TOP 10 mẫu Thuyết minh về cây ngô (2025) SIÊU HAY
Thuyết minh về cây ngô lớp 8 gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.
Thuyết minh về cây ngô
Dàn ý Thuyết minh về cây ngô
I. Mở bài:
- Dẫn dắt giới thiệu vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về cây bắp/cây ngô.
II. Thân bài:
* Nguồn gốc và xuất xứ của cây ngô/cây bắp
- Vavilov đã nghiên cứu và cho rằng cây ngô xuất hiện đầu tiên ở Mexico và Peru. Người ta đã tìm thấy hóa thạch phấn ngô trong vụ khai quật ở Bellas Artes - một thành phố của Mexico, và xác định được rằng nó xuất hiện vào khoảng 60 nghìn năm trước.
- Như vậy có thể nói, cây ngô đã xuất hiện từ rất lâu đời, từ xa xưa cho đến hiện nay vẫn luôn là cây trồng có vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp của nhiều nước trên thế giới.
* Hình dáng và các bộ phận của cây bắp/cây ngô
- Rễ ngô: Thuộc dạng rễ chùm, thường thì rễ chùm của loại cây này bám khá nông, không sâu vào lòng đất.
- Thân ngô: Rất nhỏ, khá chắc và cứng. Thân cây ngô có hình trụ, đường kính chỉ độ khoảng 4cm mà thôi. Một cây cao khoảng 1 đến 4m tùy vào khả năng chăm sóc và giống. Thân ngô nhìn có phần giống thân trúc, được chia làm nhiều khúc, được ngăn cách bởi các đốt.
- Lá ngô: Màu xanh, to, dài và rộng, càng về phần gốc thì là càng ngắn hơn. Ngô còn có loại lá gọi là lá bi, lá này ôm sát lấy bắp ngô, giúp bảo vệ khỏi những con côn trùng.
- Bông cờ của cây ngô (Hoa đực): Nằm ở trên đỉnh cây, mọc thành chùm. Các nhánh phụ mọc đối xứng song song với nhau, có lông tơ.
- Bắp ngô (Hoa cái): Hoa này mọc ở chồi các nách lá, qua thời gian sẽ phát triển thành bắp, phía đầu trên mỗi bắp sẽ có những sợi dài màu nâu hoặc nâu vàng được gọi là râu ngô. Bóc đi lớp lá bao bọc bên ngoài sẽ thấy những hạt ngô nho nhỏ như hạt đậu Hà Lan xếp thẳng hàng, đều nhau, có màu trắng ngà.
* Phân loại
- Ngô nếp: Hạt ngô dẻo như hạt gạo nếp vậy.
- Ngô “lõm” (Ngô đồng): Loại ngô này có hai màu vàng và trắng, được sử dụng chủ yếu làm thức ăn chăn nuôi.
- Ngô ngọt: Như tên gọi, ngô này có vị ngọt, ở nước ngoài là loại ngô tiêu chuẩn, được làm thành một loại rau.
- Ngô nổ: Nghe có vẻ đặc biệt, loại ngô này có vỏ mỏng, chuyên được dùng để làm Popcorn mà chúng ta vẫn hay ăn.
- Ngô đá: Hạt cứng và dày như thủy tinh, ở nước ngoài là thức ăn cho gia súc.
- Ngô bột: Được dùng để nghiền thành bột do hạt mẩy và to.
* Giá trị của cây bắp/cây ngô
- Giá trị dinh dưỡng:
+ Ngô là loại thực phẩm chứa tinh bột chỉ đứng sau mỗi gạo, lúa mì.
+ Ngô có chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng đối với cơ thể con người. Các món ăn làm từ ngô cũng rất đa dạng và phong phú.
- Giá trị kinh tế:
+ Ở nhiều đất nước, ngô là một trong những cây trồng quan trọng trong nền nông nghiệp, trong đó có Việt Nam.
+ Việc xuất khẩu ngô không những đem lại kinh tế cho nước nhà mà còn cứu nhiều người nông dân vùng cao thoát khỏi cảnh nghèo đói.
* Cách chăm sóc và gieo trồng
- Khi trồng ngô nên trồng thành hàng và chú ý khoảng cách giữa các cây để tránh tình trạng cây lớn mà trồng quá sát.
- Chú ý cung cấp nước và phân hợp lí cho cây.
- Cải tạo đất trồng (nếu cần) và thường xuyên làm cỏ, vun xới đất.
II. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ của bản thân về cây ngô cũng như về giá trị của loại cây này.
Thuyết minh về cây ngô - mẫu 1
Trong họ hàng các loài cây lương thực, bên cạnh lúa là loại lương thực chính cung cấp tinh bột cho con người, chúng ta còn có ngô cũng là một cây hết sức quan trọng. Tuy trong cuộc sống hàng ngày ngô không góp mặt nhiều nhưng vị trí của nó không thể thay thế được.
Người ta cho rằng ngô có nguồn gốc ở Trung Mỹ, sau đó lan ra toàn châu Mỹ. Ngô lan tỏa rộng rãi ra toàn thế giới sau khi người châu Âu đặt chân đến châu Mỹ vào cuối thế 15, đầu thế kỉ 16. Ngô là lương thực chính của phần lớn các nước thuộc vùng Trung Mĩ, Nam Mĩ và quần đảo Caribe. Trong dân gian có truyền thuyết Phùng Khắc Khoan- một danh nhân lịch sử thời vua Lê chúa Trịnh là người đầu tiên đã mưu trí vượt qua mọi trở ngại, đem hạt giống ngô từ phương Bắc vào nước ta. Hạt ngô khi ấy còn được gọi là “ngọc mễ”, nghĩa là gạo ngọc.
Thân ngô trông tương tự như thân của các loài tre. Thân cây thẳng, đặc và khá chắc, có thể cao từ 2 - 3 mét. Thân ngô trưởng thành bao gồm nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc bằng bông cờ. Lá ngô được cấu tạo bởi bẹ lá, phiến lá và lưỡi lá. Lá ngô dài, nhọn như lưỡi mác, tỏa ra từ mỗi mấu với bẹ nhẵn. Ngô có hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hòa thảo. Ngô có 3 loại rễ chính: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng. Các bắp ngô (bẹ ngô) là các cụm hoa cái hình bông, được bao bọc trong một số lớp lá, và được các lá này bao chặt vào thân đến mức chúng không lộ ra cho đến khi xuất hiện các râu ngô màu hung vàng từ vòng lá vào cuối của bắp ngô. Râu ngô thuôn dài trông giống như một búi tóc, ban đầu màu xanh lục và sau đó chuyển dần sang màu hung đỏ hay hung vàng. Các hạt ngô có màu như ánh đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng. Ngô sinh sản bằng hình thức giao phấn. Hoa đực và hoa cái thụ phấn với nhau nhờ gió.
Ngô là một loại thực phẩm gần gũi với con người, cung cấp, bổ sung một lượng dinh dưỡng thiết yếu. Một vài món ăn tiêu biểu từ ngô như bỏng ngô, bánh ngô. Chính ngô đã cứu sống biết bao người dân Việt Nam trong những ngày chiến tranh đói kém. Hạt ngô, lõi ngô cũng được chế biến làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Ngô cũng được dùng để nấu rượu. Bên cạnh đó, ngô còn làm nguyên liệu sinh học để sản xuất etanol. Râu ngô cũng là một loại thảo dược khá tốt. Người ta hay dùng râu ngô nấu nước uống để làm mát cho cơ thể. Ngô khá phổ biến tại Hoa Kỳ nhưng hầu như không thấy tại châu Âu. Ngô được gieo trồng rộng khắp thế giới với sản lượng hàng năm cao hơn bất kỳ cây lương thực nào. Trong khi Hoa Kỳ sản xuất gần một nửa sản lượng chung của thế giới thì các nước sản xuất hàng đầu khác còn có Trung Quốc, Brazil, Mexico, Argentina, Ấn Độ, Pháp, Indonesia, Nam Phi và Italia.
Ngô sinh trưởng từ hạt. Do ngô chịu lạnh kém nên trong khu vực ôn đới người ta trồng ngô vào mùa xuân. Ngô là loại cây ngắn ngày, sống được trên nhiều loại đất nhưng cần chú ý tưới nước cho ngô, đặc biệt là vào những ngày khô hạn. Để ngô đạt năng suất cao, người ta có nhiều biện pháp để tự thụ phấn cho cây. Một số giống ngô phổ biến là ngô nếp, ngô tẻ, ngô đá. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, người ta càng ngày càng sáng tạo ra nhiều loại ngô cho năng suất cao hơn.
Cuộc sống ngày càng hiện đại, có càng nhiều các loại thực phẩm phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu của con người nhưng vị trí của ngô không thể nào thay thế được. Trong tương lai, ngô vẫn sẽ là một người bạn đồng hành gần gũi trong những bữa ăn của chúng ta.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 2
Cây bắp còn hay được gọi là cây ngô là một loại cây lương thực có giá trị cao và cũng là một loại cây hết sức đặc biệt được người dân Việt Nam trồng nhiều vì ta được thuận lợi về thời tiết và tự nhiên.
Người ta cho rằng ngô có nguồn gốc ở Trung Mỹ, sau đó lan ra toàn châu Mỹ. Ngô lan tỏa rộng rãi ra toàn thế giới sau khi người châu Âu đặt chân đến châu Mỹ vào cuối thế 15, đầu thế kỉ 16. Ngô là lương thực chính của phần lớn các nước thuộc vùng Trung Mĩ, Nam Mĩ và quần đảo Caribe. Trong dân gian có truyền thuyết Phùng Khắc Khoan- một danh nhân lịch sử thời vua Lê chúa Trịnh là người đầu tiên đã mưu trí vượt qua mọi trở ngại, đem hạt giống ngô từ phương Bắc vào nước ta. Hạt ngô khi ấy còn được gọi là “ngọc mễ”, nghĩa là gạo ngọc. Ngoài là cây lương thực, bắp còn là một loại cây cho quả hết sức đặc biệt.
Thân cây của bắp đặc và chắc, dài từ 2 đến 3 mét, giống tre có nhiều nấc, mỗi nấc dài khoảng 10 - 15cm. Lá bắp được cấu tạo bởi bẹ lá, phiến lá và lưỡi lá. Lá bắp dài, sắc và thường có một gân lá ở giữa. Ngô có hệ rễ chùm tiêu biểu cho bộ rễ các cây họ hòa thảo. Ngô có 3 loại rễ chính: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng. Bắp ngô được bao bọc trong một lớp lá, giống hình hoa chuối. Các lá này bao chặt vào thân đến mức chúng không lộ ra cho đến khi xuất hiện các râu ngô màu hung vàng từ vòng lá vào cuối của bắp ngô. Râu ngô là các núm nhụy thuôn dài trông giống như một búi tóc, ban đầu màu xanh lục và sau đó chuyển dần sang màu hung đỏ hay hung vàng. Các hạt ngô có kích thước cỡ hạt đậu Hà Lan, và bám chặt thành các hàng tương đối đều xung quanh một lõi trắng để tạo ra bắp ngô. Mỗi bắp ngô dài khoảng 10 - 25 cm, chứa khoảng 200 - 400 hạt. Các hạt có màu như ánh đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng.
Bắp có thể sống ở rất nhiều nơi vì đây là một cây lương thực rất dễ thích nghi và dễ cho quả. Cây bắp có giá trị kinh tế rất cao và có giá trị dinh dưỡng. Một vài món ăn tiêu biểu làm từ bắp là bắp rang bơ, bỏng ngô, ngô luộc, ngô nướng. Vì hạt ngô ngọt nên có thể làm chè hay làm nước lẩu ( nước súp) trở nên ngọt hơn. Ta có thể ăn bắp thay cho cơm cũng được vì bắp cũng có giá trị tinh bột gần như là tương đương với cơm. Ngoài cây bắp, hạt bắp và lá bắp cũng có thể cho động vật ăn.
Cây bắp là một cây lương thực có giá trị cao. Khi ăn bắp chúng ta không có cảm giác ngán hay khó chịu và cũng chưa ai từng bị dị ứng với bắp nên chúng ta nên phát huy loài cây giá trị này.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 3
Trong cuộc sống hằng ngày, ngô là một thực phẩm dinh dưỡng không thể thiếu. Nó đem lại cho con người nguồn thu nhập kinh tế cao và rất phổ biến đối với con người Việt.
Theo như các nhà khoa học nghiên cứu cho rằng, ngô, bắp là một loại cây lương thực được thuần canh tại khu vực Trung Mỹ và sau đó lan tỏa ra khắp châu Mỹ. Ngô lan tỏa ra phần còn lại của thế giới sau khi có tiếp xúc của người châu Âu với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. Các giống ngô lai ghép được các nông dân ưa chuộng hơn so với các giống, thứ ngô thông thường do có năng suất cao vì có ưu thế giống lai. Ngày nay, ngô càng trở nên phổ biến và trở thành cây lương thực chính của con người Việt Nam. Hạt ngô khi ấy còn được gọi là “ngọc mễ”, nghĩa là gạo ngọc.
Thân cây ngô trông tương tự như thân cây của các loài tre và các khớp nối. Thân thẳng, chắc, cao khoảng 2, 3 mét. Ngô có hình thái phát triển rất khác biệt; các lá hình mũi mác rộng bản, dài 50 - 100cm và rộng 5 - 10 cm. Thân cây có nhiều mấu, từ các mấu tỏa ra nhiều bẹ. Trên đỉnh của thân cây là cụm hoa đuôi sóc hình chùy chứa các hoa đực, được gọi là cờ ngô. Lá ngô có màu xanh non, cũng khá um tùm, thỉnh thoảng còn có lông. Ngô có 3 loại rễ chính: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng.Dưới các lá này và ôm sát thân cây là các bắp. Khi còn non chúng dài ra khoảng 3cm mỗi ngày. Từ các đốt ở phía dưới sinh ra một số rễ. Mỗi râu ngô đều có thể được thụ phấn để tạo ra một hạt ngô trên bắp. Các bắp ngô là các cụm hoa cái hình bông, được bao bọc trong một số lớp lá, và được các lá này bao chặt vào thân đến mức chúng không lộ ra cho đến khi xuất hiện các râu ngô màu hung vàng từ vòng lá vào cuối của bắp ngô. Râu ngô ban đầu màu xanh lục và sau đó chuyển dần sang màu đỏ hay màu vàng. Ngày nay có nhiều loại ngô với nhiều màu sắc như ngô đỏ, vàng, trắng ngà,... Còn có loại ngô ngọt vàng óng.
Ngô là loại thực vật cần thời gian ban đêm dài và ra hoa trong một lượng nhất định ngày nhiệt độ tăng trưởng > 10 °C (50 °F) trong môi trường mà nó thích nghi. Do ngô chịu lạnh kém nên trong khu vực ôn đới người ta trồng ngô vào mùa xuân. Ngô là loại cây ngắn ngày, sống được trên nhiều loại đất nhưng cần chú ý tưới nước cho ngô, đặc biệt là vào những ngày khô hạn.
Ngô là loại cây lương thực chủ yếu, là thực phẩm cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu trong khẩu phần ăn của con người đặc biệt là những người lớn tuổi. Cây ngô có giá trị kinh tế rất cao. Cây ngô có thể thu hoạch cho động vật ăn. Trái ngô có thể luộc ăn rất ngon.Hạt ngô có thể nấu chè vào những buổi trưa hè nắng nắng oi bức được thưởng thức bát chè ngô cùng với mùi vị của hạt sen thì mới ngon tuyệt làm sao. Hạt ngô người ta còn say ra để làm sữa ngô. Hạt ngô cũng có thể cho động vật ăn, người ta hay nghiền cám ngô, là loại thức ăn khá phổ biến và giàu dinh dưỡng. Lá ngô cho động vật ăn. Chúng ta có thể chế biến món ăn từ ngô như bắp rang bơ, ngô nướng,bánh ngô,… Râu ngô cũng là một loại thảo dược khá tốt. Hiện nay, nhiều giống ngô được trồng tại Hoa Kỳ và Canada là các giống lai. Trên một nửa diện tích gieo trồng ngô tại Hoa Kỳ là các giống ngô biến đổi gen bằng cách sử dụng công nghệ sinh học để có được các đặc tính tốt như sức kháng chịu sâu bệnh hay sức kháng chịu thuốc diệt cỏ. Ngô có nhiều tác dụng như thế, nên người trồng ngô cần có biện pháp chăm sóc hợp lý, khoa học, tránh các loại sâu bệnh để ngô đem lại hiệu quả cao.
Cuộc sống đang ngày càng phát triển, trên đất nước có nhiều loại đem lại cho con người nhiều chất dinh dưỡng, nhưng ngô vẫn là cây lương thực không thể thiếu đối với mỗi con người. Hãy chăm sóc nó cẩn thận để mãi là người bạn đồng hành trong cuộc sống.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 4
Nhắc đến cây lương thực, người ta sẽ nhắc đến lúa bởi vì lúa là cây lương thực chính cung cấp gạo cho con người. Thế nhưng có một loại cây lương thực nữa rất quen thuộc và cũng quan trọng không kém đó chính là cây ngô. Mặc dù chúng ta không sử dụng ngô hàng ngày như lúa gạo nhưng cây ngô vẫn không thể thiếu trong đời sống hàng ngày.
Nói về nguồn gốc của cây ngô, có nhiều tài liệu cho rằng ngô bắt nguồn từ Trung Mỹ sau đó lan rộng ra khắp châu Mỹ. Vào cuối thế kỉ 15, đầu thế kỉ 16 khi người châu Âu phát hiện ra châu Mỹ, cây ngô bắt đầu lan giống ra khắp thế giới. Ở các nước Nam Mĩ, Trung Mĩ, và đặc biệt là ở quần đảo Caribe, ngô là lương thực chính. Ở Việt Nam cũng có một truyền thuốc kể lại rằng Phùng Khắc Khoan sau khi đi sứ phương Bắc đã đem về được hạt giống ngô. Khi ấy người ta gọi hạt ngô là ngọc mễ có nghĩa là gạo ngọc.
Cây ngô mọc khoảng 2 - 3 mét. Thân của nó gần giống như thân tre, rất thẳng và chắc chắn. Khi trưởng thành thân ngô bao gồm nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc bằng bông cờ. Về cấu tạo của lá, lá ngô được tạo nên bởi bẹ lá, phiến lá và lưỡi lá. Những chiếc lá ngô dài và nhọn hoắt như lưỡi mác. Rễ của cây ngô là rễ chùm với 3 loại rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng. Đến mùa ngô ra bắp, bắp của chúng là các cụm hoa cái hình bông, phía bên ngoài được bao bọc bởi nhiều lớp lá. Khi chúng trưởng thành thì râu ngô cũng bắt đầu xuất hiện. Râu ngô có màu hung vàng, thuôn dài và nhìn như búi tóc. Bên trong hạt ngô có màu trắng, vàng, đỏ, xám xanh, ánh đen tùy vào từng loại ngô. Về sinh sản, cây ngô sinh sản nhờ hình thức giao phấn, hoa đực và hoa cái nhờ gió mà thụ phấn với nhau.
Trong mỗi hạt ngô có chứa nhiều dinh dưỡng tốt cho con người. Từ những hạt ngô người ta có thể làm ra bánh ngô, bỏng ngô,… Trong những năm tháng chiến tranh, ngô đã nuôi sống biết bao người dân Việt Nam. Không chỉ vậy người ta còn có thể chế biến lõi ngô, hạt ngô thành thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hoặc dùng ngô để nấu rượu, sản xuất etanol. Ngay cả râu ngô cũng được sử dụng để nấu nước uống. Cây ngô được trồng ở nhiều nơi trên thế giới nhưng hầu như chúng không được trồng ở châu Âu. Hoa Kỳ là quốc gia có sản lượng ngô lớn nhất thế giới. Tiếp theo là các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Indonesia,…
Những cây ngô được sinh trưởng từ hạt. Người ta thường trồng chúng vào mùa xuân bởi vì cây ngô có khả năng chịu lạnh kém. Cây ngô rất dễ để chăm sóc, chúng mọc được trên nhiều loại đất khác nhau. Chỉ cần tưới đủ nước thì cây ngô sẽ lớn nhanh. Hiện nay người ta có nhiều biện pháp để tự thụ phấn cho cây nhằm giúp ngô đạt năng suất cao. Những giống ngô phổ biến được trồng nhiều là ngô đá, ngô tẻ, ngô nếp. Hiện nay, nhờ có sự hỗ trợ của kỹ thuật nuôi trồng hiện đại mà các giống ngô cho năng suất khá cao.
Mặc dù hiện nay chúng ta có rất nhiều đồ ăn ngon nhưng thiết nghĩ rất nhiều năm sau nữa vẫn không thể có một cây lương thực nào khác thay thế được vai trò và vị trí của cây ngô.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 5
Trong họ hàng của các loại cây lương thực, bên cạnh lúa - loại lương thực chủ yếu cung cấp tinh bột cho con người, ngô cũng đóng vai trò quan trọng không thể phủ nhận. Mặc dù trong cuộc sống hàng ngày, ngô có vẻ ít xuất hiện hơn so với lúa, nhưng vị thế và giá trị của nó không thể bị thay thế.
Ngô được cho là có nguồn gốc từ Trung Mỹ và sau đó lan rộng ra toàn bộ châu Mỹ. Sự lan truyền của ngô trở nên phổ biến trên toàn thế giới khi người châu Âu châm ngòi cho cuộc chinh phục châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16. Ngô trở thành thực phẩm chủ yếu của phần lớn các quốc gia thuộc vùng Trung Mỹ, Nam Mỹ và quần đảo Caribe. Truyền thuyết về Phùng Khắc Khoan, một nhân vật lịch sử thời vua Lê chúa Trịnh, được xem là người đầu tiên mang hạt giống ngô từ phương Bắc về nước ta, khiến cho ngô được gọi là "ngọc mễ" - tượng trưng cho gạo ngọc.
Thân của cây ngô có hình dạng tương tự như các loại tre khác. Thân cây ngô thẳng, đặc chắc, có thể đạt đến chiều cao từ 2-3 mét. Thân cây ngô trưởng thành có nhiều lóng nằm giữa các đốt và kết thúc bằng bông cờ. Lá ngô bao gồm bẹ lá, phiến lá và lưỡi lá, có dạng dài, nhọn giống như lưỡi mác, tỏa ra từ mỗi mấu với bẹ nhẵn. Ngô có hệ rễ chùm là đặc điểm tiêu biểu của các cây thuộc họ hòa thảo, gồm 3 loại rễ chính: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng. Bắp ngô là cụm hoa cái được bảo vệ bởi lớp lá và râu ngô màu vàng đỏ xuất hiện khi bắp ngô trưởng thành. Các hạt ngô có màu sắc đa dạng như đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng.
Ngô không chỉ là một thực phẩm quen thuộc mà còn là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho con người. Nhiều món ăn phổ biến được chế biến từ ngô như bỏng ngô, bánh ngô. Trong những ngày chiến tranh đói kém, ngô đã đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống nhiều người dân Việt Nam. Hạt ngô và lõi ngô cũng được sử dụng làm thức ăn cho gia súc và gia cầm. Ngô còn được sử dụng trong nấu rượu và là nguồn nguyên liệu để sản xuất etanol. Râu ngô không chỉ có giá trị thực phẩm mà còn được sử dụng như một loại thảo dược hữu ích. Râu ngô nấu nước uống được coi là giải nhiệt tốt cho cơ thể. Mặc dù ngô phổ biến tại Hoa Kỳ, nhưng hiếm khi xuất hiện tại châu Âu.
Ngô được trồng rộng rãi trên khắp thế giới với sản lượng hàng năm cao hơn bất kỳ loại cây lương thực nào khác. Trong khi Hoa Kỳ chiếm gần một nửa tổng sản lượng thế giới, các nước khác như Trung Quốc, Brazil, Mexico, Argentina, Ấn Độ, Pháp, Indonesia, Nam Phi và Italia cũng là những đội ngũ sản xuất hàng đầu. Ngô thích ứng tốt với nhiều loại đất, nhưng đặc biệt cần chú ý đến việc tưới nước, đặc biệt là trong những ngày khô hanh. Để đạt được năng suất cao, người ta thường áp dụng nhiều biện pháp tự thụ phấn cho cây ngô. Một số giống ngô phổ biến bao gồm ngô nếp, ngô tẻ, ngô đá. Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, người ta ngày càng sáng tạo ra nhiều loại ngô mang lại năng suất cao.
Trong thế giới ngày càng hiện đại, khi có nhiều lựa chọn thực phẩm đa dạng để đáp ứng nhu cầu của con người, ngô vẫn giữ vững vị trí quan trọng và không thể thay thế được. Trong tương lai, ngô sẽ tiếp tục là người bạn đồng hành thân thiện trong bữa ăn hàng ngày của chúng ta.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 6
Cây bắp, còn được biết đến với tên gọi là cây ngô, không chỉ là một loại cây lương thực với giá trị cao mà còn là một loài cây đặc biệt được người dân Việt Nam ưa chuộng và trồng nhiều nhờ vào ưu điểm về thời tiết và tự nhiên của đất nước.
Theo nhận định của nhiều người, cây ngô có nguồn gốc xuất phát từ Trung Mỹ và sau đó lan rộng khắp châu Mỹ. Sự lan truyền của ngô trở nên phổ biến trên toàn thế giới khi người châu Âu đặt chân đến châu Mĩ vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16. Ngô trở thành nguồn lương thực chính cho đa số các quốc gia ở vùng Trung Mỹ, Nam Mỹ và quần đảo Caribe. Trong tâm thức dân gian, có truyền thuyết về Phùng Khắc Khoan - một nhân vật lịch sử thời vua Lê chúa Trịnh, người được cho là đã đầu tiên đưa hạt giống ngô từ phương Bắc vào nước ta. Lúc đó, hạt ngô còn được gọi là "ngọc mễ" với ý nghĩa là gạo ngọc. Ngoài việc là loại cây lương thực, bắp ngô còn được biết đến là một loại cây cho quả đặc biệt.
Thân cây ngô có đặc điểm chắc chắn và dài khoảng từ 2 đến 3 mét, giống như cây tre với nhiều nấc, mỗi nấc có chiều dài khoảng 10-15cm. Lá ngô được hình thành từ bẹ lá, phiến lá và lưỡi lá, có đặc điểm dài và sắc, thường có một gân lá chính ở giữa. Hệ rễ của ngô là hệ rễ chùm, là đặc điểm tiêu biểu của các cây thuộc họ hòa thảo. Ngô có 3 loại rễ chính: rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng. Bắp ngô được bọc trong lớp lá, giống như hình dáng của hoa chuối, nắm chặt vào thân cây đến khi râu ngô màu vàng đỏ xuất hiện từ vòng lá đến cuối của bắp ngô. Các râu ngô giống như các núm nhụy dài, ban đầu có màu xanh lục, sau đó chuyển sang màu hung đỏ hay hung vàng. Hạt ngô có kích thước tương đương với hạt đậu Hà Lan và gắn chặt thành các hàng xung quanh lõi trắng để tạo thành bắp ngô. Mỗi bắp ngô dài khoảng 10-25cm, chứa từ 200 đến 400 hạt. Các hạt có màu đen, xám xanh, đỏ, trắng và vàng.
Khả năng thích nghi cao và sự dễ chăm sóc của ngô làm cho nó có thể sinh sống ở nhiều địa điểm khác nhau. Cây ngô không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn cung cấp giá trị dinh dưỡng lớn. Nhiều món ăn tiêu biểu được chế biến từ ngô như bắp rang bơ, bỏng ngô, ngô luộc và ngô nướng. Do vị ngọt của hạt ngô, chúng có thể được sử dụng để làm chè hoặc nước lẩu (nước súp) trở nên thêm phần ngon miệng. Bắp ngô có thể thay thế cơm trong khẩu phần ăn hằng ngày, vì nó chứa lượng tinh bột tương đương với cơm. Bên cạnh đó, cả hạt và lá ngô cũng có thể được sử dụng để làm thức ăn cho động vật.
Cây ngô không chỉ là một loại cây lương thực có giá trị cao mà còn mang lại nhiều lợi ích và ứng dụng khác nhau. Việc sử dụng và phát triển cây ngô càng góp phần vào sự đa dạng và phong phú hóa nền nông nghiệp cũng như thực phẩm của cộng đồng.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 7
Đối với những ai sống ở một đất nước nông nghiệp như Việt Nam thì hẳn sẽ biết đến cây ngô. Ngô là một loại cây gần gũi thân thuộc, góp một phần không nhỏ vào nền kinh tế quốc gia, loại cây lương thực gần gũi đã gắn bó với từng vùng miền trên tổ quốc.
Cây ngô hay còn được gọi là cây bắp, cây bẹ là một loại cây có nguồn gốc, xuất hiện đầu tiên ở Mexico và Peru. Theo các nhà nghiên cứu, ngô đã bắt đầu xuất hiện từ hơn 60 nghìn năm trước. Cây ngô quả thực đã gắn bó với con người trong suốt chiều dài phát triển và tiến hóa, trở thành một ngồn lương thực trọng yếu. Với Việt Nam, ngô được du nhập vào từ Trung Quốc với tên gọi ban đầu là lúa ngô. Thân cây ngô khá nhỏ, cứng, chắc, nhìn giống thân tre thu nhỏ, các khớp nối cách nhau khoảng 20-30cm. Rễ cây ngô là loại dễ chùm, nhưng bám vào đất khá nông, có thể dễ dàng nhổ lên được. Lá cây to, dài và rộng, hình mũi mác, lá cây màu xanh thẫm. Lá ở gần gốc thường sẽ gắn và tõe ra hơn. Ngoài ra ngô còn có lá bi là những lá màu xanh non ôm lấy bắp ngô để bao vệ bắp khỏi côn trùng. Bắp ngô hây chính là hoa cái hình thành nên, lúc mới đầu, ta sẽ không thể nhìn thấy bên trong bắp ngô vì chúng được bọc bằng lớp lá bi rất kĩ, chỉ khi râu ngô bắt đầu xuất hiện từ vòng lá vào, bắp đủ to. Râu ngô hay chính là núm nhụy, thuôn dài, lúc đầu mang màu xanh lục, về sau mới chuyển sang màu vàng hay đỏ nâu. Hoa đực của cây ngô là những bông cờ, mọc thành chùm ở ngọn cây ngô.
Ngô có rất nhiều loại khác nhau, mỗi loại vừa mang nét chung của cây cũng có những đặc trưng riêng của mình. Phổ biến nhất ngô nếp-hạt dẻo, thơm; ngô đồng- dùng làm thức ăn chăn nuôi là chủ yếu. Ngoài ra còn có các loại ngô khác như: ngô ngọt, ngô nổ, ngô bột, ngô đá. Cây ngô là một loại cây khá dễ trồng, chú ý khi trồng nên tạo khoảng cách hợp lí giữa các cây và trồng thành hàng. Để cây ngô phát triển tốt nhất, cần chú ý đến nhưng điều kiên cơ bản, tươi tiêu, chăm bón, vun xới đất trồng. Đặc tính của Ngô là cần thời gian ban đêm dài, nếu thời gian ban ngày quá lớn, chúng sẽ phát triển rất cao và không có điều kiện ra hoa.
Ngô mang những giá trị dinh dưỡng rất cao nên mới được trồng phổ biến như vậy. Từ trước kia khi đất nước ta còn trog những năm đói kém, nhân dân thường ăn ngô, bột ngô là chủ yếu. Cho đến nay, ngô vẫn là loại cây lương thực chủ yếu chỉ đứng sau gạo và lúa mì. Chất dinh dưỡng tư ngô đa dạng nên rất bổ dưỡng cho cơ thể. Ngô có thể được dùng để chế biến nhiều món ăn đa dạng, món ngô luộc phổ biến, ngô được dùng trong salad, những món hiện nay còn thường dùng ngô non tạo hương vị mới lạ lại đẹp mắt. Ngô còn được dùng để làm sữa uống vô cùng bổ dưỡng. Về kinh tế, đối với một đất nước nông nghiệp như nước ta thì giá trị kinh tế mà một cây lương thực như cây ngô mang lại là một con số không nhỏ. Ngô được dùng để xuất khẩu khá nhiều, thu được lợi nhuận tốt và hình thành thương hiệu quốc gia với các thị trường quốc tế.
Ngày nay nhiều loại thực phẩm bổ dưỡng, từ động vật và thực vật, đều rất đa dạng và phong phú, chế biến rất nhiều món ăn bổ dưỡng. Tuy nhiên, cây ngô, với vai trò là một cây lương thực quan trọng, chưa bao giờ đánh mất đi vị trí của mình.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 8
Là một đất nước nông nghiệp, đất nước Việt Nam được mẹ thiên nhiên ưu ái ban tặng những điều kiện thuận lợi về tự nhiên cũng như thời tiết. Nhờ vậy mà nhân dân ta từ xưa đã có thể gieo trồng những loại cây lương thực để làm nguồn thức ăn cũng như có thể xuất khẩu chúng ra nước ngoài giúp gia tăng kinh tế cho đất nước. Bên cạnh lúa gạo, khoai mì là nguồn lương thực chính thì cây ngô cũng là loại cây quen thuộc đem lại nhiều giá trị quan trọng không thể thiếu trong đời sống.
Theo như các nhà nghiên cứu, ngô là một loại cây lương thực có nguồn gốc tử Trung Mĩ, sau đó dần phổ biến ở khắp Châu Mĩ. Ngô được đến với tay người nông dân ở khắp nơi trên thế giới khi có sự tiếp xúc giữa người Châu Âu và Châu Mĩ vào cuối thế kỉ 15 – đầu thế kỷ 16. Cây ngô được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc. Ngày nay các quốc gia châu Mĩ là nơi có sản lượng ngô cao nhất trên thế giới.
Rễ cây ngô thuộc loại rễ chùm nên rễ của cây thường bám khá nông, không ăn sâu vào lòng đất. Thân ngô nhỏ, khá chắc và cứng. Thân cây ngô có hình trụ, thẳng và chăc có chiều cao khoảng 2, 3 mét tùy vào khả năng chăm sóc và giống ngô, đường kính trung bính khoảng độ 4 cm. Các thân ngô khá giống thân tre, được chia ra các đốt khác nhau. Các bẹ ngô được tỏa ra từ các mấu ở thân cây ngô. Trên đỉnh là cụm hoa đuôi sóc hình chùy chứa các hoa đực, được gọi là cờ ngô. Lá ngô màu xanh non, to, dài và rộng, càng về phần gốc thì càng ngắn hơn. Ngô còn có loại lá gọi là lá bi thường ôm sát lấy bắp ngô, bảo vệ khỏi sự tấn công của côn trùng. Bắp ngô là các cụm hoa cái thành bông. Hoa này thường mọc ở các nách lá, đến một thời điểm nhất định trở thành bắp. Trên mỗi đầu bắp người ta thường thấy những sợi dài màu nâu hoặc nâu vàng được gọi là râu ngô. Các lớp lá xanh bọc kín lấy bắp ngô. Muốn nhìn thấy bắp ngô bên trong thì phải kiên trì bóc tách các lớp lá bên ngoài. Ngô có nhiều loại khác nhau: ngô nếp thì hạt ngô dẻo như nếp; ngô đồng, ngô đá thì chủ yếu làm thức ăn chăn nuôi; ngô ngọt thì có vị ngọt, là loại ngô tiêu chuẩn được làm thành một loại rau….
Ngô là loại lương thực chứa nhiều tinh bột chỉ đứng sau lúa gạo và khoai mì. Ngô chứa nhiều chất dinh dưỡng quan trọng đối với cơ thể con người. Những món ăn được chế biến từ ngô luôn là lựa chọn không thể thiếu trong các nhà hàng nổi tiếng. Hạt ngô được bóc tách được xào với rau củ khiến món ăn trở nên bắt mắt. Chè ngô, nước ngô là những món ngọt tuyệt vời đối với những người sành ăn. Đặc biệt, ai mà chẳng từng phát cuồng với món bắp rang bơ huyền thoại tỏa hương quyến rũ trong những rạp chiếu phim. Không chỉ vậy, ngô còn đem lại những giá trị kinh tế lớn lao cho đất nước. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam thì ngô là một trong những cây trồng quan trọng của nền nông nghiệp, được đem đi xuất khẩu nước ngoài, mang lại lợi ích và nguồn thu nhập không nhỏ cho những bà con nông dân, giúp cải thiện đời sống nghèo khổ, cơ cực của họ.
Ngày nay, người ta đã có những phát minh về giống ngô biến đổi gen có khả năng chống chịu lại sâu bệnh hay thuốc diệt cỏ, đem lại năng suất cao hơn cho người nông dân. Mang trong mình nhiều giá trị dinh dưỡng cũng như kinh tế, con người cần có cách gieo trồng và biện pháp chăm sóc hợp lí, luân canh vào các vụ mùa để có thể gia tăng sản xuất, đem lại hiệu quả tốt nhất.
Cuộc sống ngày càng phát triển, con người ngày càng được ăn ngon hơn, sống cuộc sống sung sướng hơn nhưng ngô vẫn là người bạn đồng hành không thể thay thế đã từng cùng con người gắn bó qua những năm tháng đói khổ. Vì vậy, con người phải biết trân trọng những gì mà thiên nhiên ban tặng và tận dụng những giá trị lợi ích ngô đem lại để có thể phục vụ và nâng cao chất lượng cuốc sống của mình.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 9
Trong hằng ngày, ngô không chỉ là một thực phẩm quen thuộc mà còn là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu đối với con người. Đây không chỉ là một cây lương thực mang lại thu nhập kinh tế cao, mà còn là một đồng đội đáng tin cậy trong cuộc sống của nông dân Việt Nam.
Các nghiên cứu của nhà khoa học cho thấy rằng ngô, hay còn gọi là bắp, là một loại cây lương thực xuất phát từ khu vực Trung Mỹ và sau đó lan rộng khắp châu Mỹ. Sự lan truyền của ngô trở nên phổ biến trên toàn thế giới sau khi châu Âu tiếp xúc với châu Mỹ vào cuối thế kỷ 15 và đầu thế kỷ 16. Các giống ngô lai ghép trở nên phổ biến do năng suất cao và ưu thế của chúng. Ngày nay, ngô trở thành cây lương thực chủ đạo tại Việt Nam, và hạt ngô còn được biết đến với cái tên quen thuộc "ngọc mễ" - tượng trưng cho gạo ngọc.
Thân cây ngô có hình dạng giống như thân các loại tre và khớp nối. Thân thẳng, chắc chắn, có chiều cao khoảng 2-3 mét. Ngô phát triển với hình thái đặc biệt, với lá mũi mác rộng bản, dài từ 50-100cm và rộng 5-10cm. Thân cây có nhiều mấu, từ đó mọc ra nhiều bẹ lá. Ở đỉnh thân là cụm hoa đuôi sóc hình chùy chứa các hoa đực, gọi là cờ ngô. Lá ngô màu xanh non, um tùm và có thể có lông. Cây ngô có hệ rễ chùm với 3 loại rễ chính là rễ mầm, rễ đốt và rễ chân kiềng.
Dưới tán lá và ôm sát thân cây là những cụm bắp ngô. Khi còn non, chúng phát triển khoảng 3cm mỗi ngày. Từ các đốt ở phía dưới, rễ mầm xuất hiện. Mỗi râu ngô có thể thụ phấn để tạo ra một hạt ngô trên bắp. Bắp ngô, được bao bọc trong lớp lá, không lộ ra cho đến khi râu ngô màu vàng xuất hiện từ vòng lá vào cuối của bắp. Râu ngô ban đầu có màu xanh lục, sau đó chuyển sang màu đỏ hoặc vàng. Ngày nay, ngô có nhiều biến thể với màu sắc đa dạng như đỏ, vàng, trắng ngà và cả loại ngô ngọt màu vàng óng.
Ngô là loại cây yêu cầu thời gian ban đêm dài và ra hoa khi có nhiệt độ tăng trưởng trên 10°C. Do không chịu lạnh tốt, việc trồng ngô ở khu vực ôn đới thường diễn ra vào mùa xuân. Ngô là cây ngắn ngày và thích ứng với nhiều loại đất, nhưng đòi hỏi chăm sóc đặc biệt về tưới nước, đặc biệt là trong những ngày khô hanh.
Ngô không chỉ là nguồn thực phẩm quen thuộc mà còn là nguồn dinh dưỡng quan trọng trong khẩu phần ăn hàng ngày, đặc biệt là đối với những người già. Cây ngô mang lại giá trị kinh tế cao, cũng như có thể làm thức ăn cho động vật. Hạt ngô có thể chế biến thành nhiều món ngon như chè ngô, sữa ngô và là nguồn thức ăn cho gia súc. Lá ngô cũng có giá trị thức ăn. Đồng thời, người ta còn sử dụng râu ngô như một loại thảo dược.
Hiện nay, nhiều giống ngô được trồng tại Hoa Kỳ và Canada là các giống lai. Hơn một nửa diện tích trồng ngô ở Hoa Kỳ sử dụng giống ngô biến đổi gen để có những đặc tính tốt như sức chịu sâu bệnh và chịu thuốc diệt cỏ. Trong bối cảnh ngô đang trở nên phổ biến và quan trọng như vậy, việc chăm sóc và canh tác ngô cần sự khoa học và cẩn thận, để đảm bảo ngô luôn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống người dân.
Trong thời đại ngày càng phát triển, với sự đa dạng của thực phẩm, ngô vẫn giữ vững vị thế của mình, không chỉ là nguồn thực phẩm, mà còn là biểu tượng của sự ổn định và phồn thịnh. Hãy tiếp tục giữ gìn và trân trọng ngô - người bạn đồng hành đặc biệt trong bữa ăn hàng ngày của chúng ta.
Thuyết minh về cây Ngô - Mẫu 10
Cây ngô là loại cây lương thực được trồng phổ biến ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, cây Ngô không chỉ phục vụ cho nhu cầu về lương thực trong nước mà còn là có tiềm năng kinh tế lớn, có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp nước nước nhà.
Cây ngô xuất hiện từ rất lâu đời, theo nghiên cứu của nhà thực vật học người Nga Nikolai Vavilov, cây ngô xuất hiện cách đây 60. 000 tại Trung Mĩ, khu vực Mê-xi-cô và Pê-ru sau đó lan ra toàn châu Mĩ vào khoảng cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI. Theo tương truyền, cây ngô được trồng ở Việt Nam trong khoảng thế kỉ XVI, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan sau một lần đi sứ ở Trung Quốc đã dùng mưu trí để đưa giống ngô từ Phương Bắc vào nước ta. Hạt ngô khi ấy còn được gọi với cái tên khác là hạt ngọc mễ (gạo ngọc).
Thân cây ngô có hình trụ nhỏ, thẳng, có nhiều đốt, mỗi đốt cách nhau khoảng 15- 20cm. Chiều cao của một cây ngô trưởng thành khoảng từ 1-2 mét tùy giống cây. Lá ngô to dài hình mũi mác. Bên cạnh những chiếc lá dài mọc ra từ ngọn cây, cây ngô còn có những chiếc lá nhỏ hơn gọi là lá bi, loại lá này mọc đan xen cùng cuộn chặt lấy bắp ngô. Lá bi giúp bắp ngô phát triển, không bị côn trùng phá hoại. Rễ ngô thuộc loại rễ chùm, tròn nhỏ nhưng không bám quá sâu vào lòng đất nên mỗi khi thu hoạch ngô, người nông dân có thể dễ dàng nhổ bỏ.
Bắp ngô phát triển từ hoa ngô, những chiếc bắp ngô được bao bọc bởi những vòng lá bi. Bắp ngô dài từ 10-20 cm, trên một bắp ngô có rất nhiều hạt ngô, hạt ngô nhỏ mọc thành hàng đều tăm tắp. Tùy từng giống ngô mà màu sắc của bắp ngô khác nhau, giống ngô nếp có bắp màu trắng ngà, giống ngô ngọt có màu vàng tươi.
Hiện nay, nhờ đổi mới về công nghệ giống mà có rất nhiều loại ngô khác nhau, phổ biến nhất có thể kể đến ba loại sau: Ngô đồng- loại ngô có hạt cứng màu vàng đậm, giống ngô này thường được trồng để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, ngô nếp - loại ngô hạt dẻo màu trắng ngà, khi ăn có vị ngọt, dẻo đặc trưng và ngô ngọt- loại ngô đang rất được ưa chuộng hiện nay. Ngô ngọt có hạt màu vàng tươi, khi ăn có vị ngọt, giòn.
Bên cạnh gạo, lúa mì, ngô là thực phẩm quan trọng, có hàm lượng dinh dưỡng cao. Hàm lượng dinh dưỡng tự nhiên có trong ngô rất có lợi cho sức khỏe. Ngày nay ngô không chỉ được dùng như một loại thực phẩm trong bữa cơm hàng ngày mà còn phục vụ đắc lực cho ngành sản xuất. Ngô được dùng để chế biến các loại bánh, kẹo, nguyên liệu làm sữa, chè, nước giải khát. Ngô còn là mặt hàng xuất khẩu mang lại lợi nhuận kinh tế cao. Không chỉ bắp ngô mà ngay cả thân cây ngô, lá ngô cũng có thể tận dụng để làm thức ăn cho gia súc.
Điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa của Việt Nam rất thuận lợi cho việc trồng và canh tác ngô. Cây ngô cũng là loại cây dễ trồng, chỉ cần đảm bảo những điều kiện cơ bản như đất đai, tươi tiêu, vun trồng thì cây ngô sẽ cho năng suất cao.
Hiện nay, sự xuất hiện ngày càng nhiều của các loại thực phẩm giúp nâng cao đời sống và bữa ăn của con người. Tuy nhiên, cây ngô chưa từng mất đi vị trí của mình bởi hương vị dân dã và những công dụng thiết thực mình.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 8
- Giải sbt Hóa học 8
- Giải vở bài tập Hóa học 8
- Lý thuyết Hóa học 8
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 8
- Giải sgk Vật Lí 8
- Giải sbt Vật Lí 8
- Lý thuyết Vật Lí 8
- Giải vở bài tập Vật lí 8
- Giải SGK Toán 8 | Giải bài tập Toán 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Toán 8 (sách mới) | Sách bài tập Toán 8
- Bài tập Ôn luyện Toán lớp 8
- Các dạng bài tập Toán lớp 8
- Lý thuyết Toán lớp 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 8
- Giáo án Toán lớp 8 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 8 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 8 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 8 (sách mới) | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2
- Giải sgk Tiếng Anh 8 | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 8
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (thí điểm)
- Giải sgk Tin học 8 | Giải bài tập Tin học 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sgk Lịch Sử 8 | Giải bài tập Lịch sử 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch sử 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch sử 8
- Giải vở bài tập Lịch sử 8
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 8
- Đề thi Lịch Sử 8
- Giải vở bài tập Sinh học 8
- Giải sgk Sinh học 8
- Lý thuyết Sinh học 8
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 | Giải bài tập Giáo dục công dân 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Giáo dục công dân 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm GDCD 8
- Lý thuyết Địa Lí 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa Lí 8
- Giải sgk Địa Lí 8 | Giải bài tập Địa Lí 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 8
- Đề thi Địa lí 8