TOP 10 mẫu Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long (2024) SIÊU HAY

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.

1 327 26/08/2024


Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long

Đề bài: Em hãy viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học: trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long

TOP 10 mẫu Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long (2024) SIÊU HAY (ảnh 1)

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 1

Năm 1009, sau khi vị vua cuối cùng của triều Tiền Lê là Lê Long Đĩnh mất, triều Tiền Lê sụp đổ, lúc bấy giờ Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý. Năm 1010, Lý Công Uẩn đã viết Chiếu dời đô chiếu cáo triều thần, để dời đô về Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển thịnh vượng của nhà Lý suốt 216 năm.

Lý Công Uẩn (974 – 1028) hay còn gọi là Lý Thái Tổ, quê ở Bắc Ninh, là người nhân ái, có chí lớn, lập được nhiều chiến công và khai sinh ra nhà Lý. Tác phẩm thuộc thể loại chiếu, là thể văn do vua viết dùng để ban bố các mệnh lệnh cho triều thần hoặc thần dân, thể hiện những tư tưởng lớn lao liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước.

Mở đầu bài chiếu Lý Thái Tổ đưa các dẫn chứng “nhà Thương đến vưa Bàn Canh năm lần dời đô”, “nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”, nhằm khẳng định việc dời đô vốn đã xuất hiện từ xa xưa, không phải chỉ riêng mình nước ta mới có, không phải do ông thích mà “tự tiện chuyển dời”. Để khẳng định việc dời đô là hoàn toàn đúng đắn Lý Công Uẩn tiếp tục đưa ra hàng loạt các mục đích cùng với lợi ích mà việc dời đô về Đại La đem lại. Lý do dời đô là để “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu” chứ không vì tư lợi, hay hứng thú nhất thời. Lý Thái Tổ khéo léo dựa vào thiên mệnh “trên vâng mệnh trời”, sau là trưng cầu ý dân, nếu thuận lòng cả hai thì mới thay đổi để “vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh”. Ông chỉ ra rằng hai nhà Đinh, Lê vì “khinh thường mệnh trời”, không noi theo “dấu cũ” của hai nhà Thương, Chu nên mới có kết quả là vận nước ngắn ngủi, gây hao phí, nhân dân không được an cư lạc nghiệp. Hơn thế nữa cũng nói lên rằng thế lực hai nhà Đinh, Lê không đủ mạnh phải dựa vào địa hình đồi núi hiểm trở, nhưng nay nhà Lý thế nước đã lớn mạnh, Hoa Lư không còn thích hợp làm kinh đô nữa. Kết lại Lý Thái Tổ thể hiện lòng đau xót, thương cảm và lần nữa khẳng định “không thể không dời đổi” kinh đô về nơi khác phù hợp hơn. Sau phần lý lẽ chặt chẽ, sắc bén, giàu sức thuyết phục, về nguyên do và mục đích dời đô, Lý Công Uẩn đi vào phân tích về vùng đất Đại La nơi ông định dời đô về. Đầu tiên ông lật lại sử cũ, Đại La vốn là kinh đô của Cao Vương, một viên quan nhà Đường, giữ chức Đô hộ sứ ở Giao Châu (nước ta thời xưa) từ năm 864 đến năm 875. Về địa hình, Đại La là “trung tâm trời đất”, lại được cái hướng phía trước nhìn sông, phía sau được núi yểm trợ bao bọc, đất đai cao và thoáng. Xét về phong thủy thì “được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, đúng ngôi nam, bắc, đông, tây theo ngũ hành. Xét về văn hóa, chính trị thì là nơi “chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước”, là đầu mối giao thông, huyết mạch cho cả nước. Chung quy lại Đại La hầu như đã hội tụ đủ mọi yếu tố thuận lợi cho quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, để trở thành “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. Phần này vừa thể hiện được tình cảm nguyện vọng của nhà vua, vừa thấy được tầm nhìn chiến lược, rộng lớn có sự quan sát, nghiên cứu tỉ mỉ của một vị vua anh minh lỗi lạc. Ông không đưa ra các ý kiến chủ quan nửa vời, mà ý nào cũng chính xác, lý luận sắc bén, hợp tình, hợp lý, giàu sức thuyết phục.

Cuối bài nhà vua kết lại “Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”, đây là lời trưng cầu ý kiến thể hiện sự anh minh, không áp đặt suy nghĩ cá nhân mà luôn lấy nhân dân xã tắc làm trọng, phải đủ cả ba yếu tố “thiên thời – địa lợi – nhân hòa” thì mới thành sự được, một đức tính cẩn thận, tỉ mẩn vô cùng đáng quý ở bậc minh quân.
Nghệ thuật chủ yếu của bài nằm ở việc tác giả đưa ra các dẫn chứng chính xác từ lịch sử, từ thực tế khách quan, thêm vào đó là lý luận chặt chẽ, sắc bén, cùng với cảm xúc của nhà vua được đưa vào một cách hợp lý, kết hợp hài hòa giữa lý và tình, điều đó giúp tăng thêm sức thuyết phục cho bài chiếu.

Chiếu dời đô phản ánh khát vọng dân tộc về một đất nước cường thịnh, tự do, độc lập. Đây là một áng văn cổ đầy độc đáo, sáng tạo của ông cha ta, ngôn ngữ của bậc đế vâng được thể hiện với đầy đủ sự uy nghi, trang trọng, đồng thời cũng thể hiện được tấm lòng thương yêu nhân dân, luôn dồn hết tâm tư vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc của Lý Công Uẩn – vị minh quân có công sáng lập ra nhà Lý, và dời đô về Thăng Long, mở ra một trang sử phồn thịnh của dân tộc.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 2

Lí Công Uẩn là người thông minh, tài trí, có tầm nhìn xa trông rộng. Với tài năng lỗi lạc và tấm lòng vì nước vì dân, Lí Công Uẩn đã hết lòng dựng xây đất nước, mở ra thời ki thái bình, thịnh trị bậc nhất trong lịch sử nước ta. Sự việc Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La xuất phát từ nhiều lí do đúng đắn, có mục đích rõ ràng và tiến bộ. Sự kiện ấy được trình bày rõ trong bản Chiếu dời đô.

Xưa nay, việc dời đô là sự kiện trọng đại, không phải muốn là làm được. Việc dời đô phải đảm bảo vận mệnh của đất nước và cuộc sống ấm no của nhân dân. Bởi thế, việc Lí Công Uẩn vừa lên ngôi đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La là hành động dũng cảm, thể hiện ý chí quyết đoán và tầm nhìn xa trong rộng của bậc minh quân. Theo Chiếu dời đô, đến thời nhà Lí, đất nước đã được mở rộng, dân số đông hơn, cần có một kinh đô đủ lớn đóng vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị của đất nước. Kinh đô Hoa Lư nằm ở nơi đất chật hẹp, gần núi, sông cạn, khó mở rộng được thêm. Đất đai lại cằn khô, nông nghiệp phát triển khó khăn. Nếu duy trì lâu dài sẽ khiến kinh đô ngày thêm nghèo khó, sức mạnh của đất nước cũng vì thế mà suy giảm dần.

Trong khi đó, thành Đại La, nơi Lí Công Uẩn dự định chọn làm nơi đặt kinh đô mới, có địa thế thuận lợi hơn gấp nhiều lần. Không những đó là nơ bằng phẳng, bốn mặt thông thoáng, sông ngòi rộng lớn, nước sâu, địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng, phì nhiêu, muôn vật phát triển tốt tươi, khí hậu ôn hòa, hết sức thuận lợi để phát triển nông nghiệp lớn. Dân cư khỏi chịu cảnh ngập lụt, mọi vật phong phú, tốt tươi, đích thực là mảnh đất thịnh vượng. Lại thêm, Thành Đại La có địa thế phong thủy rất tốt, vượng khí cao, là vùng đất có nhiều huyệt kết. Xưa kia, Cao Vương (tức Cao Biền – một bậc thầy phong thủy học) đã chọn vùng đất này để định đô cũng là có lí do cả. Thành Đại La xứng đáng là nơi định đô bền vững, là nơi phù hợp để phát triển, đưa đất nước phát triển phồn thịnh. Kinh đô được đặt ở một nơi trung tâm của đất trời, phù hợp địa thế phong thủy và khẳng định vị thế của đất nước. Nơi đây là chốn hội tụ của bốn phương đất nước, không những buôn bán thuận lợi mà muôn sự đều tiện lợi cả. Đây quả thực là nơi thuận lợi cho sự nghiệp, mưu toan việc lớn, là nơi thích hợp để có thế tồn tại đất nước, tính kế muôn đời cho con cháu. Dời đô là việc làm chính nghĩa, vì nước vì dân, nghe theo mệnh trời, thể hiện thực lực của nước ta lớn mạnh, biểu lộ của ý chí tự cường dân tộc. Bài Chiếu dời đo của Lí Công Uẩn bên cạnh tính chất mệnh lệnh còn có tính chất tâm tình khi nhà vua hỏi qua ý kiến các quần thần. Luận cứ có tính thuyết phục vì được phân tích trên nhiều mặt. Chọn Đại La làm kinh đô là một lựa chọn đúng đắn, nơi đây xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn năm.

Bài chiếu như một lời tâm sự của nhà vua với nhân dân, quần thần, cho thấy sự thấu tình đạt lí, thể hiện sự anh minh của nhà vua trong sự nghiệp gây dựng đất nước. Học tập tích cực, rèn luyện tu dưỡng đạo đức để kế tục sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 3

“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận, lí lẽ sắc bén dưới cái nhìn vượt thời đại của vua Lý Thái Tổ. Tác phẩm ra đời không chỉ để thông báo quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Hà Nội) mà còn cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một minh quân dân chủ, thấu ý trời tỏ lòng dân.

Vua Lý Công Uẩn được biết đến là vị vua ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, có giá trị to lớn trong xây dựng và phát triển đất nước. Đương thời, ông nhận thấy kinh thành Hoa Lư không còn phù hợp cho việc giao thương buôn bán, vì thế nhà vua đã đưa ra quyết định rời kinh thành từ Hoa Lư tới Đại La, nay là Thăng Long, Hà Nội.

Và “Chiếu dời đô” khi được ban hành xuống đã trở thành một tác phẩm trong nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang ý nghĩa nhân văn, văn học sâu sắc.

Chiếu là loại văn thể hiện tư tưởng lớn lao có sự ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước; mang nội dung thông báo một mệnh lệnh, một quyết định của vua chúa cho dân chúng được biết. Với “Chiếu dời đô”, ta thấy nó mang đặc trưng chung của thể chiếu, tuy nhiên có những nét rất riêng với sự kết hợp giữa tâm tình và chất mệnh lệnh.

Tác phẩm được chia thành 2 phần, phần đầu tiên phân tích những lý do cần thiết phải dời kinh thành và phần 2 là lý do tại sao chọn Đại La làm kinh đô mới của đất nước. Thông qua những bài học lịch sử, dẫn chứng những ví dụ chuyển kinh đô của nước bạn Trung Quốc. Chuyện rời đô từ xưa không còn là chuyện hiếm, mục đích cuối cùng cũng vì sự hưng thịnh của quốc gia.

Kinh thành Hoa Lư với núi non hiểm trở không còn phù hợp trong thời bình, với lợi thế và địa hình núi rừng như vậy chỉ phù hợp trong thời chiến còn khi hòa bình lại trở thành khó khăn. Nhân dân lúc này cần một nơi có địa hình bằng phẳng, đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi để thúc đẩy giao lưu và buôn bán. Bộ máy hành chính cần được đặt ở trung tâm của đất nước. Và dời đô lúc này chính là hợp ý trời và thuận lòng dân.

Lý Công Uẩn đã chứng minh rằng Đại La xứng đáng là kinh đô của nước Việt muôn đời “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: “Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.

Thành Đại La dưới góc nhìn và phân tích của nhà vua hiện lên là vị trí trung tâm của đất nước, là đầu mối giao lưu kinh tế, văn hóa, chính trị của cả nước. Có thể rồng cuộn hổ ngồi, địa hình đa dạng, khoáng đạt, mở ra bốn hướng tiện cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Thành Đại La sở hữu mọi điều kiện để trở thành kinh đô mới của Đại Việt ta.

“Chiếu dời đô” là áng văn chính luận có giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng, tầm nhìn xa trông rộng bắt nguồn từ thực tế lịch sử vì một Đại Việt hùng mạnh trong tương lai.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 4

Lý Công Uẩn (974-1028) quê ở Kinh Bắc, là võ tướng cao cấp của Lê Đại Hành, từng giữ chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Ông là người tài trí, đức độ, kín đáo, nhiều uy vọng. Năm 1009, Lê Ngọa Triều chết, ông được giới tăng lữ và triều thần tôn lên làm vua, tức Lý Thái Tổ dựng nên triều đại nhà Lý tồn tại hơn 200 năm (1009-1225).

Năm 1010, Lý Thái Tổ viết “Thiên đô chiếu ” dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, sau đổi là Thăng Long, Kinh đô của Đại Việt.

"Chiếu là lời của vua ban bố hiệu lệnh cho thần dân” (Dương Quảng Hàm), thuộc văn xuôi cổ, câu văn có vế đối, ngôn từ trang nghiêm, trang trọng. “Chiêu dời đô” của Lý Công Uẩn là một văn kiện mang ý nghĩa lịch sử to lớn. sắp đến đại lể ki niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2010), ta càng thấy rõ ý nghĩa lịch sử trọng đại của luận văn này. Văn bản chữ Hán chỉ có 214 chữ, bản dịch của Nguyễn Đức Vân dài 360 chữ:

Phần đầu ‘Chiếu dời dô” nói lên mục đích sâu xa, tầm quan trọng của việc dời đô là để “Đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên theo mệnh trời, dưới theo ý dân'. Nói một cách khác, việc dời đô là một việc lớn, vừa hợp mệnh trời vừa hợp lòng dân, là để xây dựng đất nước cường thịnh, đem lại hạnh phúc, thái bình cho nhân dân.

Việc dời đô không còn là chuyện hi hữu, mà đó là những kinh nghiệm lịch sử, phản ánh xu thế phát triển lịch sử của từng quốc gia, từng thời đại. Tác giả đã nêu lên những dẫn chứng lịch sử đế thu phục nhân tâm. Chuyện ở xa là chuyện bên Tàu: “Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô”. Chuyện gần là ở nước ta thời nhà Đinh, nhà Lê vì chỉ “ theo ý riêng mình, khinh thường, mệnh trời... ”, cứ “đóng yên đô thành” ở Hoa Lư nên dẫn đến thảm kịch: “triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích nghi”... Sử sách cho biết, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp tan 12 sứ quân, năm 968 ông lên ngôi hoàng đế thì đến năm 979 nhà vua bị ám hại. Năm 981, Lê Hoàn lên làm vua, tuy đã đánh thắng giặc Tống xâm lược, nhưng năm 1005, Lê Đại Hành băng hà, thì các thế lực phong kiến, các hoàng tử... lại xung đột, tranh giành ngôi báu, loạn lạc kéo dài “trăm họ phải hao tổn” nhiều xương máu, tiền của. Cái chết của vua Lê Ngọa Triều năm 1009 đã chứng tỏ hai triều đại Đinh, Lê "không được lâu bền, số vận ngắn ngủi”. Hai triều đại Đinh, Lê phải đóng đô là do nhiều nguyên nhân lịch sử: nhà nước phong kiến Việt Nam chưa đủ mạnh, nạn cát cứ của các lãnh chúa hoành hành, giặc giã loạn lạc kéo dài. Do đó, các vua nhà Đinh, nhà Lê phải nuôi hổ báo ở trong nhà, phải nấu vạc dầu ở ngoài sân, dựa vào sông sâu núi cao, địa thế hiểm trở vùng Hoa Lư để đóng đô và phòng thủ. Đóng đô ở Hoa Lư là một hạn chế của lịch sử của nhà Đinh, nhà Lê.

Lý Công Uẩn “đau xót” khi nghĩ về "vận số ngắn ngủi” của nhà Đinh, nhà Lê và cảm thấy việc dời đô là một việc cấp thiết "không thể không dời đô”.

“Chiếu dời đô ” trong phần mở đầu, lí lẽ sắc bén, dản chứng lịch sử là sự thật hiển nhiên, giàu sức thuyết phục lòng người. Tác giả đã lồng cảm xúc vào bài chiếu, tạo nên bao ấn tượng đẹp: "Trẫm rất đau xót vé việc đó, không thể không dời đổi

Cuốn “Lịch sử Việt Nam " của Viện Sử học đã viết: “Việc dời đô về Thăng Long phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia phong kiến tập quyền và chứng tỏ khả năng, lòng tin và quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập ”...

Đại La không có gì xa lạ, là “Kinh đô cũ của Cao Vương”. Cao Vương là Cao Biền, đại quan của nhà Đường, từng làm Đô hộ sứ Giao Châu từ 864-875; năm 866, Cao Biền đã xây thành Đại La, thuộc Hà Nội ngày nay.

Về vị trí địa lí là “ở vào nơi trung tâm trời đất... đã đúng ngôi nam bắc đông tây

Về địa thế, rất đẹp, rất hùng vĩ: "được cái thế rồng cuộn hổ ngồi”, "lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”, “địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng".

Là một vùng đất cư trú lí tưởng cho dân cư, không “ngập lụt ”, “muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”.

Tóm lại, Đại La là “thắng địa”, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, “chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước". Đại La xứng đáng là “Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Phần thứ hai của “Chiếu dời đô” cho thấy tầm nhìn chiến lược của Lý Công Uẩn về Đại La, nơi sẽ dời đô đến. Một cái nhìn toàn diện, sâu sắc, chính xác về các mặt vị trí địa lí, địa thế, nhân văn... Sau một nghìn năm, Hà Nội đã trở thành thủ đô hòa bình của đất nước ta, nhân dân ta, ta càng thấy việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La của Lý Công Uẩn là một cống hiến vô cùng vĩ đại "mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”.

Sử sách còn ghi lại: khi thuyền rồng của nhà vua vừa cập bến sông Nhị Hà ở chân thành Đại La thì có con rồng vàng bay lên, vua cho là điềm tốt mới đổi tên là Thăng Long. Thăng Long là "Rồng bay lên” thể hiện thế nước và phản ánh khát vọng của nhân dân ta xây dựng Đại Việt thành một quốc gia cường thịnh có nền văn hiến muôn đời rực rỡ. Ý chí tự lập tự cường và niềm tin về ngày mai tốt đẹp được khẳng định một cách mạnh mẽ.

Về mặt văn chương, phần thứ hai “Chiếu dời đô” rất đặc sắc. Cách viết hàm súc, giàu hình ảnh và biểu cảm, những vế đối rất chính, đọc lên nghe rất thú vị, mặc dù phải qua bản dịch:

"Huống gì thành Đại La... ở vào nơi trung tâm trời đất //; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc tây đông//, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt //; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi... Thật là chôn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước //; cũng là nơi Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời .”

Phần cuối nguyên tắc ‘Thiên đô chiếu” chỉ có 14 chữ, bản dịch thành 19 chữ. Nhà vua bày tỏ ý mình về việc dời đô và hỏi quần thần. Đúng Lý Công Uẩn là một người "tài trí, đức độ, kín đáo".

“Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất này để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào ? "

Việc dời đô của Lý Công Uẩn là một kì tích, kì công. Sau gần một ngàn năm Thăng Long - Hà Nội “đất văn vật" đã trở thành thú đô của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung tâm chính trị, kinh tế, quốc phòng, văn hóa của đất nước ta.

“Chiếu dời đô” là áng văn xuôi cổ độc đáo, đặc sắc của tổ tiên để lại. Ngôn từ trang trọng, đúng là khẩu khí của bậc đế vương. Nó là kết tinh vẻ dẹp tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Nó khơi dậy trong lòng nhân dân ta lòng tự hào và ý chí tự cường mạnh mẽ.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 5

Lý Công Uẩn sinh năm 974, quê ở Từ Sơn (Bắc Ninh). Là người có chí lớn lại khoan từ nhân thứ (lời sư Vạn Hạnh), nên sau khi Lê Long Đĩnh mất, vua kế vị còn nhỏ không thể đảm đương trọng trách gánh vác giang sơn xã tắc, ông đã được các vị đại thần trong triều tôn lên ngôi hoàng đế.

Vốn thông minh bẩm sinh lại nhập thân văn hóa ở một vùng đất văn minh, văn hiến, là con nuôi của các vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước.

Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ) khởi đầu sự nghiệp trị vì đất nước của mình bằng việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc dời đô vốn là một sự kiện quan trọng và việc dời đô của Lý Thái Tổ càng in đậm dấu ấn trong lịch sử vì nó mở ra một giai đoạn phát triển phồn vinh của đất nước, hơn nữa nó lại gắn với một áng văn chương bất hủ: Chiếu dời đô.

Tiếp xúc với áng văn chương kiệt tác này, không những ta được sống trong hào khí của một khát vọng cao cả và một khí phách anh hùng, mà còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh sáng nhân văn.

Để hiểu rõ giá trị nhân văn cao đẹp của bài Chiếu, ta cần suy ngẫm kĩ xem vì sao Lý Thái Tổ quyết định rời đô? Việc dời đô của ông xuất phát từ những ý nguyện và quyền lợi của ai và nhằm mục đích gì?

Vậy mà vì sao mà Lý Thái Tổ quyết định dời đô?

Khi Lý Công Uẩn được suy tôn lên ngôi hoàng đế, triều đình vẫn còn đang đóng đô ở Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư nằm ở một vùng đất hẹp (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Địa thế hiểm trở chỉ tiện cho việc chống giữ mà không dễ bề phát triển. Với trí tuệ nhạy cảm, Lý Thái Tổ cảm nhận một cách sâu sắc và thấm thía những cái bất lợi của việc đóng đô ở đây.

Nhìn lại hai triều trước, nhà Đinh chỉ tồn tại có 12 năm (968-980), nhà Lê chỉ tồn tại có 29 năm (980-1009). Số vận của họ mới ngắn ngủi làm sao! Số vận của một vương triều, đâu chỉ là vấn đề riêng của một dòng họ, nó có quan hệ mật thiết tới sự suy thịnh, tồn vong của một quốc gia , dân tộc. Hơn nữa, nó còn quan hệ mật thiết với phận của trăm dân, muôn họ. Triều đình suy thì trăm họ cũng phải hao tổn. Điều đó khiến Lý Thái Tổ vô cùng đau xót: Trẫm rất đau xót về việc đó.

Nỗi lòng và tình cảm của hoàng đế Thái Tổ chính là tình cảm yêu nước thương dân tha thiết, sau nặng của ông. Tấm lòng ấy khiến ông đi đến một quyết định đúng đắn và dứt khoát: dời đô!

Như vậy, Lý do dời đô của Lý Thái Tổ xuất phát từ sự lo lắng cho sự an nguy, tồn vong, suy thịnh của giang sơn xã tắc, lo lắng cho số phận và hạnh phúc của nhân dân. Tấm lòng lo nghĩ cho nước, cho dân, há chẳng phải là biểu hiện của tư tưởng nhân văn đó sao?

Với một trí tuệ hiếm có và tầm nhìn khác thường, hoàng đế Thái Tổ thấy rõ lợ thế to lớn của thành Đại La. Đó là một vùng đất vừa thuận lợi về mặt địa Lý để có thể phát triển kinh tế giàu mạnh khiến cho muôn dân được ấm no, hạnh phúc: huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi phải chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Đồng thời cũng là nơi thuận tiện cho việc xây dựng và phát triển chính trị, văn hóa: Thật là chốn hội tụ của bốn phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.

Mục đích dời đô của Lý Thái Tổ không chỉ vì quyền lợi của dòng họ mình, cao hơn nữa là quyền lợi của quốc gia, dân tộc, nhân dân. Mục đích đó thật cao đẹp và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc!

Có thể nói, Chiếu dời đô đã phản ánh được khát vọng của nhân dân ta về một đất nước độc lập, thống nhất, hùng cường, chính khát vọng ấy làm cho bài Chiếu thấm đẫm tinh thần tinh thần nhân văn cao cả.

Để tận hôm nay, ánh sáng nhân văn trong bài Chiếu vẫn tỏa sáng.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 6

Bài chiếu dời đô của Lý Công Uẩn là một tài liệu quý giá, thể hiện sự sáng tạo và tầm nhìn vượt thời đại của vị vua. Nó không chỉ là biểu tượng của sự thịnh vượng và sức mạnh của triều đại Lý mà còn là minh chứng cho lòng kiên định và quyết tâm của nhân dân xây dựng và bảo vệ đất nước. Chiếu dời đô là di sản văn hóa vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ không chỉ là một văn bản chính thức của triều đại Lý mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, lòng nhân ái và sự quyết tâm của vị vua. Nó thể hiện tầm nhìn và sức mạnh của nhà Lý, mở ra một trang mới trong lịch sử và văn hóa của Việt Nam.

Trong lịch sử Việt Nam, việc di chuyển kinh đô là một sự kiện quan trọng, đánh dấu sự phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện rõ qua việc chọn lựa vị trí phù hợp cho kinh đô, đảm bảo sự thịnh vượng và quyền uy của triều đại.

Chiếu là một loại văn bản hành chính quan trọng trong chế độ phong kiến, thể hiện quyền lực và ý kiến của nhà vua đối với quần thần và dân chúng. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh sự phân biệt lớp và sức ảnh hưởng của triều đại.

Nhìn vào nội dung của các bài chiếu, chúng ta có thể thấy rõ vai trò quan trọng của kinh đô trong việc thúc đẩy phát triển quốc gia. Thăng Long đã chứng tỏ mình là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của Việt Nam.

Việc chọn lựa vị trí kinh đô đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai của đất nước. Lý Công Uẩn đã sử dụng một cách lập luận sắc bén và thuyết phục để giải thích ý định của mình trong việc dời kinh đô.

Trong lịch sử, việc di chuyển kinh đô đã được thực hiện thường xuyên và mang lại những thành công lớn lao cho các triều đại cổ. Điều này đặt ra câu hỏi về tính cần thiết và sự ảnh hưởng của việc dời kinh đô đối với nhân dân và đất nước.

Việc chọn lựa vị trí kinh đô không chỉ là sự quyết định của vua mà còn phản ánh mong muốn của dân tộc. Điều này thể hiện sự đồng lòng giữa triều đại và nhân dân trong việc xây dựng đất nước.

Dời đô không chỉ là một biện pháp bình thường mà còn là sự hi vọng vào sự thay đổi tích cực của đất nước. Vua và dân, đất trời đều mong muốn thấy đất nước phồn thịnh và phát triển như các triều đại trước đây.

Việc phê phán thời nhà Đinh không chỉ là sự phản đối mà còn là lời nhắc nhở về sự cần thiết của việc thay đổi và tiến bộ. Nhận thức này là cơ sở cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Việc dời đô không chỉ là việc tuân theo ý trời mà còn là sự thấu hiểu về địa lý và tương lai của đất nước. Quyết định này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của nước Việt.

Chọn vị trí kinh đô không phải là quyết định dễ dàng, nhưng với sự thông minh và sự hiểu biết sâu rộng, vua đã đưa ra một quyết định đúng đắn, mang lại niềm tự hào cho toàn dân.

Phần cuối của văn bản nhấn mạnh sự quan trọng của việc lựa chọn vị trí kinh đô, sử dụng lập luận sắc bén để chứng minh lợi ích và vẻ đẹp của thành Đại La. Đây là quyết định đáng chú ý trong việc phát triển đất nước.

Việc chọn Đại La làm kinh đô đã thể hiện sự tinh tế và hiểu biết về địa lý của vua. Thăng Long đã tiếp tục là trung tâm quan trọng của nước Việt qua nhiều thời kỳ lịch sử.

Đại La không chỉ là nơi kinh tế và văn hóa phát triển mà còn là trung tâm quan trọng của cả nước. Quyết định này đã được lịch sử chứng minh là đúng đắn và mang lại nhiều lợi ích cho Đại Việt.

Câu hỏi cuối cùng của văn bản thể hiện tinh thần tôn trọng và sự đoàn kết trong quyết định của vua. Ông luôn chú trọng đến ý kiến của dân để đảm bảo sự đồng thuận và ổn định cho quyết định của mình.

Bài 'Chiếu dời đô' là một ví dụ xuất sắc về văn nghị luận có sức thuyết phục, kết hợp giữa lý lẽ và cảm xúc. Quyết định dời đô từ Hoa Lư đến Đại La không chỉ là biểu hiện của quyền lực mà còn là minh chứng cho sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Từ bài văn này, ta thấy rõ khát vọng mạnh mẽ của tổ tiên về một Đại Việt độc lập, thống nhất, mạnh mẽ và tự chủ, đồng thời nhấn mạnh sự quan trọng của sự lựa chọn đúng đắn của những người lãnh đạo.

Nghị luận trình bày lí do và ý nghĩa của việc dời thủ đô về đất Thăng Long - mẫu 7

Lý Công Uẩn dời đô vì kinh đô cũ không còn thích hợp với sự mở mang của đất nước nữa . Ông không ngần ngại phê phán những triều đại cũ, tác giả nói rằng các triều đại nhà Đinh nhà Lê đã không nghe theo ý trời nên chỉ đóng đô ở nơi đây chính vì thế mà triều đại không được lâu dài. . Nhưng thực chất thì ở giai đoạn đó hai triều đại chưa đủ mạnh cả thế và lực nên vẫn phải dựa vào địa thế hiểm trở của rừng núi để chống thù trong, giặc ngoài. Nhưng đến thời Lí, trên đà mở mang phát triển của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư không còn phù hợp nữa. Bên cạnh những dẫn chứng thuyết phục như thế tác giả còn thể hiện giãi bày tình cảm của mình. Điều đó đã làm tăng thêm sức thuyết phục cho bài văn. Cảm xúc ấy chính là cảm xúc mà tác giả muốn phát triển đất nước theo một hướng phát triển thịnh vượng hơn, lâu dài và bền vững hơn. Sau đó nhà vua chứng minh và khẳng định sự đúng đắn hợp quy luật và phù hợp của việc dời đô. Đại La là một nơi có tất cả các điều kiện để phát triển đất nước. Đại La hiện lên đẹp về mọi mặt như địa lý, văn hóa, đầu mối giao lưu, điều kiện của dân cư và sự phong phú, tốt tươi của cảnh vật. tác giả đã nhìn từ góc nhìn của một nhà phong thủy, cho thấy tất cả những điều kiện tốt đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi đây. Nhà vua tự cho rằng xem cả dải đất nước Đại Việt thì chỉ có mỗi nơi đây là thánh địa, là một nơi đất đai địa hình tốt đẹp hợp với một sự phát triển mạnh mẽ.

1 327 26/08/2024