyễn Trãi đã gửi trọn tình yêu quê hương dân tộc vào bài cáo nói chung và đoạn đầu nói riêng.
Trước hết tác giả tự hào về truyền thống nhân nghĩa của dân tộc:
” Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Trong hai câu văn trên, Nguyễn Trãi đã sử dụng phép đối của cặp câu biền ngẫu tạo nên sự hài hòa cân xứng, giọng văn hùng hồn đanh thép vận dụng điển tích ” Điều dân phạt tội”… Tác giả nhẫn mạnh tư tưởng lấy dân làm gốc ” Yên dân”. Vì muốn ” yên dân” nên những vị lãnh tụ khởi nghĩa Tây Sơn đã giấy binh diệt trừ giặc Minh hung tàn bạo ngược đó là tư tưởng tiến bộ lấy dân làm gốc. Trong Nam Quốc Sơn Hà có mặt ” đế ” đến Hịch Tướng Sĩ có mặt ” Tướng” thì nước đại việt ta có mặt dân quan tâm đến tầng lớp cùng khổ đông đảo nhất trong xã hội và ” nhân nghĩa” vốn là quan niệm của nho giáo đã được Nguyễn Trãi kế thừa và phát huy nâng lên thành quan hệ giữa quốc gia và giữa ta và Phương Bắc.
Tinh thần tự hào dân tộc của tác giả còn được thể hiện về chân lí một quốc gia độc lập có chủ quyền:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Tác giả tiếp tục sử dụng câu văn biền ngẫu tạo sự cân xứng hài hòa, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục, giọng văn hùng hồn nhiều từ ngữ mang tính chất hiển nhiên như: Vốn xưng, đôi chìa, cũng khác. Phép liệt kê, so sánh, đối chiếu giữa các triều đại của ta với các triều đại của Trung Quốc nhằm hành động vị thế ngang hàng của đại việt với phong kiến phương bắc, tác giả đã định nghĩa về một quốc gia nhiều phương diện.
Đó là đất nước có nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ chủ quyền riêng, phong tục tập quán riêng, các triều đại lịch sử riêng và các anh hùng hào kiệt. Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy quan niệm này từ ” Nam Quốc Sơn Hà”. Định nghĩa của ông cụ thể, tiêu biểu toàn diện hơn.
Cuối cùng niềm tự hào dân tộc còn được tác giả hành động qua sức mạnh nhân nghĩa:
Vậy nên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”
Đây là những chứng cớ chiến công đã từng được ghi trong sử sách có sức thuyết phục cao mang tính hiển nhiên. Kẻ nào đến xâm phạm nước ta chắc chắn sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong.
Đoạn trích đúng là bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện thông qua nhiều biện pháp nghệ thuật… Niềm tự hào dân tộc ấy được lưu truyền đến muôn đời sau có sức ảnh hưởng rộng rãi. Đó là bài ca yêu nước của thế hệ cha ông.
Tóm lại ” Nước đại việt ta” là áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc, tiếp nỗi truyền thống ấy thế hệ trẻ chúng ta phải ra sức học tập, bảo vệ xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp. Sự kiện Bạch Đằng 1-5-2014 khiến chúng ta càng cần nêu cao tinh thần tự giá, xây dựng đất nước phát triển để kẻ thù không nhòm ngó lánh thổ, lãnh hải.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 15)
Nguyễn Trãi (1380-1422) là một nhà quân sự đa tài, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao lối lạc hơn thế nữa ông còn được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới(1980). “Nước Đại Việt ta” trính trong bài “Bình Ngô đại cáo” được công bố vào đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng quân Minh. Tác phẩm này được coi là áng thiên cổ hùng văn có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nhan dân Đại Việt ta. Đoan trính “Nước Đại Việt ta” đã thể hiện sâu sắc niềm tự hào dân tộc.
Thật vậy! Ngay từ đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên một quan điểm khá hoàn thiện về Tổ quốc và chủ quyền dân tộc. Trước hết, tác giả đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, coi đây là cội nguồn sức mạnh.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung. Đối với Nguyễn Trãi yêu nước gắn liền với chống xâm lược. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn có trong quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, sự phát triển tư tưởng mới về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi so với Nho giáo.
Nối tiếp tư tưởng nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm sâu sắc niềm tự hào về độc lập, chủ quyền dân tộc qua 8 câu thơ tiếp theo
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Đất nước ta có bốn nghìn năm văn hiến với cả một quá trình dựng nước là giữ nước kiên cường, bền bỉ. Hai câu thơ trên đã lột tả tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt.
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Tác giả đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền của dân tộc, văn hiến lãnh thổ, phong tục chủ quyền và lịch sử lấu đời với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc mang tính sâu sắc hơn.So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Sông núi nước Nam” – thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong bài Nam Quốc Sơn Hà, Lí thường Kiệt đã thể hiện tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc qua cách gọi vua Đại Việt là Nam đế, nâng vị thế vua ta lên ngang hàng với các triều vua của phong kiến Trung Hoa, đến Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy tinh thần đó.
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào chẳng có.”
Nguyễn Trãi đã tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Để tăng thuyết phuc cho bài cáo, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận. Tác giả đặt nước ta ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,…. Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xet
Chứng cớ còn ghi.
Trong bài Nam quốc sơn hà. Lí thường kiệt khẳng định sức mạnh của chính nghĩa: lũ giặc bạo ngược ( nghịch lỗ ) làm trái đạo nhân nghĩa, phạm vào sách trời (thiên thư ) tức là đi ngược chân lí khách quan, thì nhất định chúng sẽ chuốt lấy bại vong ( thủ bại hư ). Còn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng hùng hồn về sức mạnh của chân lí, sức mạnh của chính nghĩa. Tướng giặc kẻ bị giết, ng bị bắt: Lưu Cung… thất bại, Triệu Tiết… tiêu vong, bắt sống Toa Đô, giết tươi Ô Mã… Những chứng cớ còn ghi rõ ràng trong lịch sử chống xâm lăng của nước Đại Việt đã chứng minh niềm tự hào to lớn của dân tộc là có cơ sở.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 16)
NguyễnTrãi (1380-1422) là một nhà quân sự đa tài, một nhà chính trị sáng suốt, một nhà ngoại giao lỗi lạc hơn thế nữa ông còn được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới(1980). “Nước Đại Việt ta” trích trong bài “Bình Ngô đại cáo” được công bố vào đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng quân Minh. Tác phẩm này được coi là áng thiên cổ hùng văn có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của nhân dân Đại Việt ta. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” đã thể hiện sâu sắc niềm tự hào dân tộc.
Thật vậy! Ngay từ đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên một quan điểm khá hoàn thiện về Tổ quốc và chủ quyền dân tộc. Trước hết, tác giả đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, coi đây là cội nguồn sức mạnh.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung. Đối với Nguyễn Trãi yêu nước gắn liền với chống xâm lược. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn có trong quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, sự phát triển tư tưởng mới về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi so với Nho giáo.
Nối tiếp tư tưởng nhân nghĩa Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm sâu sắc niềm tự hào về độc lập, chủ quyền dân tộc qua 8 câu thơ tiếp theo
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Đất nước ta có bốn nghìn năm văn hiến với cả một quá trình dựng nước là giữ nước kiên cường, bền bỉ. Hai câu thơ trên đã lột tả tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt.
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Tác giả đưa ra những yếu tố căn bản để xác định chủ quyền của dân tộc, văn hiến lãnh thổ, phong tục chủ quyền và lịch sử lâu đời với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc mang tính sâu sắc hơn.So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Sông núi nước Nam” – thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong bài Nam Quốc Sơn Hà, Lí thường Kiệt đã thể hiện tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc qua cách gọi vua Đại Việt là Nam đế, nâng vị thế vua ta lên ngang hàng với các triều vua của phong kiến Trung Hoa, đến Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy tinh thần đó.
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào chẳng có.”
Nguyễn Trãi đã tiếp tục phát huy niềm tự hào dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Để tăng thuyết phục cho bài cáo, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận. Tác giả đặt nước ta ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hóa,…. Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thuật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Trong bài Nam quốc sơn hà. Lí thường kiệt khẳng định sức mạnh của chính nghĩa: lũ giặc bạo ngược ( nghịch lỗ ) làm trái đạo nhân nghĩa, phạm vào sách trời (thiên thư ) tức là đi ngược chân lí khách quan, thì nhất định chúng sẽ chuốc lấy bại vong ( thủ bại hư ). Còn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng hùng hồn về sức mạnh của chân lí, sức mạnh của chính nghĩa. Tướng giặc kẻ bị giết, ng bị bắt: Lưu Cung… thất bại, Triệu Tiết… tiêu vong, bắt sống Toa Đô, giết tươi Ô Mã… Những chứng cớ còn ghi rõ ràng trong lịch sử chống xâm lăng của nước Đại Việt đã chứng minh niềm tự hào to lớn của dân tộc là có cơ sở.
Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đại cáo không dài, tuy vậy, nó vẫn là điểm tựa, là nền móng lí luận cho toàn bài. Đoạn văn có sức khái quát cao, giàu chứng cớ lịch sử, tràn đầy cảm xúc tự hào. Bề nổi của bài văn là sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thía tư tưởng nhân nghĩa cốt lõi của đạo làm người.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 17)
Năm 1406 quân Minh xâm lược nước ta. Ách đô hộ của giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm 1416, ở đất Lam Sơn- Thanh Hoá, Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng đã làm lễ ăn thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi- một tài năng xuất chúng, nổi bậc lên trong hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính nghĩa đã thắng lợi.
“Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc,đau thương.
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”
Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“ Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
là niềm tự hào dân tộc “…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
….
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công, không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:
“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”
Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”
Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Quân ta chiến thắng vì đã:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại, là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong:
“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng. Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 18)
Phân tích Nước Đại Việt ta chi tiết
“Bình Ngô đại cáo” là tác phẩm ra đời sau chiến thắng chống quân xâm lược nhà Minh của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo như một lời tuyên bố sự chiến thắng của dân tộc Việt, khẳng định nền độc lập tự do của đất nước. Đồng thời thể hiện thái độ nghiêm khắc, cảnh tỉnh quân địch đối với âm mưu xâm lược nước ta.
Nguyễn Trãi đọc Bình Ngô Đại cáo
Đoạn trích Nước Đại Việt ta là đoạn mở đầu của bài cáo, tuy chỉ có vài câu tương đối ngắn gọn nhưng đoạn trích đã thể hiện rõ nét những vấn đề cơ bản nhất của bài cáo. Khẳng định quan điểm, ý nghĩa của toàn bộ bài cáo. Đó là chân lý về độc lập tự do và chủ quyền dân tộc của nước Đại Việt thời bấy giờ.
Mở đầu văn bản là hai câu thơ vừa nhân nghĩa lại vừa mang ý khẳng định nghĩa vụ của quân vương:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được thể hiện qua hai từ “yên dân” và “trừ bạo”. Nhân nghĩa ở đây là yêu dân, nếu yêu dân phải khiến dân được hạnh phúc, hưởng thái bình. Muốn yên dân thì trước hết bậc quân vương phải trừ bạo. “Dân” ở đây chính là những người lao động, người dân của nước Đại Việt đang sống trong cảnh lầm than dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh. Như vậy,phân tích Nước Đại Việt tađể thấy, nhân nghĩa mà tác giả nhắc đến chính là lòng yêu nước, yêu quốc gia, yêu dân tộc. Kẻ tàn bạo là tất cả những kẻ xâm lược nói chung và giặc Minh nói riêng ở thời bấy giờ.
Tiếp nối đoạn trích là những câu văn chất chứa niềm tự hào sâu sắc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã đưa các yếu tố: Đại Việt có nền văn hiến đã lâu, lãnh thổ đã được phân định rõ ràng, có lịch sử hình thành riêng, có phong tục tập quán, có lãnh đạo riêng ( Triệu, Đinh, Lý, Trần,.. bao đời xây nền độc lập) để khẳng định chủ quyền của nước ta. Từ đó ta có thể thấy được một khái niệm đầy đủ về quốc gia, dân tộc.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có
Sự khẳng định chủ quyền này đầy sức thuyết phục vì Nguyễn Trãi đã kết hợp vô cùng hoàn hảo giữa lý lẽ và thực tiễn. Đây là sự thật hiển nhiên ! Vì Đại Việt thật sự đã có một nền văn hiến lâu đời và ai trong chúng ta cũng nên tự hào về điều này. Lịch sử là không thể xóa bỏ mà phải công nhận vì thực tế:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Ngoài khẳng định về lịch sử, Nguyễn Trãi còn khẳng định nhân dân ta có chủ quyền, mỗi miền Bắc – Nam đều có phong tục tập quán riêng. Nền độc lập của Đại Việt vô cùng vững vàng, được xây dựng bằng những trang sử hào hùng của ông cha thời trước.
Nước Đại Việt thời hưng thịnh
Nếu phương bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt có Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời hùng cứ từng bên, không tranh giành nhau:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Phân tích Nước Đại Việt tađể thấy so với “Sông núi nước Nam” – Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Đoạn trích vừa kế thừa, vừa phát huy và hoàn thiện với nhiều lý lẽ lập luận mới chắc chắn, chi tiết hơn. Ở “Sông núi nước Nam”, độc lập dân tộc được khẳng định bằng ranh giới lãnh thổ và chủ quyền nước Nam. Còn Nước Đại Việt ta cũng khẳng định độc lập bằng 2 yếu tố này nhưng lại bổ sung nhiều hơn, phát triển sâu sắc và toàn diện hơn. Những yếu tố bổ sung có thể thấy rõ trong bài cáo là: nên văn hiến lâu đời, truyền thống lịch sử vẻ vang, phong tục tập quán khác biệt hoàn toàn so với phương Bắc. Có thể nói bản tuyên ngôn độc lập thế kỉ XV đã toàn diện và sâu sắc hơn rất nhiều bản tuyên ngôn trước đó.
Về mặt từ ngữ diễn đạt, trong đoạn trích Nước Đại Việt ta, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều từ ngữ mang tính chất khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, tồn tại lâu đời của Đại Việt đó là: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,…Tác giả sử dụng biện pháp so sánh giữa hai nước phương Nam và phương Bắc, đạt Trung Hoa ngang hàng với Đại Việt về các phương diện văn hóa chính trị,..Những khẳng định của tác giả được củng cố một cách chắc chắn, rõ ràng thông qua việc sử dụng các câu văn biền ngẫu, chúng chạy song song và tiếp nối với nhau thành một mạch hoàn chỉnh. Từ đó tạo nên một bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 hùng hồn và đanh thép của lịch sử nước nhà.
Phân tích Nước Đại Việt ta, để thấy đoạn trích tuy là phần mở đầu của “Bình Ngô đại cáo” nhưng Nguyễn Trãi đã bao hàm được toàn bộ những ý tứ, nội dung của toàn bài cáo. Đoạn trích khẳng định lòng yêu thương, thương dân của những bậc lãnh đạo trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Song song với đó là sự khẳng định vị thế, chủ quyền của Đại Việt qua nhiều phương diện, thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 19)
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: "Quân trung từ mệnh tập", các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
"Nhân nghĩa" là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, "nhân nghĩa" cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, "nhân nghĩa" là "yên dân", "trừ bạo", cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.
Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh".
Quân Minh đã lợi dụng "chính sự phiền hà" của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể dung tha:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi".
Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Chúng đem "nướng", "vùi" nhân dân ta trên ngọn lửa và "dưới hầm tai vạ". Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lí, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.
Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:
"Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt".
Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen "xuống biển dòng lưng mò ngọc", "vào núi đãi cát tìm vàng", bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh. Nhân dân ta bị biến thành nô lệ cho kẻ thù và cũng là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập, thuồng luồng hung dữ. Chúng xâm chiếm nước ta để vơ vét hết sản vật quý hiếm như chim trả dùng để làm áo và đệm, hươu đen dùng để làm vị thuốc bổ. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh vô cùng lớn.
Không chỉ đẩy dân ta vào nguy hiểm, chết chóc mà chúng còn "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ". Do quân Minh "máu mỡ bấy no nê chưa chán", xây nhà đắp đất liên miên nên nhân dân ta rơi vào cảnh ngộ đầy bi thương, khốn khổ:
"Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi".
Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được"?
Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình.
Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng "Gây binh kết oán trải hai mươi năm".
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 20)
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ.
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục - hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 21)
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Năm 1418, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn - Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Đầu xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo”, tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền vàn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt. Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thuơng dân, đánh kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược (trừ bạo), cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa.
Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.
“Đem đại nghĩa để tháng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lí Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư”, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đà lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cùng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nước Đại Việt đâu phải “man đi mọi rợ" mà rất đáng tự hào.Có nền văn hiến đã lâu, Có lãnh thổ, núi sông, bờ cõi, Có thuần phong mĩ tục, Có nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng để một phương”,Có nhân tài hào kiệt.
Năm yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao độ.
Phần mở đầu đã góp phần thể hiện tuyệt đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 22)
Nhân nghĩa xưa nay vốn là một nội dung rất tích cực của Nho giáo. Đó là sự hi sinh, thương yêu và đùm bọc giữa con người với nhau. Thế nhưng, Nguyễn Trãi đã định nghĩa “nhân nghĩa” rất lạ. Theo ông “nhân nghĩa” tức là phải yêu dân, phải lo đặt hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu và hãy chiến đấu vì hạnh phúc đó.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Rõ ràng đây là một mục đích cao đẹp: Chiến đấu cho nhân dân. Thế đấy, đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” giờ đây không còn là khái niệm mà phải biến nó thành hành động, thành “việc nhân nghĩa”.
Vì cái đích rất cụ thể là giải phóng đất nước, đưa nhân dân thoát khỏi kiếp lầm than, không phải làm thân phận súc nô và có nguy cơ bị diệt chủng.
Tiếp theo bài cáo, Nguyễn Trãi đã cất giọng, khẳng khái xưng danh hiệu tên nước: “Như nước Đạ Việt ta từ trước” và khẳng định: “Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đúng thế, đây là một quốc gia hoàn toàn độc lập, có một nền văn hiến đã rất lâu đời, có những “phong tục” tập quán rất riêng không trùng lặp với bất cứ quốc gia nào khác, và quan trọng hơn nữa, đã bao thế kỉ qua, nó vẫn cứ tồn tại bình đẳng và đầy kiêu hãnh bên cạnh cách triều đại của các hoàng đế Trung Hoa.
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Vâng, nước Đại Việt đã bao đời nay vẫn hùng mạnh như thế. Tuy đất nước này chỉ là một quốc gia nhỏ bé thôi nhưng cũng dám xưng “đế” như ai, quyết không chịu làm “vương” dưới chân kẻ khác và còn là một quốc gia đầy “nhân nghĩa”.
Và sau cùng, Nguyễn Trãi đã rất hả hê khi nhắc lại những chiến công oanh liệt do những anh hùng hào kiệt nước Đại Việt lập nên. Ông như muốn cười vào mũi bọn phương Bắc – cái lũ đã xem nước ta như một quận huyện nhỏ của chúng, cái lũ chỉ tham công, thích lớn, thậm chí còn trắng trợn muốn làm cỏ nước Nam – thế mà lại thua te tua và thảm hại, thua hết sức nhục nhã mỗi khi giao chiến với nước Nam nhỏ bé ấy:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Phần một của bài cáo là một lời khẳng định hết sức tự hào và đầy khoa học về đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước: Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 23)
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Nhắc đến ông, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề Bình Ngô đại cáo đã gợi cho ta nhiều suy nghĩ. Bình có nghĩa là dẹp yên. Ngô ở đây chỉ giặc Minh. Đại cáo là bài cáo lớn mang dấu ấn trọng đại về những sự kiện lớn của đất nước. Ngay từ nhan đề đã gợi ra một tâm thế hào hùng.
Phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo để thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Chúng ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện ngay ở đoạn 1 của bài thơ.
Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Mở đầu bài cáo, tác giả đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa. Theo phạm trù của Nho giáo, nhân nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của các cuộc khởi nghĩa. Việc nhân nghĩa là vì con người, vì lẽ phải. Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi.
Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột, mang lại bình yên, no ấm cho nhân dân. Nói rộng ra trừ bạo chính là chống lại giặc xâm lược. Tác giả đã nêu rõ ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông đã vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược này. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt, để mang đến cho nhân dân thoát khỏi cuộc sống lầm than, khổ cực, đem lại no ấm cho nhân dân.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc
Luận điểm 2: Khẳng định chủ quyền đất nước, độc lập dân tộc
8 câu thơ tiếp theo tác giả đã khẳng định chủ quyền dân tộc, khẳng định giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Tác giả dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả dung từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm, chiếm lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán, văn hóa mỗi miền Bắc Nam cũng khác, không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.
Đặc biệt khi nhắc đến các triều đại trị vì xây nền độc lập, tác giả đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với “Hán, Đường, Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý liệt kê, vừa có ý đối đầu. Điều đó cho thấy lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ý thức về tự tôn, yêu nước cực kỳ lớn của tác giả. Và ở triều đại nào, thời nào thì hào kiệt đều có. Đây vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào vừa răn đe đối với quân xâm lược muốn thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia. Đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, điều đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn Trãi.
Luận điểm 3: Lời răn đe quân xâm lược
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc, thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc, nhà thơ đã dung biện pháp liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ đi ngược lại với chân lý. Những dẫn chứng của ông từ các đời vô cùng thuyết phục. Lưu Cung là vua Nam Hán từng thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi cầm quân sang đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã… là các tướng của nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng tại nước ta khi cầm quân sang xâm lược… “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi được. Đây chính là lời cảnh cáo, răn đe đanh thép với chứng cớ đầy đủ, thuyết phục, rõ rành rành đối với kẻ phi chính nghĩa khi xâm phạm đến lãnh thổ của nước ta. Mượn lời thơ đanh thép, ông tuyên bố với kẻ thù: bất kỳ kẻ nào lăm le xâm chiếm bờ cõi Đại Việt đều sẽ phải gánh chịu thất bại ê chề. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt cân xứng, song đôi của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của nước Đại Việt.
Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng… Bình ngô đại cáo là áng hùng thi được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua những vần thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử, văn hiến của đất nước.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 24)
Đại cáo Bình ngô không chỉ là một áng văn nghị luận đanh thép, tố cáo tội ác kẻ thù, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh của dân tộc ta mà đây còn là một bản tuyên ngôn độc lập. Bình ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, sau Nam quốc sơn hà và trước Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tác phẩm là áng văn yêu nước sâu sắc, nồng nàn.
Sau hai câu thơ mở đầu khẳng định nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những lập luận hết sức đanh thép để khẳng định chủ quyền dân tộc, đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tính chất của bản tuyên ngôn độc lập trong tác phẩm:
Như nước Đại Việt là từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
“Từ trước” – chỉ với từ này thôi nhưng Nguyễn Trãi đã khẳng định toàn bộ sự độc lập vốn có của dân tộc ta là tồn tại bền vững lâu đời, hàng nghìn năm nay và không điều gì có thể chối bỏ được. Câu thơ thứ hai ông khẳng định nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Văn tức là sách vở, hiến tức là người hiền tài. Câu thơ nguyên văn chữ Hán “Thực vi văn hiến chi bang” (Thực sự là một nước văn hiến). Chữ thực tức là sự thật, cái hiển nhiên, không cần phải xưng (tự nhận) đã khẳng định nền văn hiến, vốn tri thức sách vở cũng như người hiền tài của dân tộc ta. Bằng biện pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã cho thấy sự tồn tại song song các triều đại của hai đất nước. Trong hai câu thơ này ta cần đặc biệt chú ý đến chữ “đế”. Đế được hiểu là người có địa vị tối cao, đế chỉ có một, còn vương, vua thì có nhiều. Vì vậy, khi Nguyễn Trãi sử dụng từ đế thay cho từ vương đã cho thấy ý thức bình đẳng, ngang hàng của dân tộc ta với phương Bắc. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất. Lí Thường Kiệt mới chỉ ra hai yếu tố để khẳng định độc lập là chủ quyền riêng và cương vực lãnh thổ riêng: Nam quốc sơn hà nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Dựa trên căn cứ là sách trời, có phần nào đó mơ hồ. Còn Nguyễn Trãi đưa thêm ba yếu tố, chủ quyền và cương vực chỉ mang tính nhất thời, bất kì ai có sức mạnh cũng có thể có một mảnh đất, xưng vua nhưng phong tục tập quán, văn hiến, truyền thống lịch sử thì không thể đơn giản mà có. Chúng ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định là một nước độc lập.
Ngoài ra, bản tuyên ngôn cũng được thể hiện qua đoạn thơ cuối tác phẩm, là lời bố cáo với toàn thiên hạ về chiến thắng của dân tộc ta, khai mở một kỉ nguyên mới, một triều đại mới: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh/ Muôn thuở thái bình vững chắc/ Nghìn thu vết nhục sạch làu. Tác phẩm kết thúc bằng những đúc kết từ tự nhiên, qua đó Nguyễn Trãi cũng khẳng định, thể hiện niềm tin tưởng vào vận mệnh mới của đất nước.
Để bản tuyên ngôn thêm phần đanh thép ta còn phải kể đến sự đóng góp trên phương diện nghệ thuật. Nguyễn Trãi vận dụng câu văn biền ngẫu tài tình, mang tính sóng đôi, kết hợp biện pháp so sánh cho thấy sự ngang hàng của ta với Trung Quốc về mọi mặt nhằm khẳng định vị thế dân tộc. Sử dụng các từ đắt, mang tính khẳng định: vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… nhằm khẳng định độc lập của Đại Việt, đó là những cơ sở đã có từ lâu đời, không thể chối cãi. Ngoài ra, ông còn sử dụng biện pháp liệt kê: các yếu tố hình thành quốc gia, dân tộc (truyền thống văn hiến, lãnh thổ, phong tục tập quán, bề dày lịch sử,…) nhằm tạo cơ sở vững chắc cho nền độc lập của dân tộc.
Bằng giọng văn hùng hồn, dõng dạc, đanh thép, lập luận chặt chẽ Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc một cách toàn diện, đầy đủ nhất. Đây là một bước tiến dài so với bản tuyên ngôn trước đó. Đồng thời đoạn thơ cũng là cơ sở để tác giả chuẩn bị triển khai các phần tiếp theo.
Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc (mẫu 25)
Nếu thế kỉ XI lũ giặc Tống hồn siêu phách lạc khi nghe âm hưởng của bài thơ thần Nam quốc sơn hà vang lên bên bến sông Như Nguyệt; hay đến thế kỉ XX thực dân Pháp cũng chẳng còn cái cớ nào cho là “khai hóa, mẫu quốc” An Nam sau khi nghe những lời dõng dạc của Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỉ XV, sao chúng ta quên được áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ra đời sau chiến thắng giặc Minh của quân khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo đã vút cao tinh thần độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước mãi còn ghi nhắc đến muôn đời. Cho mãi đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc mình.
Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì trước hết tác phẩm ấy phải viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của bản tuyên ngôn bao giờ cũng có ba nội dung: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố thắng lợi; tuyên bố hòa bình. Đối chiếu với những tiêu chuẩn ấy, Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ. Sau chiến thắng giặc Minh, vào mùa xuân năm 1428, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo nền độc lập dân tộc, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố nền hòa bình sau hai mươi năm ròng rã ách đô hộ và chiến tranh. Vì thế khúc tráng ca bất diệt ấy lại trở thành một khúc khải hoàn về một kỉ nguyên mới của dân tộc, kỉ nguyên hoàn toàn độc lập, tự do.
Bằng lối văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu đầy hào hùng, khí thế, Bình Ngô đại cáo đã mở màn với những lời khằng định “Đại Việt là đất nước của chúng ta”:
Như nước Đại Việt ta từ trước
…
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Với thủ pháp liệt kê qua hàng loạt các yếu tố như: nền văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt đã xác lập một cách trọn vẹn về nền độc lập của nước nhà. Còn nhớ trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt mới chỉ khẳng định bằng một phương diện đó là lãnh thổ, nhưng lại ở sách trời. Đến Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã nâng tầm chân lý độc lập lên nhiều phương diện rất cụ thể chứ không mơ hồ. Tuy nhiên sức thuyết phục trong cách khẳng định độc lâp chủ quyền này ở chỗ, nhà văn chính luận kiệt xuất ấy đem đặt trong thế so sánh giữa hai quốc gia Đại Việt với Đại Hán. Không xét đến các yếu tố lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu, mà xét theo việc có hay không, thì cả năm yếu tố nhà văn chỉ ra hai đất nước, hai dân tộc đều tương xứng. Cách khẳng định chân lý độc lập vì thế mà có giá trị cao hơn, vừa chắc chắn vừa nâng tầm vị thế của dân tộc ta ngang hàng với dân tộc, quốc gia Đại Hán. Hơn nữa, các từ ngữ từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác,bao đời,… liên tiếp nhau càng nhấn mạnh tới việc khẳng định nền độc lập, chủ quyền ấy đã có từ rất lâu, cũng lâu như thể sự tồn tại của đế cường phương bắc vậy. Bởi thế, bản đại cáo mở màn với lời khẳng định đầy đanh thép, chắc chắn “không thể chối cãi” mà lịch sử đã từng xem xét, còn ghi.
Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa. Độc lập ấy có được không phải do thiên định mà do nhân định. Chính nhân dân bao đời là người đã gây dựng nền độc lập. Bao xương máu đã đổ xuống, bao sự đồng cam cộng khổ, bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của nhân dân cả nghìn năm. Vì thế đó là điều “bất khả xâm phạm”. Suốt cả sáu trăm năm khi đất nước độc lập tự chủ, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc được vang lên một cách dõng dạc, khí thế, tự hào đến vậy. Đó chính là nền móng vững trãi, là cơ sở pháp lý, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta.
Bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã đanh thép kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn, uất nghẹn:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bản thần nhân chịu được.
Vậy mà nén đau thương thành hành động, cả dân tộc cùng đứng lên:
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Cả bản đại cáo là bài tráng ca, anh hùng ca về những chiến công hiển hách, vinh quang mà dân tộc đã chung sức, chung lòng làm nên được. Đúng là chỉ có chân lý độc lập tự do mới đem đến khí thế, khát vọng cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi hẳn đã chờ, chờ suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử chẳng bao giờ quên ấy. Để hơn một lần ông khẳng định chắc chắn cuộc chiến này, sự đồng khởi này là xuất phát từ chính nghĩa. Dùng sức mạnh bạo lực của chính nghĩa để đập tan bạo lực phi nghĩa. Chiến thắng giặc Minh năm xưa một lần nữa ghi thêm vào lịch sử điếu phạt đối với những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền, tham công nên thất bại, thích lớn phải tiêu vong.
Cũng bởi vậy sau bao gian khổ mà vinh quang, dân tộc đã đã đón được “trái ngọt”:
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu.
Giọng thơ có phần thư thái nhưng vẫn vút cao, vang dội. Vững bền, đổi mới, vững chắc… là những lời tuyên bố đầy hào sảng trong hân hoan, sung sướng. Quy luật của cuộc đời là vậy bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng chắc chắn trải qua được quy luật ấy là sự nỗ lực của cả dân tộc bao đời để giữ vững nền độc lập. Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt cứ tăng dần về độ lớn có sức mạnh vũ trụ, dường như mới đủ đo được cảnh thái bình. Chân lý độc lập cứ thế mà vang xa, vang rộng mãi. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn không quên ơn nhờ có sự giúp sức, phù trợ của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới có kết quả thắng lợi to lớn như vậy. Lời tuyên bố còn chứa đựng cả đạo lý uống nước nhớ nguồn. Bởi vậy mới nói, tác giả của bài cáo không chỉ tài năng trác việt mà đức độ cũng vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ như vậy.
Trước tác của Binh Ngô đại cáo vốn là một văn kiện lịch sử và rồi tác phẩm còn được coi đó là một áng “thiên cổ hùng văn”, áng văn chính luận bất hủ. Nhưng dù ở giá trị nào cũng không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc mang tầm vóc quốc tế. Tầm vóc lớn lao ấy của nó một lần nữa khẳng định đây là một bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc muôn dân và khát vọng hòa bình của toàn nhân loại.
Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 8 hay, chi tiết khác:
Thuyết minh về đồ dùng học tập
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 8
- Giải sbt Hóa học 8
- Giải vở bài tập Hóa học 8
- Lý thuyết Hóa học 8
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 8
- Giải sgk Vật Lí 8
- Giải sbt Vật Lí 8
- Lý thuyết Vật Lí 8
- Giải vở bài tập Vật lí 8
- Giải SGK Toán 8 | Giải bài tập Toán 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Toán 8 (sách mới) | Sách bài tập Toán 8
- Bài tập Ôn luyện Toán lớp 8
- Các dạng bài tập Toán lớp 8
- Lý thuyết Toán lớp 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 8
- Giáo án Toán lớp 8 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 8 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 8 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 8 (sách mới) | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2
- Giải sgk Tiếng Anh 8 | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 8
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (thí điểm)
- Giải sgk Tin học 8 | Giải bài tập Tin học 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sgk Lịch Sử 8 | Giải bài tập Lịch sử 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch sử 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch sử 8
- Giải vở bài tập Lịch sử 8
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 8
- Đề thi Lịch Sử 8
- Giải vở bài tập Sinh học 8
- Giải sgk Sinh học 8
- Lý thuyết Sinh học 8
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 | Giải bài tập Giáo dục công dân 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Giáo dục công dân 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm GDCD 8
- Lý thuyết Địa Lí 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa Lí 8
- Giải sgk Địa Lí 8 | Giải bài tập Địa Lí 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 8
- Đề thi Địa lí 8